1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Người Hoa ở miền Nam Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 03/11/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Phụ Nữ Tân Văn, Số 182, 22 Tháng Mười Hai 1932 —


    Từ đầu người mình kêu người tàu bằng "Chệt"








    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]












    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ethnic Group: Chinese[/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Other Keywords: Grocery store[/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Title of Book: L'Indo-chine francaise (souvenirs)[/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Author: Doumer, Paul[/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Publication Details: Paris: Vuibert et Nony, 1905 ( p.38 )

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif][​IMG]
    [/FONT]
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Người Hoa không ăn cơm cháy vì sợ về Tàu không được?

    Còn việc người Tiều kiêng ăn cơm cháy là có thật. Va tui hồi nhỏ có hỏi ông Ba Tiều nhà bên cạnh thì ông trả lời là không phải ông sợ ăn cơm cháy rồi về Tàu không được mà do người Tiều của ông ngày xưa ở bên Tàu đất chật người đông, đa phần nghèo đói lắm. Năm mất mùa nhiều người bị chết đói nên người Tiều có phong tục trong bữa ăn không bao giờ ăn sạch những gì trên mâm. Ít gì cũng chừa lại một miếng nào đó và món cơm cháy đáy nồi là thứ lý tưởng để chừa lại. Họ sợ ăn hết thì ngày mai không còn gì để ăn nữa. Ông giải thích là ông cũng không muốn về Tàu làm gì, bên đó bây giờ là Trung Cộng nắm chính quyền mà ông cũng không còn anh em bà con bên đó. Tuy không muốn về Tàu nhưng cơm cháy thì ông cũng không ăn vì không thích. Thế thôi. Va tui nghe vậy thấy cũng có lý.

    Các sắc dân Phước Kiến, Hẹ...có kiêng ăn cơm cháy hay không Va tui không rành nhưng thấy có nhà hàng bán cơm cháy Quảng Đông, cơm cháy Thượng Hải. Họ cũng là dân Ba Tàu dám ăn cơm cháy mà không sợ về Tàu không được á?
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Ba Tàu có nhiều người thứ ba trong gia đình

    [​IMG]
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133

    Sự giao thoa ngôn ngữ giữa các dân tộc ở Nam bộ


    Nam bộ là một vùng đa văn hóa, là nơi cư trú xen kẽ của nhiều tộc người từ nhiều thế kỷ với một mối giao lưu văn hóa rộng rãi và lành mạnh.

    Ngay từ cuối thế kỷ XVII, ở Nam bộ đã có nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống. Người Việt là dân tộc chủ chốt đã khai phá và đặt nền tảng quản lý hành chính, về phương diện quân sự cũng là lực lượng chủ chốt bảo vệ vùng đất Nam bộ.

    Trong quá trình khai phá, không thể không tính đến sự có mặt của các dân tộc bản địa và những dân tộc di cư đến. Đó là các dân tộc Hoa, Khmer và Chăm.

    Điều cần lưu ý đầu tiên là trong suốt tiến trình khai phá và phát triển của Nam bộ, các dân tộc đã cùng chung sống hòa bình và đáng kể hơn cả là sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc đã góp phần tạo cho vùng đất Nam bộ những nét văn hóa độc đáo. Ngay khi có nhiều tôn giáo lớn cùng hiện diện, giữa các dân tộc vẫn luôn giữ được tinh thần bao dung về mặt tín ngưỡng. Trên lĩnh vực ngôn ngữ, trong quá trình giao lưu, tiếng Việt đã dần dần trở thành tiếng nói chung bên cạnh hiện tượng song ngữ hay đa ngữ vẫn được coi là bình thường, còn hiện diện rải rác ở một số vùng cộng cư Việt - Khmer - Chăm, Việt - Hoa... Trong tiếng nói của người Việt đã có sự hiện diện của các tiếng dân tộc và ngược lại, chẳng hạn như các từ lì-xì, xính xái, xí mụi, thèo lèo, tài công, tằng khạo xuất phát từ tiếng Hoa; cà ràng, xà quầng, mình ên xuất phát từ tiếng Khmer... Trong sinh hoạt vật chất cũng vậy. Chiếc phảng, chiếc nóp, cà ràng của người Khmer đã được cải tiến trở thành thân thiết với người Việt đồng bằng. Chiếc áo bà ba của người Việt cũng thành quen thuộc với nhiều dân tộc. Ngôi nhà sàn là kiểu cư trú truyền thống của người Khmer nhưng người Việt, người Chăm cũng sử dụng. Nhiều món ăn vốn gốc từ một dân tộc, nhưng sau này đã được phổ biến rộng rãi. Đặc biệt, có vài trường hợp lễ hội của riêng một dân tộc cũng được các dân tộc anh em vui chung như Tết Nguyên đán, lễ đua ghe ngo...

    Đặc biệt là về ngôn ngữ, do nơi đây từng diễn ra sự cộng cư, cộng canh, cộng tác giữa người Việt, người Khmer từ thế kỷ XVII đến nay nên phương ngữ Nam bộ có nhiều từ mượn tiếng Khmer. Cũng không ở đâu có nhiều từ mượn tiếng Hán theo giọng Quảng Đông, Triều Châu như ở đây. Bởi vì hơn ở đâu hết, trên nước Việt Nam, nhiều người Hoa vào đây từ cuối thế kỷ XVII trở đi để làm ăn sinh sống. Trong giao lưu, mua bán, người Việt đã tiếp nhận vào vốn từ ngữ của mình hàng trăm từ gốc Quảng Đông, Triều Châu. Người Hoa và văn hóa Hoa, trong sự giao hòa với người Việt và văn hóa Việt, là một mảng màu khá nổi trên vùng đất Nam bộ này.

    * Những từ mượn có nguồn gốc Khmer

    Những từ mượn có liên quan đến xã hội, phong tục người Khmer: cái xà-rông (sa-rông), cái cà-ràng, một loại bếp (âng kran), cái cần xé (canh chê), cái cù nèo (khveo), mắm bồ hóc (brô-hok), cà-ròn, bao bằng bàng (ca-rông), cà-om, một loại nồi đất (kơ-om), cái lọp để đánh cá (lop).

    Những từ mượn có liên quan đến cảnh quan thiên nhiên: Cây thốt nốt (thnôt), bưng trong bưng biền (bâng), vàm (piam), cá linh (trây linh), cá chốt (trây cân-chôh), cá hô (trây hô), con cần đước (an-đơk), cây chùm ruột (căn tuôt), cây tầm vông (ping pông), trái cà na (kna).

    Những từ mượn là địa danh gốc Khmer: Địa danh gốc Khmer còn được bảo tồn ở Nam bộ khá nhiều. Sau đây là một số dẫn chứng: Ba-thắc (tên cũ vùng đất ở miền sông Hậu và hữu ngạn sông Hậu), tiếng Khmer là prêk basak. Ô Môn (Srôk Ômô, nghĩa là xứ có nhiều cây ô môi).

    * Những từ mượn có nguồn gốc Quảng Đông, Triều Châu

    Nhiều nhất là tên những món ăn: bò pía (bảo bỉnh là loại bánh mỏng cuốn gói nhỏ với rau, tôm, thịt); dầu cháo quẩy (du chá quỹ); hủ tiếu (cốc điều); lục tàu xá (lục đậu sa, tức là chè đậu xanh); lẩu (lô); lạp xưởng (lạp trường); ngầu bín (ngưu bính là món ********* bò nấu rục); tả pín lù (tạp bỉnh lô); thèo lèo (trà liệu).

    Những từ thuộc về kinh doanh, giao tế như: chạp phô (tiệm bán tạp hóa); chánh hẩu (chính hiệu); tẩm quất (đản cốt); tứ chiếng (bốn hướng, dân tứ chiếng là dân bốn phương tụ lại).

    Nhưng thú vị nhất có lẽ là sự hòa hợp ngôn ngữ giữa các dân tộc ở Nam bộ trên bình diện ca dao. Về phương diện này, mỗi dân tộc góp vào một tiếng nói của mình, làm cho ca dao Nam bộ đa dạng hơn, phong phú hơn và lạ hơn.

    Gió đưa chú tửng từng tưng
    Gặp chị bán gừng na nả nị ơi

    Một câu ca dao với các từ láy “tửng từng tưng, na nả” ẩn chứa chỉ chú Tửng, cô Nả theo tiếng Quảng, tiếng Tiều. “Tửng” là âm tiếng Tiều của chữ “Đường”. Người Triều Châu tự xưng là Từng Náng (Đường nhân), lấy tên theo triều đại nhà Đường, một triều đại rực rỡ của Trung Quốc. Câu đầu của câu ca dao được hiểu là ngọn gió khởi lên sự vui vẻ từ lòng người chú Tiều (Từng Náng) khi gặp gỡ cô gái “Nị” là đại từ ngôi thứ hai theo âm Quảng Đông, “na” là chỉ phụ nữ tương tự như cuối câu tường thuật của tiếng Việt dùng từ: đấy, nhé... Câu ca dao nói lên hồn Việt, hồn Hoa hòa quyện vào nhau, chú, tửng, chị, nị... chứa chan tình cảm phơi phới thông qua từ láy “tửng từng tưng”, “na nả nị” quả là thần tình!

    Nếu họ không gặp thì sao?
    Trời mưa muỗi cắn máng cà
    Chờ cho ến xại lên bờ khuôi huôi
    Và hai câu ca dao thuần Việt:

    - Chờ anh cho hết sức chờ
    Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông

    - Trời xanh đất đỏ kinh xanh
    Đỉa bu muỗi cắn làm anh nhớ nàng

    “Máng cà” đúng ra là “máng cả”. “Máng” là con muỗi. “Cả” là cắn. “Cả” trại âm “cà”, do âm luật lục bát. “Ến xại” là rau muống. “Khuôi huôi” là khai hoa - trổ bông. Câu ca nói lên sự nôn nao, khắc khoải nỗi chờ đợi. Trong cái không gian miệt đồng muỗi kêu như sáo, trong cái thời gian dằng dặc trôi trên miệt đồng rau muống nảy ngọn bò lên bờ... trổ bông tình yêu chứa chan niềm hy vọng.

    Tóm lại, sắc thái ca dao Nam bộ vô cùng phong phú và đa dạng. Chính cái phong phú và đa dạng này đã làm cho ca dao Nam bộ mang nhiều vẻ của một vùng sông nước hữu tình. Và các yếu tố Hoa - Việt cùng tồn tại trong một câu ca dao lại là một mảng hết sức độc đáo của ca dao Nam bộ. Nó làm cho ca dao Nam bộ không chỉ mang dáng vẻ riêng về ca dao của một vùng đất, mà nó còn tạo cho ca dao ở đây có sự hấp dẫn, mới lạ và làm lay động lòng người.

    TRẦN PHỎNG DIỀU
  7. arrow2

    arrow2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/11/2010
    Bài viết:
    2.193
    Đã được thích:
    1.403
    một trong nhửng người hoa nổi tiếng nhất là chú hỏa, hui bon hoa, nổi tiếng vì giàu có và hơn cả nổi vì câu chuyện con ma nhà họ hứa
  8. gorko

    gorko Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2013
    Bài viết:
    1.224
    Đã được thích:
    2.439
    Ngoài bắc hay gọi là "khách khứa" từ khứa sang khựa dễ lắm.
  9. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    khựa gọi choãi từ "bựa" mà ra, chúng nó nói chớt nhả, nói tiếng lóng với nhau thành ra từ khựa. Lâu ngày mặc định Tầu bựa là Khựa.
  10. Domosh

    Domosh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2014
    Bài viết:
    30
    Đã được thích:
    9
    Bài này cũng hay mà! các bạn bài xích dữ quá vậy!

Chia sẻ trang này