1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Người bóng dài - Hans Ruesch

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Sota, 14/03/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Sota

    Sota Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    3.401
    Đã được thích:
    0
    Bấy giờ tất cả mọi người đều đói mềm. Họ liền bày ra tất cả các món ăn ngon: dạ dày bò biển đầy rong rêu, vịt con để mềm hai năm trong bụng đầy mỡ, ruột chim chất đầy da diệc, gan ruột tuần lộc, các mầu mút đường của người da trắng trộn với mỡ và *** hươu làm cho món ăn càng ngon.
    Chiếc nồi đặt trên bếp dầu cũng bắt đầu sôi, mùi thịt gấu thơm thơm toả ra làm điếc mũi người xung quanh. Những tiếng cười rộ, la hét vui sướng vang khắp phòng.
    - Bất cứ người nào cũng thấy mình may mắn có mặt ở đây với nhiều phụ nữ - Siôrakitsốc tìm cách an ủi Erơnênếch đang ngồi với gương mặt ỉu xìu tối sầm hơn cả mùa đông.
    - Nhưng không làm được gì với cái lưng thẳng đơ - Ácgô nói. Nhận xét của anh làm mọi người cười ồ lên.
    - Thế thì chắc phải nguy hiểm lắm cho một người đàn bà? - Một người chồng của Tocngếch nói với Asiác. Chị bật cười và lẩn tránh câu trả lời.
    - Một người đàn ông không nguy hiểm cho gấu thì cũng không thể nguy hiểm đối với đàn bà - Ácgô nói - Có phải thế không?
    Nếu lúc khác thì Erơnênếch đã cảm thấy vô cùng hạnh phúc được sống giữa đám đông người vui nhộn như vậy, nhưng ngày hôm nay thì không. Chưa bao giờ lại có chuyện người ta loại anh ra khỏi những công việc mạo hiểm, mà lại chính những người phương Nam này. Chuyện đó có vứt bỏ hết những nếp nhăn trong dạ dày cũng không thể xoá được cay đắng trong lòng anh.
    Đứng sừng sững dưới mái nhà bằng tuyết, xà nhà bằng xương cá voi, trong ánh sáng vàng đục mùa thu do băng hắt vào và qua cửa sổ che bằng da bóng đái tuần lộc, Erơnênếch là một nhân vật nổi bật trong bộ quần áo bằng da gấu. Anh không cao, nhưng vạm vỡ, chắc nịch ăn đứt tất cả mọi người có mặt ở đây. Anh có bộ răng tuyệt vời. Tóc mọc rất rậm. Tiếng nói anh vang động khắp nhà.
    Anh nhổ mạnh nước bọt, với giọng nói kiên quyết anh thét to để chính Siôrakitsốc cũng nghe được.
    - Thật xấu hổ cho cái nhóm người phương Nam bất hạnh này, phải dùng hàng trăm con chó để săn gấu, và chỉ thích săn hải báo hơn vì ít nguy hiểm, lại dám lên mặt trước người chỉ một mình đã giết chết nhiều gấu hơn hải báo. Các anh đã ai dám đánh nhau với gấu sau khi bị nó bẻ gãy giáo và dùng dao phanh bụng nó chưa? Các anh có người nào đã nhiều lần xách hải cẩu lên khỏi nước, tóm lấy mõm nó rồi dùng tay không đập vỡ đầu nó rồi chứ?
    Sau mỗi câu nói của anh, mọi người lại cười rộ lên như sau mỗi lời pha trò. Điều đó càng làm anh tức sôi máu. Không phải là không có người nào tin lời anh nói, nhưng đây là lần đầu tiên họ nghe một người huênh hoang trước đám đông. Asiác hiểu rõ cách cư xử của Erơnênếch trong xã hội còn có nhiều cái vụng về, thô thiển, và chị rất bối rối. Nhưng Papích và Ivalú thì nổi giận vì người ta cười cợt bố mình. Chúng cho rằng sự có mặt của Erơnênếch trong bất kỳ đám đông nào cũng phải được coi như là một sự trang điểm và vinh dự. Papích mặt đỏ bừng bật dậy thét:
    - Bố tôi nói đúng đấy!
    Và Ivalú hằm hằm nói thêm:
    - Nếu các người không biết Erơnênếch thuộc loại người nào, chứng tỏ người phương Nam không biết gì hết!
    Để cho mọi người biết anh thuộc loại người nào, Erơnênếch nâng chiếc chảo nặng đựng chè và đập tan xuống đất.
  2. Sota

    Sota Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    3.401
    Đã được thích:
    0
    *​
    Tiếng chân Erơnênếch lạo xạo bước trên lớp băng mỏng mùa hè phủ lên những quả đồi dọc bờ biển. Anh hơi mệt do đi nhiều. Chóngặmt vì mất máu, còn lưng thì đau ê ẩm, nhức nhối lan đến tận chân. Nhưng chịu đựng đau đớn còn dễ hơn là ý định chứng minh cho bọn người phương Nam bất lực này biết khả năng của một con người thực sự.
    Anh rời bỏ cuộc vui ở nhà Siôrakitsốc. Trời lặng gió và mát mẻ. Những tiếng rì rầm trong làng vọng tới tai Erơnênếch. Khi trời ấm, có tuyết rơi, tiếng động không đi xa, nhưng khi trời lạnh có thể nghe được tiếng người nói cách xa một ngày đường. Anh nghe thấy tiếng một con chó sủa, tiếng trẻ con nô đùa dùng da hải báo ngồi trượt dốc. Sau cùng là tiếng vo ve của hàng nghìn con muỗi nhỏ dập dờn bay trước mũi mình. Một vài con mắc vào họng, vào mũi toả ra vị chua ngọt.
    Đến chân băng hà, anh dán mắt xuống đất cho đến khi bắt gặp vết chân gấu. Đó là một con gấu đói vì vết chân của nó rất chụm, móng vuốt quặp vào trong, điều chỉ thấy ở một con gấu gầy.
    Erơnênếch đi theo vết chân gấu đến tận bên kia bờ băng hà, nhưng đến chỗ toàn đá khi phát hiện ra phân gấu đằng xa, anh tìm lại được dấu chân của nó ở một hẻm đá. Nền đất được phủ một lớp tuyết mới nhưng sườn núi thì nhẵn trơn. Vì cố sức leo lên núi, anh càng đau lưng và đau cả thận nữa. Anh phải chống giáo để đi. Anh không mang theo cung tên, cho dễ bề hoạt động nhưng có giắt trong giày một con dao rất sắc.
    Phía sau một tảng đá, một chú gấu con lông ngắn đang gậm chân đùa nghịch. Đôi mắt nhỏ ngạc nhiên ngắm nhìn cái thế giới còn chưa cho nó nếm mùi nguy hiểm.
    Erơnênếch bị ngã sấp, rên lên vì đau đớn. Chú gấu con quan sát hình thù kỳ lạ nằm trên tuyết mà nó tưởng là đó cũng là một con gấu. Sau đó gấu con đến bên Erơnênếch, dùng chiếc mõm nhỏ bóng loáng hít hít đánh hơi, không phải vì thận trọng mà vì tò mò.
    Mùi người không báo cho nó một điều gì.
    Cụoc gặp gỡ đầu tiên của nó với người thật bất ngờ và bất hạnh. Đột nhiên Erơnênếch dùng tay tóm chặt lấy cái cổ mềm mại âm ấm của con gấu. Erơnênếch vừa thốt lên đau đớn vì quá cố sức, vừa đứng thẳng dậy dựa lưng vào vách đá trong khi gấu kêu chít chít thè chiêế lưỡi xanh và hàm răng trắng muốt không ngừng lắc lư. Khi con vật đã yếu sức Erơnênếch dùng giáo đâm vào chiếc bụng đỏ và béo tròn của nó, con gấu con lại kêu lên.
    Cùng lúc ấy gấu mẹ xuất hiện.
  3. Sota

    Sota Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    3.401
    Đã được thích:
    0
    Erơnênếch nghe tiếng gấu mẹ thở nặng nề ở vách đá trên đầu anh. Anh dựa lưng vào vách đá chuẩn bị chiến đấu.
    Gấu mẹ di chuyển nhanh nhẹn trên những tảng đá hiểm trở, gầm gừ đe doạ, rồi lao thẳng vào người Erơnênếch. Anh phải dùng xác gấu con để làm lá chắn để giảm sức tấn công của gấu mẹ và tranh thủ thời gian nắm lấy giáo.
    Khi gấu mẹ đứng thẳng dậy thì chiếc giáo bất ngờ đâm thẳng vào chiếc mõm mở toang hoác của nó và cắm vào cuống họng. Con thú dùng chân trước gỡ và bẻ gãy chiếc giáo làm cho vết thương càng thêm rộng. Hầu như gấu mẹ không kêu lên được một tiếng nào, chỉ thấy một dòng máu sủi bọt chảy mạnh ra ngoài không khí lạnh và sau đó là tiếng ồng ộc. Cuối cùng gấu mẹ gục xuống trong khi gấu con hồi sức lại, kêu lên và bỏ chạy. Erơnênếch nhìn xung quanh để xem gấu đực đã đến chưa.
    Và quả thực gấu đực đang đi đến.
    Nhưng con gấu này có lẽ kém mắt nên chưa phát hiện ra kẻ thù và con gấu cái đang hấp hối. Nó đi vòng quanh tai vểnh lên nghe ngóng, mũi đánh hơi mùi gió.
    Nếu là lúc khác thì Erơnênếch đã nhấm ướt môi trên để xác định hướng gió nhưng giờ đây da anh đã không còn cái cảm giác tinh nhạy ấy nữa. Anh bèn thử bằng cách lấy một nhóm lông áo và quẳng ra không khí. Anh biết chắc con gấu đang ở đầu gió. Biết là không có cách nào rút được chiếc giáo còn mắc trong họng con gấu cái đang chết cách đấy vài bước mà không để gấu đực nhận ra, vì người và gấu chỉ cách nhau có một vách đá. Erơnênếch quyết định đứng im đợi.
    Anh lắng nghe hơi thở của gấu đực và thỉnh thoảng anh cảm thấy như con thú cũng ngừng thở nghe ngóng. Con gấu bỏ đi xa dần. Lúc này Erơnênếch đã có thể lấy được cây giáo. Anh sẽ cho gấu nhảy múa. Anh cười và nghĩ tới sự thán phục của dân làng khi nhìn thấy chiến lợi phẩm và nghe anh kể chuyện. Đúng vậy, anh vẫn còn có khả năng chiến thắng cả một nhóm người.
    Không khí mỗi lúc một nhiều muỗi hơn do mùi máu thu hút chúng lại. Erơnênếch hít sâu và thở ra một cụm khói. Một chú muỗi chui vào cuốn họng làm anh ngứa và ho.
    Từ lúc đó các sự diễn biến rất nhanh.
    Erơnênếch lại gần con gấu cái. Anh nằm xuống đất và rút mẩu giáo ra khỏi họng nó, mắt vẫn trông chừng vách đá phía sau. Một nỗi lo lắng mơ hồ làm trí não anh co thắt lại, nhưng trong một góc sâu thẳm nào đó vẫn lung linh một niềm vui sướng là câu chuyện chiến công của anh sẽ làm người nghe há hốc miệng.
    Con gấu đực lại gần. Nó lắc lư đi xuống vách đá nghiêng, thận trọng, chậm chạp, tính toán hơn con cái. Con gấu này rất gầy và cao. Erơnênếch nghe tiếng móng chân nó cạo vào vách đá.
    Khi Erơnênếch hầu như vừa lấy lại được ngọn giáo và dựa vào vách đá đứng dậy thì con gấu tiến đến sát người anh. Từ cổ họng nó phát ra tiếng gầm gừ. Con gấu chồm vào người anh hai chân trước giơ cao. Erơnênếch bất giác sững lại ngơ ngác do đó anh không đủ thời gian để né tránh cái miệng phì khói của nó. Cái giáo đẫm máu lại cắm phập vào miệng con vật xuyên ra ngoài. Giờ đây Erơnênếch phải chịu ngã ngửa, nhưng anh còn kịp rút được con dao giắt trong giày ra.
    Erơnênếch để mình ngã ngửa... và anh nằm như thế.
    Cả khối thịt bảy trăm cân giận dữ đè xuống người anh và ép anh xuống đất. Anh vừa đủ thời gian luồn cánh tay cầm dao vào giữa háng con vật, thì hơi thở nóng hổi của nó đã đốt cháy mặt anh. Sức nặng của con gấu buộc anh phải nằm bất động.
    Con gấu ngoạm cánh tay anh, nhưng Erơnênếch vẫn kiên cường chịu đựng. Anh đã biết cách khai thác niềm vui từ nỗi đau thân thể để chịu đựng tốt hơn. Anh quay cổ tay, rút tay ra khỏi bao da tìm cái bụng nhẵn đã bị đâm của kẻ thù và dùng hết sức lực còn lại kéo ruột ra.
    Một viên đạn bắn vào giữa tim cũng không gây tác động ngay lập tức như vậy. Con gấu gầm lên, thả lỏng con mồi và lưỡng lự đứng lên, hai chân trước đè lên bẹn nó. Nhưng làm như thế cũng không cầm được máu. Nó ngã gục. Con gấu thở gấp và bắt đầu quay sườn quệt đá và làm đỏ cả tuyết ở xung quanh.
    Erơnênếch định hướng đứng dậy, cánh tay giờ đây mới thấy đau vì nhiệt tình chiến đấu đã qua. Anh nằm ngửa, lưng áp sát vào đất. Tuy vậy anh cũng đứng lên được. Mồ hôi nhỏ giọt trên khuôn mặt chứng tỏ anh đau đớn và cố gắng lắm. Nhưng nếu chết thì phải chết đứng.
    Máu từ động mạch cánh tay bị dập phun thành tia bắn xa hàng mét theo nhịp đập. Erơnênếch quan sát nhịp tim ngày càng yếu dần. Với chút sức tàn còn lại anh chỉ ép được khuỷu tay cho khỏi đau và chứng kiến sự sống đang lìa khỏi thân mình.
    Từng đàn muỗi vo ve trên mặt, một con quạ bay liệng, một con chồn có bộ lông trắng muốt đang rình con mồi vô hình, một đàn hạc tung cánh lên bầu trời trong sáng trước khi bay về miền khí hậu ấm áp.
    Như thế là chết ư? Rõ ràng thế ư? Đơn giản thế ư? Và bất ngờ thế ư?
  4. Sota

    Sota Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    3.401
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG IX
    CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ
    Papích và Ivalú đập đầu vào tường và la khóc thảm thiết, nhưng Asiác không tỏ ra chút đau đớn nào. Cô chỉ ôm hai đứa con vào lòng như khi chúng còn nhỏ và trong vòng tay cô chúng vẫn là trẻ con - để hôn hít và thấm ướt mặt mình bằng nước mắt của con.
    Đi theo dấu chân Erơnênếch, Papích đã tìm thấy xác bố và cõng về nhà Siôrakitsốc, hy vọng thầy lang hoặc thầy thuốc người da trắng có thể làm bố sống lại. Nếu Papích biết chắc không chữa được thì anh đã để nguyên tử thi ở đấy thì tránh được khá nhiều bất tiện.
    Tập quán ở đây chỉ những cô gái trẻ và bà già đứng tuổi mới được quyền động vào người quá cố, nhưng tay phải đeo găng. Sau khi rửa tử thi, họ buộc cả tay lẫn chân để con ma khó hoạt động. Rồi họ lấy rêu nút lỗ mũi, bịt rốn và cơ quan sinh dục.
    - Một người đàn bà cảm thấy bứt rứt vì chồng mình gây nhiều phiền phức - Asiác nói với Siôrakitsốc đang chỉ huy tang lễ - Vì sao không đưa người chết ra ngoài thiên nhiên như chúng tôi thường làm ở phương Bắc? Thú vật sẽ đảm nhiệm việc dọn xác và con người không phải lo lắng gì cả.
    - Người chết đã ở trong nhà - Siôrakitsốc nói với vẻ lo lắng và không vui - Chúng tôi phải làm tất cả để con ma khỏi ám. Rõ ràng con ma của chồng cô thật đáng sợ.
    - Đúng thế đấy.
    Cái xác trần truồng, gập đôi của Erơnênếch để ở giữa nhà, phía dưới lỗ thông hơi trên nhà để linh hồn bay ra. Tất cả phụ nữ vây quanh xoã tóc, quần áo nhàu nát, cào mặt, đấm ngực, gào thét, ca ngợi kẻ chết để con ma vui lòng.
    Trong buổi tang lễ ấy có mặt một người da trắng.
    Đó là nhà truyền giáo cùng đi với đoàn thám hiểm để mang ánh sáng đến cái vùng phương Bắc xa xôi còn chưa được đức tin rọi tới này. Thấy cha cố trong phòng tất cả đều im lặng. Cha cố là một người đàn ông béo, tầm thước, tóc dài màu hung nên chẳng mấy chốc người ta bỏ cái tên Côhactốc của ông thay thế bằng Tóc phai. Cha cố có bộ râu đỏ mềm mại, mắt xanh trong.
    Ông ta lại gần kẻ quá cố đọc kinh. Rõ ràng ông ta đã cố gắng học tiếng Eskimo. Bởi thế ông diễn đạt khá rõ ràng suy nghĩ của mình bằng tiếng địa phương.
    - Một kẻ tội lỗi đã về nơi yên nghỉ cuối cùng - Ông ta nói, mắt nhìn những người xung quanh - Nhưng kẻ tội lỗi này có thực sự tìm thấy nơi yên nghỉ không? Ta nghi ngờ điều đó, vì anh ta ra đi không được Đấng sáng tạo tẩy hết tội lỗi. Bây giờ thì điều đó quá muộn rồi. Mong sao cái chết này là sự cảnh tỉnh những ai còn chưa chịu theo Chúa. Có lẽ đây là lời nhắc nhở mọi người phải đi rửa tội ngay lập tức vì đất nước của Chúa rất gần. Điều này ta đã nói với dân làng từ khi ta đến. Ta đến đây là để gieo hạt giống tốt lành cho các người. Ta nghe nói người này là một nhà săn bắn đại tài. Nhưng số gấu bị giết đó giờ đây có ích gì cho anh ta? Rõ ràng anh ta, người không mảnh da thú trần truồng bị thiêu đốt trên ngọn lửa vĩnh cửu. Sao không bớt một ít thời gian săn bắn để đọc kinh cầu nguyện Chúa tha tội cho? Nếu làm thế thì giờ đây linh hồn anh ta đã ở trên Thiên đường chứ không phải sa xuống địa ngục, và chúng ta có thể chôn xác anh ta vào nghĩa địa Thiên chúa giáo bên cạnh xác Alinalúc, dưới cây thánh giá chứ không phải chôn ở đất giả dối. Bây giờ chúng ta chỉ có thể cầu Chúa rủ lòng thương linh hồn tội lỗi. Amen.
    - Ông ta nói gì vậy? - Ivalú hỏi mẹ - Mẹ hiểu điều người da trắng nói mà.
    - Yên nào - Asiác thì thầm - Mẹ không hiểu ông ta nói gì, mẹ chỉ nghe ông ta nói cha là một người đi săn đại tài thôi. Mỗi tộc người có tập quán riêng và tập quán của người da trắng rất lạ. Đây chắc là cách ông ta xoa dịu con ma.
    Trong năm vòng mặt trời quay những người đàn bà đầu tóc bù xù, áo quần nhàu nát, gào khóc ca ngợi kẻ quá cố. Nỗi sợ hãi con ma được thể hiện bằng sự thương tiếc người chết của tất cả mọi người. Tất cả người lẫn chó đều phải nhịn ăn trong thời gian cử hành tang lễ trừ trường hợp vụng trộm.
    Đến ngày thứ sáu các bà khâu xác chết vào một áo quan bằng da mới và tổ chức lễ chôn cất.
    Đám tang do Ácgô dẫn đầu chui qua một lỗ thủng đục ở tường để ra ngoài. Ngay lập tức họ lấp tường lại để linh hồn Erơnênếch, nếu vẫn còn trong người anh, không thể tìm được đường về và làm hại họ như linh hồn những người chết vẫn thường làm. Sau đó họ đặt áo quan lên cỗ xe do Papích chỉ huy. Phía sau là Asiác, Ivalú và Siôrakitsốc được hai con rể dùng thảm khiêng đi. Phụ nữ đi theo đoàn người gào khóc thảm thiết, còn đàn ông dùng gậy quật mạnh chó để chúng cũng bộc lộ đôi chút thương đau.
    Đám tang dừng lại trên đỉnh đồi nơi từ đó có thể nhìn thấy toàn cảnh cái làng. Đàn ông bắt tay vào đào huyệt. Mùa hè làm tan lớp băng đầu tiên dày khoảng một tấc, do vậy đất và tuyết mới tạo thành một lớp bùn nhão. Nhưng dưới lớp bùn ấy là đất đông lạnh cứng rất khó đào. Người ta phải lấy đá xếp một ngôi mộ hình chữ nhật rồi đặt xác người chết vào.
    Papích bóp chết con chó được Erơnênếch thích nhất và đặt nó nằm bên cạnh anh cùng với vũ khí, bấc đèn, mồi lửa khô, một cái đèn đầy mỡ vì trong mộ rất rét và rất tối.
    Sau đó Siôrakitsốc nói lời vĩnh biệt.
    - Các người chôn cất làm sao để ngôi mộ không giống như một ngôi mộ, tránh cho người đi đường hoảng sợ. Các người không được nói đến tên tuổi và hình ảnh người chết.
    Gió thổi mạnh làm những người đi đưa đám nghe câu được câu chăng lời ai điếu.
    - Các người có năm ngày để khóc hết nước mắt, ca ngợi đủ tất cả chiến công mà người quá cố đã giành được. Thôi thế giờ đây đã đủ rồi. Con người này đã có một cuộc sống đáng cho người khác phải ghen tỵ và người ta rất thương cảm với cái chết này. Cuộc đời nào rồi cũng phải chấm dứt, vì thế kết thúc sớm hay muộn một chút thì không có gì quan trọng cả. Tất cả những gì có kết thúc đều ngắn ngủi. Chẳng lẽ cuộc đời ngắn ngủi lại là điều xấu hay sao? Không, chính sự ngắn ngủi càng làm cho cuộc đời thêm quý giá. Và con người này đã tận hưởng đời mình với giới hạn tối đa.
    Ivalú giấu mặt trong áo mẹ. Tiếng khóc, tiếng than, tiếng gào thét to đến mức tai điếc cũng phải nghe thấy. Siôrakitsốc mặt mày rạng rỡ, ôi đúng là một đám tang hoàn hảo!
    - Con người này đã nhìn thấy con mình lớn lên, đã săn được gấu lớn, đã ăn những miếng thịt lớn và ngon nhất. Hình như anh ta còn giết một người da trắng mà không bị họ trừng phạt! Cầu mong sao con cái chúng ta sẽ như anh! Lúc về các ngươi không được quên xoá hết dấu vết để con ma không thể theo ta về làng và trả thù vì biết chúng ta còn đang sống.
    Tất cả những người tham gia đám tang đều vứt bao tay xuống mộ và lấy đá to lấp huyệt để không con sói hay chồn gloton nào có thể nạy lên được. Sau đó họ ra về. Siôrakitsốc đích thân xem xét việc triệt thoái này.
    Về đến nhà, mọi người còn dùng nước tiểu của mình để tẩy uế và đuổi tà ma nhiễm vào họ. Họ uống nước tuyết trong bát của Erơnênếch và vảy xuống đất vài giọt để hồn ma cũng có thể uống. Họ ăn thịt và vứt xuống đất vài mẩu rồi nói:
    - Mày hãy ăn miếng thịt dự trữ này của chúng tao và giúp chúng tao có thịt dự trữ trong mùa đông tới.
    Rồi họ đặt các bẫy giả thường dùng quanh làng để đe doạ con ma nếu có dám trở về.
    - Vì sao cô và con gái cô lại lấy bồ hóng bôi đen mặt? - Siôrakitsốc hỏi khi nhìn thấy Asiác đang khâu, đầu trùm tất của Erơnênếch.
    - Theo tục lệ tôi biết là phải kiêng dùng đồ nhọn và sắc trong vài ngày để khỏi làm con ma bị thương - Asiác chống chế - Nhưng có chuyện xảy ra là mọi người đều đã bỏ bao tay ở mộ Erơnênếch và giờ đây họ cần phải có bao tay mới vì họ sắp ra đi. Bôi đen trán là để chống quỷ khâu vá. Mẹ tôi nói thế và lần này tôi bắt chước mẹ tôi.
    - Ôi đàn bà, đàn bà! - Siôrakitsốc khinh bỉ thốt lên - Mọi người đàn bà đều ngu ngốc và mê tín như nhau. Cô cho rằng quấn tất của chồng lên đầu là làm dịu con ma à. Cách chống việc cấm may vá tốt nhất là dùng kim vẽ một vòng tròn trên đất và ngồi vào vòng hộ mệnh đó mà khâu vá.
    - Tôi không thể tưởng tượng ông biết nhiều đến thế - Asiác thốt lên, rồi vội vàng làm theo lời chỉ bảo.
  5. Sota

    Sota Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    3.401
    Đã được thích:
    0
    *​
    Trong khi đó, lớp băng bao bọc quanh bờ biển từ lâu nay đã trút bỏ chiếc áo màu ghi xám và khoác vào chiếc áo trắng tinh. Nó cũng đủ độ vững để cho người và xe có thể đi qua được. Biển băng mỗi ngày một rộng ra do tiến sâu vào đất liền. Do không có mặt trời nên nước càng dễ đóng băng hơn, thậm chí những tảng băng từ phương Bắc trôi xuống giờ cũng dính vào bờ.
    Papích sẵn sàng ra đi với đoàn thám hiểm.
    - Có người sẽ trở về với khẩu súng và con dao thép, và sẽ hiểu tập quán của người da trắng - Anh nói với mẹ, mắt đẫm lệ - Lúc đó con sẽ dễ dàng kiếm thịt và da mẹ ạ.
    - Một bà già không muốn con ra đi. Nhưng nếu con không thể ở lại được thì con không cần lo lắng cho người mẹ vô ích, mà nên nghĩ tới Ivalú, làm sao khi con về, nó phải trở thành vợ tốt của một người đàn ông dũng cảm.
    Khi nghe nói thế Milắc đứng sau Papích tiến lên.
    - Không cần phải đợi lâu. Có người đang muốn có một người vợ giặt quần áo trong cuộc hành trình sắp tới.
    - Có thể thế - Asiác đáp - Nhưng không được.
    - Vì sao?
    - Ivalú là cô con gái rất ngốc nghếch của một người mẹ rất tồi. Nó còn chưa biết cạo da và khéo may vá. Nó còn quá trẻ con để trở thành một người vợ xứng với một người đàn ông dũng cảm.
    - Tôi sẽ đưa biếu bà một chiếc đèn ít giá trị, vài dải dây màu của người da trắng và một ít thịt thường.
    - Một bà già ngốc nghếch đã có một cái đèn tàng tàng rồi, bà ta không xứng đáng được trang điểm với những sợi dây màu này và bà ta không đói lắm đâu. Không không, anh Milắc, anh hãy giữ lấy của cải của anh còn bà già này sẽ giữ cô con gái vô ích của bà ta lại.
    Trong khi đó Milắc hau háu nhìn Ivalú.
    - Nhưng sau một chuyến đi trở về, như là điều có thể xảy ra, thì bà có cho phép một người đàn ông nói chuyện riêng với cô ấy không? Cái điều mà bây giờ bà chưa cho phép, và cả cười với cô ta nữa chứ?
    - Có thể được - Asiác đáp, và Milắc ngập ngừng rút lui.
    Papích nói với mẹ:
    - Khi mang súng trở về con cũng lấy vợ. Những ngày vừa qua con thấy mình hợp với một cô gái lắm, nhưng cô ta lại cứ lảng đi khi con định nói chuyện. Có lần cô ta tát con một cái vì con sờ vào người cô ta.
    - Đó là biểu hiện của sự có giáo dục, cô bé tên là gì?
    - Viví.
    Trước khi đi người da trắng sốt ruột thúc giục nhiều nhưng nhóm người Eskimo cứ dỡ ra rồi lại xếp vào đống hành lý, chốc chốc lại la là đã quên một cái gì đó. Nhiều lần họ trở về nhà để uống một bát chè hay cười lần cuối cùng với vợ. Đến phút chót họ còn phải sửa dây kéo xe, nối lại dây buộc đồ bị đứt. Trời tối rất nhanh.
    Bất chấp cả tục lệ, Asiác và Ivalú cùng một số trẻ con chưa biết điều cấm này đi tiễn đoàn thám hiểm một đoạn đường. Bầu trời đầy mây, gió lạnh quét dọc bờ biển. Ba nhăm người đàn ông địa phương cùng với một số xe và mười hai người đàn bà hộ tống năm người thám hiểm da trắng đi trên lớp băng. Đi đầu đoàn viễn chinh là Papích. Chó của anh gầy và khoẻ do cuộc hành trình vừa qua, trong khi chó của dân làng còn béo và nặng nề.
    - Vì sao mẹ không để con đi với anh Milắc? - Ivalú tức giận hỏi trong khi cô rảo bước đi theo mẹ.
    - Vì mẹ không muốn con đi với người da trắng. Họ là những thằng điên nguy hiểm. Anh Papích quá thừa sức khoẻ nên mẹ không cấm chuyện đó còn con thì không được.
    - Thế thì bây giờ con chẳng tìm được chồng! - Ivalú bật khóc - Milắc là chàng trai duy nhất xin lấy con làm vợ.
    - Milắc là chàng trai duy nhất thấy con. Con yêu ạ, đừng sợ, con rất duyên dáng, và người đàn ông nào cũng thích có một cô vợ duyên dáng hơn người. Khi con đủ sức mang đồ đạc nặng trên vai thì con cũng sẽ dễ dàng lấy được hai người chồng hoặc nhiều hơn nữa.
    - Mẹ chắc thế chứ?
    - Hoàn toàn chắc thế. Con người khi còn nhỏ thì ít có giá trị vì dễ bị chết, nhưng cũng vì lẽ ấy mà trở thành rất quý khi đã trưởng thành. Chỉ khi đã ở tuổi của mẹ thì đàn bà mới không có giá trị.
    Khi đoàn xe mất hút vào đêm tối, Asiác và Ivalú trở về nhà Siôrakitsốc. Ở đây họ gặp Tocngếch và Nêghê đang pha chè trước khi đi nằm.
    Nêghê yên lặng, nhưng Tocngếch thì khóc. Ácgô người chồng của Nêghê, chắc chắn không phải chịu đựng cảnh thiếu đàn bà trong cuộc hành trình này vì tất cả những người đàn ông mang theo vợ đều lấy làm hãnh diện được đem vợ mình cho người khác mượn. Bởi thế Nêghê không phải lo lắng gì cho cuộc sống của chồng. Trái lại, cô chị già và béo Tocngếch nghĩ rằng hai ông chồng của mình thường hay bị mọi người trêu chọc và đối xử tàn tệ nên rất cần bà ta, bà ta muốn đi cùng họ, nhưng Siôrakitsốc cần cô ở nhà nên không cho đi.
    - Có một người đàn bà già vô ích và cô con gái ngu ngốc sẽ làm một ngôi nhà nấm bằng băng - Lúc vào nhà Asiác nói.
    - Không ai có thể trách cô vì cô muốn xa rời ông già vô tích sự này với hai cô cháu gái ngốc nghếch của ông ta - Siôrakitsốc nói khi đã hiểu ra điều Asiác nói - Nhưng không có đàn ông thì ngôi nhà này và cả cái làng này sẽ yên tĩnh một cách đáng ghét. Có chuyện xảy ra là mùa hè vừa qua nhiều bò biển bị trúng tên của Ácgô và cá thì câu được rất nhiều. Giờ đây các kho dự trữ thực phẩm đều đầy ắp và cô sẽ là một vinh dự lớn cho làng này nếu cô nhận lòng mến khách. Cô ở đây sẽ làm cho ngôi nhà ông già lang băm này thêm vui vẻ.
    Asiác chăm chú lắng nghe những lời nói của Siôrakitsốc và đáp:
    - Thực ra đó là một điều vinh dự cho chúng tôi, nhưng ăn cơm của ông và hai người đàn bà vô ích này, ở ngôi nhà rất đẹp này là không phải chút nào. Không, chúng tôi sẽ làm một cái nhà nấm bằng băng.
    - Có người cảm thấy hạnh phúc và vinh dự nếu cô chấp nhận lòng mến khách nhỏ bé này - Siôrakitsốc đáp và sai hai cô cháu mang chè ra. Mọi người uống chè xong liền chui vào túi da để ngủ.
    Nhưng Asiác dậy rất sớm.
  6. Sota

    Sota Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    3.401
    Đã được thích:
    0
    *​
    - Con thương yêu - Bà lay người cô con gái - Một bà mẹ biết rằng con cần được chỉ bảo trong chặng đường khác và không được bỏ con ở thời gian này. Nhưng bà ta đã già trở nên vô ích vì không có ai vui lòng nuôi dưỡng bà ta.
    - Mẹ, mẹ muốn nói gì vậy? - Ivalú ngước cặp mắt ngái ngủ hỏi.
    - Một người trong suốt đời mình đã luôn luôn nhường ân huệ cho người khác thì sẽ không còn xứng đáng nữa nếu lại lạm dụng lòng mến khách của người lạ.
    Đầu Ivalú vẫn còn đang mơ mơ màng màng.
    - Thế mẹ định làm gì?
    - Con bé bỏng ạ, mẹ bỏ đi nhưng không vì thế mà con cho rằng mẹ ít yêu con, mà trái lại cơ đấy! Con ở đây rất tốt, được bảo vệ chắc chắn và ăn uống đầy đủ. Vả lại, đây là một nơi sang trọng.
    Ivalú dần dần đã tỉnh ngủ.
    - Mẹ định đi đâu? - Cô hỏi, tay quàng lấy cổ mẹ và bật khóc - Mẹ đừng bỏ con, mẹ nhé!
    - Nín đi con, làm mọi người thức dậy bây giờ. Ngủ lại đi. Hình như con rất mệt. Một người đàn bà muốn đến với chồng. Ở nơi đó bà ta sẽ gặp tất cả mọi người đã đi trước và sẽ đợi con ở đấy.
    Ivalú muốn nói điều gì nữa, nhưng mệt quá, mắt nặng trĩu, cô để yên cho mẹ đắp lại chiếc chăn da cho mình.
    Asiác hôn hít con một lúc rồi lặng lẽ ra khỏi nhà.
    Trời rất đẹp, da trời nhuộm màu chiều hôm nhàn nhạt. Một người đàn bà gật đầu chào Asiác, khi gặp bà đi ra phía biển. Asiác mỉm cười đáp lời. Xác hải cẩu, xác cá kiếm và xác một con cá voi trắng nằm rải rác đây đó trên bãi biển cùng với hai con bò xa được bọc da bảo vệ cẩn thận.
    Asiác đi trên lớp băng hướng ra nước.
    Bà thích thú ngắm nhìn hai đứa trẻ đang chơi đùa trên thuyền kayak nhẹ làm bằng da hải báo, ở con suối chảy giữa các khối băng trôi. Chúng mặc quần áo không thấm nước làm bằng ruột động vật, cổ tay buộc chặt và quấn kín chúng với lỗ hổng hở của thuyền như vậy chúng trở thành một bộ phận của chiếc thuyền nhỏ. Điều đó cho phép chúng lộn đi lộn lại thuyền mà nước không vào. Để biểu diễn tài nghệ của mình trước Asiác, hai cậu bé nhào lộn rất nhanh, chúng lặn xuống biển làm chiếc thuyền con lộn đúng một vòng do sức nặng của thân thể chúng. Sau đó chúng lại nổi lên nhẹ nhàng, nước nhỏ giọt trên khuôn mặt tươi vui bóng mỡ.
    Asiác mỉm cười nghĩ tới Erơnênếch mấy năm trước khi đi thử thuỳen kayak, do coi thường lời khuyên của người có kinh nghiệm, sau lần lộn thứ hai, anh bị uống nhiều nước hơn là không khí. Nhưng nguyên nhân chính của tai nạn là trong lá bùa mà Erơnênếch mang theo còn thiếu một chiếc chân vịt. Đó là lá bùa rất thiêng giúp cho việc điều khiển thuyền kayak bình yên vô sự.
    Asiác tiếp tục nhìn bọn trẻ cho đến khi không thấy được chúng nữa. Bà tiến về phía gờ băng, ở đây có màu ghi. Bỗng nhiên bà có cảm giác mình đang trôi. Đúng vậy, sức nặng của thân thể bà đã làm tảng băng đứng tách ra và trôi theo dòng nước. Biết vậy, nhưng bà thấy không cần thiết phải quay lại, bởi vì khối băng quay và một chốc sau Asiác đã thấy mình quay mặt về phía làng và xa dần đất liền vì con kênh cứ rộng ra mãi.
    Bà khép áo vào ngực. Nhưng bà không cảm thấy rét. Cũng như tất cả những người thuộc dòng giống của bà, bà tin tưởng là linh hồn bất diệt, và chắc chắn cái chết không thể nào cực nhọc hơn cuộc sống. Trong đời mình bà đã phải làm biết bao công việc nặng nhọc thường ngày, gặp bao nỗi bất hạnh trần gian nơi mà bất kỳ một lầm lỗi nào cũng đều bị trừng phạt.
    Hai người đàn bà thấy bà đi ra phía biển.
    - Asiác đi theo cái chết - Người này nói với người kia.
    - Bà ta muốn chết hay bị xua đuổi vì một nỗi bất hạnh nào đó?
    - Ai biết được!
    Họ đứng nhìn nhưng không chạy lại cứu vì họ biết rằng thần biển có quyền được dâng hiến một số nạn nhân. Nếu cứu bà ta tức là giành giật lại từ tay thần biển đồ hiến sinh thì thần sẽ trả thù cả làng.
    Asiác nhìn nước vây quanh mình và bà tự hỏi mình sẽ có cảm giác gì nếu nhảy xuống dòng nước kia. Thân thể bà chưa bao giờ tiếp xúc với nước. Mặt nước phản chiếu bầu trời xanh xám và Asiác nhìn thấy dưới đáy những con cá to đang lượn qua lượn lại.
    Ôi, nước ấm tốt lành! Ôi, cá ngon, cá béo!
    Một con chó con bị Papích bỏ lại đã đi theo bà từ lúc nào mà bà không biết. Chiếc đuôi xoắn, cái trán nhăn và đôi mắt nhỏ, xếch chăm chú nhìn bà chủ và dòng nước xa lạ, cái đầu lúc lắc.
    Asiác nhận ra nó khi đã nhảy xuống nước và đang ngột thở. Áo quần thấm nước nặng như đá. Lỗ tai, lỗ mũi đầy nước. Vị muối mặn chát trong cổ họng. Con chó nhỏ theo bà ra biển giờ đây tuyệt vọng bơi theo. Khi con chó dùng móng mềm chưa bị cắt cào cào vào mặt Asiác, lúc đó theo bản năng bà bám chặt lấy nó. Sau đó bà buông con chó ra, đẩy nó vào bờ và trong lúc uống nước ừng ực bà nói:
    - Đi đi, đi đi!
  7. Sota

    Sota Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    3.401
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG X
    HẠT GIỐNG
    Côhactốc, nhà truyền giáo da trắng, có một quả chuông. Mỗi ngày chủ nhật theo kinh thánh ông ta lại rung cho chuông kêu rất to.
    Khi băng và đêm tối tràn vào khu vịnh này thì ông là người duy nhất ở lại trên đất liền. Lúc này đất liền đã trở nên lạnh giá và phải có thật nhiều dầu mới sưởi ấm được ngôi nhà bằng đá. Do vậy, cả làng đã chuyển ra sống trên lớp băng biển. Vô số những ngôi nhà nấm bằng băng mọc lên gần bờ biển nơi có ngôi nhà gỗ của người da trắng.
    Khi các bạn nhà thám hiểm đi rồi, Côhactốc đóng lên cửa tấm bảng đề dòng chữ "Nhà truyền giáo", mặc dù ông ta là người duy nhất biết đọc. Ngoài các đồ dự phòng quá nặng không thể mang đi theo được, các bạn da trắng còn để lại cho ông một số dụng cụ, sách vở ghi chép, nhận xét suy nghĩ của họ. Các nhà thám hiểm sẽ không trở lại làng này nữa mà về thẳng đất nước đầy ánh nắng của họ khi họ đã vượt qua đỉnh Bắc băng dương. Ở đây họ sẽ gặp một số người da trắng và con tàu nhả khói sẽ đưa họ về nhà. Còn những người Eskimo dẫn đường lúc đó sẽ quay về đường cũ.
    Côhactốc còn nhiều đồ dự trữ để làm phương tiện gieo hạt giống mới giữa những kẻ mọi rợ. Khi sống chung với những người thám hiểm trong ngôi nhà gỗ, Côhactốc kìm lòng ham muốn truyền đạo của mình. Ông chỉ làm lễ vào ngày chủ nhật và tụ họp quanh mình một ít người. Nhưng từ khi những người da trắng ra đi, ông để hết tâm trí vào những hoạt động lâu dài hơn. Trong những buổi họp mặt hàng ngày, ông triệu tập cả làng để nghe đọc một đoạn văn dễ hiểu trong cuốn Kinh thánh do đoàn thừa sai cung cấp cho ông. Sau đó ông hướng dẫn mọi người xem những bức tranh màu minh hoạ cho đoạn văn.
    Để biến những người Eskimo thành người Thiên Chúa giáo thì trước hết phải thuyết phục sao cho họ thừa nhận mình là kẻ có tội. Ông đã dùng một phần thời gian mùa đông và toàn bộ tài ăn nói của mình để làm cho họ hiểu rằng cái xấu, cái ác là bản tính của con người, điều mà họ còn hoàn toàn chưa nhận biết được, rằng họ cần được cứu vớt khỏi tội lỗi. Sự trừu tượng đó đã làm một số học trò lúng túng, nghi ngờ con đường mình vừa chọn. Đến đây nhà truyền giáo mới nhớ ra rằng không nên chỉ ban cho các tín đồ hoa mà phải cho họ cả quả nữa. Bởi thế trong các buổi họp sau, Côhactốc chia cho họ chè, đường và những chai nước ngọt.
    Natếch, người đàn bà lẽ ra phải bỏ ra ngoài băng tuyết đã giúp ông hoàn thành nhiệm vụ tiếp khách và cai quản ngôi nhà.
    Đồ dự trữ đủ dùng cho cả mùa đông, không có gì phải lo sợ, và do thiếu đàn ông để cười đùa, nên tất cả đàn bà trong làng đang muốn giải trí đều đến dự các buổi họp của Côhactốc một cách đầy đủ và vui vẻ.
    Nhà truyền giáo và lão thầy lang đã ngầm ký với nhau một thoả ước: Siôrakitsốc cứ tiếp tục chữa bệnh theo cách của mình và cứ phát huy ảnh hưởng của mình vào trong những biến đổi của thời gian và trong săn bắn, không được cản trở hoạt động truyền giáo của Côhactốc, lão thầy lang già lọm khọm còn nhận việc khuyên bảo mọi người theo học thuyết mới với điều kiện cả Côhactốc phải dạy bảo mọi người nên giúp đỡ người già, chứ không phải trả họ về với băng tuyết, rằng đây là một việc làm sáng danh Chúa, đặc biệt đối với những thầy lang già. Viên thừa sai chấp nhận điều kiện ấy một cách dễ dàng. Thế là Siôrakitsốc coi Thiên Chúa giáo là một đạo lý chân chính, cao thượng và đẹp đẽ.
    Ông già ranh mãnh và tội lỗi ấy bao giờ cũng bảo các cháu gái khiêng mình đến nhà thờ đầu tiên. Buổi lễ kết thúc, lão ta thức dậy và sau khi cho các mẩu bánh và đường vào mồm, lão nói chuyện với Côhactốc về một vài đề tài.
    Ở nhiều làng của người địa phương, một vài nhà truyền giáo quá ham công việc của mình đã lên tiếng bài bác các thầy lang địa phương. Song Côhactốc là một người mềm mỏng như mặt trăng, còn Siôrakitsốc có đủ trí thông minh đã để yên cho kẻ cũng để cho mình yên. Cả hai người không ai lấy làm quan trọng việc một vết thương được chữa bằng i-ốt hay bằng phân thỏ bởi vì hai biện pháp đều có hiệu quả như nhau và trước những ca nặng thì hai người đều bất lực. Nhờ thế mà chiếc thuyền Thiên Chúa giáo tiến vào vịnh nhỏ này với cánh buồm no gió.
    Ít ra khởi đầu cũng là như vậy.
  8. Sota

    Sota Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    3.401
    Đã được thích:
    0
    Một người đàn bà tình cờ ném được một con chồn gloton cái đang có mang. Bà ta trói chân, buộc mõm và gọi các bà khác và trẻ em giúp làm bữa liên hoan. Trước khi làm thịt họ lấy một móng chân, rút lưỡi và lấy kim đâm vào bọng đái, rồi họ mổ bụng lôi các con chồn con đang còn ngọ nguậy ra ăn và không quên ăn thịt cả con mẹ.
    Khi nghe chuyện đó Côhactốc tức giận vô cùng.
    Nhưng chuyện đó không có ý nghĩa gì so với chuyện một bà mẹ bốn con đã đưa đứa con út mới sinh ra nghĩa địa và bỏ con trần truồng ở đấy, sau khi nhét tuyết vào đầy mồm để cho nó chóng chết.
    Nhiệm vụ của Côhactốc không phải dễ dàng. Trong từ vựng tiếng Eskimo có nhiều từ nói về ma, quỷ, nhưng lại không có lấy một từ nào nói về Chúa. Bởi vậy nhóm thừa sai Thiên Chúa giáo buộc phải đặt ra một từ có nghĩa như Đấng tối cao, và Côhactốc tốn rất nhiều tâm sức để giải thích nội dung của từ này. Mặt khác lại còn phải chứng minh bằng được sự tồn tại của Địa ngục với những hình thức tra tấn khủng khiếp và sự đền bù xứng đáng ở Thiên Đường. Các nhà truyền giáo không gặp khó khăn lắm trong việc làm cho những người Eskimo trở thành hiền lành, khuất phục thiên nhiên và tôn kính những người ngoại quốc. Nhưng truyền thống và tín ngưỡng cổ truyền không thể một sớm một chiều mà xoá đi được, kể cả ở cái xứ sở mà ngày kéo dài đến vài tháng. Do vậy, các quy tắc mới thường phải phân chia lãnh vực hoạt động với các tập quán cũ.
    Người địa phương lấy làm lạ là Côhactốc cũng ghét con chồn gloton có hại như họ, mà lại không chịu để dân làng hạn chế số dân của mình bằng cái chết của người già và những trẻ sơ sinh, cho phù hợp với khả năng cung cấp thức ăn của vùng này. Ông cũng không chịu để mọi người trần truồng cả khi trời rất nóng, và khi có nhiều thịt lại lên án họ tham ăn.
    Nhưng vấn đề cấp bách nhất làm ông hết sức lo lắng là chuyện tạp giao.
    Cuối buổi gặp mặt đầu tiên được tổ chức khi Côhactốc đến làng được ít lâu, một đoàn các ông chồng, cảm động vì được ăn uống đã mời nhà truyền giáo cười với bất kỳ cô gái nào mà ông thích. Một người đàn ông sau một chuyến đi dài mà không có đàn bà cùng đi hẳn sẽ vui lòng nhận cười một lúc với người đàn bà mình thích. Thế mà trong trường hợp ấy, Côhactốc khinh khỉnh từ chối lời yêu cầu của đoàn và tiễn họ bằng những lời đe doạ. Côhactốc còn nhân vụ việc này để mở màn một chiến dịch chống tệ quần hôn trao đổi vợ và các hình thức tội lỗi khác của người bản địa.
    Từ trước đến nay, những người Eskimo chỉ bị coi là có tội khi giết một con tuần lộc trắng, đàn bà đi săn hải báo và cá voi, khâu vá ở ngoài trời, để lẫn hải sản với sản phẩm lục địa và nhiều việc khác nữa, nhưng không hề cấm đoán chuyện tạp giao. Điều cấm kỵ mới mà người da trắng tìm cách đưa vào đe doạ thay đổi các tạp quán nên dân địa phương rất nghi ngại.
    Nhà truyền giáo chọn Tocngếch, người có hai chồng làm mục tiêu công phá đầu tiên. Ông khuyên bà nên bỏ một người và lấy người còn lại. Nhưng bà ta lại khăng khăng nói rằng bà ta thương cả hai người và cả hai đều cần đến bà ta. Thế là bà ta không xứng đáng được rửa tội. Trái lại, bà em Nêghê lại rất thích điều răn một vợ một chồng, vì ý tưởng này sẽ buộc Ácgô chỉ được chú ý tới bà thôi, kể cả khi nhiều người đàn bà khác ở làng coi ý đồ của bà là ích kỷ và gây rối loạn.
    Côhactốc, một người kiên nhẫn và linh hoạt trong các buổi nói chuyện đã làm một số người chấp nhận đức tin mới chỉ vì thời thượng hay muốn biểu lộ sự lịch thiệp với khách nước ngoài. Số người khác mong rằng một khi thành người Thiên Chúa giáo họ sẽ được đối xử tốt hơn ở trạm trao đổi, điều vẫn thường hay xảy ra mà họ được chứng kiến.
    Trước khi đoàn thám hiểm ra đi, Côhactốc chỉ mới rửa tội được cho Alinalúc, một bà già đã gần đất xa trời. Bà ta đã chết vì bị liệt mặc dù đã được Siôrakitsốc ra sức lên đồng đuổi ma và nhiều lần dùng i-ốt và phân thỏ. Sau đó người đầu tiên được rửa tội trong mùa đông là Viví, cô gái mà Papích thầm yêu trộm nhớ. Tiếp đến là Crulí, mẹ của cô, và dần dần là tất cả phụ nữ và trẻ con trong làng. Ông làm lễ rửa tội cho cả bà Natếch, bà quản gia, người mà ông tinh chắc rằng do tuổi tác, bà ta đã ở ngoài phạm vi tội lỗi nặng nề nhất.
    Siôrakitsốc cũng tuyên bố sẵn sàng làm người Thiên Chúa giáo để giữ vững tinh thần hoà hảo. Lý lẽ này chưa làm Côhactốc hài lòng nên lão thầy lang được từ chối rửa tội một cách dễ chịu nhất.
    Trẻ con thì có thể cứ rửa tội mà không nghi ngại gì cả. Cho nên giữa mùa đông, Nêghê đẻ ra một đứa con gái, nó liền được rửa tội tức thì, và đó là đứa trẻ Thiên Chúa giáo đầu tiên của làng. Việc đặt tên, theo tập quán của người bản địa, người ta lấy tên của người chết để đặt cho trẻ sơ sinh. Tên của Asiác đã được đặt cho một con chó kéo xe đẹp, nên con gái của Nêghê mang tên Erơnênếch, cái tên vẫn còn vật vờ bay lượn để tìm nơi trú ngụ. Ivalú cảm thấy hạnh phúc vì từ nay cái tên của bố co không phải lang thang một mình trong đêm đen nữa.
    Còn một vài cuộc sinh đẻ khác. Trước khi đi những người đàn ông đã gieo giống lên mảnh đất màu mỡ của những người đàn bà, và giờ đây các hạt giống đó đã nảy mầm, lớn lên và kết quả. Tocngếch là người đàn bà mang bầu sau cùng. Bà ta đẻ sinh đôi, điều đó làm cả làng cười rũ rượi. Họ khẳng định rằng bà ta đẻ sinh đôi vì có hai chồng. Côhactốc không thích kiểu châm chọc này, nhưng khi ông ta rửa tội cho hai đứa trẻ thì mặt mày ông rạng rỡ vì đã đưa hai linh hồn đến ngọn lửa vĩnh cửu.
    Một thời gian dài kế sau đó ông không phải rửa tội cho trẻ sơ sinh nữa vì tất cả đàn bà đã đẻ hết rồi.
  9. Sota

    Sota Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    3.401
    Đã được thích:
    0
    Trong đám phụ nữ có khổ mặt rộng, môi dày, mắt một mít, ngồi thẳng hàng trên ghế băng bằng gỗ, chăm chú nghe giảng kinh có một người nổi bật khác thường. Đó là một cô gái trẻ, có khuôn mặt đáng yêu, chân đi ủng da hải báo cao đến tận bẹn.
    Côhactốc đã chú ý đến cô gái khi cô ta chơi đùa với lũ trẻ, mang tuyết ăn đến các gia đình, hay khâu vá và cạo da. Đi bên cạnh Viví, một cô gái cao, nhanh nhẹn, cô gái này trông có vẻ thô kệch trong bộ quần áo da gấu so với những bộ quần áo bằng da cáo nhiều màu được chọn kỹ và may rất khéo, lại còn được trang điểm bằng ốc biển và da chồn écmin mà những người phụ nữ ở đây hay dùng. Tuy vậy cô ta trông gọn gàng, đáng yêu vì chưa bị tình mẹ con làm biến đổi thân hình. Trong khi các cô gái khác đều tóc rẽ ngôi giữa đỉnh đầu, trước ngực lủng lẳng chiếc đuôi sam thì cô lại vấn tóc thành một hình tháp trên đầu và được kẹp bằng một chiếc xương cá, theo như tập quán của người Eskimo vùng Bắc Cực. Bộ tóc đen mượt và đôi mắt đen láy nổi bật lên trên màu da ngà ngà và bộ răng trắng tinh.
    Cô ta thường hay cười.
    Có một lần khi những người khác đã ra về, nhà truyền giáo đến ngồi ghế băng bên cạnh cô gái, rồi cầm lấy tay cô. Tay chạm tay, mắt cô gái sáng lên. Chưa bao giờ cô thấy bàn tay như thế, mềm mại và nhẹ như tay đứa trẻ mới sinh. Rõ ràng bàn tay này chưa bao giờ phải cầm một chiếc giáo hay một cái roi.
    - Con của cha, con tên là gì? - Côhactốc âu yếm hỏi.
    - Con tên là Ivalú.
    - Đó là một cái tên đẹp, đó là tên người đàn bà đầu tiên mà Chúa đã nặn ra từ xương sườn của người đàn ông đầu tiên.
    - Vâng, và một người con gái thực sự cảm động khi được biết điều đó.
    - Con của cha, con chú ý nghe tất cả các bài của cha giảng chứ?
    - Vâng.
    - Vậy thì linh hồn tốt đẹp của con sẽ được sống mãi trong một thế giới tốt đẹp hơn thế giới này, khi thân thể đáng thương của con đã chết. Có phải thế không con?
    - Đúng thế, thưa cha, đó là một trong những điều ít ỏi con được biết.
    - Và con sẵn sàng cứu vớt con chứ?
    - Cứu con khỏi ai? Có ai định làm hại con đâu? Tất cả mọi người đều tốt với con.
    - Cứu vớt khỏi chính con. Chính lòng con là nơi ẩn giấu sự nguy hiểm thật sự.
    - Côhactốc, cha muốn nói gì? Sự ngu ngốc của con là không có giới hạn.
    - Chúa thường yêu những tâm hồn chất phác. Ivalú, con còn nhớ câu "những kẻ đau khổ về tinh thần sẽ được ân sủng vì thượng đế là của họ, và may mắn thay cho những kẻ có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ nhìn thấy Chúa".
    - Vậy cha tin con sẽ được nhìn thấy người ư?
    - Đúng vậy, Ivalú, nếu con gửi gắm cho Người cả tâm hồn con. Con có sẵn sàng làm điều đó không?
    - Chẳng lẽ tâm hồn chúng ta không ở trong tay Chúa hay sao?
    - Đúng như vậy đấy, nhưng con sẽ để cho Chúa nhanh chóng đi vào tâm hồn con chứ?
    - Chẳng lx Chúa không đến được tất cả các nơi hay sao?
    - Nói tóm lại - Côhactốc thốt lên vẻ sốt ruột - Con có sẵn sàng hoà hợp với Đấng sáng tạo không?
    Ivalú đỏ mặt, mắt nhìn xuống.
    - Sao thế? Chẳng lẽ chúng ta cãi nhau ư?
    Côhactốc là người rất tinh ý. Ông nhận thấy ngay sự khác biệt giữa Ivalú với những người đàn bà khác. Cô là một trong số ít người chấp nhận đức tin một cách chân thành và không đơn giản. Còn những người đàn bà khác họ tiếp nhận hạt giống mới chỉ vì để khuây khoả cuộc sống thiếu đàn ông. Nhưng dù sao, bằng bất kỳ một hình thức nào, thì hạt giống tốt đã sinh hoa kết quả.
    Tất cả mọi người đều ca ngợi nhà truyền giáo. Đó là một người giàu lòng từ bi. Khi bà già Natếch bị đau dạ dày nặng, nhà truyền giáo chăm sóc bà ta hơn cả bà ta có thể chăm sóc cha đẻ. Và ông làm hết lòng. Ông chỉ ngập ngừng một lúc trước các con chấy ở trên bộ tóc dày và trên quần áo hầu như rách mướp của bệnh nhân. Ông tự hỏi liệu ai có thể thay bà làm công việc quản gia nội trợ.
    Ông đi hỏi Siôrakitsốc.
    Siôrakitsốc khuyên ông hai điều. Trước hết thầy lang nhận xét rằng việc dự phòng nhu cầu cho một người thông thái và già cả như ông là chính đáng thì hành động tương tự như vậy với bất cứ người già nua và ngu ngốc nào khác lại là một sai lầm. Bởi thế lão khuyên ông bỏ bà Natếch ra sương mù để bà ta rơi vào giấc ngủ cuối cùng, và như thế chấm dứt mọi đau đớn và tiết kiệm thực phẩm. Sau đó lão khuyên cha nên giao công việc nội trợ trong nhà thờ cho Ivalú, một cô gái khoẻ mạnh, tự nguyện, có thể làm gấp ba lần bà Natếch. Côhactốc bác bỏ lời khuyên thứ nhất và chấp nhận ngay lời khuyên thứ hai.
    Ivalú cảm thấy rất hạnh phúc. Phục vụ một người da trắng bình thường đã là một điều vinh dự, đằng này lại phục vụ đức cha trong một công việc thiêng liêng. Mặt khác, công việc mới đảm bảo cho cô một thứ quyền nào đó trong cái làng này: giữ chìa khoá phòng chứa đồ dự trữ của nhà thờ là giấc mơ của tất cả mọi người ở đây. Ivalú thì chưa, chứ tất cả mọi người ở đây đều hay ăn vặt.
    Thấy bệnh trạng bà Natếch ngày càng trầm trọng, Côhactốc bèn hỏi Siôrakitsốc:
    - Vì sao ông không muốn làm giảm đau đớn cho bà già đáng thương đó?
    - Tôi chỉ là một thầy lang bất lực.
    - Nhưng một người thông thái như ông phải biết cách đuổi con ma ra khỏi bụng bà ta chứ?
    - Tôi chỉ có thể đuổi con ma ra khỏi tâm hồn con người chứ không thể đuổi nỗi đau ra khỏi thể xác được. Nhưng tôi biết để làm được điều đó đôi khi những biện pháp chữa bệnh của các ông lại rất hiệu nghiệm.
    Siôrakitsốc để cho cha cố nài nỉ hồi lâu mới đáp:
    - Ông có nhớ chuyện xảy ra với Erơnênếch không? Một thầy lang không có thời gian để đi hỏi Thần Mặt trăng và khi biết được bệnh nhân có con ma ám hại thì đã quá muộn rồi. Lần này một thầy lang ngu dố muốn trước hết phải đi hỏi Thần Mặt trăng để biết chính xác cách chữa nào phù hợp với Natếch.
    - Ông làm gì tuỳ ý, nhưng cố giúp bà ta.
    Lúc đó Siôrakitsốc yêu cầu đưa lão ra nơi giữa hai ngọn đồi, để từ đó lão bắt đầu cuộc hành trình bí hiểm đến xứ sở của Thần Mặt trăng mà chỉ các thầy lang mới biết cách tiến hành khi cần thiết. Nhưng Thần Mặt trăng có tính hay tức giận và không thích phán bảo nên không thể ra đi mà không mang theo một số quà tặng bằng thức ăn hiếm để dâng cho Thần.
    Ở một nơi xa giữa hai ngọn đồi, dân làng làm một ngôi nhà nấm bằng băng nhỏ trong có phủ da mềm, rất tiện nghi vì đó là điểm xuất phát cho chuyến đi tới mặt trăng. Sau đó họ đưa lão Siôrakitsốc đến đó cùng vô số đồ đựng thức ăn trong đó có phần lớn da cá kiếm và một số tạp phẩm ngon trộn với cá hồi xay kỹ, óc hải cẩu, ruột cá và dầu hải báo. Không ai được phép lại gần ngôi nhà ấy trong khi Siôrakitsốc đang du hành nếu không sẽ bị chết ngay một cách kinh khủng.
    Ba giấc ngủ qua, cả làng đi tìm thầy lang. Họ gặp lão đang ngủ, có lẽ do quá mệt mỏi sau chuyến đi bất hạnh. Xung quanh lão ta ngổn ngang đồ đựng thức ăn hết nhẵn. Đó là một biểu hiện tốt. Thần Mặt trăng đã nhận đồ lễ.
    Siôrakitsốc nói là cần cạo trọc đầu Natếch, vì Thần Mặt trăng cho lão biết các tác nhân gây bệnh nằm ở trong tóc bà già. Mọi người bèn khênh người đàn bà ra ngoài trời, dội nước vào tóc và chờ khi nước lẫn tóc đóng băng. Một cú đập gọn tách khối băng khỏi đầu và đầu bà ta trọc lông lốc.
    Sau đó họ lại đưa bà Natếch về nhà thờ.
    Mặc dù vậy vẫn chưa thấy có biểu hiện gì tốt hơn. Siôrakitsốc châm giáo vào bụng để cơn đau ra đi dễ dàng, sau đó lão giết một ổ chuột chũi và lấy da con vật đang nóng đắp vào vết thương.
    Natếch là người thứ hai ở làng được chôn ở nghĩa địa Thiên Chúa giáo. Đám tang được cử hành linh đình với một điếu văn công phu.
  10. Sota

    Sota Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    3.401
    Đã được thích:
    0
    *​
    Ivalú hoàn thành rất tốt nhiệm vụ nội trợ đến nỗi nhà truyền giáo phải tự hỏi nếu không có cô ta thì mình làm sao có thể vượt qua được mùa đông. Nhưng ở trong ngôi nhà gỗ được sưởi ấm bằng than đó Ivalú phải chịu đựng cái nóng kinh khủng, nhất là vào những giờ nghỉ vì khi làm việc cô quên cả nóng. Cô ngủ trên một chiếc giường ở căn phòng trước kia bà Natếch ở. Ivalú coi đấy là một căn phòng rất sang trọng. Thực ra, đó chỉ là một cái phòng con tối tăm được ngăn cách với phòng chính bằng một bức tường. Ở phòng chính nhà truyền giáo ngủ cạnh bếp lò. Ông sợ lạnh như sợ quỷ. Không bao giờ ông cho phép mở cửa và trước khi đi làm ông phải đặt chậu tắm lên lửa để băng tan. Ivalú thấy ông rùng mình vì rét.
    Tình thương đối với cô của ông ngày càng rõ nét. Các nhà thám hiểm để lại cho ông một vài chai rượu, ông cất giữ rất cẩn thận và chỉ dùng vào những lúc trở trời. Một hôm thấy Ivalú khóc vì thấy lẻ loi buồn chán, nhà truyền giáo cho cô uống một ít nước đó pha với tuyết. Chính ông cũng uống trước một ngụm để chứng minh không sao cả.
    Cũng như bố cô, Ivalú ngủ được cả khi nửa người bị lạnh cóng, nhưng cô lại không thể ngủ được khi người nóng rực. Do vậy, khi đi ngủ cô muốn cởi hết quần áo, điều cô chỉ dám làm khi đã hỏi trước Côhactốc xem khoả thân có phải là tội lỗi không. Sau một hồi lưỡng lự, nhà truyền giáo trả lời là khi ở một mình trong bóng tối thì không sao.
    Nằm trong căn phòng nhỏ, nóng và tối đó Ivalú lần đầu tiên dùng tay thử tiếp xúc trực tiếp với da thịt mình.
    Bàn tay đều đặn và cứng cáp thận trọng tiến vào lãnh thổ chưa khám phá là thân thể và rất ngạc nhiên trước mặt phẳng nhẵn bóng. Trượt từ những vùng đồi núi nhấp nhô được hình thành bởi đôi vai chắc nịch, bàn tay leo lên đỉnh cao của bộ ngực rắn chắc và dừng lại trên đỉnh đồi. Đó là nơi cao nhất của lãnh thổ, đỉnh cao của khe suối. Và sau đó từ từ trườn xuống đường hẻm của bộ ngực, rồi lướt qua vùng đồng bằng thượng vị tươi mát và chắc đều và sụt xuống, vùng bụng dưới nóng hổi, êm như rêu non. Rồi từ đó tiếp tục tiến về phương nam, đến vùng nhiệt đới và đến khu rừng nguyên thuỷ - lãnh thổ không phải của ai - mọc lên hai bên sườn núi lửa. Ở đây các nhà thám hiểm táo bạo tách nhau, mỗi người phiêu lưu tuỳ thích qua các vùng cơ rắn chắc cơ êm dịu như nhung. Dừng lại ở đầu gối lạnh xa xôi và quàng ra phía sau lượn theo phần cơ phía trong, ở đây da láng bóng và êm dịu rồi nôn nóng trở lại gặp nhau nơi chia tay để dừng lại bên bờ núi lửa, được sức nóng kỳ diệu thu hút mà không biết có nham thạch ẩn giấu bên trong.
    Đôi khi sau cuộc thám hiểm thân thể, Ivalú nghĩ về tương lai, nhưng cô không thể vượt qua bóng tối bao quanh mình. Cô trở lại với quá khứ, được thể hiện trong óc cô rõ ràng, vui tươi, sinh động và được thời gian tô đẹp thêm. Quá khứ được hình dung rất đẹp, làm trái tim cô giờ đây buồn bã, mắt đẫm lệ, nhớ làm sao vết máu của gấu nhỏ đều trên tuyết, những lúc yên lặng gió trên biển băng rộng lớn, và những lúc vội vàng xây nhà nấm bằng băng để trú ẩn giữa tiếng gầm rít của bão tuyết Bắc Cực...! Ôi làm sao có thể thấy lại hơi ấm gia đình trong ngôi nhà nấm bằng băng xinh xắn của thời thơ ấu, được nhìn lại màu hổ phách ánh lên trên bức tường cong, được nghe Asiác cạo da, làm kim và lắng nghe giọng nói trầm lặng của mẹ, tiếng ngáy của Erơnênếch và tiếng cười âm vang của ông...!
    Để đỡ nuối tiếc thiên đường đã mất, cô liền quay lại thiên đường tương lai - Thiên đường mà Chúa đã hứa hẹn. Và trong khi nói chuyện với Chúa, cô có cảm giác như Chúa đang chăm chú lắng nghe mình, nhưng cô không dám tin chắc vào điều đó. Tiếng ngáy đều đều của Côhactốc ở phòng bên nhiều khi làm cô nghĩ mình là kẻ có tội duy nhất.
    Có một lần Ivalú hỏi cha:
    - Liệu Chúa có muốn bày tỏ với một cô gái ngu ngốc không?
    - Tất nhiên, nếu co có đức tin. Con nên biết Chúa rất thương yêu người khốn khó tinh thần, nhưng con phải thành tâm cầu nguyện. Chẳng lẽ con đã quên lời Chúa dạy. Tất cả những gì con thỉnh cầu vời lòng thành thì con sẽ nhận được... sao?
    - Nhưng làm sao nhận thấy sự hiện diện của Chúa?
    - Con đừng lo, con sẽ nhận thấy. Nếu con không tin tưởng thì Chúa sẽ không đến đâu.
    Rõ ràng Chúa chưa gặp cô và Ivalú lo lắng. Ý nghĩ này làm cô không ngủ được và cô tranh thủ thời gian để cầu kinh với cả tấm lòng và cầu xin Chúa bày tỏ dấu hiệu yêu thương. Dù đó chỉ là trong mơ, chỉ cần một lần thôi.
    Ivalú tưởng tượng Chúa qua hình con người vì Chúa đã làm ra con người theo hình Chúa hoặc gần như vậy. Tuy nhiên, cô có đủ ý thức hiểu rằng Chúa không sẵn sàng hiện diện ngay trước mặt một cô gái ngu ngốc đang muốn nhìn Người mà rõ ràng đang lo lắng cho những kẻ mắc những tội lỗi nghiêm trọng hơn cô. Cô kiên trì cầu nguyện, mong Chúa dành ít thời gian đến thăm cô.
    Đôi khi giữa bão tuyết, cô nghe thấy có tiếng nói, nhận thấy một ngón tay trong không khí đang vuốt ve thân thể trần truồng của mình trong bóng đêm. Nhưng những biểu hiện đó còn mơ hồ không đủ rõ ràng, do đó cô cho rằng Chúa chưa hiện diện.
    Và cô có lý.
    Bởi vì, cuối cùng, khi Chúa đến thăm cô, cô không còn hoài nghi tý nào nữa.

Chia sẻ trang này