1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐÍCH THỰC - BARBARA TAYLOR BRADFORD

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Fleur-de-Lys, 05/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Fleur-de-Lys

    Fleur-de-Lys Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/04/2002
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    2
    Emma đi lại như con thoi trước mặt họ, má cô ửng hồng trong ánh lửa từ lò sưởi bừng lên và làm cho tóc cô đầy một ánh sáng vàng rực. Cô hơ con dao trước mặt: "Nói như thế không được. Tôi không phải là tóp mỡ. Có phải con là như thế không, ba?", cô cầu cứu và lại tất tả chạy đi trước khi ông kịp trả lời. "Thì, ông cụ Feli giàu đến nỗi chân đi vòng kiềng vì những đồ đồng, và có biết vì sao không? Bởi vì ông cụ không bẻ một quả lý làm đôi và cho con một nửa. Thế đó". Cô nói một cách sôi nổi, mặc dù không giận dữ, và một vẻ bối rối hiện trên nét mặt ửng hồng của cô. Winston biết sự trêu ghẹo của cậu đã trúng đích, vì Emma căm ghét sự keo kiệt và đây là sự buộc tội tệ hại nhất mà người ta có thể gán cho cô, dù là nói đùa chăng nữa.
    Hất đầu một cách bực tức, cô nói cau có: "Cái mỡ đó dày đến 2 inch. Không thể ăn bánh sandwich như vậy được. Ăn như thế thì ốm mất. Nhất định ốm mất".
    Winston bắt đầu cười, không thể kìm được sự vui thú của mình lâu hơn được nữa. Ông Giăc giật mình liếc nhìn cậu, đôi lông mày đen rậm nhíu lại khi nhìn cậu con trai một cách bí ẩn. Nhưng ông thấy ngay là tiếng cười của cậu không hề có ác ý khi ông cũng thấy Emma ngày càng bối rối. Khi ông nhìn từ cậu con trai này sang cậu khác, sự vui vẻ của các cậu bé lây sang ông. Ông bắt đầu cười khùng khục và vỗ đùi.
    Emma trợn mắt nhìn họ và dần dần một nụ cười rụt rè lan ra trên khuôn mặt cô. Chính cô cũng cười. "Thật là rùm beng cả lên vì chuyện mỡ", cô lẩm bẩm qua tiếng cười, lắc đầu và đặt con dao xuống. Frank ngỡ ngàng nhìn mọi người, lắc đầu không hiểu và khi cậu nhận ra sự vui vẻ của họ là thật, cậu cũng cười, lau nước mắt bằng vạt áo sơ-mi xám. Emma ôm lấy em:" Đừng để tâm nhiều như vậy, Frank em. Chị không có ý gì đâu, em yêu quý ngốc nghếch ạ. Và đừng có lấy vạt áo mà chùi mũi", cô mắng yêu em và vuốt tóc, hôn lên trán cậu một cách âu yếm.
    Không khí thân mật và tình yêu thương gia đình đã được lập lại một cách thần kỳ. Emma thở dài nhẹ nhõm và lại lăng xăng dọn dẹp. Cô sờ vào bình trà. Hãy còn nóng. "Frank này, em mang hộ chị trà lên cho mẹ", cô nói và rót trà vào trong bình, cho thêm vào rất nhiều đường và sữa. "Ba xem hộ lửa cho con, ba nhé. Ba cứ tiếp lửa đợi đến khi dì Lily tới. Winston, anh hãy rửa những chiếc ấm cho em trong khi em chữa lại bánh xe cho anh. Ba nhớ đừng quên trông lửa nhé".
    Cô đưa bình trà cho Frank: "Em hỏi mẹ xem mẹ có ăn bánh và mứt không. Em nhanh lên nhé, còn bao nhiêu việc phải làm trước khi chị đi Hon". Frank cầm bình trà cẩn thận trong cả hai tay và vội vã đi qua phòng. Winston thu lượm những chiếc bình và đĩa bẩn trên bàn, đem chúng vào chậu rửa trong khi ông Giăc quay sang lò sưởi và xếp lại những khúc củi. Emma cười một mình. Hoà bình đã được lập lại. Cô bước về phía chảo và bắt đầu gói những chiếc bánh vào chiếc khăn ăn bông mà mẹ cô đã viền một cách cẩn thận, thấm nước vào khăn để cho bánh khỏi bị khô.
    Ông Giăc nhìn Emma đang đứng bên chảo, hộp trà cầm trong tay ước lượng trà và đường cho họ, gói vào những mảnh giấy nhỏ, buộc hai đầu lại với nhau một cách chắc chắn để không bị rơi vãi một chút nào hết. "Con sẽ bị chết cóng trong cái áo ngủ mỏng manh ấy, Emma ạ, mà cái khăn ấy thì chẳng ấm áp gì đâu. Con mặc ấm vào, ở dưới này bây giờ mọi chuyện đã ngăn nắp đâu vào đấy rồi".
    "Vâng, con sẽ mặc, ba ạ. Con sắp đóng gói xong trà đường cho ba đây". Cô nói và nở một nụ cười rạng rỡ làm sáng ngời cả khuôn mặt nghiêm trang của cô. Đôi mắt cô, vốn sâu và xanh một cách linh động, sáng lên, lóng lánh. Cô chạy qua bếp tới chỗ cha. Ông cúi xuống mỉm cười với cô và hiểu rằng tình yêu thương của cô với ông vẫn còn nguyên vẹn. Emma kiễng chân lên, vòng đôi cánh tay gầy vào cổ ông. Cô kéo mặt ông xuống và hôn lên má ông: "Thứ 7 tới con lại gặp ba, ba nhé". Ông Giắc giữ cô lại một lúc, đôi cánh tay gân guốc của ông vòng quanh cô, che chở, một niềm âu yếm tràn ngập: "Ừ con, và hãy giữ sức khoẻ ở trên Hon đó nhé". Ông lẩm bẩm, giọng nghẹt đi. Cô đã đi trước khi ông kịp lấy lại hơi thở, lướt qua phòng như một tia chớp. Ông còn lại một mình trong bếp.
    Ông thở dài, với lấy chiếc áo trên mắc sau cánh cửa. Ông lần tìm trong túi những sợi dây da nhỏ, buộc quanh gấu quần để ngăn những bụi gạch bốc lên chân. Ông ngồi xuống bàn, thắt chúng lại, vừa làm vừa tự hỏi không biết có nên nói cho Elisabeth biết là ông đã xin thôi việc ở nhà máy gạch không. Ông cau mặt, đôi bàn tay khéo léo thít những chiếc nịt lại. Đây là một quyết định khó khăn đối với ông, bởi vì công việc khan hiếm và nhiều người đang thất nghiệp. Ông không phản đối công việc nặng nhọc, nhưng ông đã nói với Stan, trưởng kíp vào thứ 6 tuần trước: 18 shilling và 10 xu, chẳng có gì là nhiều để đem về nhà vào cuối tuần, Stan ạ. Mà tôi thì là một người đã có vợ và ba con. Tôi không trách móc ai về các con tôi, ngoài chính tôi, anh ạ, nhưng cái ông lão Feli trả cho những đồng lương chết đói. Đúng là như vậy đó, Stan ạ, mà anh cũng biết". Ông nói, hăm hở nhưng lặng lẽ
    Stan lắc đầu, và mặc dù ông ta đã tỏ ra thiện cảm, ông cũng không thể gặp cái nhìn chằm chằm của Giăc. "Đúng đó, anh bạn. Đó là một tội ác chứ còn gì nữa. Nhưng có những kíp trưởng chỉ được 20 shilling một tuần thôi. Tôi cũng không được nhiều hơn. Tôi vẫn xoay xở được. Thôi, tuỳ cậu muốn làm gì thì làm, thôi thì thôi". Ông đã nói với Stan là ông sẽ thôi và ông miễn cưỡng đến nhà máy Feli vào sáng thứ bảy, mũ cầm trong tay, cố nuốt lòng tự hào của mình. Ông đã gặp người đốc công, bạn từ thở thơ ấu, người đã ký hợp đồng để ông bắt đầu làm việc trong một tuần với tiền lương 20 shilling một tuần, tuy không được nhiều lắm nhưng cũng khá hơn. Ông suy nghĩ em có nên nói với vợ chuyện này không, và ông đột ngột quyết định là không. Bà biết ông ghét công việc ở nhà máy và như vậy chỉ làm bà buồn thêm, bệnh nặng thêm.
    Đồng hồ nhà thờ trong làng điểm 5 tiếng, ông đứng bật dậy, sải bước qua phòng nhẹ nhàng như dáng đi của tất cả những người đàn ông cao lớn. Ông lên phòng vợ.
    Emma đã mặc quần áo đàng hoàng, đang đứng cùng Winston và Frank bên cạnh giường. Chúng như một bộ ba bé nhỏ thiểu não trong những bộ quần áo xám, cũ đã vá mạng. Những quần áo của chúng gọn ghẽ và sạch bong, với những khuôn mặt được kỳ rửa kỹ lưỡng, tóc chải thật cẩn thận. Và mỗi đứa trẻ, bề ngoài khác hẳn nhau, đều có một vẻ tao nhã nổi bật lên trên, đến độ những áo quần sờn rách trở nên vô nghĩa. Chúng toát lên một tư thế kỳ lạ khi chúng đứng đó với nét mặt trang nghiêm và lặng lẽ. Những đứa trẻ tách ra, lùi lại lấy lối cho Giăc khi ông bước vào phòng, đầy nghị lực, một nụ cười vui vẻ trên môi.
  2. Fleur-de-Lys

    Fleur-de-Lys Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/04/2002
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    2
    Elisabeth nằm tựa vào đống gối, xanh xao và suy nhược một cách tội nghiệp, nhưng cái nhìn bừng bừng sốt trên mặt bà đã biến mất và bà tỏ ra bình thản hơn. Emma đã rửa mặt cho mẹ, chải tóc và quàng chiếc khăn san xanh quanh vai bà, càng làm tăng thêm màu xanh đôi mắt dễ thương, mớ tóc bà trải ra trên gối như những dải lụa mềm. Không một vệt màu nào làm hoen ố màu trắng của khuôn mặt bà và đối với Giăc, trong ánh nến, nó giống như ngà khắc ông đã từng thấy ở châu Phi, được đẽo gọt sắc nét và thanh tao, gạt được những hình dáng thô lậu. Bà có dáng của một hình tạc thu nhỏ, thanh thoát. Mắt bà bừng lên khi thấy ông, bà duỗi đôi cánh tay gầy yếu ớt về phía ông và khi tới bên giường, ông kéo bà lại, gần như hung dữ áp chặt cái thân thể mỏng manh của bà vào tấm thân khoẻ mạnh cường tráng của ông, như thể không bao giờ để cho bà đi nữa.
    "Trông em khỏe lên nhiều lắm, Elisabeth thân yêu", ông nói bằng một giọng nhẹ nhàng như ve vuốt làn không khí. Hầu như không còn nhận ra giọng nói của ông nữa.
    "Đúng thế, Giăc ạ", bà công nhận một cách dũng cảm. "Tối nay khi anh đi làm về, em sẽ thức đợi anh. Em sẽ nấu cháo thịt cừu thật ngon cho anh, cả bánh hấp, cả bánh mì mới nướng".
    Ông buông bà ra nhẹ nhàng và để lưng bà tựa vào gối. Khi ông nhìn vào bộ mặt hao mòn đi một cách tội nghiệp, ông không nhìn thấy nó như thực trạng lúc này, mà chỉ nhìn thấy người con gái đẹp ông đã từng giữ lại suốt đời mình. Bà nhìn ông với lòng tin và sự thán phục khiến trái tim ông thắt lại vì đau đớn, vì ông chẳng thể làm gì được để cứu bà. Và sự thôi thúc kỳ lạ ấy lại đến với ông, một sự thôi thúc ngày càng mạnh mẽ khiến ông muốn bế bà lên trong đôi tay mình, đưa bà ra khỏi căn buồng nghèo hèn này và cùng bà chạy lên đỉnh đồi hoang, nơi bà vẫn hằng ao ước. Ở đó, trên những vùng đầm lầy, có mỏm đất cao, không khí trong lành khoan khoái và bầu trời là ánh phản chiếu mênh mang của đôi mắt bà. Ông có một cảm giác không thể giải thích được, cái cảm giác huyền bí là trên mỏm ấy, cái căn bệnh này sẽ được cuốn đi khỏi thân thể bà, và bà sẽ được hồi sinh một cách thần diệu.
    Nhưng màu oải hương và màn sương khói nhợt nhạt của những ngày mùa hạ dài dặc lúc này đã bị những cơn gió bấc xua tan. Nếu là mùa hạ, ông sẽ đưa bà lên đó. Đỉnh của Thế Giới, như bà vẫn gọi, và ông sẽ nằm xuống một gò thạch nam giữa những cây dương xỉ và những lá việt quất non mềm mại. Họ sẽ ở bên nhau hài lòng trong vách đá Ramxđân cheo leo, được mặt trời sưởi ấm, chỉ có hai người bên nhau ngoài những con chim sẻ và sơn ca vỗ cánh trong ánh sáng vàng mờ mờ. Không thể làm như vậy được lúc này. Mặt đất cứng lại vì sương giá. Tháng Hai vùng đầm lầy thật man dại và hoang vu dưới một bầu trời lạnh lẽo đầy mưa.
    "Anh Giăc thân yêu, anh có nghe em nói không? Đêm nay em sẽ thức, chúng mình sẽ cùng ăn bữa tối trước ngọn lửa lò như trước đây, trước khi em ốm". Có một sự hoạt bát mới trong giọng nói của Elisabeth, một sự kích động rõ ràng là do sự có mặt của chồng.
    "Em không được rời khỏi giường, em yêu", ông dặn dò với giọng khàn khàn. "Bác sĩ nói em phải nghỉ ngơi hoàn toàn. Lily của chúng ta lát nữa sẽ tới trông nom em và sẽ làm bữa tối cho chúng ta. Em phải hứa với anh là không được làm điều điên rồ. Nào, hứa với anh đi".
    "Ôi, anh đừng cuống quýt lên như thế, Giăc Hactơ. Nhưng mà em hứa, nếu điều ấy làm anh vui. Em sẽ ở yên trên giường".
    Ông cúi xuống để chỉ mình bà nghe thấy: "Anh yêu em, Elisabeth. Anh yêu em", ông thì thào.
    Bà nhìn sâu trong mắt ông và thấy tình yêu phản chiếu rõ trong đó, không hề thay đổi và vĩnh hằng. Và bà nói: "Em cũng yêu anh, anh Giăc, cho đến ngày em chết và cả sau đó nữa".
    Ông hôn bà vội vàng, hầu như không dám nhìn bà một lần nữa và khi ông đứng lên khỏi giường, cử động của ông giần giật, không ăn nhập, hình như ông không còn làm chủ được thân thể to lớn của mình nữa. Ông đi qua phòng ngủ rảo ba bước một. "Nào, Winston, hôn mẹ rồi ta đi làm. Chúng ta muộn rồi đó con", ông gọi to giật giọng.
    Winston và Frank mỗi người hôn mẹ một cái rồi rời khỏi phòng, đi ra cửa lặng lẽ. Winston không nói một lời nào với Emma từ khi cậu trêu cô trong bếp trước đó, và bây giờ cậu mỉm một nụ cười rất tươi và hồ hởi, nói từ trên đỉnh cầu thang: "Emma, hẹn gặp lại vào thứ Bảy. Tạm biệt em".
    Cô vẫy tay và mỉm cười: "Tạm biệt anh Winston", rồi cô nói thêm như một ý nghĩ chợt nảy ra: "Frank, em chuẩn bị đi làm đi. Chị sẽ xuống ngay và ta cùng đi". Frank gật đầu, khuôn mặt xanh xao của cậu nghiêm chỉnh: "Vâng, chị Emma", cậu vừa nói vừa rảo bước xuống những bậc thang theo gót Winston.
    Emma ngồi nép bên giường: "Mẹ có cần gì trước khi con đi không, mẹ?"
    Elisabeth lắc đầu: "Trà ngon lắm, con ạ. Mẹ chỉ cần có thế thôi cho đến khi dì Lily tới, mà mẹ cũng không thấy đói".
    Bà không bao giờ đói hết. Bà khỏi bệnh làm sao được nếu như bà không bao giờ ăn, Emma tự hỏi và nói với một sự vui vẻ cô không hề cảm thấy: "Vâng, nhưng mẹ phải ăn thức ăn dì Lily mang tới. Mẹ phải giữ gìn sức khỏe".
    Elisabeth cười yếu ớt: "Ừ, mẹ sẽ giữ gìn sức khỏe"
    "Con thổi tắt nến đi nhé", Emma hỏi, cô chuẩn bị đi.
    Elisabeth nhìn con âu yếm: "Ừ, khi nào con đi thì thổi tắt đi. Mẹ sẽ nghỉ một chút. Con ngoan lắm, Emma ạ. Mẹ không hiểu nếu không có con thì mẹ biết làm sao. Thôi bây giờ con đi Hon đi. Bà Turner đã cho phép con về thăm mẹ vào giữa tuần, bà ấy thật tử tế và mẹ không muốn cho con đi muộn".
    "Vâng, thưa mẹ", Emma thì thào, cố nuốt nước mắt. Cô hôn mẹ hết sức âu yếm, kéo lại khăn trải giường, vỗ lại những chiếc gối, sắp lại mền khéo léo gọn gàng như thói quen. Khi cô kéo chăn trải giường chung quanh mẹ, cô nói: "Con sẽ cố gắng tìm một cành thạch nam trên đường về vào thứ Bảy mẹ ạ. Có lẽ sẽ còn một ít cành sương giá chưa kịp dập mất dưới vách đá".
  3. Fleur-de-Lys

    Fleur-de-Lys Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/04/2002
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    2
    SÁU
    Giăc và Winston đã tới xưởng gạch, còn lại Frank một mình trong bếp, bây giờ chỉ còn lờ mờ sáng bởi vì Giăc đã tắt ngọn đèn parafin như thói quen trước khi ông đi làm. Ánh sáng duy nhất từ ngọn nến đặt trên bàn, và ngọn lửa thỉnh thoảng loé lên làm căn phòng tràn ngập một thứ ánh sáng óng ánh trong chốc lát. Những hình bóng mờ ảo lướt qua lướt lại trong bếp, không gian ắng lặng trừ tiếng nổ lách tách của củi rít lên hoặc phùn phụt.
    Frank ngồi trong một chiếc ghế dựa cao, bên lò sưởi, chiếc ghế làm người cậu như lùn đi, nó quá to, làm cậu thành nhỏ bé và mong manh hẳn. Cậu nhỏ xương, thanh tú, nhưng dẻo dai và kiên cường một cách kỳ lạ, giống như một con chó săn nhỏ.
    Sáng hôm nay trông cậu hình như trơ trọi trong chiếc sơmi xám và chiếc quần lùng thùng mặc thừa của Winston, đôi chân cậu trong đôi bít tất xám mạng cẩn thận, đung đưa ở mép ghế trông tội nghiệp và quá yếu ớt để nâng đôi ủng lớn và xấu xí, cũng thừa hưởng từ ông anh trai. Nhưng thực tế mặc dù cái vẻ ngoài yếu đuối, Frank không có chút gì là trơ trọi, bởi vì cậu có một thế giới nội tâm đầy những hình ảnh đẹp, những giấc mơ bay bổng và những mong chờ làm cho cuộc sống hàng ngày của cậu hình như hoàn toàn không quan trọng. Và cái thế giới hoàn hảo này đã chở che cho cậu khỏi cái khắc nghiệt của cuộc sống nghèo khổ, nuôi dưỡng cậu một cách tuyệt diệu đến nỗi phần lớn thời gian cậu hoàn toàn quên lãng cái thiếu thốn và khắc khổ nơi cuộc sống của họ.
    Đứng về thực chất, Frank là một cậu bé hạnh phúc, cậu hài lòng hoà vào cái thế giới tưởng tượng của mình, một thế giới rực rỡ, phì nhiêu. Chỉ một thời gian duy nhất cậu thấy thực sự u uất, đó là vào mùa hè năm ngoái khi cậu phải rời bỏ ngôi trường đạo trong làng. Cậu phải nhịn nhục đôi chút để chấp nhận cái thực trạng là cậu phải làm việc trong nhà máy cùng với những đứa trẻ khác, lượm những suốt chỉ đã hết. Cha cậu đã nói với cậu một cách tiếc rẻ, nhưng cũng kiên quyết là họ cần thêm một ít shilling cậu sẽ mang về hàng tuần, vì vậy cậu phải thôi học khi 12 tuổi. Cậu đã là một học sinh sắc sảo, ham học một cách kỳ lạ, vươn tới tri thức một cách nhanh chóng và thông hiểu đến độ làm cô giáo kinh ngạc. Cô giáo nghĩ cậu là nhất, và cô rất buồn khi thấy số phận của cậu là ở nhà máy. Cô biết cậu có những khả năng để có cuộc sống hơn thế nhiều lắm nếu được tạo cơ hội, nhưng cô cũng biết rằng cậu bị hoàn cảnh gia đình trói buộc.
    Mặc dù Frank không còn được đi học nữa, nhưng cậu vẫn tiếp tục miệt mài tự học. Cậu đọc đi đọc lại bộ sưu tập sách ít ỏi, những cuốn sách đã sờn rách của mẹ và tất cả những gì cậu có thể kiếm được. Những từ ngữ thật đáng kinh hoàng và cũng thật thần kỳ đối với Frank, cậu yêu chúng thật là sâu sắc đến độ gần như tôn kính. Cậu sắp xếp đi sắp xếp lại những câu cú trong đầu mình và liên tục viết những đoạn văn ngắn trên những mẩu giấy quý giá mà Emma đã đem về cho cậu từ Hon. Cậu luôn luôn bắt gặp những ý nghĩ trừu tượng, nó làm cậu bối rối và thách thức cậu, bởi vì, Frank Hactơ có một trí tuệ thực sự, chân chính, một trí tuệ sẽ được phát triển một cách rực rỡ trong cuộc đời cậu sau này.
    Giờ đây, cậu đang ngồi nhìn chăm chú ngọn lửa, một ca nước trà trong đôi tay vẻ sung sướng xuất thần trên nét mặt, đôi mắt mơ màng và xa xăm, nhìn thấy vô vàn những viễn cảnh trong ngọn lửa bập bùng.
    Cánh cửa kêu két, làm cậu giật mình ngẩng phắt lên nhìn quanh quất. Emma bước vào phòng lặng lẽ. Frank bắt đầu nhấm nháp nước trà, đôi mắt màu hạt dẻ nhìn lên trên mép ca, dõi theo những cử động của chị. Cô dừng lại bên cửa sổ, vén rèm nhìn ra ngoài nói mà không nhìn cậu: "Bên ngoài trời vẫn còn tối, chúng ta chưa cần phải đi vội. Chúng ta có thể đợi thêm chút nữa cho trời sáng hơn và chúng ta sẽ chạy một đoạn đường tới Hon, như vậy chị sẽ không bị chậm".
    Frank đặt chiếc ca lên lò sưởi và nói: "Ba đổ nước sôi vào đầy ấm và dặn em làm cho chị một bánh sandwich, ở trên chảo đó".
    Emma nhìn chiếc bánh một cách mệt mỏi, nhận thấy vẻ mặt chị, cậu nói một cách chống chế: Em không phết mỡ vào đâu, em đặt mỡ lên rồi gạt đi, đúng như chị đã bảo mà, chị Emma".
    Một nụ cười giấu trên nét mặt Emma, mắt cô nheo lại một cách thích thú trong khi cô rót cho mình một ca nước trà và để chiếc bánh lên đĩa. Cô mang cả hai tới bên lò sưởi và ngồi đối diện Frank. Cô nhai bánh một cách lơ đãng, lòng vẫn còn lo lắng cho mẹ.
    Cậu em trai nhìn cô một cách tư lự và hơi tò mò, bởi vì cậu có nhiều xúc cảm với Emma, người mà cậu kính phục. Cậu luôn tìm sự tán đồng của cô, nhưng trong lúc cố gắng chiều lòng cô, cậu thường làm những điều tức cười một cách ngu ngốc khiến cậu cảm thấy bực tức. Tuy nhiên, điều đó cũng qua nhanh thôi. Có một sự thán phục trong đôi mắt xám khi cậu ngả người về phía trước, nói một cách tâm sự và hết sức nghiêm trang: "Em mừng là chị có thể ngăn được ba và anh đánh nhau. Em rất sợ khi họ la hét, chị Emma ạ".
    Cô nhìn em lơ đãng, lạc đi trong những suy tư trong khi cô để đĩa xuống bệ lò sưởi: "Chị biết, nhưng mọi chuyện qua rồi mà em".
    "Ờ, nó vẫn làm em sợ", cậu nói nhanh. "Chính vì thế mà em mới phết mỡ lên quá nhiều, chị biết không. Em run quá mà", cậu nói hết, cố gắng gỡ tội cho mình.
    Emma cười lớn: "Mù! Thật là nói láo không biết ngượng mồm, Frankie", cô mắng.
    Cậu bé sửng cồ, thân hình gầy gò của cậu căng thẳng, đôi mắt hiền lành đột nhiên trở nên dữ tợn trong khi cậu kêu lên một cách hăng hái: "Mẹ đã bảo chị không được gọi em là Frankie cơ mà, chị Emma".
    Emma thấy cậu nghiêm chỉnh thực sự, cô mỉm cười nói: "Xin lỗi em, em nói đúng. Mẹ rất ghét những cái tên giễu cợt".
    Frank ngồi thẳng người trên ghế, làm vẻ tư thế quan trọng: "Mẹ nói em là con trai đã lớn, còn Frankie là cái tên trẻ con", cậu thốt lên bằng giọng the thé những hết sức nghiêm nghị.
    "Đúng, em đã lớn rồi", Emma trả lời và mỉm cười âu yếm. "Nào, chúng ta chuẩn bị đi".
    Cô mang cái đĩa ra chậu, rửa và lau khô thật nhanh, rồi quay lại bên lò sưởi. Emma cầm đôi ủng từ lòng lò nơi cha cô đã để vào cho ấm, đi ủng vào một cách kiên quyết. trong khi buộc dây, Emma liếc nhìn Frank và nghĩ một cách sốt ruột: "Đấy, nó lại mơ mộng rồi, nhưng mà những giấc mơ của nó sẽ rất tốt đối với nó". Emma thì ít có thời giờ đưa mình vào mơ tưởng, nhưng những lúc có thời giờ, những mơ tưởng ấy nó chắc chắn, thực tế và không hề lãng mạn: áo ấm cho tất cả bọn họ; thật nhiều than đen đẹp trong hầm; một tủ thức ăn đầy ắp thịt hun, những khoanh thịt bò, từng dãy hoa quả và rau đóng thành chai giống như phòng để thức ăn ở Hon. Và những đồng tiền vàng rủng rỉnh trong túi, đủ để mua tất cả những thức cần thiết và đồ xa xỉ cho mẹ cô, ủng mới cho cha cô. Cô thở dài. Frank mơ ước có thật nhiều sách và đi thăm London, ngồi trên những chiếc xe sang trọng, đi xem hát, mơ ước những cuốn hoạ báo thỉnh thoảng cô mang từ Hon về. Và Winston thì mơ ước vào Hải quân, được đi khắp thế giới và những chuyến phiêu lưu ở những miền đất lạ. Frank và Winston mơ ước vui thú và vinh quang, Emma khi có thì giờ để mơ thì mơ ước được sống cho ra sống.
    Cô lại thở dài. Cô mong có thừa được một vài shilling một tuần để giúp đỡ họ, chẳng cần phải là những đồng tiền vàng. Cô đứng lên dứt khoát, mặc áo khoác vào và gọi Frank: "Đừng ngồi đó ngây ra mà nhìn như con vịt con nữa, em. Mặc áo khoác vào. 6h kém 20 rồi đấy, và nếu chị không gấp lên thì chị bị chậm mất".
    Cô đưa cho Frank áo và khăn quàng, cậu quấn khăn quanh cổ. Emma chặc lưỡi, lắc đầu, lập tức tháo khăn của em ra rồi cuốn quanh đầu, buộc chặt dưới cằm cậu. Cô nhặt chiếc mũ phớt đội chặt lên khăn, mặt kệ cậu dãy và phản đối.
    "Ôi, chị Emma, em không thích quàng khăn cái lối này", cậu kêu lên. "Những thằng khác cười em, gọi em là thằng thò lò mũi".
    "Nếu không thì nó không ấm cái tai, và chị đã bảo với em là không cần phải để ý đến những gì người ta nói về mình cơ mà, Frank. Nào, thôi nhanh nhẹn lên".
    Cô quàng khăn của mình vào, đưa cho Frank chiếc hộp, nhìn quanh phòng một lần nữa rồi thổi tắt nến. Nắm chặt lấy tay Frank, cô kéo em ra khỏi nhà.
    Chúng ngập ngay vào trong một buổi bình minh đen, cái lạnh quất vào chúng từng đợt gió đầy sương giá. Hai đứa trẻ vội vã đi xuống con đường lát đá, đi qua những bụi uất kim hương và tử đinh hương héo hon băng giá trong khu vườn nhỏ gầy guộc. Đất lạnh lẽo, cứng và trơ như đá. Âm thanh duy nhất là tiếng rên rỉ của gió và giầy ủng của chúng nện trên đá lạnh. Căn nhà trong ngõ cụt nơi chúng sống ở cao trên làng Feli, phía sau là cái nền cao hơn của vùng đồng hoang mênh mông, quạnh hiu và không mến khách, chỉ có những ánh sáng xanh xao loé lên nơi cửa sổ vài ba ngôi nhà là cho được người ta một ý niệm có người ở. Khi chúng ra tới đầu đường, Frank ngước bộ mặt nhỏ bé giá lạnh sang Emma và nói: "Em đến nhà dì Lily nhé".
    "Ừ, em nói với dì đến thăm mẹ sáng nay. Nói với dì là mẹ có mê sảng một chút, nhưng khi chị em mình đi thì mẹ đã yên rồi. Mà đừng nói chuyện với dì lâu quá đấy, em biết là đốc công của nhà máy đóng cửa lúc 6h đúng. Nếu em bị khoá ở ngoài thì em sẽ phải đợi cho đến 8h và họ sẽ trừ lương của em đi đấy. Chóng ngoan nhé. " Cô hôn em rồi kéo chiếc mũ của cậu xuống cho chặt.
    "Chị có đợi cho đến khi em tới nhà dì Lily không?", Frank hỏi, hết sức cố gắng để khỏi tỏ ra sợ hãi. Emma gật đầu: "Ừ, cưng, em cứ đi đi".
    Frank chạy vào sương mù, thỉnh thoảng lại trượt chân trên đá sỏi rất trơn. Cô nhìn theo hình bóng nhỏ nhoi của em lướt xuống phố cho đến khi cậu chỉ còn là một cái bóng mờ trong làn ánh sáng đục. Nhưng có thể nghe thấy tiếng đôi ủng của cậu nện trên sỏi và khi chúng dừng lại, cô biết là em đã tới nhà dì. Tiếng gõ cửa to cùng với chiếc hộp thiếc làm cô an tâm là em mình đã thực sự đến nơi, cậu làm ồn đến nỗi đánh thức được cả người chết lẫn bà dì Lily, cô nghĩ, rồi lai ước giá như mình đừng nghĩ tới cái chết. Emma run lên khi cô quay đi hướng khác, đi về phía đồng hoang.
    Cô là một hình bóng cô đơn nhưng thanh thoát trong chiếc váy dài màu đen và chiếc áo khoác cũ đã trở nên quá nhỏ, khi cô bước đi một cách lì lợm và can đảm về phía Feli Hon, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn bầu trời nặng như chì và vùng đồng hoang u tối trải dài thành một đường bất tận trước mắt.
  4. Fleur-de-Lys

    Fleur-de-Lys Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/04/2002
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    2
    CHƯƠNG BẢY​
    Những ngọn đồi nhấp nhô trùng điệp chế ngự làng Feli và dải thung lũng Aire phía dưới luôn tối tăm và trầm mặc ngay cả trong lúc thời tiết tốt nhất. Nhưng khi mùa đông tiến hành cuộc bao vây dài dặc và khủng khiếp thì cảnh tượng trùm trong một bức tranh màu xám dưới những đám mây màu tro, vùng đồng hoang mang một vẻ hoang vu man dại, những đồi đá, những ngọn đồi trọc bị bóc đi mọi màu sắc cuộc sống. Mưa và tuyết tuôn xuống không ngừng, gió từ biển Bắc thổi vào hung dữ và tàn khốc. Những ngọn đồi cát, u ám hơn vùng đồng hoang xanh của miền thung lũng đá vôi bên cạnh, tất cả là một miền yên lặng mênh mông ngoài tiếng than vãn của gió, vì ngay đến muôn vàn những con suối núi nhỏ và những dòng suối cuồn cuộn chảy làm bớt cái đơn điệu trong mùa xuân và mùa hè, thì nay đã bị băng giá và lặng thinh. Vùng cao nguyên đầm lầy rộng lớn này trải dài không biết bao nhiêu dặm không có người ở về phía Shipli và thành phố công nghiệp sầm uất Lidơ ở phía bên kia. Nó không có hình nét gì hết chỉ trừ vài vách đá cheo leo cao hun hút, vài cái cây đen thui, những bụi gai co quắp, những căn nhà xo rụi bỏ không điểm vào những khoảng không lạnh lẽo trống vắng. Sương mù liên miên, toả khắp và dày đặc trôi nổi trên vùng phong cảnh gân guốc, làm mờ cả những đỉnh núi cao nhất, phá huỷ chân đồi, trời đất hoà làm thành một màn xám bất tận bao trùm lên hết thảy. Ở đây ít có bằng chứng về con người, và ít có người dám đi lại trong khu vực.
    Nhưng Emma lại tiến về vùng đồng hoang nghiệt ngã một cách khắc kỷ trong một buổi sáng tháng Hai băng giá năm 1901. Cô rùng mình khi rảo bước và thu mình hơn nữa trong chiếc áo khoác - đồ thải bỏ của nhà Hon, sờn rách, vá víu mỏng manh chẳng khác gì một tờ giấy. Khi cô được cho chiếc áo vào mùa hè, nó đã cũ kỹ, thảm thê lắm rồi, nhưng Emma đã nhận nó một cách biết ơn. Cô đã kiên nhẫn mạng những lỗ thủng, nối thêm cho dài ra và đơm khuy mới. Nhưng cô lớn quá nhanh và nó chật căng ở phía lưng. Ống tay áo quá ngắn và cánh tay gầy của cô thò ra một cách tội nghiệp như hình nộm rơm, phơi cái cổ tay trẻ con ra. Gió nhay một cách phản phúc qua làn áo mỏng và không khí ẩm làm cô ướt sũng, ngấm vào trong xương, đôi chân cô tê dại không còn sức sống. Cô kéo khăn quàng chặt hơn quanh đầu, thọc vội hai bàn tay nứt nẻ vào túi. Răng cô va lập cập vào nhau, mắt cô ứa nước vì những cơn gió băng giá, cô ao ước xiết bao là đến được Hon mặc dù cô ghét cái nơi ấy đến mấy.
    Cho tới khi Emma tới được cánh đồng xây tường đá dẫn ra đồng hoang, cô đã hết hơi. Cô dựa vào ván mà nghỉ một lát, hơi thở của cô vẫn còn hổn hển, tim đập thình thình trong ***g ngực. Dưới chân cô, bên kia, trong thung lũng, một ánh sáng mờ mờ yếu ớt nói với cô là xưởng máy Feli đang chuẩn bị cho công việc hàng ngày. Chẳng bao lâu nữa, còi tầm chói tai của nhà máy sẽ vang lên, phá tan sự yên lặng bằng giọng gay gắt, báo hiệu cửa mở. Trong một thời gian ngắn, đàn ông, đàn bà Feli sẽ hối hả đi xuống điểm danh và lại bắt đầu một ngày buồn thảm, chải len sống, quay len, xe len chở đi khắp thế giới.
    Emma nhìn ngơ ngẩn vào làng, nơi có mẹ cô và đó cũng là dấu hiệu cuối cùng của cuộc sống cho đến khi cô tới Hon, rồi quay ngoắt đi. Cô đã nghỉ một lúc lâu và bây giờ phải nhanh chân lên thì 6h mới tới được Hon. Cô nhấc váy, trèo lên bậc, nhảy nhẹ nhàng vào trong cánh đồng. Cô làm việc ở Hon đã được 2 năm rồi, và đã thuộc lòng đường đi đến nó. Ý nghĩ hướng về cha cô trong khi cô vẫn bước đi. Emma yêu cha và hiểu bản chất của ông, nhưng ông đã làm cô bị xáo trộn suốt mấy tháng nay. Cha cô không còn như xưa kể từ khi ông trở về sau cuộc chiến tranh Bâuơ. Emma thấy hình như tất cả tinh thần đã toát hết khỏi con người ông, ông trở nên âm thầm, lặng lẽ, nhưng bất thình lình hay bùng lên những cơn giận không thể nào kiềm chế được khi Winston hoặc bất cứ ai ngoài cô và mẹ cô làm ông bực bội.
    Sự bất thường trong cách cư xử của cha và những tâm tính hoàn toàn trái ngược nhau làm cho Emma lúng túng. Khi ông nhìn cô trống rỗng, ông giống như một đứa trẻ lạc loài. Đôi khi cô muốn nắm lấy ông, lắc thật mạnh để cố gắng giật ông trở lại với cuộc sống. Nhưng cô quá yếu ớt và mỏng manh để làm việc đó, vì thế, cô cố gắng lắc ông ra khỏi cơn ưu phiền với những câu hỏi và quấy rầy ông về chuyện tiền nong, nhắc ông tới cái ốm đau của mẹ cô. Khuôn mặt của ông vẫn luôn bất động và khép kín, nhưng đôi mắt ông đầy đau đớn. Chính cơn đau ốm của Elisabeth và nỗi sầu muộn của ông về vợ đã làm Giăc Hactơ thay đổi và hoá đá linh hồn ông, làm cho ông trở thành vô dụng.
    Nhưng Emma, trong cái ngây thơ non trẻ của mình, không hoàn toàn hiểu được điều này. Say mê với một mục đích duy nhất là làm thay đổi cái tình cảnh khốn khó mà họ sống, và điều này làm cô không thấy cái gì khác nữa. Cô chỉ biết có một điều là cha cô không có một đáp ứng nào cho cô, không có giải pháp nào cho những vấn đề của họ. Để cố gắng xoa dịu cô, ông lại bám vào cái câu nói xưa cũ mà gần đây ông hay dùng: "Mọi việc rồi sẽ tốt đẹp hơn, con ạ". Winston anh cô luôn luôn bị đánh lừa bởi cái tâm trạng tự tin và lạc quan của cha họ, và đôi mắt cậu sẽ lập tức chiếu sáng với nỗi mong chờ những ngày tháng tốt đẹp hơn. Cậu hỏi lại một cách hồi hộp: "Bao giờ, ba? Bao giờ?" Đầu óc thực tế của Emma lại kêu lên: "Làm thế nào, ba? Làm thế nào?" mặc dù cô không bao giờ thốt ra câu ấy. Cô sợ không dám ném ra lời thách thức này khi cha cô đã cố gắng cam đoan với Winston. Cô cũng biết, không cần phải hỏi, do những kinh nghiệm qua, rằng không thể nào có một câu trả lời thực sự và chẳng có một ý nghĩa thực tế nào nảy sinh ra cả. Emma, vốn là người thực tế, đã hiểu cái điều không thể tránh được này từ nhiều tháng trước và cô đã chấp nhận nó một cách khuất phục, bởi vì cô không hiểu làm cách nào để thắng được tính ỳ và sự bất lực của cha, sự chần chừ và thiếu năng động của ông.
    "Không gì xảy ra để có thể thay đổi số phận của chúng ta bởi vì ba chúng ta chẳng làm gì để thay đổi nó cả", Emma nói to một cách quyết liệt khi cô trèo qua bức tường thấp, tới con đường của đồng hoang phía bên kia cánh đồng. Cô vẫn còn chưa hiểu được rằng khi một người đàn ông đã mất hy vọng, thì anh ta không còn lại gì, đôi khi không còn ý chí muốn sống nữa. Và tất cả niềm hy vọng đã bị hất khỏi Giăc Hactơ từ lâu.
    Cô thổi vào đôi bàn tay lạnh giá, rồi lại đút nó vào túi, và bước lên cái dốc thấp dẫn cô tới Feli Hon. Gần đây Emma không nhắc tới vấn đề tiền với cha cô nữa, nhưng nó vẫn không rời cô. Họ phải có thêm tiền để sống, nếu mẹ cô muốn hồi phục sức khoẻ. Emma biết, không có tiền, họ không là gì hết, chỉ là một nạn nhân bất lực và bị áp lực của giai cấp thống trị, một con vật bị đóng ách, bị xiềng xích vào một cuộc đời buồn thảm và một cuộc sống quá khốn khó, không hy vọng, đầy kinh hoàng và thất vọng đến độ không muốn nghĩ tới nó nữa, nói gì tới sống. Không có tiền, mình phải lệ thuộc vào những thói chất chưởng, những tâm tính, tính đồng bóng của những kẻ giàu vô tâm, bất cẩn, những thăng trầm của cuộc đời. Không có tiền, mình sẽ bị cuộc đời công phá.
    Từ khi làm việc ở Feli Hon, Emma có óc quan sát nhạy bén, cô cũng được trời phú cho cái khôn ngoan sắc sảo, cái cảm thụ đáng ngạc nhiên so với tuổi cô. Cô đã nhanh chóng thấy được và nhận ra sự khác nhau ghê gớm, quỷ quái giữa cuộc sống ở Feli Hon và cuộc sống trong làng. Gia đình Feli sống trong xa hoa, lộng lẫy, được nuông chiều và hoàn toàn cách biệt với thực tế đầy cay nghiệt của đời sống những người thợ, những người mà sự lao dịch triền miên, không được một chút xót thương đã cung cấp một thế giới vàng son đầy thoải mái, dễ chịu cho họ.
    Quan sát gia đình Feli và cung cách họ sống, Emma đã bắt đầu hiểu rằng tiền không phải chỉ để mua những thứ cần thiết, mà còn rất nhiều thứ khác nữa. Cô cũng đã đi tới chỗ nhận ra được rằng người có tiền cũng có quyền, một điều đáng ao ước nhất đối với Emma, vì bây giờ cô biết được rằng, uy quyền làm cho mình bất khả xâm phạm. Đồng thời cô cũng nhận thức được một cách cay đắng, sự thật là không có công lý, không có tự do cho người nghèo. Đúng, cô nghĩ một cách quyết liệt, tiền là câu trả lời cho mọi thứ.
    Phải có một cách cho mình kiếm thêm tiền, cô quyết định. Có những người nghèo và những người giàu trên thế giới này. Và nếu như một số người có thể giàu thì rõ ràng những người khác cũng có thể như vậy, cô lý luận. Cha cô luôn nói đó là vấn đề số và may mắn. Emma không thích những câu trả lời có sẵn, bởi vì cô không tin ở sự đúng đắn của nó và vì thế cô từ chối không chấp thuận chúng. Nếu một người có một kế hoạch xuất sắc và làm việc nhiều, nhiều hơn bất cứ người nào khác thì rõ ràng người đó có thể kiếm được tiền. Rất nhiều tiền, cả một cơ nghiệp, có lẽ vậy. Emma đã để mắt vào mục đích này, không hề nao núng, không bao giờ thật sự mất lòng dũng cảm, bởi vì dù cô thiếu kinh nghiệm cuộc đời nhưng bù lại, cô có những điểm còn giá trị hơn: trực giác, trí tưởng tượng và tham vọng. Một cách bản năng, Emma hiểu nhiều điều và một trong những điều đó là sự tàn nhẫn, lạnh lùng rằng tiền không nhất thiết có được bởi sự thừa kế hoặc do tình cờ. Cô thở dài, thấy lạnh buốt thấu xương và đầy thất vọng về mẹ cô. Bà đơn độc không có bạn bè, chiến đấu với cuộc đời không một bàn tay giúp đỡ hoặc lời khuyến khích của bất cứ ai. Nhưng từ nhiều tháng trước, cô đã quyết định, không để chuyện đó đánh bại mình. Cô sẽ tìm một con đường để kiếm tiền, thật nhiều tiền, bởi vì chỉ đến lúc ấy cô mới được an toàn.
  5. Fleur-de-Lys

    Fleur-de-Lys Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/04/2002
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    2
    Bàn chân Emma đi theo con đường hẹp và mặc dù sương mù dày đặc, cô biết mình đang tới đỉnh của con dốc thấp, bởi vì cô đang thở hổn hển và đôi chân đau nhức vì leo. Cô rùng mình dưới cơn gió lộng từ đèo cao thổi xuống làm dựng cả cổ áo khoác. Đôi bàn tay cô lạnh cứng, nhưng chân cô thì ấm. Cha cô đã sửa lại đôi ủng cho cô tuần trước, ông mua hàng thuộc da và lông cho lần lót bên trong. Cô đã đứng cạnh ông, xem ông cắt đế và đóng thật chắc vào cái phần trên đã mòn và đôi ủng trên cốt giày sắt trong nhà bếp. Cô cũng nghĩ tới bát cháo nóng bốc hơi nghi ngút và hơi ấm của nhà bếp khổng lồ ở Hon, những sự thôi thúc này làm cô vội vã.
    Một vài cái cây khẳng khiu lù lù trước mặt cô trong một khung cảnh tàn nhẫn, khắc nghiệt và ma quái trên một nền trời xanh thuỷ tinh. Trái tim cô bắt đầu đập dồn dập một phần vì mệt mỏi nhưng cũng vì sợ, bởi vì bên kia những hàng cây trơ trụi, con đường thẳng xuống Ramxđen Gim là một thung lũng nhỏ giữa hai quả đồi. Gim là một nơi mà Emma ghét nhất trên cuộc hành trình tới Hon, bởi vì đó là một nơi mê ám đầy những hình đá kỳ quái và những gốc cây đáng nguyền rủa. Sương mù, bị kẹt giữa hai đỉnh núi vút lên trên thung lũng, tụ lại, đóng thành một khối đen xám nặng nề, hầu như không thể qua nổi.
    Emma kinh sợ chốn này, nhưng cô vẫn rảo bước, tự mắng mình vì sợ hãi trong khi cô nhào xuống con đường vào Gim. Cô sợ những bóng hình quỷ quái, những bóng ma của đồng hoang dường như trôi nổi như hơi nước mà lại đầy hăm doạ giữa những tảng băng lớn tạo nên bằng những sạn cát. Cô cũng sợ những linh hồn lang thang mà dân làng nói một cách mê tín là lởn vởn ở Gim. Để xua đuổi những hồn ma bóng quỷ và những linh hồn lạc loài, cô bắt đầu hát thầm trong đầu mình. Cô không bao giờ hát to vào giờ này trên đồng hoang vì sợ đánh thức người chết. Cô không biết nhiều bài hát, trừ một vài bài học ở nhà trường, nhưng cô thấy chúng nhạt nhẽo và trẻ con. Vì thế, cô hát bài "Tiến lên, hỡi những người chiến sĩ Cơ đốc giáo" một cách lặng lẽ và tiến bước một cách dũng cảm theo nhịp quân hành trong đầu.
    Khi đã đi nửa đường tới Gim thì những lời bài hát đột nhiên bị quét đi. Emma dừng lại, đứng sững. Cô lặng người, nghe ngóng chăm chú. Ngay dưới tầm gió, cô nghe tiếng ầm ì khe khẽ như của một cái gì rất lớn và mạnh mẽ, được đẩy bằng một sức khổng lồ đang từ phía kia Gim đi xuống con đường. Cô rúm người sau một tảng đá, nín thở, nỗi sợ ngấm vào người như nước đá. Rồi, anh ta đứng trước mặt cô, không phải là một con quỷ còn phôi thai như một tảng đá hay một cái cây, mà là cả một con quỷ có hình thù, một người đàn ông cao như khổng lồ, cúi xuống nhìn chằm chằm vào cô qua cơn lốc sương mù.
    Emma hít hơi, nắm chặt hai nắm tay trong túi. Cô tự hỏi mình một cách điên cuồng, không biết có nên lao ra, chạy trở lại, nhưng cô quá tê liệt vì sợ hãi không thể nhúc nhích nổi. Thế rồi con quỷ nói, và càng làm cô kinh sợ hơn.
    "Số mình thật may mắn gặp được một cô gái trẻ nhanh nhẹn ở cái vùng đồng hoang đáng nguyền rủa vào cái giờ không còn thuộc về Chúa này. Đây là nơi của Quỷ, mình đang nghĩ thế, không phải là một miền đất để mà đi lang thang vào cái buổi sang lạnh giá này..."
    Emma không thốt được một lời nào. Cô ngước nhìn lên người đàn ông đang đứng sừng sững trước mặt, nhưng cô không thể nào phân biệt được hình nét của ông ta trong ánh sáng mờ đục. Cô nép sát vào khe giữa hai tảng đá, lòng thầm ước mình tan vào đó, mắt cô như bật ra khỏi tròng hốt hoảng.
    Người đàn ông lại nói, giọng anh ta ma quái như không phải từ cơ thể phát ra, tới với cô qua sương mù: "À,cô gái nhỏ đang sợ đây. Mà cũng đúng thôi, làm người ta giật mình như vừa rồi. Nhưng mình chỉ là một gã ngu ngốc bị lạc đường trong cái đám sương mù đáng nguyền rủa này trên đường tới Feli Hon. Cô có thể chỉ cho tôi đường tới đó, và tôi có đi đúng đường không?"
    Tim cô bớt đập cuồng loạn, nhưng cô vẫn còn run sợ, bởi vì một người lạ trên những vùng đồng hoang này, mà anh ta quả thật là một người lạ...thì cũng nguy hiểm như một con quỷ. Cha cô đã từng dặn cô không bao giờ được nói chuyện với bất cứ người nào cô không biết, người không phải ở thung lũng và vì thế là "người ngoại quốc" trong địa phương này, và là kẻ đáng ngờ. Cô ép người vào những tảng đá, mong cho anh ta đi đi, môi cô mím chặt vào nhau. Có lẽ, nếu cô không trả lời những câu hỏi của anh ta thì anh ta sẽ biến đi cũng đột ngột như lúc anh ta hiện ra vậy.
    "Đúng là con mèo đã lấy mất lưỡi của cô bé rồi. Đúng vậy", người đàn ông tiếp tục nói, y như là đang nói với người thứ ba. Emma cắn môi và nhìn chung quanh một cách lo ngại. Hình như không còn một ai khác, mặc dù trong ánh sáng xanh xám cũng khó chắc điều đó.
    "Tôi không làm hại gì cô đâu, cô gái nhỏ ạ", giọng nói lại tiếp tục. "Chỉ cho tôi con đường tới Feli Hon thôi mà, rồi tôi sẽ đi đường tôi, chắc chắn là như thế".
    Emma vẫn không nhìn thấy rõ mặt người đàn ông bởi vì nó lạc trong sương mù lúc này đang nhấn chìm cả hai người. Cô nhìn xuống. Cô có thể nhận thấy đôi chân to lớn của anh ta trong giày ủng và cái dáng quần của anh ta. Anh ta không nhúc nhích một ly khỏi chỗ anh ta dừng lại lúc ban đầu, anh đứng nguyên ở đó, cứ như thể anh ta có cảm giác bất cứ một cử động đột ngột nào về phía anh sẽ làm cô lao ra khỏi chỗ ẩn náu, lao vào màn sương mù trong cơn kinh hoàng.
    Anh hắng giọng và lại nói nhẹ nhàng hơn: "Tôi không làm gì hại cô đâu, cô gái nhỏ ạ. Đừng sợ tôi".
    Có một cái gì đó trong giọng nói của anh làm cho Emma buông lỏng cơ bắp căng thẳng của mình. Dần dần sự run rẩy của cô giảm đi. Anh có một giọng nói lạ lùng nhưng dễ thương, khác với tất cả những giọng nói cô đã nghe trước đây. Rồi Emma nhận ra giọng của anh nhẹ nhàng biết mấy, đầy nhân hậu và ấm áp. Nhưng anh vẫn là một người lạ. Trước sự kinh hoàng và đôi chút ngạc nhiên của chính mình, cô lại nghe thấy tiếng mình bất giác hỏi: "Tại sao anh lại muốn tới Hon?"
    "Tôi tới đó để sửa lò sưởi và ống khói. Tuần trước chính ông chủ đã đến gặp tôi. Điền chủ Feli, phải, đúng thế. Ông ấy đã đến thăm tôi ở Lidơ và cũng rất tử tế rộng lượng, đã kiếm việc cho tôi".
    Emma liếc nhìn người đàn ông một cách ngờ vực, ngước bộ mặt ướt của mình cố gắng nhìn anh ta qua màn sương. Anh là một người đàn ông cao lớn nhất cô từng thấy, mặc bộ quần áo thợ, anh có một cái túi vắt qua vai.
    "Anh là thợ đấu à?", cô hỏi một cách thận trọng bởi vì cô vừa chợt nhớ là bà bếp đã bảo cô rằng một người thợ đấu sẽ làm công việc sửa chữa và xây gạch ở Hon.
    Người đàn ông cười phá lên, tiếng cười từ bụng phát ra làm cả khung người đồ sộ của anh rung chuyển. "Đúng, tôi là thế đấy. Shên Ônên là tên tôi, nhưng tất cả mọi người đều gọi tôi là Blackie.
    Emma lại ngước nhìn anh, cố quan sát bộ mặt anh trong không gian mờ mờ và rung rinh hơi nước. "Anh không phải người da đen chứ? ", cô hỏi bằng một giọng run run, rồi lập tức tự trách mình vì sự ngu ngốc. Ônên là một cái tên Ailen, điều đó giải thích cho cái lối nói như hát của anh, lối nói rất xa lạ với Emma nhưng cô đã nghe giọng địa phương Ailen và chắc chắn là nó đây.
    Câu hỏi của cô hình như làm cho cái con người khổng lồ này buồn cười hơn và anh ta lại vừa cười, vừa nói: "Không, tôi không phải người da đen, chỉ là một người Ailen thôi. Thế còn gọi cô là gì?"
    Cô lại do dự, vì cô tin rằng người ta càng biết ít về mình bao nhiêu càng tốt cho mình bấy nhiêu, càng an toàn bấy nhiêu, bởi vì nếu họ không biết thì họ không thể làm hại được gì. Nhưng, trước sự ngạc nhiên của mình, một lần nữa cô thấy mình nói: "Emma. Emma Hactơ là tên của tôi".
    "Rất hân hạnh được gặp cô, Emma Hactơ. Nào, bây giờ chúng ta đã quen nhau, như người ta vẫn nói như thế. Cô có thể vui lòng chỉ cho tôi đúng đường tới Feli Hon được không?"
    "Chính là con đường anh đi, ở phía kia", Emma nói, lúc này hoàn toàn cóng vì đã đứng giữa thung lũng ẩm ướt và băng giá. Rồi lại một lần nữa, trước sự bực bội của bản thân, nhưng cũng trước khi kịp ngăn mình lại, cô giải thích: "Tôi cũng đi Hon. Anh có thể đi với tôi nếu anh muốn".
    "Sao? Cảm ơn Emma, vậy chúng ta cùng đi. Ở đây lạnh và ẩm đến mức quỷ quái. Tệ hơn cả vùng đầm lầy vào mùa đông"
    Emma tuồn ra khỏi chỗ nấp giữa những tảng đá, dẫn đường lên dải đất sẽ đưa họ ra khỏi Ramxđen Gim và tiếp tục tới vùng bằng phẳng của đồng hoang vươn dài tới Feli Hon. Đó là một dải đất hẹp khá chênh vênh, dốc thẳng đứng, và họ phải đi hàng một. Emma vội vã đi trước người Ailen, líu ríu lướt ra khỏi thung lũng. Họ không nói, bởi vì đây là ngọn đồi dốc quanh co khó đi, và nữa, bản thân con đường cũng gồ ghề, rải rác những tảng đá và những rễ cây cắm trong đất đóng băng hết sức phản phúc và nguy hiểm vào mùa đông.
    Khi họ tiến lên qua Gim trên vùng đất phẳng, sương mù đã tan, nó bị những cơn gió gầm rú từ những vách đá cao vút thổi bạt đi. Không khí buổi sáng nhuốm màu trắng đục, và bầu trời trong xanh đầy những ánh sáng rực rỡ dường như toát ra từ một nguồn kín nào dưới chân trời một thứ ánh sáng chói chang. Cô dừng lại, thở hổn hển và quay lại nhìn vách đá Ramxđen ở phía xa, như cô vẫn thường làm. "Hãy nhìn những con ngựa này", cô nói và chỉ vào những vách đá khổng lồ nhô lên trong cái lộng lẫy cô đơn nỏi bật trên nền trời.
    Blackie Ônên nhìn theo ánh mắt của cô và nín thở. Cô gái nói đúng. Những tảng đá quả là giống những con ngựa khổng lồ ***g lên đường chân trời những hình thù gồ ghề đột nhiên sinh động, y như thể chúng là những con thần mã khổng lồ trong thần thoại đang phi qua bầu trời, lóng lánh như vàng trong ánh sáng rực rỡ.
    "Trời, cảnh tượng đẹp quá. Chỗ đó là chỗ nào?" Blackie hỏi.
    "Vách núi Ramxđen, nhưng dân làng đôi khi gọi nó là Ngựa bay. Mẹ tôi gọi nó là Đỉnh của Thế giới", Emma nói
    "Mà tôi trông nó hình như là thật vậy, rõ ràng như thế", Blackie lẩm bẩm, đặt phịch cái túi xuống và hít thở không khí trong lành.
    Emma chưa hề nhìn kỹ Blackie Ônên. Anh đã đi phía sau cô trên con đường dẫn ra khỏi thung lũng và lúc này anh đang đứng phía sau cô ở bên bờ của Gim. Mẹ cô luôn dạy cô cách cư xử, và đã bảo với cô là nhìn chằm chằm vào người ta là điều thô lỗ, nhưng bây giờ tính tò mò của cô đã thắng, và cô tự cho phép mình quay lại từ từ. Cô nhìn lên người đàn ông đã làm cô quá sợ hãi lúc ban đầu và giật mình thấy anh ta còn rất trẻ, có lẽ không quá 18 tuổi. Và anh ta là một người hết sức bất bình thường cô chưa bao giờ nhìn thấy.
    Blackie nhìn trả lại, cười rộng miệng, và trong một giây phút cô gái đã hiểu vì sao cô lại không sợ anh ta nữa. Mặc dù vóc người to lớn, quần áo vải thô, nhưng có một cái gì đó dịu dàng thanh nhã không thể nói ra được về người đàn ông này, cả vẻ ngoài, cũng như về tư thế nói chung của anh ta. Nét mặt anh ta cởi mở thân thiện hoàn toàn không thổ lộ và nụ cười mở rộng của anh ấm áp, đôn hậu và có đôi chút nghịch ngợm trong đôi mắt đen tử tế, hiểu biết. Emma thấy mình mỉm cười lại với anh, một điều chưa hề có đối với tính cách cô luôn nghi ngờ những người lạ.
    "Từ chỗ này không nhìn thấy Hon đâu", Emma giải thích, "nhưng bây giờ thì không còn xa nữa qua đồng hoang ở phía bên kia. Ta đi nào, em sẽ chỉ đường cho anh, Blackie", cô kêu lên phấn khởi, rất thích người bạn mới này.
    Blackie gật đầu, nâng cái túi lớn lên, lẳng nó qua vai một cách dễ dàng y như thể nó là một bọc nhẹ chẳng nghĩa lý gì trong bàn tay to lớn khỏe mạnh của anh. Anh nhịp bước theo Emma lúc này đã bước nhanh nhẹn trên đường phía trước, và bắt đầu huýt sáo, đầu anh ngả về phía sau, những búp tóc bay bay theo gió.
    Thỉnh thoảng Emma lại ngước lên nhìn anh. Trước đây cô không bao giờ gặp một người nào như anh, và anh hấp dẫn cô. Blackie cũng không phải không để ý thấy sự quan sát này, sự thật anh hết sức nhận biết được điều ấy và nó làm anh thích thú. Anh đã thoáng nhìn cô gái, bởi bvì anh nhanh nhẹn và có con mắt quan sát. Anh đoán cô hẳn khoảng 14 tuổi khoảng như vậy, và chắc là một cô gái địa phương chạy việc vặt tới Feli Hon. Cô thật là một cô gái quỷ quái? Rõ ràng anh đã làm cô kinh sợ trong sương mù. Khi họ cùng đi qua đường, anh mỉm cười, thánh phục cái dáng đi mạnh mẽ của cô, cố gắng theo kịp sải chân dài của anh. Anh chậm hẳn bước lại khi anh thấy cô dường như không thở được nữa.
    Shên Patri Ônên thường được mọi người biết đến với cái tên Blackie, cao không quá 6 put 3 inch, nhưng trông vóc dáng anh to lớn, tấm lưng rộng và hai vai mạnh mẽ. Anh nở nang cân đối không có chút thịt thừa, tất cả con người anh là cơ bắp. Anh toát lên sinh lực, một sức mạnh không gì chế ngự nổi. Chân anh dài, bụng thon dưới bộ ngực căng phồng. Cũng dễ hiểu vì sao mọi người gọi anh là Blackie Mái tóc dày xoà ra phía sau, đen bóng như mun, đôi mắt cách xa nhau dưới đôi lông mày cong rậm, đôi mắt to dịu, khôn ngoan, mặc dù nó có thể loé lên giận dữ khi anh nổi cáu, cũng có thể dễ dàng trở nên sầu muộn và bi thảm khi tâm hồn Xentơ của anh bị những tư tưởng đau buồn làm vẩn đục. Nhưng nói chung, lúc nào anh cũng vui vẻ. Da anh đen, nhưng không phải đen sạm mà nâu nâu điểm chút ửng hồng trên hai gò má cao. Mũi anh thẳng và khá nhỏ, cái miệng rộng và môi trên dài của người Ailen đã để lộ nguồn gốc Xentơ của anh. Khi anh cười, một vệt lẹm hiện lên ở cằm, hai má lúm đồng tiền, cả khuôn mặt anh biểu lộ một sức sống mãnh liệt.
  6. Fleur-de-Lys

    Fleur-de-Lys Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/04/2002
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    2
    Thực tế mà nói, Blackie Ônên là một thanh niên rất đẹp trai, nhưng chính cách thức và thái độ của anh là cái hấp dẫn nhất và đứng về nhiều phương diện đã làm Blackie khác với những người đàn ông khác. Ở anh toát lên cái sinh động vui vẻ, nét mặt hoạt bát, linh động và không ít tài trí. Một vẻ duyên dáng thoải mái không hề màu mè là bản chất thứ hai của anh, tinh thần của anh sôi nổi, y như thể anh chấp nhận cuộc sống như nó có, và luôn được nó làm cho tươi vui. Có một sự tự tin thoải mái trong con người anh, và Emma trong khi quan sát anh, thấy anh dường như không thể bị chạm tới bởi sự mệt mỏi, sợ hãi, cái vô vọng ám ảnh những người dân bản địa, làm cho họ còng lưng xuống, già trước tuổi.
    Lần đầu tiên trong cuộc đời trẻ trung của mình, Emma đã gặp một con người không thể khuất phục được và một linh hồn vui tươi, không hiềm thù, một con người yêu đời, sống hết mình, cô có cảm giác mang máng về tất cả những điều đó, nó thôi thúc, làm hoang mang và hấp dẫn cô.
    Trong khi bước vội bên anh chàng khổng lồ đẹp trai, mắt cô thỉnh thoảng lại ngước nhìn anh và cô thấy hết sức tọc mạch muốn biết về anh. Anh là một người bạn đồng hành vui vẻ bằng một cung cách kỳ quặc nhất và không giải thích được, cô cảm thấy an toàn khi đi bên anh, nói ít, mỉm cười rạng rỡ, thỉnh thoảng huýt sáo vui vẻ, đôi mắt sáng bừng của anh nhìn đồng hoang, mong đợi đỉnh chóp Feli Hon. Và một cái gì đó của tính cách trong sáng và thân ái hình như đã chuyển sang cho Emma một cách huyền bí, và nét mặt cô vốn nghiêm nghị căng thẳng quá sớm ở lứa tuổi của cô đã dịu đi vì sự vui vẻ tiềm tàng của anh.
    Cô rất ngạc nhiên khi Blackie mở miệng và cất tiếng hát, giọng nam trung hùng mạnh của anh vang lên trong không gian yên tĩnh với những âm thanh dịu ngọt du dương khiến cô giật mình. Lời bài ca thật đẹp.
    Chú bé hát rong đã lên đường ra mặt trận
    Anh sẽ tìm thấy chú trong số người chết
    Thanh gươm của cha, chú đeo bên mình
    Và chiếc đàn hạc lủng lẳng sau lưng...
    Nghe Blackie hát, Emma thấy lòng nhói đau, nước mắt dâng lên, nỗi xúc động cô chưa hề có trước đây. Có một cái gì buồn đến ám ảnh mà lại ngọt ngào tê tái trong lời bài hát và giai điệu thấm thía, cổ họng cô đau vì nước mắt, đột ngột quá, không hề ngờ tới, cô cố nuốt chúng lại vì sợ tỏ ra trẻ con, mà còn hơi ngu ngốc nữa đối với người đàn ông này khi anh hát xong bài ca: "Chú bé hát rong".
    Blackie nhìn cô, thấy những giọt nước mắt lóng lánh, rưng rưng trên khoé mắt cô, anh hỏi nhẹ nhàng: "Vậy em không muốn tôi hát nữa sao?"
    Emma nuốt khan và hắng giọng mấy lần, cuối cùng mới nói lên được: "Ồ, có chứ. Em muốn anh hát. Có điều nó buồn quá". Cô lấy tay quệt mắt, gạt vội những dòng lệ, cô để ý thấy cái nhìn quan tâm trên nét mặt anh, vội vã nói thêm: "Nhưng anh có một giọng hát hay quá, thật đấy". Cô mỉm cười, hy vọng những giọt nước mắt không làm anh phật ý.
    Blackie ngạc nhiên trước phản ứng nhạy cảm và xúc động của cô gái trước lời hát của anh, anh mỉm cười đáp lại và nói hết sức dịu dàng: "Ừ, đúng là một bài hát buồn, nhưng nó rất đẹp, Emma ạ. Dù sao nó cũng chỉ là một bài hát cổ thôi. Em không nên xúc động. Và vì em đã tốt bụng nói là thích giọng hát của tôi, tôi sẽ hát một bài chắc chắn làm em cười, tôi nghĩ thế".
    Và anh hát. Giọng hát đẹp, giàu nhạc điệu của anh tạo thành những âm thanh hết sức vui nhộn, những từ ngữ sinh động của điệu nhảy Ailen tuôn ra một cách nhẹ nhàng. Anh cố ý chọn một bài hát vô nghĩa lý, đầy những chữ phát âm đến trẹo lưỡi và chẳng mấy chốc Emma đã cười thích thú, nỗi buồn chốc lát của cô đã bị lãng quên trong niềm vui mới.
    Khi anh hát hết, cô kêu lên vui vẻ: "Thật buồn cười quá đi. Anh sẽ phải hát cho bà Turner, bà bếp ở Hon nghe. Bà sẽ rất thích, em chắc chắn thế. Và thể nào nó cũng làm cho bà cười".
    "Nhất định rồi, mà tôi cũng sẽ sung sướng nữa, Emma". Blackie trả lời một cách tốt bụng. Rồi anh hỏi một cách tò mò: "Mà tại sao em đến Hon sớm thế, tôi có thể hỏi được không?"
    "Em làm công ở đó", Emma trả lời một cách long trọng, đáp lại cái nhìn thân mật của anh bằng cặp mắt chăm chú không nao núng.
    "Thật à? Nhưng một cô gái nhỏ như em thì làm gì để kiếm sống?"
    "Em là người hầu bếp"
    Nhìn thấy đôi mắt nửa như lảng tránh của cô, miệng trễ xuống và một nét u ám lướt qua mặt, Blackie chắc rằng cô cũng không thích công việc của cô ở Hon. Cô không nói gì thêm nữa, rút về sau cái vẻ mặt như có mạng che trên khuôn mặt nhỏ bé. Cảm thấy được sự không thoải mái của cô, anh không hỏi thêm nữa và bước đi yên lặng, một chút gì vui tươi mà họ vừa cùng chia sẻ đã bị bôi xoá đi vì tâm trạng thay đổi đột ngột của cô.
    Đối với Blackie, cô là một cô gái buồn cười, cái cô gái nhỏ của vùng đồng hoang này mà anh đã gặp quá đỗi bất ngờ, một sinh vật còm nhom chỉ có da với xương. Anh thấy cái cô Emma Hactơ này cần một bữa ăn ngon, nhiều bữa ăn ngon trong nhiều tháng tới. Đúng như vậy. Cô là một cô gái nghèo khổ đáng lẽ phải ở nhà và nằm trên giường chứ không phải lang thang ở những cánh đồng hoang bị Chúa ruồng bỏ và không có sự sống này vào lúc mới chớm bình minh giữa một mùa đông giá rét.
    Mặg dù đã cũ kỹ, nhưng quần áo của cô gọn ghẽ, vá víu cẩn thận và anh có thể thấy mặt mũi cô sạch bong. Mặc dù chỉ nhìn thấy chút ít của khuôn mặt ấy vì nó được trùm kín trong chiếc khăn len đen dày. Nhưng đôi mắt cô mỗi lần quay sang nhìn anh, đẹp không thể tưởng. Chúng to, xanh và sáng rực, đôi mắt xanh nhất chưa bao giờ anh thấy.
    Emma chen vào dòng suy nghĩ của Blackie khi cô hỏi: "Lúc trước anh nói anh là người Ailen đen, như thế là thế nào? " Blackie quay sang nhìn Emma và thấy cái nhìn căng thẳng đã biến khỏi khuôn mặt cô. Đôi mắt anh ánh lên vẻ tinh nghịch, anh nói: "Ồ, mavuôcnin mới đúng. Không phải là một chú da đen châu Phi như em ngờ đâu, mà chỉ là một người có màu da, tóc đen, mắt đen nghe nói chúng tôi thừa hưởng của người Tây Ban Nha". Cô đã định hỏi anh xem "mavuôcnin" nghĩa là gì, nhưng lời nói cuối cùng vừa rồi làm cô ngạc nhiên quá nên câu hỏi ấy lại buột đi. "Tây Ban Nha? Làm gì có người Tây Ban Nha ở Ailen. Em biết quá đi chứ", Emma nói với một thái độ hung dữ, mắt cô loé lên. "Em cũng đã được đi học, anh biết không", cô báo cho anh biết một cách tự hào, tự hỏi không hiều có phải anh cho cô là một con ngốc không.
    Blackie vui vui vì cái phản ứng của cô, nhưng anh vẫn tỉnh bơ: "Vậy thì đã là một cô gái trẻ có học thức, em phải biết rằng vua Philip của Tây Ban Nha đã cất một đạo quân lớn tràn vào nước Anh trong thời nữ hoàng Elisabeth. Sách còn nói, một số thuyền buồm lớn bị chìm ở ngoài khơi Ailen và những người sống sót, tất cả đều là người TBN, đã định cư ở đảo Emerôn. Người ta nói rằng những người Ailen nước da đen là con cháu của họ, và có thể đó là sự thật, tôi nghĩ thế".
    "Em biết về những người TBN và Đạo quân ấy, nhưng em không biết về những người TBN sống ở Ailen", Emma nói, ngước nhìn anh thật kỹ.
    Một sự hoài nghi biểu lộ trong mắt cô, đến nỗi Blackie vỗ đùi cười phá lên. "Tôi nói với em sự thật đó, Emma, thề trên đầu cách chư vị thánh thần, tôi xin thề là tôi nói sự thật, mavuôcnin".
    Lúc này Emma nói một cách vô thức: "Này, cái chữ mavuôcnin nghĩa là gì thế? Anh chứ luôn mồm gọi em như thế, Blackie. Em chưa bao giờ nghe thấy cái chữ ấy trước đây cả. Nó không thô lỗ chứ?"
    Blackie lắc đầu, những búp tóc của anh nhảy nhót khi anh làm như vậy, nụ cười không tắt loé lên trong mắt anh, và qua khoé miệng rộng của anh. "Đó là một từ Ailen, nghĩa là thân yêu hay thân mến ấy mà, Emma ạ, cũng như chữ "yêu" mà người Yorkshire luôn dùng. Không phải một từ thô lỗ đâu, cô gái nhỏ ạ. Trìu mến có lẽ là cách giải thích tốt nhất, tôi nghĩ thế. Hơn nữa, ai lại có thể thô lỗ với một cô gái có học như em", anh nói bằng một giọng nghiêm chỉnh nhất, một điệu bộ hào hoa nhất.
    "Ồ, à", Emma nói, mộg thoáng hoài nghi của người Yorkshire có thể nhận thấy trong giọng nói của cô.
    Một sự yên lặng ngắn, rồi quay lại nửa chừng, chạm vào cánh tay anh theo bản năng, cô hỏi: "Blackie, vậy anh có sống ở Lidơ không?" Nét mặt cô đột nhiên sinh động hẳng lên, và anh cảm thấy nỗi kinh động mới trong cô.
    "Có, có. Mà đó là một thành phố tuyệt vời. Emma, em đã bao giờ ở đó chưa?"
    Nét mặt cô xịu xuống: "Chưa. Nhưng thế nào rồi em cũng tới đó. Bố em hứa sẽ đưa em đi chơi một ngày, và em b iết thế nào ông cũng đưa em đi nếu ông có thời giờ"
    Thế còn tiền vé, Blackie nghĩ nhanh. Nhưng thấy giọng nói cô thiếu dứt khoát và cảm nhận được nỗi ưu phiền của cô, anh nói một cách hăng hái và có vẻ cả quyết: "Chắc chắn ông sẽ đưa em đi, Emma ạ. Rồi em sẽ thấy đó là một thành phố hấp dẫn nhất. Ấy, hết sức hấp dẫn, và nhộn nhịp. Một thủ phủ thực sự, tôi nghĩ thế. Nó có những đường vòm rất lớn với những cửa hàng kỳ diệu đầy những đồ trang sức lụa là cho phụ nữ và cho các quý ông nữa. Phải, lụa là như một bà hoàng mặc ấy, Emma. Những chiếc áo dài lụa và sa-tanh đẹp không thể tả. Những chiếc mũ đẹp có chùm lông vũ và mạng che mặt, những đôi tất nhiều màu, những đôi ủng da mềm có cái khuy, dù và túi lưới. Tất cả những gì mà trái tim nhỏ bé của em có thể ao ước. Và những cravate lụa cho quý ông. Ấy, mà cả những ghim cài cravate bằng kim cương, những chiếc can bằng ngà bịt bạc và những chiếc mũ chóp cao mượt mà. Những đồ cao cấp mà cả đời mình không mong thấy, tôi nghĩ vậy, Emma ạ"
  7. Fleur-de-Lys

    Fleur-de-Lys Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/04/2002
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    2
    Blackie dừng lại, rồi thấy sự kinh ngạc trong mắt cô, sự rung động làm ngời sáng khuôn mặt cô và khao khát muốn nghe nữa, anh tiếp tục: "Có những tiệm ăn phục vụ những món ngon không thể tưởng tượng nổi như khẩu vị của chúng ta, Emma ạ. Và những sàn nhảy, những thính phòng gọi là Tạp kỹ của thành phố, những rạp hát sang trọng, ở đấy họ diễn những vở kịch tận thành phố London đem tới. Ô, chính mắt tôi đã được thấy Vexta Ti và Mary Loy trên sân khấu, mavuôcnin ạ. Rồi những xe điện mới. Những xe cộ chạy trên đường ray, không cần ngựa kéo, chúng đi từ nhà Bá Lúa đến mọi miền của thành phố. tôi cũng đi một chiếc xe rồi, đúng thế đấy. Tôi ngồi ở tầng trên cùng để ngỏ, xem thành phố như một quý ông thực sự. Thật là có rất nhiều điều kỳ diệu để xem ở Lidơ, thật đấy".
    Mắt Emma sáng lên, tất cả những mệt mỏi và buồn phiền bao trùm lấy cô sáng sớm nay đã tan đi một cách huyền diệu, trí tưởng tượng của cô bốc lửa, những xúc cảm được khuấy lên mãnh liệt bởi câu chuyện của Blackie. Theo như thói thường, cô cố gắng tự kiềm chế, nhưng trong sự nóng lòng muốn biết thêm về cái nơi kỳ diệu ấy, giọng cô cất cao và trở nên the thé: "Thế tại sao anh lại phải sống ở Lidơ, nói cho em nghe thêm về thành phố ấy đi".
    "Tôi sống ở Lidơ bởi vì không có công việc ở quê hương Ailen của tôi", giọng anh thấp xuống, bây giờ tẻ và buồn nhưng không có sự cự nự hoặc hiềm thù, chỉ có một sự cam chịu mơ hồ. "Ông cậu Pat của tôi sống ở Lidơ từ nhiều năm, ông bảo tôi đến làm thợ đấu cùng với ông. Ở Lidơ có nhiều việc lắm, nó là một thủ phủ đáng phát triển như tôi đã nói với em, Emma ạ. Khi tôi thấy tất cả những xí nghiệp mới mọc lên cùng các nhà máy và các xưởng đúc cũng như những chiếc xe đẹp đẽ, những ngôi nhà thanh lịch của tầng lớp quý tộc nhỏ, tôi tự nhủ thầm: "Blackie Ônên, một người thợ đi làm thuê không sợ lao động nặng nhọc, khoẻ mạnh, dẻo dai, có thể đương đầu với bất cứ một người đàn ông nào. Đấy chính là một nơi để sống, bởi vì đường phố chắc chắn là lát bằng vàng. Người ta có thể làm nên sản nghiệp ở Lidơ, tôi tin là thế, vì vậy mà tôi đến đó. Đó là 5 năm trước đây. Bây giờ cậu Pat và tôi đã có cơ sở riêng. Chúng tôi làm công việc sửa chữa và xây dựng cho các chủ xưởng và các tiểu quý tộc. Chúng tôi làm ăn được, cô gái nhỏ ạ, bây giờ cũng chỉ nhỏ nhoi thôi, nhưng tôi biết là nó sẽ lớn lên. Em có biết không, rồi thế nào tôi cũng trở nên giàu có. Tôi sẽ có rất nhiều tiền và trở thành triệu phú".
    Anh hất đầu ra sau một cách kiêu căng và cười, nét mặt anh đầy lạc quan tươi trẻ. Anh quàng tay qua vai cô, nói một cách tâm sự và đầy tự tin: "Tôi sẽ mua một cái ghim cài cravate bằng kim cương và trở thành một quý ông lịch sự, một người thượng lưu thực sự, nhất định thế mavuôcnin ạ, xin thề có các chư vị thánh thần".
    Emma đã chăm chú nghe. Lời nói của Blackie gây xúc động làm cô ngây ngất, khơi dậy tất cả những mong chờ trong lòng cô (cứ như nghe tỏ tình ấy nhỉ )Nhưng cái từ "sản nghiệp" đã gây một ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với cô. Những ý nghĩ về quần áo đẹp và nhà hát bị xua đi. Những thứ vô bổ đó thật vô nghĩa khi đem so sánh với những phát hiện của Blackie về những cơ hội để lập một sản nghiệp ở Lidơ. Đây là một con người nữa biết rằng tiền có thể kiếm được cũng như có thể được thừa hưởng. Trái tim Emma đập thình thịch quá lớn đến nỗi cô nghĩ ***g ngực mình có thể nổ tung, và giờ đây co phải dùng tất cả sức lực của mình để giữ tư thế. Cô cảm thấy không thể thốt nên thành lời, cuối cùng cô hỏi: "Một người con gái như em có thể lập nên sản nghiệp ở Lidơ không?"
    Đây là điều Blackie không hề chờ đợi. Anh ngây người cúi nhìn Emma và thấy cô bé chỉ đứng cao tới ngực anh, mỏng mảnh, xanh xao, thiếu ăn, trái tim anh thắt lại vì thương xót và bao dung. Cô gái nhỏ tội nghiệp, anh nghĩ, lý ra mình phải ngậm miệng. Mình thật là điên rồ, làm đầy đầu cô bé với những giấc mơ cho một cuộc sống tốt đẹp hơn, một thế giới mà cô sẽ không bao giờ thấy được. Anh sắp sửa trả lời cô một cách phủ định thì thấy, với sự sáng tỏ ghê gớm, ánh mắt của cô - tham vọng, trâng tráo, không gì lay chuyển được. Anh nhìn khuôn mặt ấy, đột nhiên rất nghiêm nghị, đôi mắt loé lên ánh sáng xanh cứng rắn. Đó là một khuôn mặt kiên cường nhất mà anh chưa bao giờ thấy, và anh bị choáng váng, cảm thấy ớn lạnh phía sau gáy và cái trực giác Xentơ của anh nói với anh là lời cô nói hết sức nghiêm chỉnh. Anh không thể khuyến khích cái ý nghĩ phi lý về lập nghiệp ở Lidơ của cô, nhưng anh phải cố gắng hoà giải. Và như vậy Blackie Ônên đã nuốt lại chữ "không" sắp sửa thốt ra, hít một hơi dài, mỉm cười và nói với tất cả sự hào hiệp mà anh có thể tạo ra: "Thật tình là em có thể làm được, Emma, nhưng không phải là bây giờ. Em mới chỉ là một cô gái nhỏ, em không thể nào tới Lidơ. Phải đợi lớn lên đã, tôi nghĩ vậy. Đó là một thành phố đẹp, rõ ràng như vậy, nhưng cũng khủng khiếp và nguy hiểm đối với một cô gái bé nhỏ như em".
    Emma làm như không nghe thấy điều đó. Ít nhất thì cô cũng phớt lờ nó đi. "Em sẽ làm việc ở đâu để gây dựng cái sản nghiệp ấy", cô hỏi dồn "Em sẽ làm gì?"
    Blackie nhận ra rằng không dễ gì có thể xoa dịu được cô. Anh giả vờ cân nhắc vấn đề một cách nghiêm túc, chẳng lẽ anh không nhìn thấy vẻ quyết liệt trên nét mặt cô hay sao? Mọi thứ đều có thể được, trên những cánh đồng ma quái này, vào giờ này giữa mùa đông.
    "Ồ, để tôi nghĩ kỹ xem sao", anh nói một cách thận trọng. "Có lẽ em có thể làm việc tại một trong những xí nghiệp may quần áo đẹp, hoặc một trong những cửa hàng thanh lịch bán đồ trang sức cho phụ nữ. Có nhiều thứ em có thể làm được, nhưng như tôi đã nói trước đây, tôi phải suy nghĩ cẩn thận. Điều này rất quan trọng. Phải tìm cho em công việc thích hợp, đó là bí mật của thành công đó em biết không, Emma, ít nhất tôi cũng nghe người ta nói như vậy.
    Cô gật đầu, nhận ra điều anh nói là đúng và đang nghĩ xem có nên tâm sự tiếp với Blackie không, nhưng tính dè dặt làm nảy sinh sự thận trọng đã làm cô im bặt. Cô quyết định nói vậy bây giờ là đủ rồi, nhưng có một câu hỏi nữa có tầm quan trong quyết định với cô: "Nếu như một ngày nào đó em tới Lidơ, khi em đã lớn như anh nói, anh có chỉ cho em mọi thứ không Blackie? " Cô ngước mắt nhìn anh, và anh lại thấy khuôn mặt của một đứa trẻ, anh thở dài nhẹ nhõm mặc dù cũng không rõ vì sao.
    "Nhất định như thế rồi, Emma. Đó là điều hân hạnh cho anh. Anh sống ở nhà trọ của bà Rili ở đường Ham and Shank, nhưng em luôn có thể tìm anh ở Macki Đac, quán rượu, và hỏi Rody. Cô ấy bán bar và cô ấy sẽ biết anh ở đâu, nếu anh không ở quán rượu đó. Em có thể viết lại mấy chữ cho anh qua Rody, và cô ấy sẽ đưa cho anh hoặc cho cậu của anh ngay ngày hôm ấy".
    "Cảm ơn anh lắm, Blackie", Emma nói và thầm nhắc lại một cách hết sức thận trọng những cái tên mà anh vừa tuôn ra để có thể nhớ được. Bởi vì cô quả có ý định đi Lidơ và lập một sản nghiệp.
    Cô yên lặng. Họ cùng sóng bước không nói thêm một lời, cả hai đều chìm trong những ý nghĩ của mình, nhưng đó là một sự yên lặng đồng điệu không một chút gì lúng túng ngượng ngập. Mặc dù là người lạ, họ đã thấy ưa nhau và một sự thông cảm nảy sinh giữa hai người, tuy sự quen biết có ngắn ngủi. Blackie nhìn quanh, anh nghĩ, được sống thật là một niềm hạnh phúc, có một công ăn việc làm, vài đồng shilinh ấm túi và điều quan trọng hơn nữa là tương lai sắp tới. Ngay cả những cánh đồng hoang cũng có một vẻ đẹp diệu kỳ, giờ đây khi anh được nhìn chúng một cách cẩn thận, sương mù đã tan từ lâu, không khí không còn ẩm ướt nữa. Đó là một ngày hanh khô, gió nhẹ thỏi vào những thân cây trụi lá, vốn khô cứng và không còn sức sống vào mùa này, một sức sống mới, khi chúng đong đưa trong gió. Bầu trời không còn là một màu chì buồn thảm nữa. Một màu xanh như kim loại loé lên.
    Họ đã đi gần tới cuối cao nguyên bằng phẳng của đồng hoang, và Blackie bắt đầu tự hỏi bao giờ họ sẽ tới Feli Hon thì vừa lúc Emma tuyên bố: "Hon ở phía kia, anh Blackie ạ", y như thể cô đọc đưọc những ý nghĩ của anh. Cô chỉ tay về phía trước.
    Đôi mắt anh hướng theo cánh tay cô. Anh không thể nhìn thấy gì hết ngoài cánh đồng hoang trống rỗng. "Ở đâu? Có lẽ anh mù hay sao ấy Emma ạ. Anh chẳng nhìn thấy những chóp nhọn và ống khói gì cả, không như ông ấy miêu tả cho anh nghe tuần trước".
    "Anh sẽ nhìn thấy khi anh lên tới đỉnh dãy đồi kia", cô khẳng định, "rồi là dốc tuột xuống. Chỉ một lát nữa chúng ta sẽ đến cánh đồng Baptiste, nó ở ngay bên cạnh Hon".

Chia sẻ trang này