1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ngũ uẩn theo quan điểm sinh lý học và duy thức học (Luận văn tốt nghiệp -Ni sinh Thích Nữ Huệ Liên)

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi mrking_hoang, 02/10/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Ngũ uẩn theo quan điểm sinh lý học và duy thức học (Luận văn tốt nghiệp -Ni sinh Thích Nữ Huệ Liên)

    GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
    TRƯỜNG CAO CẤP PHẬT HỌC VIỆT NAM
    TP.HCM - Khóa III (1993 ?" 1997)

    LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


    NGŨ UẨN THEO QUAN ĐIỂM SINH LÝ HỌC VÀ DUY THỨC HỌC

    Giáo Sư hướng dẫn: TT Thích Trí Quảng
    Ni Sinh: Thích Nữ Huệ Liên
    Thế danh: Nguyễn Thị Bích Loan

    ---o0o---​
  2. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Lời nói đầu

    Mang thân làm kiếp con người trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi từ vô thỉ đến nay, đếm sao hết những bộ cốt hài gửi lại cõi Ta Bà này. Trực nhận điều ấy, có ai không thao thức tìm con đường giải thoát chân chính đề phá tan vô minh, tìm cho được chủ nhân đích thực của luân hồi dấu mặt trong xác thân này. Thể nghiệm, ứng dụng hành trì Phật pháp vào cuộc sống để thăng hoa đạo đức cho tự thân và tha nhân, là tâm nguyện người xuất gia đã thôi thúc con nghiên cứu đề tài này.
    Bốn năm tham học dưới mái trường Cao Cấp Phật Học, được Chư Tôn Thạc Đức tận tụy truyền dạy thể hiện qua thân giáo, khẩu giáo, đã giúp con trưởng thành hơn, chính chắn hơn trong tư duy. Tuy nghiên đề tài Ngũ Uẫn là giáo lý căn bản, nền móng cho lộ trình tu tập, không ít khó khăn cho quá trình thể nghiệm, biên khảo. Nhưng với sự khích lệ của Giáo sư hướng dẫn, Thượng Tọa Tiến Sĩ Thích Trí Quảng - Trưởng Ban Hoằng Pháp Trung Ương, con đã vượt qua được trở ngại này.
    Hoàn thành luận văn này, con trân trọng tri ân Thượng Tọa Giáo Sư hướng dẫn, Chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa thân Giáo sư đã tận tình chỉ dạy suốt thời gian học tập tại quí trường. Chân thành tri ân Bổn Sư Thượng Tọa Thích Thiện Minh, người đánh thức con ra khỏi mê đồ để thành Phật tử và biết cách sống an lạc. Chân thành tri ân Thượng Tọa Thích Minh Tiếp, người tạo thiện duyên cho con học hỏi giáo lý. Cảm ơn Sư cô Diệu Thiện cùng quý vị nam nữ cư sĩ đã hổ trợ cho tập luận này.
    Sau cùng, trân trọng tri ân tác giả những tác phẩm đã cung cấp tư liệu. Xin hồi hướng công đức đến khắp pháp giới chúng sanh sớm quay về bờ giác.
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
  3. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    PHẦN MỘT
    GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
    I.1. DẪN NHẬP:
    Ngũ uẩn là giáo lý căn bản trong hệ thống giáo lý của Đức Phật, là cơ sở hình thành nhãn sinh quan, thế giới quan, giải thoát quan Phật giáo. Nghiên cứu Ngũ uẩn là đề tài được quan tâm tìm hiểu và tu tập. Đức Phật thành Phật do Ngài phát hiện và thể nghiệm chân lý từ thân hữu lậu Ngũ Uẩn này nên giáo lý của Ngài thể hiện tính nhân bản đặc sắc. Thân là địa ngục cũng là nơi thăng hoa trí tuệ con người. Chuyển hữu lậu Ngũ Uẩn thành vô lậu Ngũ uẩn là niềm hoài bảo hàng đầu của Phật tử.
    Nhận thấy sinh lý học là khoa học nghiên cứu tâm pháp hết sức tinh mật, thâm áo ?" còn được gọi là tâm lý học Phật giáo ?" nhưng khá sơ lược khi mô tả cấu trúc và điều tiết cơ thể. Chính vì quá cao thâm khiến kẻ sơ cơ khó lĩnh hội, nên tệ này làm mai một khoa tâm lý Phật giáo vậy.
    I.2 MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
    Bốn năm tu học dưới sự giảng dạy của chư tôn, bằng vốn kiến thức nông cạn, người viết ước mong phối hợp, bổ sung mặt mạnh yếu của hai khoa để đưa ra cách nhìn về con người tương đối phù hợp theo quan điểm của thời đại, góp phần giúp ai chỉ quen tư duy logic có được phương cách tốt bước vào tòa lâu đài kỳ vĩ của Phật pháp được hình thành trên 2000 năm. Đồng thời giúp chư vị chưa ai rõ cơ thể học làm quen với khoa học mang mục đích cứu người này. Đề tài rất rộng mà khả năng có giới hạn, chỉ xin đi vào những phạm vi sau:
    - Định nghĩa Ngũ Uẩn
    - Ngũ uẩn theo sinh lý học
    - Ngũ uẩn theo Duy Thức học
    - Ưu khuyết điểm và sự giao thoa
    - Một đường lối cho sự tu tập.
    Đối với bậc thiện tri thức, luận văn này sơ lược hình thức, yếu kém nội dung, lố bịch phương pháp tư duy, ấu trỉ trong nhận xét, nông cạn về phê phán...nhưng nó là bước đầu thể hiện trung tính trung thực khả năng tu tập và lãnh hội của kẻ hậu học chập chững bước vào Không môn. Đây là tiền đề, nền móng, phương hướng cho lộ trình nghiên cứu Phật lý suốt đời. Tuy kém chính xác trong nhận định nhưng không thể sai lầm trong nhận thức: Ngũ uẩn là một hiện hữu duyên sinh, chịu một quá trình tổng hợp và phân hủy, không phải là một thực thể thường hằng bất biến, thời gian làm học Tăng, ai cũng mang hoài bảo cao đẹp để thăng hoa cuộc sống, để tri ân và báo ân nhưng thực tế bao giờ cũng khắc nghiệt, chỉ cần hoàn thành một nữa ước mơ sẽ không là gánh nặng của xã hội. Mong rằng nổ lực của người viết mang lại chút gì hữu ích cho bậc tri âm và cho những ai thường đặt câu hỏi: Con người là ai? Con người từ đâu đến? Con người tồn tại hay không tồn tại...
  4. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    PHẦN II
    NGŨ UẨN THEO SINH LÝ HỌC VÀ DUY THỨC HỌC
    II.1. ĐỊNH NGHĨA NGŨ UẨN:
    Đức Phật ra đời vì một mục đích: ?oKhai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến?. Ngài không trả lời những câu hỏi về siêu hình, chỉ đặt vấn đề đưa con người thoát biển khổ làm chính. Chỉ vì si mê, chấp ngã, tham đắm, ái dục, không nhận chân được sự thật là vô thường duyên sinh, vạn vật không tồn tại độc lập, mà phải phụ thuộc nhau: ?oCái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt?. Con người là tổ hợp duyên sinh, hình thành từ tứ đại, hiện hữu bởi hai yếu tố sinh lý và tâm lý. Theo thuật ngữ Phật giáo đó là ngũ uẩn, gồm Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc thuộc sắc pháp ?" sinh lý - thọ tưởng, hành thức thuộc tâm pháp ?" tâm lý. Do tâm sinh lý tạo nên thân Ngũ uẩn tức con người.
    Trong kinh tạng Nikàya, Ngũ uẩn (panca-khandà), Trung Hoa phiên âm là kiền độ, cũng gọi là Ngũ ấm, Ngũ chúng, Ngũ thủ uẩn. Đức Phật định nghĩa: ?oPhàm sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cái gì thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần... đây gọi là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Do nhân bốn đại, do duyên bốn đại được gọi là sắc uẩn. Do nhân xúc do duyên xúc được gọi là thọ uẩn. Do nhân xúc do duyên xúc được gọi là tưởng uẩn. Do nhân xúc, do duyên xúc được gọi là hành uẩn. Do nhân danh sắc, do duyên danh sắc được gọi là thức uẩn. (Kinh Tương Ưng III, trang 121)
    Sắc uẩn (Rùpa): tứ đại và tứ đại sở tạo tác. Tứ đại là đất, nước, gió, lủa. Tứ đại sở tạo sắc là sắc do bốn đại làm ra.
    Tưởng uẩn (Samjña): sự tưởng tượng, tư duy về hình dáng sự vật sau tác dụng của căn đối với cảnh.
    Hành uẩn (Samkàra): mối quan hệ tác dụng của tâm và tâm bất tương ưng, khởi ra các hành động thiện ác.
    Thức uẩn (Vijñana): tác dụng của tinh thần để nhận thức và phân biệt trang thái tâm đối với cảnh.
    Như vậy, Ngũ uẩn là cơ sở để giải thích sự tồn tại của chúng sinh. Theo Phật giáo ?oCác pháp đều do duyên sinh?. Nhân duyên của Phật giáo rất gần với học thuyết tiến hóa của khoa học nhất là sinh lý học, một khoa học chuyên nghiên cứu cấu trúc con người.
  5. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    II.2. SINH LÝ HỌC:
    II.2.1. Định nghĩa:
    Danh từ Physiologie nguyên gốc Hy Lạp. Lúc đầu Physiologie mang nghaĩ rộng là nghiên cứu thiên nhiên. Sau nghĩa được thu hẹp là khoa họci nghiên cứu các hiện tượng sống. Do đó, dịch physiologie là sinh lý học.
    Sinh lý học là khoa học nghiên cứu về chức năng, hoạt động các cơ quan của cơ thể, tìm hiểu sự liên quan của các hoạt động, chức năng của các cơ quan trong cơ thể. Tìm ra những qui luật hoạt động chung của cơ thể và của riêng từng cơ quan. Tìm ra cơ chế lý hóa của các hoạt động của cơ th3ê dựa trên quan niệm cơ bản: cơ thể là một khối thống nhất và thống nhất với môi trường sống.
    II.2.1. Lịch sử phát triển:
    Thời cổ xưa: thời ký giải thích hiện tượng dựa vài huyền bí, cho cơ thể hoạt động nhờ linh hồn được thượng đế ban cho. Hippocate (thế kỷ V trước CN), Galien (thế kỷ II) đều cho rằng nhờ hoạt khí giúp cơ thể hoạt động và điều khiển tâm linh.
    Giai đoạn khoa học tự nhiên từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX Servet tìm ra tuần hoàn phổi; William Harvey phát hiện đại tuần hoàn; Boe de Silvius tìm ra hô hấp và tiêu hóa hoạt động nhờ men; Lavosier chứng minh hô hấp là quá trình thiêu đốt; Malpighi với dòng điện sinh học trong cơ thể; Magendie xác định xung động thần kinh; Pavlov nghiên cứu hoạt động phản xạ và hoạt động thần kinh cao cấp.
    Thời đại sinh học phân tử: năm 1962 Watson, Crick, Wilius tìm ra cấu trúc AND; năm 1965 Jacob, Monod, Lwoff tìm thấy cấu trúc ARN; năm 1968 Nirenberg, Holley, Khorana tìm ra được mã di truyền. Ở kỷ nguyên sinh lý học phân tử đã đi sâu nghiên cứu tế bào đến mức độ phân tử, làm sáng tỏ chức năng các cơ quan trong cơ thể, nghiên cứu mật mã sự sống, cấu trúc gen, tổng hợp gen, tìm ra nguyên nhân một số bệnh bẩm sinh do rối loạn mã di truyền; năm 1972 Shin và Carraway phân biệt enzyme màng tế bào; năm 1973 L.Robert và B.Robert đưa ra mô hình tế bào; năm 1975 leway và Geschwind tìm ra sự bất đối xứng về chức năng của hai bán cầu đại não; năm 1981 Haigler tìm ra chất moradrenalin truyền xung động cảm giác đau bởi enzyme màng tế bào; năm 1985 Brown và Golstein phát hiện cholesterol và bệnh sơ vữa động mạch.
    II.2.3. Đặc điểm cơ thể sống:
    Khả năng chuyển hóa: gồm quá trình thu nhập vật chất thành chất dinh dượng để cơ thể tồn tại, phát triển và biến vật chất thu nhập thành năng lượng để cơ thể hoạt động. Đồng hóa - dị hóa là hai mặt thống nhất của quá trình chuyển hóa. Chuyển hóa ngừng là cơ thể chết.
    Khả năng hưng phấn và ức chế của tế bào, cơ quan chuyển đổi trạng thái khi bị kích thích. Khả năng tồn tại nòi giống nằm trong chương trình của cơ thể sống do mã di truyền quyết định. Khả năng thích nghi của tế bào, cơ quan hay một phần cơ thể khi điều kiện sống thay đổi. Khả năng cơ thể sinh sản, phát triển, trưởng thành, giả cỗi, chết.
    Cơ thể sống là một chỉnh thể mà các cơ quan ảnh hưởng qua lại, hoạt động theo quy luật riêng nhưng phải tuân theo quy luật chung toàn cơ thể. Muốn có sự thích ứng toàn vẹn phải có một cơ thể toàn vẹn. Đáp ứng một cơ quan là đáp ứng toàn cơ thể. Cơ thể hoa động thành một khối thống nhất và thống nhất với môi trường sống nhờ hai hệ thống điều hoà chức năng là: hệ thống thể dịch và hệ thống thần kinh bổ sung nhau.
  6. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    II.2.4. Ngũ uẩn theo sinh lý học:
    Sinh lý học khám phá sự tổ hợp cơ thể con người do các nguyên tố cấu thnàh, từ hợp chất vô cơ và hữu cơ tạo nên tế bào, nhiều tế bào tạo thành cơ quan, cơ quan tạo thành hệ, nhiều hệ hợp thành con người. Chương trình tổ hợp được mạ hóa trong gen, là yếu tố di truyền của con người.
    II.2.4.1. Sắc: các cơ quan nội tạng
    A. Sinh lý tế bào: đơn vị cấu tạo cơ bản của con người là tế bào. Các tế bào được biệt hóa thành từng hệ: hệ tiêu hóa, tuần hoàn, hô hấp, sinh dục, thần kinh, nội tiết. Hoạt động của tế bào mỗi hệ khác nhau ở đặc điểm riêng nhưng giống nhau ở cấu tạo màng tế bào và các bào quan.
    1. Màng tế bào: màng sinh học được cấu tạo bởi liquid và protid. Mỗi phân tử liqid có phần điện tan trong nước, phần không tích điện không tan. Hai loại này xếp thành hai lớp với đầu ưa nước hướng ra ngoài. Protid có nhiệm vụ cấu tạo tế bào, vận chuyển điện tử qua màng, tiếp nhận chất dẫn truyền thần kinh, hormone là chất xúc tác làm thay đổi sinh lý tế bào. Màng ngăn cácht ế bào với môi trường, duy trì chức phận quan trọng của mỗi thành phần trong tế b ào, là nơi trao đổi thông tin, tạo xung động để cơ thể kích thích hay ức chế.
    2. Các bào quan: nằm bên trong tế bào. Ty thể: chứa men để oxy hóa chất dinh dưỡng, tạo năng lượng cho cơ thể. Tiêu thể: chứa men phá hủy hầu hết thành phần tế bào nếu không có màng ngăn cách, tiêu hóa các chất ngoại sinh như vi khuẩn hay các chất lạ xâm nhập tế bào. Nhân: chứa nhiểm sắc thể là khuôn mẫu tổng hộp ARN để tổng hợp protein cho cơ thể theo chương trình mã hóa trong ADN tức gen di truyền. Ngoài ra còn có sợi siêu vi, ống siêu vi giúp tế bào cử động. Trung thể, màng lưới nội bào và bộ golgi ?" nơi chứa chất cặn bã.
    B. Sinh lý máu: chiếm 7-0% trọng lượng cơ thể, chứa hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, huyết tương. Giữ chức năng vận chyển O2, CO2 trao đổi giữa phế nang và các tổ chức, mang chất dinh dưỡng cung cấp cho tế bào thực hiện phản ứng oxy hóa, chuyển cặn bã từ tế bào đến cơ quan bài tiết, bảo vệ cơ thể tránh vi trùng xâm nhập, điều hòa hoạt động cơ thể, nhiệt độ, tạo cân bằng kiềm toan, giữ nước trong mao quản, làm đông máu khi có vết thương, tan máu khi bị huyết khối.
    C. Hệ tim mạch: tim là khối cơ rổng, nặng khoảng 300gr. Ngoài có màng bao, trong có tâm thất, tâm nhỉ, thông nhau bởi van tim. Nút dẫn nhịp tạo chu chuyển và phát xung tim. Trong 24 giờ, co bóp 10.000lần, bơm đẩy 1.000 lít máu. Cấu tạo bổi tế bào sợi nối kết như mạng lưới và hoạt động như một lớp bào dưới tác động của hệ thần kinh thữ vật. vỏ não, hormone, sự hô hấp, nồng độ ìon trong máu, nhiệt độ. Tim tự thay đổi sợ cơ tim để tăng giảm sức chứa máu trong lúc co bóp. Tim chuyển máu đến tế bào và ngược lại nhờ hệ thống động mạch, tĩnh mạch, mao mạch. Huyết áp cơ thể tăng giảm do tính đàn hồi của mạch.
    D. Hệ hô hấp: mục đích của hô hấp là đưa khí O2 đến tế bào đốt các chất dinh dưỡng để lấy năng lượng và CO2 sinh ra trong phản ứng được đưa ra ngoài tránh cơ thể bị nhiểm độc. Hệ thống gồm ***g ngực, màng phổi, đường dẫn khí, tiểu phế quản, ống phế nang, phế nan. Phế nang là đơn vị chức năng của phổi, được mao mạch phổi bao bọc như mạng lưới, có khoảng 300x106 phế nang. Máu đen mang CO2 từ tĩnh mạch đổ vào tâm thất phải, theo động mạch phổi đến mao mạch phổi bao quanh phế nang để trao đổi khí O2 trở thành máu đỏ theo tỉnh mạch phổi về tâm nhỉ trái, đổ vào động mạch, mao mạch đến tế bào đế tiếp tục thực hiện phản ứng oxy hóa. Quá trình có sự tác động của các chất hóa học và dây thần kinh cảm giác số 8 và số 10.
    E. Hệ tiêu hóa: một ống bắt đầu từ miệng và tận cùng ở hậu môn gọi là ống tiêu hóa, ống chia ra làm 5 đoạn: miệng, thực quản, dạ dày, ruột non và ruột già. Một số tuyến lớn nằm ngoài ống như tuyến nước bọt, gan, mật, tuyến tụy đổi dịch tiết vào ống giúp tiêu hóa thức ăn. Hệ có chức năng chính là cung cấp nước, chất điện giải, chất dinh dưỡng. Thức ăn được nghiền trộn với men tiêu hóa trong nước bọt, theo ống dạ dày. Tại đây thức ăn chịu tác động của dịch tiết biến từ chất có cấu trúc phức tạp thành chất đơn giản hấp thu qua nhung mao thành ruột non và đưa vào máu, phần cặn bã đến tận cùng ống. Hoạt động này chịu tác động của đìện thế màng tế bào và các chất hóa học trong cơ thể.
    F. Sinh lý thận: cơ quan bài xuất cặn bã chuyển hóa, đào thải chất độc, điều hòa lượng nước và nồng độ chất điện giải trong huyết tương, giữ cân bằng kiềm toan... của cơ thể. Hai quả thận chứa 2.400.000 đơn vị thận. Mỗi đơn vị có khả năng lọc như một quả thận nhỏ. Gồm năm phần: quản cầu thận, ống thận gần, quai Henlé, ống thận xa, ống góp. Quá trình xảy ra như sau: khi máu chảy vào mao quản cầu thận, những chất cực nhỏ qua màng lọc, túy thuộc lượng máu tới thận kích thích thần kinh trực giao cảm, áp huyết, áp suất thủy tĩnh, nồng độ protein huyết tương làm gia tăng thẩm thấu, diện tích mao mạch... ảnh hưởng độ lọc; sau đó đưa vào ống góp và bài xuất ra ngoài. Mỗi ngày lọc 180 lít nhưng bài tiết khoảng 1.5 lít do có sự tái hấp thu suốt quá trình dịch lọc chảy qua các ống.
    G. Hệ sinh dục: giới tính được quyết định bởi những chất hóa học. Chất này được tổng hợp theo khuôn mẫu gen đã mã hóa theo phân tử ADN nằm trên nhiẽm sắcd thể giới tính thứ 21 (nhiễm sắc thể X, Y). Nam: do hormone Androgen (Testosterone), Estrogen (lượng nhỏ), Inhibin. Nữ: hormone Estrogen, progesteron, xelaxin, Inhibin. Lượng Estrogen và progesteron lớn qui định tính chất phái nữ và hình dạng đặc trưng.
    H. Hệ cơ-xương: cấu tạo bởi nhiều sợi và tơ cơ. Hầu hết cơ bắt đầu và chấn dứt trong gân cơ với các sợi xếp song song giữa các đầu gân. Mỗi sợi đều là một tế bào nhiều nhân, dài, hình trụ do các protein co thắt cấu tạo. Sự co thắt do ion Ca2+ trên màng tế bào cơ và nguồn năng lượng từ chất dinh dưỡng cung cấp. Xương là bộ khung để chống đỡ và chịu lực toàn cơ thể. Có 2 loại tế bào; tế bào sinh khoáng chất như calci, phospho, manhê... Từ 1-25 tuổi tế bào sinh xương cao hơn tế bào hủy xương, 25-30 tuổi cân bằng, trên 40 tuổi thì ngược lại.
  7. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    II.2.4.2. Thọ: gồm năm giác quan
    A. Thị giác (nhãn cầu): gồm 3 hệ thống
    1. Hệ thống cảm nhận ánh sáng: màng mắt (củng mạc, mạch mạc, võng mạc).
    2. Hệ thống thấu kính hội tụ ánh sáng trên võng mạc; thủy tinh thể, thủy dịch, dịch kinh (dịch giữa thủy tinh và võng mạc).
    3. Hệ thống thần kinh dẫn truyền xung động từ tế bào nhận cảm giác đến não gồm các dây thần kinh thị giác và tế bào nhận cảm ánh sáng.
    Hình ảnh hội tụ trên võng mạc và tia sáng đến kích thích làm thay đổi điện thế tế bào nhận cảm ánh sáng. Các xung động từ võng mạc truyền đến não cho cảm giác, thĩ giác. Như vậy, mắt biến đổi năng lượng quan phổ thành diện thế động cho thần kinh thị giác và cho cảm thụ thị giác.
    B. Thính giác (nhĩ căn): cơ quan cảm nhận âm thanh và điều chỉnh thăng bằng cơ thể. Có 3 phần:
    1. Tai ngoài: nơi tiếp nhận các làn sóng âm thanh.
    2. Tai giữa: nơi màng nhĩ căn thẳng tạo điều kiện dẫn truyền sóng âm.
    3. Tai trong: có màng mê đạo cách ngăn ngoại dịch - nội dịch để kích thích thần kinh thính giác.
    Từ ngoài vào trong, tai được cấu tạo bởi tế bào vòm tế bào lông, tế bào nhận cảm. Sóng âm dận truyền đến tế bào lông làm thay đổi điện thế màng tế bào, kết hợp vời dịch ta trong làm thay đổi tính thấm của Na+, K+ gây điện thế động. Xung động được truyền đến não bộ. Tế bào thần kinh đặc biệt cho tần số âm thanh và nhận thức về mức độ âm thanh đó.
    C. Khứu giác (tỷ căn): niêm mạc khứu giác chứa tế bào nhận cảm khứu giác, tổng cộng 10-20 triệu tế bào. Mỗi tế bào là một neuron thần kinh. Niêm mạc phủ chất nhầy chứa protein giuíp vận chuyển phân tử mùi đến tế bào khứu giác, kích thích Na+, K+ gây điện thế cảm thụ, phát sinh xung động điện, dòng điện theo sợi thần kinh đến vỏ não. Tế bào khứu giác và mùi ví như khóa và chìa, đúng mã tạo cảm giác dễ chịu, nếu không cho cảm giác khó chịu. Con người phân biệt được 2.000-4.000 mùi, khứu giác phái nữ nhạy hơn phái nam.
    D. Vị giác (thiệt căn): chồi vị giác do 4 tế bào tạo thành. Mỗi chồi có 50 sợi thần kinh. Khoảng 10.000 chồi được phân bổ tại các gai lưỡi, màn hầu, sụn nấp thanh quản. Tất cả sợi thần kinh đều tập trung về 3 đường thần kinh vị giác chính: dây thần kinh số 5, 9, 10 tất cả tập hợp tại hành tủy. Tế bào thần kinh vị giác từ hành tủy đến đồi thị, vỏ não, bốn vị căn bản là ngọt chua đắng mặn. Mặn và chua gây khử cực tế bào vì có Na+, H+, đắng và ngọt bám màng tế bào làm phóng thích Ca+, K+ vị còn kích thích cảm giác đau, mùi hương, độ đặc lỏng và nhiệt độ.
    E. Xúc giác (Thân căn):
    1. Cảm giác ngoài da: do cảm thụ quan có ở da, quanh mang lông, mô dưới da, luôn luôn thích ứng với tình trạng kích thích. Xúc giác dẫn truyền theo hai đường: đường xúc giác thô sơ và đường xúc giác tinh tế.
    2. Cảm giác sâu (cảm giác bản thể): cảm thụ quan bản thể hiện diện trong và chung quanh khớp, dây chằng, thoi cơ, da. Từ đây cảm giác được tổng hợp lên vả não để cho cảm giác nhận thức vị trí cơ thể trong không gian.
    3. Cảm giác nhiệt: cảm thụ nóng thuộc ngưỡng 30oC ?" 45oC, cảm thụ lạnh 10oC ?" 30oC. Cảm thụ quan là nh74ng đầu thần kinh đáp ứng nhiệt theo khả năng mô dưới da, không theo khuynh độ nhiệt qua da. Dưới 10oC ?" 45oC xảy ra tổn thương mô và gây ra cảm giác đau, thần kinh đi đến vỏ não.
    4. Cảm giác nội tạng: cảm thụ quan đau là những đầu thần kinh có mặt khắp các mô. Đường dẫn truyền nằm trong bó tủy đồi thị đến rảnh sau tâm. Lúc đầu đau nhanh, nhói, khu trú, sau đau âm ỉ, nhiều và lan tỏa. Càng xa não sự phân biệt càng rõ. Có 2 loại thần kinh dẫn truyển cảm giác đau nhanh và chậm. Khi kích thích bằng điện, cơ hóa nhiệt... làm phóng thích chất hóa học trung gian gây đau, tác động lên cảm thụ quan và dây thần kinh. Sự nghẽn máu, viêm, phản xạ co rơ...
  8. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    II.2.4.3. Tưởng: thần kinh cao cấp
    Biểu hiện hoạt động thần kinh cao cấp là tâm lý, tinh thần, tư tưởng, tư duy, tình cảm... Như vậy, hoạt động cao cấp của hệ thần kinh là hoạt động tinh thần của con người do sự phối hợp hai loại phản xạ có điều kiện và không điều kiện. Phản xạ thành lập trong quá trình sinh sống, tập luyện dựa trên điều kiện sẵn có hay trong điều kiện đặc biệt. Do tác dụng lập lại các kích thích làm biến đổi cấu trúc tế bào thần kinh não. Kết quả là điểm tiếp hợp giữa hai tế bào thần kinh (Xinap) trở nên hưng phấn, giúp sự dẫn truyền tín hiệu được dễ dàng. Sự tập hợp chất trung gian đến mức tối đa, làm tăng cưởng protid, tăng sội tơ thần kinh, tăng lượng ion... đều giúp cho phản xạ thuận lợi.
    Hoạt động thần kinh có yếu tố nằm trong tế bào chất của tế bào thần kinh. Kinh nghiệm học được trong cuộc sống mã hóa trong phân tử ARN. Sau đó mã này đượ diễn lại dưới dạng tập tính thích ứng - sự nhớ lại ?" khi có điều kiện tương ứng. Nghiên cứu thành phần hóa học trong tế bào thần kinh vùng não liên quan quá trình thành lập phản xạ, thấy lượng ARN nhiều hơn các tế bào thuộc vùng não khác. Vậy ARN là chất trung gian giữa luồng thông tin truyền vào và tế bào thần kinh. Đó là cơ chất trung gian giữ thông tin dưới dạng protid được gọi là ?oKhuôn trí nhớ? và có khả năng di truyền (trong cùng dòng họ có thiên hướng về một khoa học, mỹ thuật... đặc trưng).
    Sự hoạt động của thần kinh cao cấp tùy thuộc vào hai quá trình cô bản là hưng phấn -ức chế và một số qui luật tương quan: cường độ kích thích mạnh thì cường độ đáp ứng mạnh. Nhưng nếu quá ngưỡng hoặc dưới ngưỡng sẽ không đáp ứng do gâ ức chế vượt giới hạn. qui luật khuếch tán: khi hưng phấn hay ức chế tại một điểm trên vỏ não sẽ có xu hướng lan tỏa đến nhưng điểm xung quanh và càng xa càng yếu dần. Qui luật tập trung: sau khi khuếch tán thì chuyển sang tập trung trở lại điểm xuất phát. Qui luật cảm ứng: trên vỏ não, một điểm hưng phấn sẽ gây ức chế những điểm chung qunh và ngược lại. Một điểm ở thời gian này thuộc trạng thái hưng phấn thì thời gian tiếp theo ở trạng thái ức chế. Qui luật phân tích và tổng họp ở vỏ não tức khả năng phân chia một kích thích có bản chất phức tạp thành những yếu tố đơn giản. Sau đó kết luận, tổng hợp tìm ra ý nghĩa sinh học để điều khiển cơ thể đáp ứng. Trong vỏ não, có vô số điểm hưng phấn và ức chế xen kẽ, chuyển đổi nhau theo nhịp điệu khác nhau làm cho võ nảo như bức tranh nhiều màu và luôn thay đổi. Qui luật định hình hay thói quen: nếu kích thích có điều kiện theo thứ tự, một trình tự thời gian nhất định, phản xạ sẽ xảy ra hàng loạt theo trình tự như trong vỏ não có bản định hình vậy. Cứ mỗi kích thích là một tín hiệu. Tín hiệu cụ thể như sờ, nghe, thấy, nếm... chung cho người và động vật. Tín hiệu trừu tượng như ngôn ngữ, chữ viết, tư duy... đặc trưng cho người.
    Ngôn ngữ là kích thích có điều kiện. Hiểu nội dung, ý nghĩa ngôn ngữ là thành lập phản xạ có điều kiện. Đó là sản phẩm của hoạt động tế bào vỏ não hay tư duy là sản phẩm của hoạt động vỏ não. Tư duy cảm tính dựa trên tính hiệu cụ thể cho cảm giác, tri giác, tri thức. Tư duy lý tính dựa trên tín hiệu trừu tượng cho khái niệm, quan niệm, quan điểm.
  9. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    II.2.4.4. Hành
    Có thể ví như cổ máy tinh vi và tự động, dù thức hay ngủ vẫn hoạt động không ngừng. Vận động thô sơ hay vận động vi tế đều giúp cho cơ thể năng động và duy trì sự sống.
    A. Chuyển hóa năng lượng: sự biến đổi năng lượng trong cơ thể từ dạng nọ sang dạng kia. Cơ thể không tự sinh ra năng lượng, phải lấy từ hóa năng của thức ăn chuyển hóa thành các dạng năng lượng cần thiết cho sự sống.
    1. Chuyển hóa đường: đường hấp thu từ ruột vào máu, có 3 dạng: glucose, fructose, galactose. Chủ yếu là glucose theo tĩnh mạch cửa vào gan rất cần cho sự sống của mô nhất là não. Đường dùng để xây dựng cơ thể, có trong tế bào, sụn, gân, cơ, tạo ADN, ARN tạo sữa mẹ... từ đường đa phân tử thủy phân thành đơn phân tử, đi vào các chu trình phân hủy, chuỗi hô hấp để cho sản phẩm cuối cùng là CO2, H2O và năng lượng.
    2. Chuyển hóa đạm: protein được thủy phân thành acid amin rồi tái tổng hợp liên tục ở niêm mạc ruột trong thời kỳ tăng trưởng, quá trình sinh tổng hợp vượt quá trình phân hủy. Cơ thể cần chất đạm, nếu thiếu ser4 bị bệnh mà chết. Ở người phải có đủ 8 loại acid amin thì cân bằng đạm mới duy trì. Phản ứng chuyển hóa acid amin và phản ứng oxy hóa - khử amin là hai phương trình chuyển hóa đạm trong cơ thể.
    3. Chuyển hóa chất béo: lipid cấu trúc màng tế bào, dự trữ ở mô mỏ và kho mở, cung cấp nhiệt lượng để điều hòa nhiệt độ. Khi đó mở ở kho bị động viên nhưng ở cấu trúc vẫn được duy trì. Lipid gắn với chất chuyên chở lưu hành trong máu để cung cấp đến cơ quan. Khi oxy hóa chất béo cho năng lượng rất lớn.
    B. Sự điều nhiệt: điều nhiệt là giữ cho thân nhiệt dao động một khoảng rất hẹp trong điều kiện nhiệt độ môi trường dao động rất lớn. Trong cơ thể nhiệt lượng sinh ra do sự co cơ, đồng hóa thức ăn, các chuyển hóa tuần hoàn hô hấp... nhiệt lượng mất đi do quá trình truyền nhiệt, bức xạ, bốc hơi qua hô hấp, da... sự thăng bằng giữa hai quá trình sẽ quyết định thân nhiệt. Vận tốc các phản ứng hóa học trong cơ thể và hoạt động của hệ thống men tùy thuộc vào thân nhiệt. Thân nhiệt ổn định ở mức 36oC ?" 37oC. Khi mất quân bình nhiệt, cơ thể tự động điều chỉnh nhiệt độ.
    C. Hệ nội tiết: thể hiện sự duy trì nội môi, bảo đảm cho các môi trường tốt nhất cho các hoạt động chuyển hóa tại tế bào. Đáp ứng của cơ thể đối với những trường hợp khẩn cấp như nhịn đói, nhiễm trùng, chấn thương, stress tâm lý. Hệ nội tiết gồm các tuyến tiết ra dịch được đổ thẳng vào máu: tuyến yên, tuyến giáp, tuyến vỏ thượng thận, tủy thượng thận, tuyến tụy. Tế bào các tuyển sản xuất hormone, được máu chuyên chở đến tế bào để điều hòa quá trình chuyển hóa. Khi chức năng của cơ quan thực hiện quá mức sẽ sản xuất chất hóa học gây tác động ngược làm tuyến nội tiết giảm tiết hormone. Tác dụng của hormone này tùy thuộc vào sự hiện diện của hormone giúp quân bình cơ thể.
  10. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    II.2.4.5. Thức: hệ thần kinh trung ương, thần kinh thực vật
    Hệ thần kinh trung ương mang đặc điểm, tính chất vô cùng phức tạp trong cấu tạo và chức năng. Hệ tiếp nhận hàng triệu triệu mã (bits) thông tin từ các cơ quan cảm giác ở các bộ phận trên toàn cơ thể, đưa vào hệ thần kinh theo đường dẫn truyền từ vùng nhận cảm giác thô sơ ở tủy sống đến cấu trúc lưới của hành tủy, cầu não, não giữa, tiểu não, đồi thị, vỏ não. Sau đó tích hợp các thông tin lại để định ra đáp ứng cho cơ thể dựa trên cấu trúc thông tin dẫn truyền tín hiệu.
    Chức năng chính của hệ là xử lý thông tin đi vào sao cho có một đáp ứng thích hợp được đưa ra. Thực sự có 99% thông tin bị võ não bỏ đi vì không quan trọng. Có những cảm giác tác dụng vào nhưng ta không nhận thức vì bận lưu ý đến cảm giác khác. Khi một thông tin được chọn sẽ đi vào vùng vận động thích hợp của não để tạo đáp ứng gọi là chức năng tích hợp. Một phần nhỏ tạo đáp ứng vận động ngay, phần lớn được tích trữ để điều khiển vận động trong tương lai và dùng cho quá trình suy nghĩ. Phần tích trữ nằm trong vỏ não gọi là quá trình tạo trí nhớ hay quá trình lưu trữ thông tin.
    Cơ chế tạo trí nhờ tùy thuộc sự kinh động của xinap (nơi tiếp hợp của hai tế bào thần kinh). Khi tín hiệu cảm giác đưa vào hoặc tín hiệu tự phát sinh trong não băng qua chuỗi xinap sẽ được trữ ở hệ thần kinh để trở thành cơ chế xử lý thông tin. Quá trình tư duy của não so sánh những cảm giác mới với trí nhớ cũng giúp chọn lựa và lưu trữ thông tin. Như thế khi có tín hiệu băng qua lần sau, xinap sẽ dẩn chuyển dễ dàng và gâ đáp ứng hiện thời của cơ thể đối với loại tín hiệu ấy. Xinap có thể tiết ra chất hóa học gọi là chất dẫn truyền thần kinh hoặc tạo điện thế động tại màng tế bào thần kinh giúp đáp ứng kích thích, ức chế hay xử lý thông tin.
    Hệ thần kinh thực vật: từ trung khu là chất xám tủy sống đi theo các sợi đến các hạch tại mỗi cơ quan để tạo tất cả đáp ứng của cơ thể đối với môi trường trong ?" ngoài khi bị kích thích hay ức chế. Mỗi cơ quan tồn tại hệ giao cảm và đối giao cảm hoạt động liên tục. Mức độ cân bằng của hoạt động được gọi là trương lực giao cảm và đối giao cảm của hệ thần kinh. Phần lớn hệ giao cảm cho đáp ứng kích thích làm tăng trương lực, nhưng có những cơ quan tác dụng ngược lại. Dây thần kinh tận cùng của hệ giao cảm tiết norepinephrine, hệ đối giao cảm tiết acetylcholin. Những hormone này tác động lên các cơ qua khác nhau gây hiệu quả giao cảm hoặc đối giao cảm, là chất dẫn truyền của hệ thần kinh thực vật.
    Như vậy, sinh lý học được trình bày chứng tỏ sự nghiên cứu tỷ mỉ về cơ thể con người có thể giải đáp những cấu trúc, cấu tạo sắc pháp. Nghiên cứu công phu về mặt tâm pháp là thành quả to lớn của Duy Thức học.

Chia sẻ trang này