1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ngược dòng ngôn ngữ

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi home_nguoikechuyen, 15/02/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Ngược dòng ngôn ngữ

    Ngược dòng ngôn ngữ
    Hoài Việt


    Tìm lại những từ thuần Việt xa xưa, nhìn nhận nó trong dòng chảy ngôn ngữ dân tộc chẳng những thấy rõ gốc gác từ nguyên mà còn cho người hậu thế thời hiện đại này một cảm giác lý thú khi lội ngược dòng thời gian, lội ngược dòng ngôn ngữ Việt. Điều này đặc biệt trở nên sống động đối với thế hệ người Việt sinh ra và trưởng thành ở xứ người, bị tách rời môi trường ngôn ngữ dân tộc thuần nhất.

    Có rất nhiều từ cổ nay không dùng đơn lẻ nữa, ví như át nghĩa là ướt, ắng nghĩa là đứt, bặt tiếng, âu nghĩa là lo lắng, ca nghĩa là to, lớn, nhiều... Bây giờ không ai nói "Trời mưa át quá" chẳng hạn. Hầu hết những từ cổ trong quá trình phát triển ngôn ngữ hàng nghìn năm nay vẫn còn đó như một thành tố phụ trong những từ ngữ như ướt át, Lo âu, Im ắng, ắng lặng. Các từ ngữ "Cưu mang", "Yêu dấu", "Dặn dò", "Nghèo khó"... tương tự như thế. Người ta thấy những từ cổ Cưu nghĩa là Mang, Dấu nghĩa là Yêu, Khó nghĩa là Nghèo, Khổ dường như chỉ còn là thành tố phụ trong những từ ngữ ấy song về phương diện tư từ không thể thiếu được. Ví như nói: "Tình cảnh đứa con hư ấy khiến người mẹ lo âu mỏi mòn" chẳng hạn sẽ giàu biểu cảm hơn, gần với người Việt hơn. Trong dặn dò mà bỏ thành tố phụ dò thì hình như nói và nghe đều không thuận với người Việt.

    Cho đến thế kỷ 18, khi mà văn học dân tộc xuất hiện hàng loạt thi hào thơ cổ điển như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, tiếp sau là Nguyễn Khuyến và hàng loạt thi phẩm hữu danh và khuyết danh nổi tiếng thì người ta vẫn thấy nhiều từ cổ tồn tại một cách hữu cơ nhuần nhị trong cấu trúc thơ. Ví dụ từ cổ Dấu nghĩa là yêu thì trong câu thơ của bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương trong bài Vịnh Cái quạt "Chúa dấu vua yêu một cái này", hai từ cổ Dấu và mới Yêu cũng song hành tồn tại như thế. Dẫn thêm từ cổ Tây nghĩa là Riêng, sau này có từ ngữ riêng tây quen thuộc. Bà Đoàn Thị Điểm khi dịch thơ Hán tự Chinh Phụ Ngâm của Đặng Tần Côn cũng vẫn sử dụng từ cổ đó trong câu thơ: phép công là trọng niềm tây sá nào - niềm tây đây là tâm sự gia đình riêng tư. Có những từ cổ gần như mất hẳn trong vốn từ ngữ hiện đại song nếu không biết từ nguyên thật khó lòng thấy hết nghĩa và cái hay của thơ ca dân tộc. Ví như từ Nương Long chỉ vùng ngực người phụ nữ chẳng hạn. Câu thơ trong bài Vịnh Thiếu nữ ngủ ngày "Yếm đào trễ xuống dưới nương long" - chữ nương long dường như đã mất hẳn trong ngôn ngữ hiện đại. Từ cổ Son nghĩa một mình, giờ đây có lẽ cũng chỉ còn trong ngôn ngữ đời sống dân gian chỉ người con gái chưa có chồng. Người ta có thể nói với một cô gái: "Lúc còn son rỗi, cố gắng mà học, đến khi chồng con rồi thì học khó vào lắm". Thơ ca dân gian có bốn câu kể một chuyện hóm hỉnh, tình tứ:

    Mình bảo với ta mình hay còn son
    Ta đi qua ngõ thấy con mình bò
    Con mình những trấu cùng tro
    Ta đi gánh nước tắm cho con mình

    Từ ngữ cổ không chỉ là tiếng nói dân tộc thời hồng hoang lịch sử hoặc thời lịch sử phong kiến hàng nghìn năm. Nghe lại, đọc lại người Việt vẫn thấy sự gần gũi, sống động không chỉ vì kết cấu nhiều từ ngữ còn bóng dáng nó mà còn bởi từ ngữ cổ mang tâm hồn Việt đã chảy trong dòng ngôn ngữ Việt, trong thơ ca Việt và trong đời sống người Việt.




    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 17:15 ngày 17/02/2003
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Có lẽ hơi lộn xộn. NHưng màg không thích lập nhiều topic. Đang nói vè bài viết của Tác Giả Hoài Việt. nên home post luôn 1 bài, của tác giả.
    Duyên: một chữ nhiều nghĩa

    Hoài Việt
    Trong ngôn ngữ Việt có nhiều chữ đa nghĩa, một từ, một chữ mà hàm chứa nhiều nghĩa và quá trình tìm hiểu, nhận biết nội hàm của những từ ngữ này là công việc lý thú và cần thiết. Chúng tôi xin nói đôi điều cảm nhận về chữ Duyên có vị trí đặc biệt trong tâm cảm người Việt, trong đời sống tinh cảm lứa đôi trai gái, vợ chồng của người Việt.
    Duyên vốn là từ gốc Hán có nghĩa là nguyên nhân; duyên do, duyên cớ phát sinh ra sự việc. Sau hàng nghìn năm "giao duyên" với tiếng Việt, chữ Duyên mang nghĩa duyên số, duyên phận của con người. Ca dao xưa có câu:
    Phải duyên thì gắn như keo
    Trái duyên đuểnh đoảng như kèo đục vênh

    để mô tả sự hợp duyên "gắn bó keo sơn" và lỗi duyên vênh váo, không ăn khớp như kèo đục vênh trong quan hệ vợ chồng. Trong cảm thức của người Việt, duyên phận như cái gì tiền định, trừu tượng, mơ hồ, nên bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương mới có câu thơ chơi chữ Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc - nghĩa là duyên trời chưa thành vợ chồng. Bài thơ Mời trầu cũng có câu:
    Có phải duyên nhau thì thắm lại
    Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

    Trong bộ môn nghệ thuật hát Chèo, có hẳn một điệu mang tên Duyên phận phải chiều và ca từ cổ có câu:
    Đôi ta duyên phận phải chiều
    Dây tơ hồng ai khéo se mà vấn vít...

    Chính vì cho duyên là tiền định nên người Việt cổ mới coi chuyện vợ chồng là do ông tơ bà nguyệt lấy sợi chỉ hồng buộc vào nhau. Hiểu một cách khái quát nhất Duyên chỉ sự tương hợp tinh thần tình cảm bên trong giữa người và người. Câu thơ cổ:
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
    Vô duyên đối diện bất tương phùng

    nghĩa là có duyên thì xa vạn dặm cũng có thể gặp gỡ, vô duyên thì đối mặt nhau cũng không thể có sự tương thân hài hoà.
    Ngoài nghĩa duyên phận, Duyên còn hàm nghĩa chỉ vẻ đẹp trong ăn nói, tính tình, ứng xử của người con gái. Trong Mười thương như là chuẩn mực về người con gái thời xưa, có một điều thương là ăn nói mặn mà có duyên. Người ta có thẻ khen: "Cô ấy có học có khác, ăn nói có duyên quá!" - nghĩa là cô gái nói chuyện hợp tâm lý người nghe, câu chuyện ý nhị, có văn hoá. Duyên cũng có khi chỉ vẻ đẹp son trẻ bên ngoài. Ca dao có câu:
    Còn duyên kẻ đón người đưa
    Hết duyên đi sớm về trưa mặc người.

    Ca từ quan họ cũng có câu mang nghĩa tương tự:
    Còn duyên buôn nụ bán hoa
    Hết duyên ngồi gốc cây đa đợi người
    .
    Trong cảm thức của người Việt, có sự phân định Tình và Duyên mặc dù hai chữ này đều chỉ quan hệ tình cảm lứa đôi trai gái, vợ chồng. Nếu như Duyên là tiền định, có sẵn trong duyên số mỗi người thì Tình là sự gặp gỡ tình cờ trong hiện tại. Ca từ hò Huế có câu:
    Tình về Đại Lược
    Duyên ngược Kim Long

    là sự phân định ấy. Trong tiếng Việt còn có một từ Duyên gốc Hán nữa có nghĩa là men theo, nương theo, Duyên Hải - chỉ miền đất ven biển, men theo nước biển. Chữ Duyên ấy đồng âm, đồng tự, song hoàn toàn khác nghĩa, là từ đồng âm dị nghĩa.
    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 17:44 ngày 17/02/2003
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    [
    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 17:26 ngày 17/02/2003
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    [
    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 17:30 ngày 17/02/2003
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    [
    Được home_nguoikechuyen sửa chữa / chuyển vào 17:33 ngày 17/02/2003
  6. loinho

    loinho Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/02/2003
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    mình nghĩ bài của bạn chuẩn rồi không cần sữa chữa nhiều đâu :) thế còn Nợ?
    Bài ca dao mở đầu rất thuyết phục :mình bảo với ta mình hãy còn son ...
    Theo mình nghĩ thân phận người phụ nữ trong ca dao cũng hay lắm .Chẳng hạn như bắt đầu từ :Thân em ...
    Thân em như dải lụa đào
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ...
    người đi lạc .
  7. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Những từ cổ trong tiếng Việt có thể gặp khá nhiều trong Truyện Kiều - một tác phẩm bác học nhưng lại mang đầy tính dân gian.
    Một từ Việt cổ đầu tiên ta gặp là từ Nghỉ:
    Có nhà viên ngoại họ Vương
    Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung....
    Từ nghỉ mang nghĩa là riêng, của riêng. Nhiều người nhầm là nghĩ, đặc biệt trong miền Nam nơi hầu như không phân biệt dấu hỏi và ngã.
    Chữ tây mang nghĩa cổ là riêng, nhưng đã được ghép với từ riêng trong Truyện Kiều rồi:
    ...Đồ tế nhuyễn của riêng tây
    Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.....
    Như vậy việc dùng cụm từ riêng tây - riêng tư đã được dùng từ cuối thế kỷ18, đầu thế kỷ 19.
    Cụm từ Nương long còn được Đoàn Thị Điểm dùng đến trong hai câu thơ rất hay, mô tả 4 điều đại khoái cảm của con người :
    Cơm Phiếu mẫu, chiếu Trần Đoàn
    Ngả nghiêng loan phụng, trễ tràng nương long.
    Một từ mang nghĩa cổ hiện nay ít người nhớ nghĩa là Cái.
    Từ Cái hiển nhiên có nhiều nghĩa.
    Nhưng một trong các nghĩa là người Mẹ, người Vợ trong gia đình, thì giờ không ai dùng. Trong cụm từ Con Cái, thì cái ở đây chính là người mẹ, cách dùng "Con cái" nguyên chỉ dành cho đàn ông, để chỉ vợ con. Nhiều người nghĩ cái là chỉ con gái, là sai.
    Có thể thấy rõ trong những cụm sau : Con dại cái mang; Con với chả cái....(con dại thì mẹ phải chịu khổ, vợ với chả con....)
    Sông Hồng - sông Mẹ của dân tộc Việt còn được gọi là sông Cái. Chữ Cái ở đây là Mẹ chứ không phải là chính yếu như nhiều người nhầm.
    -----------------------------------------------------------
    Sống trên đời sống cần có một tấm lòng

Chia sẻ trang này