1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Người gìn giữ di sản triết học Trần Đức Thảo

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi nguyenthanhchuong, 13/03/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nguyenthanhchuong

    nguyenthanhchuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    176
    Đã được thích:
    0
    Người gìn giữ di sản triết học Trần Đức Thảo

    Người gìn giữ di sản triết học Trần Đức Thảo

    (Phỏng vấn TS Cù Huy Chử)

    Nguyễn Trung Kiên thực hiện


    ?o? khi tự đối diện với chính mình, ý-thức đòi hỏi cái Thiện trong hành-động, cái Chân trong tri-thức, và cái Mĩ trong sự hoàn thành các quá-trình nghiệm-sinh, qua đó ý-thức biến thế-giới tự-nhiên thành một nhân-giới, xứng đáng với con người.?

    Trần Đức Thảo (1917-1993), Một hành trình (Un itinéraire), Paris: 1992



    Sinh ra ở vùng đất Kinh Bắc, tốt nghiệp tú tài trường Bưởi, thành danh tại Paris, sống và làm việc chủ yếu tại Hà Nội, nhưng hiện nay gần như toàn bộ bản thảo và di cảo của cố Giáo sư Trần Đức Thảo lại được lưu giữ trong một biệt thự yên tĩnh nằm trên đường Bác Ái, làng Đại học, Quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh, mà chủ nhân của nó là Tiến sĩ Triết học - Mĩ học Cù Huy Chử, em trai của cố thi sĩ Cù Huy Cận - một nhà nghiên cứu nặng lòng với sự nghiệp phục hưng di sản triết học Trần Đức Thảo.

    TS. Cù Huy Chử đã tâm sự với chúng tôi về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của cố Giáo sư Trần Đức Thảo và những dự định của ông trong việc phục hưng di sản triết học quý báu này, trong một chiều Sài Gòn đầy nắng cuối năm Bính Tuất.


    Thưa ông, xin ông giới thiệu đôi nét về bản thân và công việc hiện tại của ông?

    Tôi vốn là một giáo viên văn học và về sau nghiên cứu, giảng dạy triết học, mĩ học, lý luận văn hóa và văn hóa học. Tôi đã tham gia giảng dạy ở nhiều loại trường học và thuyên chuyển nhiều cơ quan. Những năm 1960, tôi công tác tại Văn phòng Phủ Thủ tướng, làm Thư ký khoa học của Tiểu ban lý luận Văn hóa-Giáo dục Trung ương do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trực tiếp phụ trách, đồng chí Trần Việt Phương là người lãnh đạo tôi lúc đó. Tiểu ban lý luận Văn hóa-Giáo dục Trung ương có những nhà lý luận văn hóa-giáo dục vốn rất khâm phục và trân trọng Giáo sư Trần Đức Thảo, như: GS Nguyễn Khánh Toàn, GS Đặng Thai Mai, GS Hà Huy Giáp, GS Vũ Khiêu, nhà văn Nguyễn Đình Thi, các đồng chí Hà Xuân Trường, Trần Quang Huy? Những năm 1970 và đầu 1980 tôi công tác tại Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng. Cuối cùng tôi công tác tại Phân viện TP. Hồ Chí Minh của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (nay là Học viện Chính trị khu vực II), là Trưởng khoa Văn hóa XHCN, nay là Khoa Lý luận Văn hóa-Phát triển. Năm 2005 tôi nghỉ hưu nhưng vẫn tham gia giảng dạy tại một số trường đại học, nghiên cứu khoa học và viết báo, viết sách.

    Giá trị nổi bật của tác phẩm triết học Trần Đức Thảo, theo nhận định của riêng ông, là những gì?

    Theo tôi, Trần Đức Thảo là nhà triết học Việt Nam duy nhất được công nhận có tầm vóc quốc tế, đã để lại một khối lượng tác phẩm lớn hết sức có giá trị. Trần Đức Thảo đã từ Hiện tượng học Husserl đến Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ông đã có những đóng góp đặc sắc về những vấn đề như bản chất của vật chất, vấn đề chuyển hóa năng lượng thần kinh thành năng lượng tâm thần, nói rộng hơn là vấn đề nguồn gốc của ý thức và các hoạt động tâm trí. Trần Đức Thảo đã lý giải sâu sắc về mặt khoa học sự chuyển hóa giữa vật chất và ý thức. Ông là người đã sáng tạo ra lý thuyết về khâu trung gian trong mọi sự chuyển hóa. Từ đó, Trần Đức Thảo đã có những cống hiến to lớn trong triết học về con người, về nguồn gốc con người, về lịch sử loài người, về tiến hóa và tiến bộ văn hóa. Trong hoạt động sáng tạo của mình, Trần Đức Thảo đã đề xuất nhiều khái niệm, nhiều phán đoán triết học có giá trị đặc biệt, nhất là trong lĩnh vực ý thức và ngôn ngữ, ví dụ như hành vi chỉ trỏ ở trẻ em, hay khái niệm gen ký ức xã hội của loài người.

    Cũng cần nói thêm rằng, do đi sâu vào thời kỳ nguyên sơ nhất của lịch sử nhân loại, Trần Đức Thảo đã khẳng định nền tảng của xu hướng, định hướng phát triển của xã hội, của mỗi cá nhân, đó là những giá trị chân lý, đạo lý, thẩm mĩ, tức là những giá trị nhân văn. Theo ông, đó cũng là những vấn đề mà các nhà khoa học lớn và chân chính đã sáng tạo, khám phá và phát triển. Đó cũng là nội dung tư tưởng sâu rộng của Các Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh.

    Trần Đức Thảo khẳng định: một xã hội, cũng như mỗi cá nhân, để phát triển trong hiện tại và tương lai, tất yếu phải thấm nhuần, đúng hơn là phải sống được những giá trị đã được tích lũy trong lịch sử giống loài. Điều này có nghĩa là: con người có lịch sử chung-cụ thể, luôn luôn phát triển trong biện chứng của lịch sử, và cũng luôn luôn hiện hữu và đồng hành với mỗi cộng đồng và mỗi cá nhân. Do vậy, muốn phát triển dân tộc và phát triển nhân cách cá nhân thì phải tuân theo quy luật ấy. Tức là, nếu anh khiếm khuyết những giá trị của lịch sử giống loài, thì sự phát triển của anh sẽ bị méo mó hoặc bản thân anh sẽ dị ứng với những giá trị ấy. Chính sự méo mó và dị ứng này sẽ biến thái thành chủ nghĩa cực đoan, đặc biệt là trong các hoạt động chính trị và tôn giáo. Bản thân Trần Đức Thảo suốt cuộc đời mình đã đấu tranh quyết liệt và không mệt mỏi với chủ nghĩa cực đoan ấy. Đối chiếu với lịch sử dân tộc ta và với lịch sử thế giới, đặc biệt là những diễn biến trong suốt thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI này, có thể kết luận rằng: triết học Trần Đức Thảo là triết học về sự sống, về con người, về lịch sử loài người đầy tính dự báo. Đó là cơ sở triết học cho mọi sự đổi mới, sáng tạo, hoàn thiện. Tôi rất tâm đắc với sự đánh giá của Daniel J. Herman: ?oHy vọng chân thật rằng Trần Đức Thảo, nhà Mác-xít và nhà hiện tượng học đặc sắc, cuối cùng sẽ tìm được chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử tổng quát của ý nghĩa.? (Bách khoa thư về Hiện tượng học, Kluwer Academic Publishers, 1997, tr. 707)

    Xin ông cho biết đôi nét về mối giao tình của ông đối với Giáo sư Trần Đức Thảo, và những năm tháng cuối đời của Giáo sư tại TP. Hồ Chí Minh?

    Tôi biết GS Trần Đức Thảo và có mối quan hệ với Giáo sư từ những năm 1960, đặc biệt mật thiết hơn từ năm 1967 trở về sau; và cho đến lúc Giáo sư sang Pháp thì tôi chỉ còn liên hệ bằng thư từ. Ở Hà Nội, tôi giúp Giáo sư những việc như: đánh máy bản thảo, lưu giữ bản thảo, chuyển gửi bài viết của Giáo sư cho những người có mối liên hệ với Giáo sư, chủ yếu là triết học. Tôi cũng tìm một số tư liệu, soạn thư mục theo sự chỉ dẫn của Giáo sư. Tôi rất hứng thú làm công việc ấy, vì đây là dịp may hiếm có được tiếp xúc với một thiên tài.

    GS Trần Đức Thảo vào TP. Hồ Chí Minh cuối những năm 1980, lúc đầu ở Khách sạn Bến Nghé, về sau được UBND TP. Hồ Chí Minh cấp nhà tại số 200 phố Đề Thám, Quận 1. Đồng chí Trần Trọng Tân, trước là Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương, về sau là Phó Bí thư thường trực Thành ủy TP. Hồ Chí Minh, đã rất quan tâm đến đời sống và hoạt động sáng tạo của GS. Trần Đức Thảo, và tạo điều kiện để Giáo sư tham gia các hội thảo khoa học của TP. Hồ Chí Minh. Chính trong thời gian này, GS Trần Đức Thảo đã cho ra đời tác phẩm: Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người, do Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh xuất bản. Từ đó cho đến hiện nay, đồng chí Trần Trọng Tân luôn luôn khuyến khích, động viên tôi công bố di sản Trần Đức Thảo, mà đồng chí biết là tôi đang giữ gìn khá đầy đủ và hệ thống. Thời gian này, Giáo sư Phạm Minh Hạc, Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào tạo - một người cũng rất trân trọng GS Trần Đức Thảo, đã trực tiếp giải quyết một số khó khăn cho Giáo sư, trao đổi thư từ khoa học với Giáo sư, và công bố một số tác phẩm của Trần Đức Thảo trong Kỷ yếu khoa học cấp Nhà nước. Đồng chí Hà Xuân Trường là Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản đã cho công bố nhiều bài nghiên cứu khoa học của Giáo sư. Đồng chí Đào Duy Tùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương cũng đã nhiều lần làm việc với GS Trần Đức Thảo và chia sẻ với những khó khăn của Giáo sư.

    Khi Giáo sư vào TP. Hồ Chí Minh, tôi đã thường xuyên đi lại để chăm sóc Giáo sư, vì đời sống của Giáo sư lúc này rất khó khăn, vì tuổi cao, vì bệnh gan và bệnh tiểu đường. Tôi vẫn làm việc cho Giáo sư như một người thư ký. Nhưng công việc ấy có phần vất vả hơn so với khi Giáo sư còn ở Hà Nội, do Giáo sư viết nhiều hơn, sửa chữa và bổ sung những tác phẩm đã viết, đã xuất bản nhiều hơn. Tôi thấy Giáo sư viết gấp gáp hơn lúc ở Hà Nội. Trước lúc Giáo sư đi Pháp, tôi đã cho con trai tôi là Luật sư Cù Huy Song Hà đến cùng ở với Giáo sư để giúp đỡ ông khi tuổi già sức yếu. Vợ tôi đã rất cảm thông với tôi và chia sẻ với Giáo sư.

    Đời sống của GS Trần Đức Thảo có nhiều khó khăn về vật chất và tinh thần ngay từ khi ở Hà Nội, về cuối đời càng khó khăn. Có thể nói đó là một tấn bi kịch. Rất đáng khâm phục là trong hoạt động khoa học thì tâm trí của Trần Đức Thảo vẫn hết sức trong sáng. Có lẽ sự thủy chung với mục tiêu hoạt động sáng tạo triết học nhằm nhận biết từ các hiện tượng của sự sống mà loài người đã trải nghiệm, cho đến đến hiện tượng tinh thần phong phú của con người, những dự phóng của loài người, của dân tộc hướng tới tương lai, đã đem đến cho Trần Đức Thảo một tâm hồn sảng khoái.

    Tác phẩm triết học của GS Trần Đức Thảo được biết đến và ngưỡng mộ chủ yếu ở nước ngoài. Đây vừa là một vinh dự cho dân tộc chúng ta, vừa là một thiệt thòi với đông đảo độc giả trong nước. Ông nghĩ gì về điều này?

    Trần Đức Thảo sáng tạo triết học chủ yếu bằng hai ngôn ngữ chính là tiếng Pháp và tiếng Việt, ngoài ra cũng có cả tiếng Đức nữa, nhưng bằng tiếng Pháp là chủ yếu. Tuy vậy cần nói rõ là với những trí thức lớn của Việt Nam thì Trần Đức Thảo cũng được đánh giá rất cao và rất được hâm mộ chứ không phải chỉ có nước ngoài ngưỡng mộ ông. Những sáng tạo của GS Trần Đức Thảo bằng tiếng Pháp chưa được chuyển ngữ thành tiếng Việt, đó là một thiệt thòi và là điều đáng tiếc với độc giả trong nước, nhất là giới trí thức trẻ và sinh viên. Nhưng điều này sẽ được khắc phục trong thời gian tới. Đã đến lúc hội đủ những điều kiện để phục hưng di sản triết học Trần Đức Thảo, nhất là khi Việt Nam đã hội nhập quốc tế một cách toàn diện.

    Để công bố và giới thiệu tác phẩm triết học Trần Đức Thảo với độc giả trong nước, chúng ta hiện gặp phải những thuận lợi gì và khó khăn gì?

    Tôi cho rằng thuận lợi là chủ yếu vì bản thảo gốc của Trần Đức Thảo hiện còn giữ lại khá đầy đủ và hệ thống trong thư viện của tôi do GS Trần Đức Thảo trao lại trong quá trình tôi có mối quan hệ với Giáo sư từ những năm 1960 cho đến lúc cuối đời. Hơn nữa, những văn bản Giáo sư gửi tới một số địa chỉ, Giáo sư cũng giao cho tôi làm việc đó. Tôi biết chắc chắn rằng GS Trần Đức Thảo chỉ có một người thừa kế hợp pháp duy nhất là Bác sĩ Trần Đức Tùng, hiện ở tại TP. Hồ Chí Minh. Hai cụ thân sinh của GS Trần Đức Thảo có hai người con trai. Người con trai cả là liệt sĩ Trần Đức Tảo chỉ có một người con trai duy nhất là bác sĩ Trần Đức Tùng. Người con trai thứ hai là GS Trần Đức Thảo, trước đây đã đăng ký kết hôn với bà Nguyễn Thị Nhứt, nhưng đã ly hôn ngày 5 tháng 1 năm 1967, không có con. Bản chính quyết định ly hôn này GS Trần Đức Thảo trực tiếp giao cho tôi giữ, cùng với những di sản khác của Giáo sư mà hiện nay tôi đang gìn giữ rất cẩn thận. Từ đó đến ngày mất, GS Trần Đức Thảo sống độc thân. Bác sĩ Trần Đức Tùng đã ủy quyền cho tôi toàn quyền sử dụng và công bố tác phẩm của GS Trần Đức Thảo và gìn giữ di sản của Giáo sư.

    Tôi nghĩ để xuất bản tác phẩm của GS Trần Đức Thảo, tất yếu phải tuân theo Luật Xuất bản đã được Nhà nước ban hành. Nếu có gì khó khăn thì trong điều kiện đất nước đổi mới hiện nay, tôi tin là sẽ được khắc phục. Chắc chắn như vậy.

    Có lẽ ông sẽ có một số tâm sự với bạn đọc, đặc biệt là độc giả trẻ, sau một thời gian dài tiếp cận, suy ngẫm và nghiệm sinh về Di sản triết học Trần Đức Thảo?

    Tôi nghĩ rằng thế hệ trẻ Việt Nam sẽ rất tự hào về Trần Đức Thảo, nhà triết học lỗi lạc của dân tộc và của thế giới. Trần Đức Thảo để lại tấm gương của một nhà khoa học chân chính: học tập suốt đời, cần mẫn sáng tạo suốt đời, vượt qua mọi khó khăn, đau khổ để sống trung thực và trong sáng. Tác phẩm Recherche sur L?TOrigine du Langage et de la Conscience (Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức) của Giáo sư Trần Đức Thảo đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 2000. Có thể nói, triết học Trần Đức Thảo không chỉ của hiện tại mà còn là của tương lai, bởi các công trình của ông luôn luôn có căn cứ khoa học, nhất là khoa học sinh giới và khoa học vũ trụ. Trong điều kiện phát triển của đất nước và của dân tộc hiện nay, để có một tầm nhìn vừa sâu sắc, vừa vượt trước thời đại, tôi tin các thế hệ độc giả Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, sẽ đón nhận tác phẩm của Trần Đức Thảo như một báu vật. Trần Đức Thảo sống mãi trong trí tuệ Việt Nam.

    Xin trân trọng cảm ơn ông. Kính chúc ông dồi dào sức khỏe để tiếp tục bảo tồn di sản văn hóa Trần Đức Thảo và công bố tác phẩm Triết học Trần Đức Thảo!

    Nguồn: Báo Văn nghệ trẻ, Phụ trương của Tuần báo Văn nghệ - Cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam, số 9 (536), trang 18, ra ngày 4/3/2007.
  2. taiquai

    taiquai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    509
    Đã được thích:
    0
    Danh tiếng của nhà triết học Trần Đức Thảo thật lớn lao! Nhưng không phải ai cũng biết và hiểu về ông. Nếu có thể, bạn nên post một số bài giới thiệu về ông, về nội dung, ý nghĩa, giá trị các tác phẩm, công trình của ông cho thành viên không chỉ của box Học Thuật được biết và thảo luận...
  3. taiquai

    taiquai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    509
    Đã được thích:
    0
    (Tiền phong Chủ nhật số 46, ngày 12/11/2006)
    Số phận di cảo triết học của Triết gia lữ hành Trần Đức Thảo
    TPCN - Trò chuyện với TS Phạm Thành Hưng, người tổ chức bản thảo cuốn sách ?oTriết gia lữ hành Trần Đức Thảo? ra mắt bạn đọc thời gian gần đây.
    Nhà thơ Việt Phương (phải) bàn giao di cảo Triết học của cố GS Trần Đức Thảo cho ông Phạm Thành Hưng ảnh: Trần Minh Tuấn
    Cách đây gần nửa năm ông Nguyễn Việt Phương, thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng bàn giao lại cho người đại diện NXB ĐH Quốc gia HN toàn bộ di cảo triết học của cố GS Trần Đức Thảo.
    Cho đến nay di cảo này vẫn nằm im lìm trong hốc tủ. Chúng tôi đã trao đổi với TS Phạm Thành Hưng, giảng viên Khoa Văn trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) nguyên Phó giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản (NXB) ĐHQGHN ?" người đang tạm thời quản lý tập di cảo triết học quý giá đó.
    Thưa ông, NXB ĐHQGHN đã nhận bàn giao từ Nhà thơ Việt Phương tập bản thảo chưa công bố của cố GS Trần Đức Thảo như thế nào?
    Mọi việc bắt đầu từ khi phát hành cuốn sách ?oTriết gia lữ hành Trần Đức Thảo?. Đây là một ấn phẩm bao gồm chủ yếu là các bài viết về Giáo sư Thảo nhân dịp an táng lọ tro di hài ông từ Paris về Hà Nội năm 1993 và nhân dịp ông được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.
    Tôi nói là ?ochủ yếu?, vì ngoài các bài báo của các học giả, nhà văn, nhà báo ở trong và ngoài nước, cuốn sách còn có phần mang tính chất phụ trương tham khảo, bao gồm một số tiểu luận chính trị, văn học của GS Thảo vốn gây nhiều tranh cãi và góp phần làm nặng nỗi oan khuất của ông.
    Những trang cuối cùng của cuốn sách là phần Thư mục khoa học, có chức năng giúp đỡ cán bộ sinh viên tra cứu nếu có điều kiện. Cuốn sách này đã được Cục Xuất bản (Bộ Văn hóa ?" Thông tin) trợ giá. Tuy nhiên, điều rất mừng là cuốn sách khi xuất bản không cần sự trợ giá, không cần bù lỗ.
    Sau khi ra đời, nó đã được đông đảo sinh viên, học giả hào hứng tìm đọc. Sách có mặt ở Thư viện Viện nghiên cứu Kinh tế Chính phủ. Nhà thơ Việt Phương (thành viên của tổ nghiên cứu giúp việc Thủ tướng) đã gọi điện cho tôi, góp ý cho cuốn sách.
    Phần Thư mục khoa học đã được ông chú ý nhiều, vì còn thiếu nhiều công trình của GS Thảo và các bài viết về GS Thảo. Cuối cuộc điện thoại, nhà thơ Việt Phương khiến tôi giật mình khi thông báo: ?oKhi còn sống, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận được nhiều tập bản thảo, đủ cả đánh máy lẫn viết tay, tiếng Pháp lẫn tiếng Việt của GS Thảo gửi tặng.
    Thủ tướng thường đọc rất kỹ và giao cho tôi bảo quản. Thủ tướng dặn tôi: phải tìm cách xuất bản dần. Chọn mặt gửi vàng, nay tôi phó thác lại cho nhà xuất bản Đại học Quốc gia HN các anh?.
    Vậy là từ một cuốn sách mỏng về GS Thảo, đồng chí thư ký của cố Thủ tướng đã tin tưởng, quyết định ?ochọn mặt gửi vàng? cho Nhà xuất bản?
    Tôi nghĩ, một cuốn sách tuy mỏng nhưng hoàn toàn có thể đủ sức nặng thuyết phục. Sự thật không cần nhiều lời, quan trọng là động cơ và cái tâm của người biên tập sách.
    NXB ĐHQGHN được tin cậy gửi gắm, theo tôi, xuất phát từ mấy ly do sau. Thứ nhất, đây là một NXB tuy còn trẻ nhưng lại là lớn nhất trong hệ thống các nhà xuất bản đại học trong cả nước. Nó có chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, đào tạo đại học và sau đại học.
    Trong di cảo của GS Thảo, có rất nhiều tập giáo trình, chuyên luận có chức năng phục vụ học đường. Thứ hai, NXB đã từng xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng của GS Thảo, cuốn ?oHiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng? và ?oSự hình thành con người?.
    Đó là hai cuốn GS Thảo viết bằng tiếng Pháp, lâu nay được dịch ra nhiều thứ tiếng, chỉ phục vụ độc giả nước ngoài, sau bao năm lưu lạc, năm 2002 mới được Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn?" tổ chức dịch sang tiếng Việt.
    Việc NXB ĐHQGHN xuất bản, đã góp phần ?ohồi hương? hai công trình đó trở lại Việt Nam. Thứ ba, GS Thảo chính là GS cũ của ĐHQGHN.
    Có thông tin hiện tại Đại sứ quán Việt Nam tại CH Pháp còn đang chờ bàn giao tận tay người thân GS Thảo 8 thùng tài liệu nữa. Điều đó có đúng không, thưa ông?
    Tôi không tin, đó chỉ là phán đoán của cá nhân một đồng chí cán bộ xuất bản vốn là khách mời tới dự Lễ giới thiệu sách ?oTriết gia lữ hành Trần Đức Thảo? do Thư viện quốc gia Việt Nam và NXB ĐHQGHN phối hợp tổ chức ngày 31/5/2006.
    Nếu có còn 8 thùng đó thật thì chúng ta cũng mừng, cũng hy vọng tới một di cảo đồ sộ hơn. Nhưng theo tôi, đó chỉ là những thùng sách tiếng Pháp mà GS Thảo mua được trong những tháng làm việc ở Paris.
    Do đâu mà ông lại khẳng định như vậy?
    Tôi đang có trong tay biên bản kiểm kê tài sản của GS Thảo do Đại sứ quán Việt Nam ở Paris lập sau khi ông qua đời. Nội dung biên bản cho biết: Vì cước máy bay đắt nên các đồng chí lãnh đạo sứ quán ta khi đó đã chọn những bản thảo và các tài liệu có giá trị nhất của GS Thảo, chuyển vào thùng hành lý máy bay về nước.
    Thùng tài liệu đó ai đã nhận bàn giao ở sân bay, ai đang bảo quản, tôi không rõ. Số sách vở tài liệu còn lại ở Sứ quán hiện tại là 2 hay 3 thùng gì đó, chỉ là sách in, không có bản thảo viết tay đâu.
    Nói như vậy để thấy rằng, ngoài các tập bản thảo từ cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, di cảo triết học của GS Thảo còn có ở va ly tài liệu gửi kèm với lọ tro di hài. Chúng ta phải có trách nhiệm tìm kiếm chiếc va ly đó để hoàn chỉnh kho tài liệu di cảo.
    Sau khi nhận bàn giao, NXB ĐHQGHN đã có kế hoạch in ấn, công bố chưa?
    Hiện NXB ĐHQGHN chưa thể tiến hành. Vì đây là một công việc không thực hiện một sớm một chiều được. Thứ nhất, tập tài liệu di cảo đó đòi hỏi phải có sự thẩm định hết sức thận trọng về mặt khoa học, để xem cái gì nên in cái gì tạm thời để lại.
    Theo đánh giá bước đầu của tôi, ngoài các bản thảo tiếng Pháp đòi hỏi phải có các chuyên gia dịch thuật, trong tập di cảo đó có những bản thảo viết lần thứ nhất, bản thảo viết lần thứ hai, thứ ba? thuộc một công trình đã công bố.
    Tuy nhiên, các bản thảo đó vẫn có giá trị học thuật. Làm triết học trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt, ngòi bút của triết gia tất yếu chịu sự tác động của đời sống chính trị bên ngoài thư phòng. Vì vậy có thể bản thảo viết lần thứ nhất lại gần với chân lý khoa học hơn bản công bố cuối cùng.
    Nếu điều kiện tài chính cho phép, tôi nghĩ, cần in toàn bộ các bản thảo đó để sinh viên, cán bộ nghiên cứu của chúng ta nắm bắt được diễn biến tư tưởng của tác giả và những lộ trình tư duy đi tới hình thành một cuốn sách triết học thời đất nước chiến tranh.
    Lý do thứ hai khiến NXB ĐHQGHN chưa thể tiến hành xuất bản gấp tập di cảo đó còn là ở chỗ vấn đề bản quyền tác giả. GS Thảo mất, không để lại di chúc về quyền thừa kế.
    Tuy vậy, theo TS Cù Huy Chử, người rất gần gũi GS Thảo những năm cuối đời, GS Thảo có nguyện vọng in sách của mình ở hai nơi: Một là NXB Chính trị Quốc gia (vì theo ông, đó là cơ quan xuất bản của một Đảng mà suốt đời ông phụng sự, trung thành ?" TMT), hai là Đại học Tổng hợp HN, nơi ông đã từng đứng trên bục giảng.
    NXB Chính trị Quốc gia đã có liên hệ với người thừa kế pháp luật của GS Thảo để xin toàn quyền xuất bản. Gần đây, một tổ chức của UNESCO đã đặt vấn đề ?omua? toàn bộ di cảo để dịch và xuất bản thành hệ thống. Tôi cũng tin rằng nhiều tổ chức phi chính phủ nước ngoài sẵn sàng giúp chúng ta công bố toàn bộ di sản triết học của GS Thảo.
    Tôi hy vọng rằng, những tập tài liệu di cảo của triết gia Trần Đức Thảo đang nằm im lìm, rải rác cả hai miền Nam Bắc, cả trong nước lẫn nước ngoài sẽ được tập hợp đầy đủ ?oChâu về Hợp Phố?, Toàn tập Trần Đức Thảo sẽ sớm ra mắt, cho hôm nay và cho mai sau.
    Ông Phạm Thành Hưng cho biết thêm sáng ngày 7/11, ông đã làm việc với PGS Vũ Đức Liệu, Hiệu phó trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội (Đại học Quốc gia Hà Nội).
    Ông Liệu hứa sẽ triển khai việc dịch thuật di cảo của cố GS Trần Đức Thảo để phục vụ công tác nghiên cứu trong thời gian sớm nhất.
    Theo ông Hưng, khó khăn nhất trong quá trình dịch và công bố di cảo của GS Thảo là những người giỏi tiếng Pháp thì không hiểu triết học, người giỏi triết học thì lại không biết tiếng Pháp. Nó đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa dịch thuật và nghiên cứu.
    Trần Minh Tuấn
    (thực hiện)
  4. taiquai

    taiquai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    509
    Đã được thích:
    0
    Trần Đức Thảo
    NIÊN BIỂU
    Cao Việt Dũng dịch và chú thích

    Sau khi Trần Đức Thảo mất không lâu, tờ Les Temps Modernes số 568 tháng 11 năm 1993 (năm thứ 49) có dành mấy chục trang tưởng niệm một trong số rất nhiều người từng lên tiếng tranh luận với J. P. Sartre, trong đó có bài của Michel Kail về Trần Đức Thảo, bài về niên biểu cuộc đời Trần Đức Thảo do chính ông viết và ba chương đầu của tác phẩm bỏ dở Logique hiện tại sống động (La Logique du présent vivant).
    Người dịch
    Sinh ngày 26 tháng Chín năm 1917
    1923 - 1935: Học trường trung học Pháp tại Hà Nội
    1935 - 1936: Năm đầu luật tại Hà Nội
    1936: Đến Paris học dự bị để thi vào trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm
    1936 - 1939: 1re Supérieure ở Louis-le-Grand và Henri IV [1]
    1939: Vào Rue d''Ulm [2]
    1939 - 1941: Bằng Licence Triết [3]
    Hè 1940: Trú (réfugié) ở Bagnères-de-Bigorre [4]
    Tháng Mười 1940 - tháng ba 1941: Trú ở Khoa Văn chương ở Clermond-Ferrand [5] , nơi khoa của Strasbourg cũng di về. Chính tại đây tôi đã gặp Jean Cavaillès người đã hướng dẫn tôi đọc Husserl [6] .
    Tháng Ba 1941 - tháng Chín năm 1944: ở nội trú tại trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm.
    1942 - 1943: Bằng agrégation Triết [7]
    1943 - 1944: Nghiên cứu ở Phố Ulm để làm luận án tiến sĩ Nhà nước về hiện tượng luận của Husserl.
    Đầu năm 1944: Ở ngắn ngày tại Bỉ, trung tâm lưu trữ Husserl ở Louvain. Edmund [Husserl] đã mất năm 1937 ở Đức sau khi bị bọn phát xít đuổi (radier) khỏi Đại học. Bà Husserl phải đi lánh nạn ở Bỉ, nơi Đại học Louvain đã tạo ra một khoa đặc biệt dưới cái tên Lưu trữ - Husserl (Archives-Husserl), để tiếp nhận thư viện, các ghi chép và bản viết tay của Edmund Husserl.
    Những nghiên cứu mà tôi thực hiện ở đó đầu năm 1944 đã cho phép tôi chính xác hoá những điều tôi đã vạch trước trong luận văn (mémoire de diplôme): cần biết rằng trái ngược với những diễn giải thông thường đã biến hiện tượng luận Husserl thành một học thuyết của các bản chất (essence) vĩnh cửu, những phân tích thực tế (effective) của Husserl hướng về một triết học về thời gian, về con người lịch sử và lịch sử phổ quát (universelle), "thời gian tính, temporalité, Husserl nói, là thời gian tính phổ quát, omnitemporalité, mà bản thân nó chỉ là một dạng của thời gian tính."
    Chính từ đó mà tôi đã đi đến Hiện tượng học tinh thần (Phénoménologie de l''Esprit) của Hegel mà tôi đã từng phải bình luận trong bài báo của mình trên Les Temps Modernes (tháng Chín năm 1948).
    Tháng Mười năm 1936 - tháng Chín năm 1944: Được nhận học bổng của Bộ thuộc địa.
    Tháng Mười 1944 - tháng Chín 1946: Tuỳ viên (attaché des recherches) nghiên cứu tại CNRS (Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia) [8] .
    Tháng Mười hai 1944: Báo cáo (rapporteur) chính trị tại Hội nghị (Congrès) Đông dương tại Avignon, nơi tôi đã giới thiệu một chương trình xây dựng nền dân chủ ở Đông Dương.
    Tôi đã được chọn để thực hiện báo cáo chính trị, vì mọi người đều biết tôi không hề có quan hệ gì với bọn phát-xít. Sau ngày Giải phóng, đó là điều kiện đầu tiên để có thể nói đến chính trị. Hội nghị được tổ chức tại phòng khánh tiết của Toà thị chính Avignon [9] ; thị trưởng là một người cộng sản.
    Tôi được bầu làm thành viên Tổng Phái đoàn của người Đông Dương ở Pháp (Délégation générale des Indochinois en France), và phụ trách nghiên cứu các vấn đề chính trị.
    Đầu năm 1945: Tôi có một cuộc gặp, nhân danh Tổng Phái đoàn của người Đông Dương, với Maurice Thorez tại trụ sở của Uỷ ban trung ương đảng cộng sản Pháp. Nhất trí về đại thể cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc: cuộc chiến giành độc lập dân tộc này cần phải dẫn tới, vì lý do những điều kiện khách quan của thế giới hiện nay, chủ nghĩa cộng sản. Lời hứa của Maurice Thorez [10] về một giúp đỡ cụ thể cho các tổ chức của đảng cộng sản Pháp cho các nhóm địa phương khác nhau được đại diện bởi Tổng Phái đoàn của người Đông Dương sống ở Pháp. Lời hứa này đã hoàn toàn được giữ.
    Tháng Chín năm 1945: Các truyền đơn và họp báo ủng hộ ********* và chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
    Trong một bài báo trên tờ Le Monde liên quan đến cuộc họp báo của tôi, người ta đã trích dẫn câu trả lời của tôi dành cho câu hỏi của một nhà báo hỏi tôi người Đông Dương sẽ làm gì khi đội quân viễn chinh tới, tôi trả lời: "Bằng những phát súng" (A coups de fusils!) Câu trả lời này đã khiến tôi bị bắt và bị giam ở Nhà tù Prison de la Santé từ đầu tháng Mười đến cuối tháng Chạp năm 1945 vì "tấn công vào sự ổn định của Nhà nước Pháp trong những lãnh thổ mà nước Pháp nắm quyền" (Xem Les Temps Modernes số 5, tháng Hai năm 1946, tr. 878). Trong khi tôi bị giam giữ, báo L''Humanité đã đăng một bài báo đòi trả tự do cho tôi.
    Maurice Merleau-Ponty, tổng biên tập tờ Les Temps Modernes đã đứng ra lập một tờ đơn quy tụ các trí thức theo cùng một mục đích [11] .
    Ở Phố Ulm, mọi người bị chia rẽ. Những người cộng sản và cảm tình cộng sản (trong số đó thời đó phải kể đến những người theo hiện sinh) đòi trả tự do cho tôi. Rất quan trọng cần nhận xét rằng trong thời Đức chiếm đóng, nhóm Pháp tham gia Kháng chiến chống phát-xít có quan hệ với bên cộng sản. Sartre rẽ nhánh trực tiếp từ Husserl, và ông đã chịu ảnh hưởng về mặt triết học của Heidegger, nên giữ khoảng cách từ xa.
    Các học sinh khác hoặc cựu học sinh của trường Cao đẳng Sư phạm phản đối việc bắt giam tôi, chỉ đơn giản do tinh thần dân chủ.
    Một nhóm nào đó còn do dự, vì lý do họ có quan hệ với Tập hợp nước Pháp (Union française). Cuối cùng còn có những người ủng hộ Bộ thuộc địa. Những chia rẽ này đã ngăn cản sự thực hiện một sự phản đối tập thể do bên cộng sản khởi xướng.
    Tuy nhiên, độc lập với vấn đề tự do của tôi, các sự việc dần đã trở nên sáng tỏ: tôi vẫn tiếp tục là học sinh nội trú tại trường Cao đẳng Sư phạm kể từ khi từ Clermond-Ferrand trở về (tháng Ba năm 1941) cho đến ngày Paris được giải phóng. Nơi này không khoan nhượng chủ nghĩa phát-xít. Các học sinh có cảm tình với quân chiếm đóng đều là sinh viên ngoại trú, và thực tế là không bao giờ đến trường cả.
    Tôi không biết có ai ở Phố Ulm ủng hộ những lời vu cáo phi lý về những tờ báo vu cho tôi có quan hệ với quân phát-xít. Có thể có, điều đó không thể loại trừ, vì lẽ hoàn toàn không có những can thiệp thuần tuý. Tôi là chuyên gia về Husserl, người từng bị đuổi khỏi Đại học tại Đức ngay khi bọn phát-xít lên nắm quyền. Tôi đã bắt đầu nghiên cứu hiện tượng luận Husserl nhờ Jean Cavaillès hướng dẫn, người tham gia Kháng chiến kể từ khởi đầu cuộc Chiếm đóng.
    Tổng Phái đoàn của những người Đông Dương đã định khởi kiện lời vu khống của những tờ báo vu tôi có quan hệ với bọn phát-xít. Những tờ báo này đã ngay lập tức chấm dứt những lời vu khống, vì thấy rằng chúng hoàn toàn không có cơ sở nào hết.
    Tháng Hai năm 1946: Những bài báo Về Đông Dương được xuất bản trong số 5 tờ Les Temps Modernes, với mở đầu là một dòng chú thích của biên tập có nhắc đến những tờ báo vu khống, do Bộ Thuộc địa giật dây:
    "Về Đông Dương"
    "Đầu tháng Mười, quân cảnh (la justice militaire) đã bắt giữ khoảng năm mươi người Đông Dương sống ở Paris. Lúc đó một số tờ báo đưa tin những người Đông Dương bị bắt là do đã từng hợp tác với chính quyền Đức và Nhật. Trên thực tế, toà án (la justice) đã không hề kết án họ về tội này và những tờ báo vu khống giờ đây đã bị truy tố vì vu cáo. Điều mà toà án chê trách ở những người Đông Dương bị bắt là đã gây nguy hại đến ổn định của Nhà nước Pháp tại các lãnh thổ mà Nhà nước nắm quyền" (Les Temps Modernes, số 5, tháng Hai năm 1946, tr. 878). N.D.L.R.
    Tôi viết bài báo Về Đông Dương trong xà lim nơi tôi bị giam giữ một mình tại nhà tù Prison de Santé.
    Tôi đã sử dụng sự giải trí bị bắt buộc (ces loisirs forcés) này để rà soát lại nhận thức hiện tượng học của mình. Bài báo của tôi theo hướng hiện sinh. Nhưng tình hình khách quan tôi ở vào, với sự đối nghịch sâu sắc giữa dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa tư bản đế quốc, đã hướng tôi đến con đường của chủ nghĩa Mác-Lênin. Định hướng này sau đó đã được hiện thực hoá trong cuốn Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng (1951).
    Cuối năm 1946 (hoặc đầu năm 1947): Bài báo trên Les Temps Modernes đã đả kích gay gắt những lời vu cáo do tay trốtkít Claude Lefort tung ra chống ********* và đảng cộng sản Đông Dương.
    1947: Bài báo trên tờ La Pensée đả kích sự trấn áp của thực dân chống Việt Nam.
    1947: Loạt hội thảo dành cho học sinh trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm về hiện tượng luận của Husserl.
    1947 (hoặc đầu năm 1948): Bài báo trên Revue de métaphysique et de morale (Tạp chí siêu hình học và đạo đức) về triết học mác-xít và lịch sử, trong đó tôi tán thành các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
    1947 - 1948: Loạt hội thảo ở trường Cao đẳng Sư phạm Sèvres về Husserl, Kant, Hegel.
    Tháng Chín năm 1948: Bài báo trên Les Temps Modernes, số 36 Về Hiện tượng luận tinh thần và nội dung thực tế của nó nhân dịp xuất bản giáo trình của Alexandre Kojève về Hiện tượng luận tinh thần của Hegel. Giáo trình này, được giảng dạy trước chiến tranh, đã có các học sinh theo học như là J.-P. Sartre, J. Hippolyte, M. Merleau-Ponty v.v..., điều này khiến nó có được một ảnh hưởng đáng kể lên triết học Pháp. Chủ yếu nó được cấu tạo để chống lại chủ nghĩa duy vật biện chứng. Vì Merleau-Ponty yêu cầu tôi viết một bài điểm sách cho Les Temps Modernes, tôi đã thực hiện thông qua một nghiên cứu cụ thể về tác phẩm của Hegel. Và tôi đã đi đến kết luận rằng chỉ biện chứng duy vật mới cho phép hiểu nội dung thực tế (contenu réel), và do đó, ý nghĩa chân thực của Hiện tượng luận Hegel.
    Bài báo của tôi, được viết để chống lại cách diễn giải hiện sinh luận Hegel của Kojève, đã cho phép tôi đồng thời giải phóng khỏi cách nhìn mang tính duy tâm của Husserl. Nó là "chiếc cầu" dẫn tôi đi từ hiện tượng luận Husserl đến chủ nghĩa duy vật biện chứng.
    Cuối năm 1948 (hoặc đầu năm 1949): tôi ký tên vào một tuyên bố của giới trí thức (xuất bản trên tờ l''Humanité) phản đối sự trấn áp của tên phản bội Tito lên những người dân chủ Nam Tư.
    Cuối năm 1949 - đầu năm 1950: Năm cuộc tranh luận có ghi tốc ký với Jean-Paul Sartre về chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa hiện sinh.
    Sartre đã mời tôi đến những cuộc gặp gỡ này vì ông tính chứng tỏ ở đó rằng chủ nghĩa hiện sinh có thể tồn tại hoà bình rất tốt về mặt học thuyết với chủ nghĩa Marx. Việc ghi tốc ký có mục đích là để chuẩn bị cho việc xuất bản chung dưới dạng trao đổi [12] .
    Sartre chỉ công nhận giá trị của chủ nghĩa Marx về mặt chính trị và lịch sử xã hội. Ông không coi trọng triết học mác-xít lắm. Ông đề nghị một chia sẻ (un partage) tại đó chủ nghĩa Marx có quyền (compétent) trong một khuôn khổ nào đó về những vấn đề xã hội, còn chủ nghĩa hiện sinh sẽ có giá trị trong triết học...
    Trong năm cuộc gặp gỡ tôi đã chỉ cho ông rằng chính xác là phải coi trọng chủ nghĩa Marx cả về triết học. Về điều đó, Sartre đã kết thúc tranh luận, thấy rằng không thể hy vọng thêm được nữa. Kết luận cuối cùng khi chúng tôi chia tay là sẽ không đặt ra vấn đề này nữa, ở cả hai phía. Về lời hứa hai bên này, Sartre và nhất là những người thân cận của ông đã lan truyền những đồn đại đổ lên tôi trách nhiệm của thất bại. Vì tôi chỉ có một mình, tôi không có cách nào khác để chấm dứt những đồn đại thất thiệt này ngoài việc đâm đơn kiện Sartre. Và trên thực tế chiến dịch bẩn thỉu (insidieuse) mà các học trò của ông đã bắt đầu, đã kết thúc ngay lập tức.
    Năm 1952, Sartre đã quyết định tham gia tích cực vào Phong trào Hoà bình. Có thể những trao đổi về mặt quan điểm hồi mùa đông 1949 - 1950 đã đóng góp một phần nhỏ bé vào tiến triển của ông về hướng cộng tác với chủ nghĩa cộng sản [13] ?
    Với tôi những cuộc gặp gỡ này đã dẫn đến sự đoạn tuyệt với chủ nghĩa hiện sinh, sự đoạn tuyệt đã bắt đầu với bài báo của tôi tháng Chín năm 1948 chống lại bình luận Hiện tượng luận tinh thần Hegel của Kojève.
  5. taiquai

    taiquai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    509
    Đã được thích:
    0
    (Tiếp theo)
    Tháng Tám năm 1951: Xuất bản cuốn Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng tại nhà xuất bản Minh Tân [14] .
    Cuốn sách này đánh dấu bước phát triển của tôi từ Hiện tượng luận đến chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trên thực tế tôi mới chỉ đến ngưỡng cửa chủ nghĩa Marx. Tôi đã công nhận tính đúng đắn của các nền tảng lý thuyết của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mà không hề có hiểu biết đầy đủ về các văn bản kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong các phân tích cụ thể của phần hai cuốn sách của tôi, phương pháp muốn là Marxit, đã lạc đường chao đảo giữa hiện tượng luận Husserl và Hegel.
    Tuy nhiên các vị thế nguyên tắc, đã được khẳng định rõ ràng, là đủ để tôi quyết định trở về Việt Nam. Cần phải làm cho cuộc đời ăn nhập với triết học, thực hiện một hành động thực tế (acte réel), điều đáp trả lời những kết luận lý thuyết của cuốn sách của tôi.
    Từ khi tôi đoạn tuyệt với nhóm Les Temps Modernes vào đầu năm 1950, những người bạn tuyệt vời của tôi đã có lý khi gợi ý với tôi là không còn hy vọng gì trông chờ một cuộc cách mạng ở Paris. Vì tôi đồng ý với điều đó, tôi đã nhanh chóng hoàn thành cuốn sách của mình đã được thông báo từ cuối năm 1943, năm tôi đăng ký làm một luận văn về Husserl. Lúc đó nhẽ ra tôi sẽ làm cho Sorbonne [15] , nhưng tôi cũng cần tự giải thoát về mặt triết học. Cuốn sách được xuất bản, chỉ dày 368 trang vì lý do thiếu thời gian.
    Trước khi rời Paris, tôi đã nhờ Nguyễn Văn Chi (Chỉ/Chí?), người phụ trách giao thiệp với bên Les Temps Modernes, lo việc chấm dứt, nhân danh tôi, vụ kiện Jean-Paul Sartre.
    Cuối năm 1951 - đầu năm 1952: Trở về Việt Nam qua đường Praha, Matxcơva, Bắc Kinh.
    1952: Nghiên cứu về hai xưởng công nghiệp ở Việt Nam, Báo cáo cho Trung ương - Điều tra về thực trạng các trường học ở Việt Nam. Báo cáo cho Bộ Giáo dục.
    Mùa xuân năm 1953: Dịch các tác phẩm của đồng chí Trường Chinh trong các văn phòng của Tổng bí thư.
    Mùa hè năm 1953: Tham gia Chỉnh Huấn. Thành viên Ban Văn-Sử-Địa.
    Mùa thu năm 1953 - đầu năm 1954: Tham gia cải cách ruộng đất với tư cách chiến sĩ cơ sở ở Phú Thọ.
    1954: 9 bài báo về lịch sử và văn học Việt Nam, xuất bản trên tạp chí Văn-Sử-Địa
    Mùa thu năm 1954: Giáo sư ở Đại học Hà Nội.
    1954 - 1955: Dạy Lịch sử cổ đại.
    1955 - 1958: Dạy Lịch sử triết học [16]
    1956 - 1958: Trưởng khoa Lịch sử
    1955 - 1956: nhiều bài báo đăng trên Tập san Đại học Sư phạm và trên Tập san Đại học (Văn khoa).
    Cuối năm 1956: 2 bài báo đăng trên Nhân Văn và Giai Phẩm nơi tôi đã nhầm lẫn dân chủ xã hội và dân chủ tư sản, chủ nghĩa nhân văn mác-xít và chủ nghĩa nhân văn tư sản.
    1958 - 1961: Nghiên cứu các văn bản kinh điển chủ nghĩa Mác-Lê.
    1961 - 1973: Tham gia dịch các tác phẩm của Marx - Engels tại Nhà xuất bản Sự Thật [17] .
    1965: Bài báo trên tờ La Pensée: Hạt nhân duy lý của biện chứng Hegel (dịch một bài báo viết bằng tiếng Việt đăng năm 1956 trên Tập san Đại học (Văn khoa).
    1965: Bài báo trên tờ La Pensée: Chuyển động của chỉ dẫn như dạng nguyên thuỷ của sự chắc chắn cảm thấy được (Le mouvement de l''indication comme forme originaire de la certitude sensible)
    1969 - 1970: Bài báo đăng ba kỳ trên La Pensée: Từ cử chỉ chỉ trỏ đến hình ảnh đặc thù (Du geste de l''index à l''image typique)
    1973: Xuất bản Tìm cội nguồn ngôn ngữ và ý thức (Recherches sur l''origine du langage et de la conscience" tại E***ions Sociales.
    Tháng Giêng và tháng Chín năm 1975: Bài báo đăng hai kỳ trên La Nouvelle Critique (Phê bình mới): Từ hiện tượng luận đến biện chứng duy vật của ý thức (De la phénoménologie à la dialectique matérialiste de la conscience)
    Tháng Năm năm 1981: bài báo trên tờ La Pensée: Chuyển động của chỉ trỏ như là sự hình thành sự chắc chắn nhận thấy được (Le mouvement de l''indication comme constitution de la certitude sensible)
    Tháng Giêng năm 1983: Phần tiếp theo của bài báo
    Tháng Bảy năm 1984: Bài báo trên tờ La Pensée: Biện chứng logique trong sự hình thành Tư bản luận
    Trong tiến trình của mình, tôi đã được dẫn đến với chủ nghĩa Marx bằng hai con đường: một là cuộc đầu tranh giành độc lập dân tộc dẫn tới chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, nghiên cứu triết học và lịch sử đã chỉ cho tôi thấy rằng chỉ chủ nghĩa Mác-Lênin mới cung cấp giải pháp đúng đắn cho những vấn đề chung của lý thuyết khoa học.
    Trong những năm sau chiến tranh, khi tôi làm quen lần đầu tiên với các tác phẩm của chủ nghĩa Marx, tôi đã chấn động vì nhận xét thấy Tuyên ngôn của đảng cộng sản về khả năng một bước chuyển một phần của các trí thức tư sản sang vô sản, trong giai đoạn khủng hoảng chung của chủ nghĩa tư sản nhờ vào nguyên cứu lịch sử phổ quát (universelle). Nhận xét này đã đưa tôi đến chỗ hướng các nghiên cứu của mình, những nghiên cứu cho đến lúc đó chỉ thuần tuý ở mức trừu tượng, sang một suy nghĩ toàn thể về thực tế của chuyển động lịch sử, về bản chất lý-hoá đến cuộc sống, xã hội và ý thức.
    "Vào các thời kỳ khi đấu tranh giai cấp tiến đến gần hồi quyết định, tiến trình phân rã bên trong của giai cấp thống trị bên trong toàn bộ xã hội cũ, có một tính chất tàn bạo và mãnh liệt đến nỗi một mảnh nhỏ của giai cấp thống trị sẽ tách khỏi giai cấp của mình và gắn với giai cấp cách mạng, giai cấp nắm tương lai trong tay mình. Cũng vậy, ngày xưa một phần giai cấp quý tộc đã chuyển sang tư sản, thì ngày nay một phần tư sản cũng chuyển sang vô sản, nhất là một phần các nhà tư tưởng tư sản, do công việc của mình, đã tự hiểu được lý thuyết toàn thể tiến trình của lịch sử."
    Hà Nội ngày 1 tháng Hai năm 1984
    Trần Đức Thảo
    [1]Hai trường lycée nhưng là lycée đặc biệt, nằm gần Panthéon và Sorbonne, đặc biệt có các lớp préperatoire hay gọi tắt là prépa cho các học sinh ưu tú ôn luyện để thi vào các trường lớn, Grandes Ecoles, của Pháp. Học về tự nhiên và xã hội, thường là hai năm, bên xã hội năm đầu gọi là hypokhâgne, năm hai gọi là khâgne (theo tiếng Lyon là câgne), người học gọi là khâgneux. Học xong hai năm này thì thi, đỗ rất ít, nhưng trượt thì vào đại học học luôn deuxième cycle khỏi phải qua đại cương.
    [2]Tức là thi đỗ vào trường Cao đẳng Sư phạm
    [3]Là năm đầu tiên của deuxième cycle, năm thứ hai là maitrise. Học sinh trường Cao đẳng Sư phạm phải học thêm một trường đại học khác nếu muốn lấy bằng.
    [4]Vì lý do chiến tranh
    [5]Tức là ở miền Trung nước Pháp, quê của Blaise Pascal và là cái nôi của hãng lốp xe Michelin rất nổi tiếng.
    [6]Jean Cavaillès là một trí thức dấn thân kháng chiến, hy sinh trong chiến tranh. Cựu học sinh Ulm, hiện tại Ulm có cái tượng kỷ niệm những học sinh chết vì đất nước, có tên Cavaillès và một phòng học khá to ở tầng hai mang tên ông.
    [7]Một bằng đặc biệt của ngành Giáo dục, dành cho những người muốn trở thành giáo viên. Đây là một kỳ thi rất khó, gồm nhiều bài thi nhỏ, cả viết và vấn đáp.
    [8]Trung tâm tập trung gần hết các nhà nghiên cứu giỏi nhất của Pháp, có không ít người Việt, chẳng hạn Nguyễn Quang Riệu từng là giám đốc nghiên cứu - directeur de recherches - ở đây.
    [9]Avignon là một thành phố nhỏ của Pháp, nhưng có lịch sử rất oanh liệt vì là nơi duy nhất ngoài Vatican từng có trụ sở của Toà Thánh.
    [10]Thorez là anh cả đỏ của Pháp, ngoài gặp Trần Đức Thảo trước đó ông cũng đã gặp Hồ Hữu Tường là người ủng hộ Đệ Tứ.
    [11]Chuyện này rất giống với vào những năm 60, Camus đã tập hợp đông đảo trí thức trên thế giới ký đơn đòi chính quyền Ngô Đình Diệm không được xử tử Hồ Hữu Tường.
    [12]Tức loại sách entretiens, rất thông dụng ở Pháp, thường là hai hoặc nhiều người bàn luận về một hay nhiều vấn đề, rồi chép lại và in thành sách.
    [13]Sau này Sartre còn ngồi ghế Thư ký cho Toà án chiến tranh Việt Nam của Chánh án Bertrand Russell tổ chức tại Thuỵ Điển.
    [14]Ai từng đọc các tác phẩm của Hoàng Xuân Hãn như La Sơn Phu Tử hoặc Lý Thường Kiệt chắc đã biết đến NXB này. Cũng những năm 50, họ đã xuất bản Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh bằng phương pháp sao chụp, ở trang đầu có đăng thư ngỏ của ông Nguyễn Ngọc Bích thanh minh in sách mà không có điều kiện hỏi ý kiến tác giả trước.
    [15]Có thể Trần Đức Thảo cũng đã theo học Triết ở Sorbonne là nơi cách Ulm khoảng 10 phút đi bộ.
    [16]Ở Việt Nam có một quyển sách tập hợp các bài giảng của Trần Đức Thảo về môn này, do học trò ghi lại và cho in.
    [17]Không thấy Trần Đức Thảo nói đến chuyện dịch Perspectives de l''homme của Roger Garaudy, triết gia mác-xít của Pháp, giờ vẫn còn bản ronéo ở Thư viện Quốc gia Việt Nam.
    (nguồn: talawas)
  6. quangtri72

    quangtri72 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/02/2005
    Bài viết:
    611
    Đã được thích:
    0
    Cụ Thảo này bị vợ bỏ vì suốt ngày nằm trên đi văng đọc sách Triết!
  7. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Bác nói thế là nói đùa hoặc đoán mò thôi. Thực tế không phải như vậy. Cụ Nguyễn Khắc Viện cũng suốt ngày đọc sách đấy chứ? Sao bà Nhất lại "bỏ" cụ Thảo mà đến với cụ Viện?
    Chuyện thực cũng hay lắm.
  8. NGR

    NGR Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/06/2006
    Bài viết:
    686
    Đã được thích:
    0
    Trong quyển "tỉnh thành xưa ở Việt Nam" ,một tuyển tập các bài báo của tờ indochina thời Pháp (nxb Hải Phòng-trung tâm Đông Tây,2004) do Lưu Đình Tuân dịch có một bài chúc mừng ông Trần Đức Thảo đậu thạc sĩ triết.Trong đó có trích đoạn:
    ...Thạc sĩ triết là một học vị đại học cao của Pháp...người dự thi phải là cử nhân văn chương hay cử nhân khoa học,ngoài ra còn phải có bằng cao đẳng triết...
    ...Các môn thi sơ khảo gồm hai bài luận về triết và lịch sử triết học,mỗi bài làm trong 7 giờ...đạt các môn sơ khảo,thí sinh được thi chung khảo.Nội dung thi chung khảo gồm giải thích 3 trích đoạn triết của Hi Lạp,La Tinh,Pháp hoặc của nươc khác...Tiếp sau là giảng một bài triết học sau năm tiếng chuẩn bị "dưới sự giám sát"...
    Giáo sư Trần Văn Giàu đánh giá rằng:ở Việt Nam có nhiều người nghiên cứu triết và dạy triết nhưng chỉ có một triết gia là Trần Đức Thảo.
  9. vetlantram

    vetlantram Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/10/2003
    Bài viết:
    89
    Đã được thích:
    0
    ông T.Đ Thảo nổi tiếng sau vụ tranh luận với J.P.Sartre., tuy nhiên theo một vài ý kiến thì sự "thất bại" của J.P.Sartre là vì chính Sartre đề nghị chấm dức cuộc cải vả với lý do ông cho rằng nó vô nghĩa. ý kiến này xem chừng có giá trị vì Sartre (ông tổ của Existentialism) là một tay vô cùng kiêu ngạo, đương nhiên, đã từng từ chối cả Nobel...
    dù gì đi nữa thì T.Đ.T cũng là một bi kịch đáng kính,...tiếc là về sau ông đã bị cô lâpvới thế giwới tư tưởng bên ngoài...(xem hồi ký Nguyễn Đình Thi, có thể nói llà một trong những người đọc Nietzsche đầu tiên ở vn...) . Có thể nói (chỉ là "có thể" thôi, không phải là chắc chắn)giai đoạn ngắn ngủi cuối đời của T.Đ.T, ông đã sống như một triết gia trong ý nghĩa Triết Lý. Chỉ như thế thôi, còn giá trị của các tác phẩm của ông, ở đây hoàn toàn không có thẩm quyền để phán xét.
  10. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Đồng ý với bác, nhất là đoạn tô đậm.

Chia sẻ trang này