1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

"Người thầy đầu tiên" - Aimatôp

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi SiriusBlack299, 06/10/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. SiriusBlack299

    SiriusBlack299 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2006
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    0
    "Người thầy đầu tiên" - Aimatôp

    Bác nào có júp em với ... có luôn cả tập truyện "Núi đồi & thảo nguyên" nữa thì càng tốt ạ!
    Xin hậu tạ 10*
  2. huongtpcvn

    huongtpcvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2006
    Bài viết:
    2
    Đã được thích:
    0
    Bạn muốn tìm cuốn sách đó hay muốn đọc trên diễn đàn? Mình có và rất thích "Truyện Núi đồi và Thảo nguyên". Nếu được mình sẽ cố gắng post nhưng chưa dám hứa.
  3. SiriusBlack299

    SiriusBlack299 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2006
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    0
    ôi ... nếu mà mượn đc sách thì là tót nhất. Sợ đợi bác up lên chắc ko kịp ... hix hix ... ko biết hiệu sách nào có cuốn này nhỉ?
  4. deckelrand

    deckelrand Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2006
    Bài viết:
    801
    Đã được thích:
    132
    Tchinguiz Ẫtmatov
    NgỈời thầy 'ầu tiên
    Dm. Tôi vẫn chỈa tìm 'Ỉợc cái chính, cái gì giờ 'ây 'ang vụt 'ến v>i tôi mTt cách bất ngờ, không gì kìm hãm 'Ỉợc, m-i lúc thêm rõ r?t, v>i mTt âm vang mỈ h" khó hifu trong tâm h"n, tựa nhỈ những tia sáng 'ầu tiên của bu.i lê minh và cứ suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Và lần nào cũng 'ều nhỈ thế. Lần nào tôi cũng lại thấy rõ ràng bức tranh của tôi m>i ch? là mTt ý '".
    Tôi v'n không phải là kẻ Ỉa nói trỈ>c hay báo tin cho bạn bè, ngay cả bạn thân, biết trỈ>c về mTt tác phẩm còn dang dY. Chẳng phải vì tôi quá Ỉ nâng niu tác phẩm của mình, mà ch? vì tôi nghĩ khó lòng 'oán biết 'Ỉợc 'ứa bé hôm qua còn nằm trong nôi sẽ l>n lên thành ngỈời nhỈ thế nào. Nói 'ến mTt tác phẩm dY dang, chỈa hoàn thành, cũng khó nhỈ thế. NhỈng lần này tôi rời bỏ nguyên tắc: tôi mu'n nói lên cho mọi ngỈời nghe thấy, 'úng hỈn là trao '.i v>i mọi ngỈời những ý nghĩ của tôi về bức tranh còn chỈa vẽ xong.
    Đó không phải là mTt ý mu'n nông n.i. Tôi không thf làm khác, vì tôi cảm thấy mTt mình tôi không 'ủ sức 'ỈỈng n.i gánh nặng này. Câu chuy?n 'ã làm rung 'Tng tâm h"n tôi, câu chuy?n 'ã thúc giục tôi cầm lấy bút vẽ, tôi thấy nó l>n lao 'ến n-i ch? riêng lòng tôi thôi thì không sao chứa 'ựng n.i. Tôi sợ làm sánh mất bát nỈ>c 'ầy, không sao 'Ỉợc 'ến tận tay các bạn. Tôi mu'n mọi ngỈời khuyên nhủ giúp tôi, mách bảo tôi cách giải quyết, tôi mu'n mọi ngỈời, dù ch? là trên dòng tỈ tỈYng, dừng lại cạnh tôi bên giá vẽ, cùng rung cảm v>i tôi.
    Xin 'ừng tiếc hỈi ấm 'ang n"ng nàn trong tim các bạn, hãy lại gần 'ây, thế nào tôi cũng phải kf lại câu chuy?n này?
    *
    * *
    Làng Kurkurêu chúng tôi nằm ven chân núi, trên mTt cao nguyên rTng có những khe nỈ>c ào ào từ nhiều ngách 'á '. xu'ng. Phía dỈ>i làng tôi là thung lũng Hoàng Th., là cánh thảo nguyên Karakh mênh mông nằm giữa các nhánh của rặng núi Đen và con 'Ỉờng sắt làm thành mTt cái thảm màu bfng qua '"ng bằng chạy tít 'ến chân trời phía tây.
    Phía trên làng tôi, giữa mTt ngọn '"i, có hai cây phong l>n. Tôi biết chúng từ thuY bắt 'ầu biết mình. Dù ai 'i từ phía nào 'ến làng Kurkurêu chúng tôi cũng 'ều trông thấy hai cây phong 'ó trỈ>c tiên; chúng luôn luôn hi?n ra trỈ>c mắt h?t nhỈ những ngọn hải 'fng 'ặt trên núi. Thậm chí tôi cũng không biết giải thích ra sao: phải chfng ngỈời ta vẫn 'ặc bi?t trân trọng nâng niu những ấn tỈợng thời thỈ ấu hay vì do có liên quan 'ến nghề hố sĩ của tôi, nhỈng cứ m-i lần về quê, khi xu'ng xe lửa 'i qua thảo nguyên về làng, tôi 'ều coi b.n phận 'ầu tiên là từ xa 'Ỉa mắt tìm hai cây phong thân thuTc ấy.
    Dù chúng có cao 'ến 'âu chfng nữa, 'ứng xa thế cũng khó lòng trông thấy ngay 'Ỉợc, nhỈng tôi thì bao giờ cũng cảm biết 'Ỉợc chúng, lúc nào cũng nom rõ.
    Đã bao lần tôi từ những ch'n xa xôi trY về Kurkurêu và lần nào tôi cũng thì thầm v>i mTt n-i bu"n da diết: ?oTa sắp 'Ỉợc thấy chúng chỈa, hai cây phong sinh 'ôi ấy? Mong sao chóng về t>i làng, chóng lên '"i mà 'ến v>i hai cây phong. R"i sau 'ó cứ 'ứng dỈ>i g'c cây 'f nghe mãi tiếng lá reo cho 'ến khi say sỈa ngây ngất?.
    Trong làng tôi không thiếu gì các lối cây, nhỈng hai cây phong này khác hẳn: chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có mTt tâm h"n riêng, mTt tâm h"n chan chứa những lời ca êm di 'ây vào lúc nào, ban ngày hay ban 'êm, chúng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay 'Tng lá cành, không ng>t tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tỈYng chừng nhỈ mTt làn sóng thuỷ triều dâng lên v- vào bãi cát, có khi lại nghe nhỈ mTt tiếng thì thầm thiết tha n"ng thắm chuyfn qua lá cành nhỈ mTt 'ám lửa vô tình, có khi hai cây phong b-ng im bặt mTt thoáng, r"i khắp lá cành lại cất tiếng thY dài mTt hỈi nhỈ thỈỈng tiếc ngỈời nào. Và khi mây 'en kéo 'ến cùng v>i bão giông, xô gãy cành, t?a trụi lá, hai cây phong nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù nhỈ mTt ngọn lửa b'c chảy rừng rực. Và trong tiếng gầm bất khuất của chúng ngỡ chừng nhỈ nghe thấy mTt lời thách thức ng- ngỈợc: ?oKhông, 'ừng hòng bắt ta phải khom lỈng khuất phục, 'ừng hòng bẻ gãy thân tâ?.
    Bao nhiêu nfm qua. Sau này, tôi 'ã hifu 'Ỉợc 'iều bí ẩn của hai cây phong. Chẳng qua 'ứng trên '"i cao lTng gió nên 'áp lại bất kì chuyfn 'Tng khe khẽ nào của không khí, m-i chiếc lá nhỏ 'ều nhạy bén 'ón lấy mọi làn gió nhẹ thống qua.
    NhỈng vi?c khám phá ra chân lí giản 'Ỉn ấy cũng vẫn không làm tôi vỡ mTng xỈa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tu.i thỈ mà tôi còn giữ 'ến nay. Và cho 'ến tận ngày nay tôi vẫn thấy hai cây phong trên '"i có mTt vẻ sinh 'Tng khác thỈờng. Tu.i trẻ của tôi 'ã 'f lại nỈi ấy, bên cạnh chúng nhỈ mTt mảnh vỡ của chiếc gỈỈng thần xanh?
    Cứ vào cu'i nfm học, trỈ>c khi bắt 'ầu ngh? hè là bọn con trai chúng tôi lại chạy ào lên 'ây phá t. chim. Cứ m-i lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên '"i là hai cây phong kh.ng l" lại nghiêng ngả 'ung 'Ỉa nhỈ mu'n chào mời chúng tôi 'ến v>i bóng râm mát rỈợi và tiếng lá xào xạc dc mắt chúng tôi cả mTt thế gi>i 'ẹp 'ẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng. Chiều rTng không cùng của 'ất 'ai làm chúng tôi sửng s't. M-i 'ứa chúng tôi 'ều nín thY ng"i yên lặng 'i trên mTt cành cây và quên mất cả chim lẫn t. chim. Chu"ng ngựa của nông trỈờng mà chúng tôi vẫn coi là toà nhà rTng l>n nhất trên thế gi>i, ng"i 'ây chúng tôi thấy ch? nhỈ mTt cfn nhà xép bình thỈờng. Phía sau làng là dải thảo nguyên hoang vu mất hút trong làn sỈỈng mờ 'ục. Chúng tôi c' gỈỈng hết tầm mắt nhìn vào nỈi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nom thấy không biết bao nhiêu 'ất 'ai mà trỈ>c 'ây chúng tôi không biết 'ến, thấy những con sông mà trỈ>c 'ây chúng tôi chỈa từng nghe nói 'ến. Những dòng sông lấp lánh tận chân trời nhỈ những sợi ch? bạc mỏng manh. Chúng tôi nép mình ng"i trên các cành cây suy nghĩ: 'ã phải 'ấy là nỈi tận cùng thế gi>i chỈa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời ấy, những 'ám mây, những '"ng cỏ và sông ngòi nhỈ thế này? Chúng tôi náu mình trên các cành cây, lắng nghe những tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây 'áp lại lời gió, thì thầm to nhỏ về những miền 'ất bí ẩn 'ầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia.
    Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim 'ập rTn ràng vì thảng th't và vui sỈ>ng, trong tiếng xạc xào không ng>t ấy tôi c' hình dung ra những miền xa lạ kia. ThuY ấy ch? có mTt 'iều tôi chỈa hề nghĩ 'ến: ai là ngỈời 'ã tr"ng hai cây phong trên '"i này? NgỈời vô danh ấy 'ã Ỉ>c mỈ gì, 'ã nói những gì khi vùi hai g'c cây xu'ng 'ất, ngỈời ấy 'ã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun x>i chúng nỈi 'ây, trên '?nh '"i cao này?
    Quả '"i có hai cây phong ấy, không biết vì sao Y làng tôi họ gọi là ?oTrỈờng Đuysen?. Tôi còn nh> h. có ai lạc mất ngựa phải 'i tìm và hỏi thfm: ?oNày, có thấy con ngựa tía nhà mình không?. Là ngỈời ta thỈờng hay 'áp: ?oCh- trên kia kìa, gần TrỈờng Đuysen ấy, 'êm qua ngựa vẫn còn fn cỏ Y 'ấy, lên tìm may ra thấy?. Bắt chỈ>c ngỈời l>n, bọn trẻ chúng tôi vẫn thỈờng lặp lại không hề suy nghĩ gì: ?oCác cậu Ỉi, lên TrỈờng Đuysen trèo cây phong phá t. chim sẻ 'i?.
    NgỈời ta thuật lại rằng trỈ>c kia trên '"i này có mTt ngôi trỈờng. NhỈng h"i ấy 'ến dấu vết của ngôi trỈờng chúng tôi cũng chẳng hề tìm thấy nữa. ThuY nhỏ tôi 'ã mấy lần c' tìm cho 'Ỉợc dù ch? là những vết tích '. nát của ngôi trỈờng. Tôi lang thang tìm kiếm mãi nhỈng chẳng thấy gì cả, về sau tôi bắt 'ầu lấy làm lạ, không hifu sao ngỈời ta lại gọi quả '"i trỈ trụi ấy là ?oTrỈờng Đuysen? và tôi 'ã có lần hỏi các cụ già xem Đuysen là ai. MTt ngỈời lỈ 'ãng khoát tay 'áp: ?oĐuysen là ai à? Đấy cái lão bây giờ vẫn còn s'ng Y 'ây ấy mà, trong th 'ó là mTt ngỈời 'ã lu'ng tu.i, vóc cao l>n, dáng xỈỈng xỈỈng, có 'ôi mày qufn rậm. Nhà ông Y bên kia sông, 'Ỉờng ĐTi hai. Dạo tôi còn Y làng thì Đuysen trông coi h? th'ng thuỷ lợi của nông trỈờng và su't ngày Y ngoài '"ng. Th?nh thống ông có 'i qua ph' tôi, trên yên ngựa buTc mTt chiếc cu'c l>n và con ngựa của ông trông cũng gi'ng chủ nó, cũng xỈỈng xẩu, vó chân thon nhỏ. Sau Đuysen già 'i và nghe nói ông 'i 'Ỉa thỈ. NhỈng 'ó là nhân thf nói vậy thôi. Vấn 'ề Y ch- khác. Theo quan ni?m của tôi lúc 'ó thì ngỈời thanh niên Komxômôn phải là mTt chàng gighit nói hfng làm hfng hỈn hết thảy mọi ngỈời trong thôn, thỈờng phát bifu trong hTi nghc kia 'ã có lúc là Komxômôn, mà hỈn nữa, 'iều 'áng ngạc nhiên nhất là lại dạy trẻ con học trong khi chính mình cũng chẳng biết 'Ỉợc bao nhiêu chữ nghĩa. Không, những chuy?n nhỈ thế tôi không tài nào hình dung n.i! Thành thực mà nói, tôi coi 'ó ch? là mTt trong bao nhiêu chuy?n c. tích 'Ỉợc truyền tụng trong làng mà thôi. NhỈng về sau m>i biết là sự thf hoàn toàn không phải nhỈ thế?
    Mùa thu nfm ngoái tôi nhận 'Ỉợc mTt bức 'i?n từ làng tôi gửi 'ến. Bà con trong làng mời tôi về dự bu.i khánh thành ngôi trỈờng m>i do nông trỈờng xây dựng lấy. Tôi lập tức quyết 'c vài ngày nữa là khác. Tôi '<nh bụng về sẽ dạo quanh, ngắm cảnh và vẽ ít bức kí hố. Trong s' những ngỈời 'Ỉợc mời về dự hoá ra có cả bà vi?n sĩ Xulaimanôvna. Tôi nghe nói bà về 'ây mTt hai hôm r"i 'i thẳng lên MatxcỈva.

  5. deckelrand

    deckelrand Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2006
    Bài viết:
    801
    Đã được thích:
    132
    Tôi biết rằng người đàn bà hiện nay đang nổi tiếng ấy đã rời làng ra tỉnh từ thuở nhỏ. Sống ở tỉnh thành được ít lâu, tôi cũng đã có dịp làm quen với bà. Bà đã nhiều tuổi, đẫy đà, mái tóc chải mượt bạc đi nhiều. Người đàn bà đồng hương nổi tiếng của chúng tôi làm chủ nhiệm bộ môn ở trường đại học tổng hợp, lên lớp giảng triết học, làm việc ở viện hàm lâm, hay đi ra nước ngoài luôn. Bà thường bận nhiều công việc và tôi vẫn chưa có dịp được quen biết thật gần gũi, nhưng bất cứ lần nào gặp tôi ở đâu bà cũng đều quan tâm đến cuộc sống tại quê hương và thế nào cũng bày tỏ ý kiến, dù là vắn tắt, về tác phẩm của tôi. Có lần tôi đánh bạo hỏi bà:
    - Antưnai Xulaimanôvna, giá bà ghé về quê thăm bà con trong làng có lẽ hay đấy. Ở làng ai cũng biết bà; ai cũng hãnh diện vì bà, nhưng phần nhiều mọi người đều chỉ mới nghe danh tiếng thôi, nên có lúc họ nói rằng bà bác học nổi danh của làng ta hình như muốn xa lánh chúng ta, quên mất đường về Kurkurêu rồi.
    - Cố nhiên phải về chứ. ?" Bà Antưnai Xulaimanôvna mỉm cười buồn buồn, ?" chính tôi vẫn mơ ước được về Kurkurêu từ lâu, đã bao nhiêu năm không về làng rồi. Kể ra tôi cũng không còn họ hàng thân thích gì ở làng nữa. Nhưng vấn đề đâu phải ở chỗ ấy. Thế nào tôi cũng về, tôi phải về; hay nhớ quê hương quá.
    Bà viện sĩ Xulaimanôvna về đến làng khi buổi lễ trọng thể khánh thành trường học sắp khai mạc. Các nông trang viên trông thấy bà qua kính cửa xe hơi và mọi người đều đổ ra đường. Từ người quen cho tới người lạ, từ cụ già cho đến trẻ con ai cũng muốn bắt tay bà. Có lẽ Antưnai Xulaimanôvna cũng không ngờ sẽ được đón tiếp như vậy, thậm chí còn luống cuống nữa thì phải. Bà đặt tay lên ngực, cúi chào mọi người và khó khăn lắm mới lách được lên bục chủ tịch đoàn.
    Chắc hẳn bà Antưnai Xulaimanôvna đã từng đi dự nhiều cuộc họp long trọng và chắc ở đâu bà cũng được đón tiếp nồng nhiệt và kính cẩn, nhưng tới đây, trong ngôi làng bình thường này, thái độ niềm nở ân cần của dân làng đã làm bà hết sức bồi hồi cảm động và bà luôn luôn cố giấu những giọt nước mắt bất giác trào ra.
    Sau phần nghi lễ các em thiếu nhi thắt khăn quàng đỏ cho vị khách quý, mang tặng hoa và mở đầu quyển sổ danh dự của trường mới lập bằng tên bà. Kế đó là cuộc biểu diễn văn nghệ rất vui vẻ hấp dẫn của học sinh, rồi ông hiệu trưởng mời chúng tôi, các tân khách, thầy giáo và lao động xuất sắc của nông trường về nhà ông.
    Đến đây họ vẫn chưa thể hết mừng rỡ với cuộc về thăm của Antưnai Xulaimanôvna. Họ mời bà ngồi vào chỗ danh dự có trải thảm và cố tìm mọi cách để nêu rõ lòng kính trọng của họ đối với bà. Như trong tất cả những dịp như thế, bầu không khí hết sức náo nhiệt, khách khứa chuyện trò sôi nổi và luôn nâng cốc chúc mừng. Nhưng bỗng có anh thanh niên người làng đi vào đưa cho chủ nhân một tập điện tín. Các bức điện được truyền qua tay mọi người: các học sinh cũ chúc mừng bà con trong làng nhân dịp khánh thành nhà trường mới.
    - Này, những bức điện này là do ông lão Đuysen mang về phải không? ?" ông hiệu trưởng nói.
    - Vâng, ?" người thanh niên đáp. ?" Ông cụ bảo suốt dọc đường quất ngựa luôn tay để về kịp buổi lễ, cho nhân dân được nghe đọc các bức điện. Ông cụ chậm mất một tí, đang buồn.
    - Thế để ông ta đứng đấy làm gì, ra bảo ông ấy xuống ngựa, mời vào đây!
    Người thanh niên ra gọi Đuysen. Bà Antưnai Xulaimanôvna đang ngồi cạnh tôi, không hiểu sao bỗng giật mình và như chợt nhớ ra điều gì, bà hỏi tôi xem họ đang nói đến Đuysen nào thế, giọng bà rất lạ.
    - Đây là người đưa thư của nông trường, bà Antưnai Xulaimanôvna ạ. Bà có biết ông cụ Đuysen à?
    Bà gật đầu qua loa, rồi toan đứng dậy, nhưng giữa lúc ấy nghe có tiếng ai cưỡi ngựa đi ngang qua cửa sổ và người thanh niên quay vào nói với chủ nhân:
    - Akxakan ạ, tôi gọi ông cụ vào đây nhưng ông ấy đi rồi, ông cụ còn phải đi phát nốt thư.
    - Thì cứ để ông lão đi đưa thư, giữ lại làm gì. Sau rồi ngồi với các cụ già cũng được, ?" có người khó chịu thốt ra.
    - Ồ! Các vị không biết Đuysen của chúng ta đấy thôi! Ông ấy là người rất nguyên tắc. Chưa làm xong việc thì không có rẽ vào đâu hết.
    - Đúng đấy, tính ông cụ lạ thật. Sau chiến tranh ông cụ xuất viện tại Ukraina, rồi ở lại đấy, mới về làng được năm năm nay. Ông cụ bảo là về chết ở quê cha đất tổ. Suốt đời cứ sống độc thân thế thôi?
    - Nhưng giá ông cụ ghé vào một tí lúc này vẫn hơn?Thôi cũng được. ?" Và chủ nhân khoát tay.
    - Các đồng chí, nếu các đồng chí còn nhớ thì ngày xưa chúng mình đã từng học ở trường Đuysen. ?" Một trong số những người được kính nể nhất ở làng nâng cốc nói. ?" Mà chính ông ta thì hẳn là chưa biết hết mặt chữ cái. ?" Người phát biểu nheo mắt và lắc đầu. Tất cả dáng bộ ông ta lộ rõ ý ngạc nhiên và chế giễu.
    - Ấy đúng như thế đấy, - mấy giọng nói hưởng ứng theo. Cử toạ cười phá lên.
    - Bấy giờ thì còn phải nói! Hồi ấy còn thiếu trò gì mà Đuysen lại không bày vẽ ra. Chúng mình thì cứ tưởng ông là thầy giáo thật kia chứ!
    Khi tiếng cười đã ngớt, người vừa nâng cốc nói tiếp:
    - Bây giờ mọi người đều đã trưởng thành lên ngay trước mắt chúng ta. Bà viện sĩ Antưnai thì cả nước biết tiếng. Hầu hết chúng ta đều có trình độ giáo dục phổ thông và nhiều người có trình độ đại học. Hôm nay chúng ta làm lễ khánh thành trường trung học mới ở làng, chỉ riêng một điều đó thôi cũng đủ nói lên cuộc sống đã thay đổi biết chừng nào. Vậy thì, thưa bà con, chúng ta hãy cạn chén chúc cho mai này con cháu làng Kurkurêu sẽ trở thành những con người tiên tiến của thời đại.
    Mọi người lại ồn ào và nhất tề hưởng ứng cốc rượu mừng, riêng bà Antưnai Xulaimanôvna đỏ mặt, như có điều gì khiến bà gượng ngùng và chỉ nhấp môi vào cốc rượu. Nhưng mọi người đang lúc hoan hỉ và mải mê trò chuyện nên không để ý thấy thái độ của bà.
    Antưnai Xulaimanôvna xem đồng hồ mấy lần. Rồi đến khi khách khứa đã ra đường, tôi thấy bà đứng riêng sang một bên con kênh đào, cách hẳn mọi người và nhìn đăm đăm lên ngọn đồi chỗ hai cây phong sang độ thu đã ngả màu đỏ úa đang đung đưa trước gió. Mặt trời lặng xuống vết dài màu tím nhạt của thảo nguyên xa tắp trong buổi hoàng hôn. Từ phía ấy, ánh nắng đang tàn lụi nhuộm một sắc đỏ tía đùng đục, buồn thảm lên ngọn hai cây phong.
    Tôi bước lại gần bà Antưnai Xulaimanôvna.
    - Bây giờ hai cây phong đang rụng lá. Giá bà nhìn chúng vào mùa xuân, lúc đang độ đâm chồi nẩy lộc thì thích hơn. ?" Tôi nói.
    - Chính tôi cũng đang nghĩ thế đấy - Antưnai Xulaimanôvna thở dài, lặng thinh một lát rồi nói tiếp như tự nhủ mình: - mà phải, sinh vật nào cũng có mùa xuân và mùa thu của nó.
    Trên khuôn mặt tàn úa đã có nhiều nếp nhăn nhỏ bé xung quanh mắt thoáng hiện vẻ ưu tư. Bà đứng nhìn hai cây phong với nỗi buồn u uất mà chỉ phụ nữ mới có được. Và tôi bỗng thấy như đứng trước mặt tôi không phải là viện sĩ hàn lâm Xulaimanôvna nữa mà chỉ là một phụ nữ Kirghizi bình thường, hết sức chất phác trong mọi nỗi khổ niềm vui. Người đàn bà thông thái ấy hẳn là giờ đây đang nhớ lại tuổi xuân của mình, cái tuổi xuân mà, như lời hát trong các bài dân ca của chúng tôi, dẫu có đứng trên đỉnh núi cao nhất cũng không sao gọi thấu. Hình như trong khi nhìn lên hai cây phong bà muốn nói điều gì, nhưng rồi chắc bà nghĩ sao lại thôi và lật đật đeo cặp kính vẫn cầm ở tay trên mắt.
    - Hình như xe lửa đi Matxcơva chạy qua đây vào mười một giờ phải không.
    - Vâng, lúc mười một giờ đêm.
    - Thế thì tôi phải sửa soạn ngay mới được.
    - Sao lại đột ngột thế ạ! Antưnai Xulaimanôvna, bà đã hứa ở lại vài ngày cơ mà? Dân làng không để bà đi đâu.
    - Không, tôi có nhiều việc gấp phải đi ngay bây giờ.
    Dù dân làng có cố vật nài đến đâu, có tỏ vẻ giận dỗi đến thế nào, Antưnai Xulaimanôvna cũng vẫn một mực không đổi ý.
    Trong khi đó trời bắt đầu sẩm tối. Dân làng buồn rầu đưa bà ra xe, sau khi được bà hứa rằng lần sau sẽ về một tuần lễ, có khi lâu hơn là khác. Tôi tiễn Antưnai Xulaimanôvna đến tận ga.
    Vì sao Antưnai Xulaimanôvna lại vội ra đi một cách đột ngột như vậy? Làm phật ý bà con trong làng, nhất là vào một ngày như thế, tôi thấy quả không nên. Dọc đường đã mấy lần tôi định hỏi bà về chuyện đó, nhưng rồi lại không dám. Chẳng phải vì tôi sợ tỏ ra thiếu lịch thiệp, mà chỉ vì tôi hiểu rằng đằng nào bà cũng sẽ chẳng nói gì hết. Suốt dọc đường bà cứ lặng thinh, ưu tư suy nghĩ điều gì.
    Tuy vậy, khi lên đến ga, tôi cũng hỏi bà:
    - Bà Antưnai Xulaimanôvna, hình như bà có điều gì bận tâm, hay chúng tôi đã làm bà giận?
    - Sao anh lại nói thế! Anh không được nghĩ như vậy! Tôi còn có thể giận ai được chứ? Hoạ chăng giận mình thì có. Phải, lẽ ra phải giận mình mới đúng.
    Thế là bà Antưnai Xulaimanôvna ra đi. Tôi trở lại thành phố và mấy hôm sau bỗng nhận được thư của bà. Bà cho biết là sẽ ở lại Matxcơva lâu hơn dự định và viết:
    ?oTuy có rất nhiều công việc quan trọng và khẩn cấp, tôi cũng đã quyết định gác hết lại và viết lá thư này cho anh? Nếu anh thấy điều gì tôi viết đây đáng được chú ý thì tôi khẩn khoản xin anh nghĩ xem làm thế nào cho mọi người cùng biết câu chuyện tôi sẽ kể. Tôi nghĩ không phải chỉ riêng bà con trong làng mà nói chung mọi người, nhất là lứa tuổi trẻ, đều cần biết câu chuyện này. Tôi đã thấy rõ như vậy sau bao lần đắn đo cặn kẽ. Đó là lời xưng tội của tôi trước mọi người. Tôi cần phải làm tròn bổn phận của tôi. Càng nhiều người được biết thì lương tâm tôi càng đỡ cắn rứt. Anh đừng sợ làm cho tôi lâm vào tình trạng khó xử. Anh đừng giấu giếm gì hết??
    Tôi đã mang nặng trong lòng những ấn tượng của lá thư ấy mấy ngày liền. Và tôi không nghĩ ra được cách gì hơn là thay mặt bà Antưnai Xulaimanôvna để kể hết chuyện này.
  6. deckelrand

    deckelrand Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2006
    Bài viết:
    801
    Đã được thích:
    132
    Phần 2

    Đó là vào năm 1924. Phải, đúng vào năm ấy?
    Nơi hiện nay là nông trường chúng ta, bấy giờ là một thôn nhỏ của dân nghèo định cư. Lúc ấy tôi mười bốn tuổi và sống ở nhà ông chú họ. Cha mẹ tôi đều đã qua đời.
    Mùa thu năm ấy, chẳng bao lâu sau khi những nhà có máu mặt đã dời vào núi để trú qua mùa đông, có một thanh niên lạ mặt chiếc áo choàng bộ đội về làng. Tôi còn nhớ chiếc áo choàng, vì không hiểu sao nó lại bằng dạ đen. Đối với thôn chúng tôi, một thôn hẻo lánh nép vào chân núi cách xa đường cái, sự xuất hiện của con người mặc áo nhà nước này là một sự việc quan trọng.
    Lúc đầu người ta bảo rằng đó là một cấp chỉ huy trong bộ đội cho nên về làng cũng sẽ làm trưởng thôn, sau hoá ra anh ta chẳng phải là cấp chỉ huy gì cả, mà chính là con ông lão Tatanbek đã bỏ làng đi làm đường sắt từ dạo đói bao nhiêu năm trước đây và từ đấy biệt hẳn tăm tích. Còn anh này là Đuysen, con ông ta, hình như được cử về làng để mở trường dạy trẻ.
    Thời bấy giờ những thứ như ?onhà trường?, ?ohọc tập? hãy còn là những danh từ mới mẻ, chẳng mấy ai hiểu rõ cho lắm. Người thì tin những tiếng đồn đại, người thì cho đây là những chuyện đàn bà bàn tán nhảm và có lẽ họ đã quên mất cái trường ấy, nếu mấy hôm sau không có lệnh gọi dân làng đi họp. Chú tôi càu nhàu mãi: ?oLại họp hành gì nữa, cứ làm người ta bỏ công việc mãi vì những chuyện vớ vẫn?, nhưng sau ông ta cũng thắng ngựa và đi họp như mọi người đàn ông khác biết tự trọng. Tôi cũng chạy theo chú tôi cùng với lũ trẻ con hàng xóm.
    Lúc chúng tôi thở hổn hển chạy lên gò chỗ dùng làm nơi hội họp thì chính anh thanh niên xanh xao mặc áo khoác đen ấy đang phát biểu trước đám người đi bộ và cưỡi ngựa tập hợp xung quanh. Chúng tôi không nghe rõ lời anh nói nên định nhích lại gần, nhưng bỗng một cụ già mặc chiếc áo lông rách như vừa sực tỉnh, vội vã ngắt lời anh:
    - Này cháu ơi, - ông cụ bắt đầu lắp bắp nói, - trước kia thì các pháp sư dạy trẻ con, mà bố cháu thì chúng ta biết rõ lắm, cũng khố rách áo ôm như chúng ta đây thôi. Cháu thử nói xem cháu đã thành pháp sư tự bao giờ?
    - Cháu không phải là pháp sư, cụ ạ, cháu là thanh niên Komxômôn, ?" Đuysen đáp nhanh. ?" Mà bây giờ thì không phải pháp sư dạy trẻ con đâu, mà là các thầy giáo. Cháu đã được học chữ ở bộ đội và trước đó cũng võ vẽ ít nhiều. Đấy cụ xem cháu là thứ pháp sư gì.
    - A, ra thế?
    - Khá đấy! ?" Có những tiếng reo cổ vũ.
    - Như vậy là đoàn Komxômôn cử tôi về đây dạy con trẻ bà con. Nhưng muốn dạy thì phải có chỗ mà dạy. Tôi định làm nhà trường, cố nhiên là với sự giúp đỡ của bà con, ở chỗ chuồng ngựa cũ trên đồi kia. Bà con nghĩ sao?
    Mọi người im lặng như thể đang cân nhắc trong óc: cái anh chàng lạ mặt này muốn gì nhỉ? Ông Xatumkun vừa nheo mắt như nhắm bắn vừa thốt lên. ?" Tốt hơn hết là cậu hãy nói xem là chúng ta cần cái trường ấy để làm gì?
    - Sao lại để làm gì? ?" Đuysen ngỡ ngàng hỏi.
    - Đúng đấy! ?" có ai trong nhóm đông phụ hoạ theo.
    Và mọi người bỗng cùng nhốn nháo, ồn ào cả lên.
    - Từ thượng cổ đến nay người ta chỉ sống bằng nghề nông, cái cuốc nuôi ta sống. Và con cái chúng ta cũng sẽ sống như thế thôi, học hành làm quỷ gì. Làm chỉ huy thì mới cần chữ nghĩa, chúng ta chỉ là dân thường thôi. Đừng tán chuyện vớ vẩn nữa!
    Những tiếng xôn xao lặng đi một lát.
    - Chẳng lẽ bà con lại phản đối việc cho con em đi học sao? ?" Đuysen ngơ ngác hỏi, nhìn chằm chặp vào mặt những người đứng quanh anh.
    - Thế nếu phản đối thì sao, dễ anh bắt buộc được chúng tôi à? Thời buổi ấy đã qua rồi. Nhân dân chúng tôi bây giờ tự do, chúng tôi muốn sống ra sao thì sống!
    Mặt Đuysen nhợt hẳn đi. Anh run run đưa tay lên tháo móc gài áo khoác ra, móc túi áo trong lấy ra một tờ giấy gấp tư và vội vã mở ra, giơ cao lên quá đầu.
    - Nghĩa là các người chống lại tờ giấy này, tờ giấy nói về việc học hành của trẻ em, có đóng dấu của chính quyền Xô-viết. Thế ai cho các người đất cày, nước tưới? Ai mang lại tự do cho các người? Nào, ai chống lại luật lệ của chính quyền Xô-viết, ai? Nói đi!
    Anh thét lên hai tiếng ?onói đi? bằng một giọng giận dữ rung lên sang sảng, nghe hùng dũng như một viên đạn xé tan cảnh ấm cúng của bầu không khí tĩnh mịch trời thu và như một tiếng nổ, giọng anh vang dội thành một tiếng vọng ngắn trong vách núi. Không ai thốt ra lời nào. Mọi người im lặng, đầu cúi gầm.
    - Chúng ta là những kẻ nghèo khó, ?" Đuysen nói, giọng đã khẽ hơn ?" Suốt đời chúng ta đã bị chà đạp nhục nhã. Chúng ta đã phải sống trong cảnh tăm tối. Giờ đây chính quyền Xô-viết muốn cho chúng ta trông thấy ánh sáng, muốn cho chúng ta biết đọc biết viết. Muốn thế thì phải dạy trẻ em học?
    Đuysen ngừng lời chờ đợi. Và lúc đó chính ông cụ mặc chiếc áo lông rách đã hỏi anh làm thế nào mà lại thành pháp sư, lẩm bẩm bằng một giọng làm lành:
    - Thôi được, anh đã muốn thì cứ dạy đi, còn chúng tôi đây thì?Chúng tôi không chống lại luật pháp.
    - Nhưng tôi xin bà con giúp đỡ tôi. Chúng ta phải chữa lại cái chuồng ngựa của phú nông trên đồi kia, phải làm cầu qua sông, nhà trường cần có củi?
    - Này hượm đã, chàng gighit ơi, nhanh nhảu quá đấy! ?" Lão Xatưmkun - hay cãi ngắt lời Đuysen.
    Lão xì nước bọt qua kẽ răng, rồi lại nheo mắt như nhắm bắn:
    - Anh hét ầm cả làng là ?oTôi sẽ mở trường!?. Nhưng thử xem anh kìa: trên người chiếc áo lông chẳng có, dưới chân thì con ngựa cũng không, đến mảnh đất cày bằng bàn tay thôi cũng không có nốt, chẳng có được mống súc vật nào trong sân! Vậy thì anh định sinh sống ra sao, anh bạn thân mến? Hoạ chăng có đi chăn súc vật cho người khác? Nhưng khốn nỗi chúng tôi không có súc vật cho anh chăn đâu. Những kẻ có thì đã lên núi rồi.
    Đuysen muốn trả lời một câu gì cho thật xẵng, nhưng rồi nén giận nói khẽ:
    - Tôi sẽ có cách sống. Tôi sẽ có lương.
    - A, cứ nói ngay thế có phải hơn không! ?" Và Xatưmkun hể hả ngồi thẳng người lên lưng ngựa, vẻ đắc thắng rõ rệt. ?" Bây giờ thì mọi sự đã rõ. Anh bạn trẻ ơi, việc anh thì anh cứ làm lấy, cứ lĩnh lương mà dạy trẻ. Nhà nước thiếu gì tiền. Còn chúng tôi thì anh cứ để chúng tôi yên thân, nhờ trời công việc của chúng tôi cũng ngập đến cổ rồi?
    Nói đoạn Xatưmkun quay ngựa đi về nhà. Những người khác cũng theo lão kéo nhau về. Chỉ còn Đuysen vẫn đứng trơ lại tay cầm tờ giấy. Tội nghiệp anh không biết đi đâu bây giờ nữa?
    Tôi thấy ái ngại cho Đuysen. Tôi cứ đứng nhìn anh không rời mắt cho đến khi chú tôi cưỡi ngựa đi qua quát gọi:
    - Cái con đầu bù kia, làm gì mà đứng há hốc mồm ra đấy, có chạy mau về nhà không? ?" Tôi đành cắm đầu đuổi theo các bạn. ?" Chà, cái con này, thứ chúng nó mà cũng đã tấp tểnh đi họp rồi kia đấy!
    Ngày hôm sau, bọn con gái chúng tôi đang đi lấy nước thì gặp Đuysen ở bờ sông. Anh đang lội sang bờ bên kia, tay cầm xẻng, cuốc, rìu và một chiếc thùng cũ.
    Từ hôm ấy sáng nào cũng thấy Đuysen mặc chiếc áo đen lủi thủi theo con đường mòn leo lên đồi tới chỗ chuồng ngựa bỏ hoang. Và đến tối mịt mới trở xuống về làng. Chúng tôi thường thấy anh mang một bó củi hay một bó rạ khô lớn trên lưng. Trông thấy anh từ xa, ai nấy đều rướn người trên bàn đạp và che mắt nhìn, ngạc nhiên bàn tán:
    - Này, hình như thầy giáo Đuysen đang cõng củi kia phải không?
    - Chính anh ta rồi.
    - Chà, tội nghiệp. Nghề thầy giáo xem ra cũng chẳng nhẹ nhàng gì.
    - Thế anh tưởng thế nào. Cứ xem anh ta cõng lấy bao nhiêu kia, chẳng kém gì thằng ở nhà phú nông cả.
    - Thế mà nghe anh ta diễn thuyết thì ra phết lắm.
    - Ấy, là vì anh có tờ giấy đóng dấu, bao nhiêu sức mạnh ở đấy hết.
    Có lần, mang những túi đựng đầy kigiăc nhặt ở chân núi mé trên làng trở về, chúng tôi vòng vào trường: xem thử thầy giáo đang làm gì ở đấy cũng hay. Căn nhà kho cũ bằng đất nện này trước kia vốn là chuồng ngựa của phú nông. Trước kia, vào mùa đông, người ta thường nhốt những con ngựa cái đẻ con trong những ngày giá rét ở đây. Sau khi chính quyền Xô-viết lên, tên phú nông bỏ đi đâu mất và chuồng ngựa vẫn còn lại đó. Không ai bước chân đến đây và chung quanh gai góc mọc lên rậm rạp. Bây giờ những cây cỏ dại đã bị phạt đến tận rễ xếp thành đống nằm gọn một bên, cái sân đã được dọn sạch. Những bức vách xiêu vẹo dãi dầu mưa nắng đã được trát đất lại; cánh cửa ọp ẹp, trước đây chỉ còn bám lủng lẳng vào mỗi một chiếc bản lề, nay cũng được sửa lại và lắp vào cẩn thận.
    Lúc chúng tôi đặt các bao kigiăc xuống đất để nghỉ một lát, Đuysen từ trong cửa bước ra, người bê bết đất. Trông thấy chúng tôi, anh ngẩn người ra một lát, nhưng rồi lại mỉm cười niềm nở, lấy tay quệt mồ hôi trên mặt.
    - Đi đâu về thế các em gái?
    Chúng tôi ngồi cạnh những bao kigiăc thẹn thò nhìn nhau, Đuysen hiểu rằng chúng tôi im lặng vì bẽn lẽn nên nháy mắt động viên:
    - Những cái bao kia to hơn cả người các em đấy. Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi. Ta vừa đắp một thứ lò sưởi ở góc nhà và bắc cả ống khói trên mái, các em thử nhìn xem! Giờ chỉ còn phải trữ sẵn củi để sưởi trong mùa đông nữa thôi, nhưng không sao, chung quanh thiếu gì củi khô. Dưới nền nhà ta sẽ trải rơm thật nhiều, thế là có bắt đầu học được rồi. Thế nào, các em thích học không, các em sẽ đi học chứ?
    Tôi hơn các bạn gái khác nên đánh bạo trả lời:
    - Nếu thím em cho đi thì em sẽ đi.
    - Sao thím em lại không cho, thế nào cũng cho chứ. Vậy tên em là gì?
    - Antưnai. ?" Tôi vừa đáp vừa lấy tay che chỗ gấu váy thủng để hở một mảng đầu gối.
    - Antưnai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không? ?"Đuysen mỉm cười hiền từ khiến tôi thấy lòng ấm hẳn lại.
    - Thế em con ai?
    Tôi lặng thinh; tôi vốn không thích có ai thương hại tôi.
    - Chị ấy mồ côi ạ, chị ấy ở với ông chú, - mấy đứa bạn tôi đỡ lời.
    - Thế này nhé, - Đuysen mỉm cười nói với tôi, - Antưnai ạ, em sẽ dẫn các em khác đi học được chứ?
    - Thưa chú được ạ.
    - Các em cứ gọi ta là thầy. Các em có muốn xem trường không? Vào đây, các em đừng ngại gì cả.
    - Không, chúng em phải về nhà đây, ?" chúng tôi rụt rè nói.
    - Thôi được, các em chạy về nhà đi. Khi nào đến học các em sẽ xem sau vậy. Giờ chưa tối, thầy đi lấy rạ khô lần nữa đã.
    Cầm lấy chiếc liềm và sợi dây, Đuysen bước ra đồng. Chúng tôi cũng đứng dậy cõng những bao kigiăc lên lưng và rảo bước về làng. Tôi chợt nảy ra một ý nghĩ bất ngờ.
    - Này các cậu ơi, - tôi gọi các bạn ?" Ta đổ kigiăc vào trong trường đi, đến mùa đông sẽ có được nhiều cái đốt sưởi hơn.
    - Thế về nhà tay không à? Chà, khôn đấy nhỉ!
    - Nhưng ta sẽ quay lại nhặt thêm nữa.
    - Thôi muộn mất, về nhà lại bị mắng đấy.
    Và bọn con gái không chờ tôi, cứ rảo cẳng về nhà.
    Cho đến nay tôi vẫn không hiểu hôm ấy cái gì xui khiến tôi dám làm một việc như thế. Không biết vì tôi giận các bạn đã không nghe tôi nên cứ muốn làm theo ý mình, hay từ thuở bé mọi ước nguyện, mọi ý muốn của tôi đều bị chôn vùi dưới những lời mắng chửi, những cái bạt tai của những con người phũ phàng, chỉ biết là tôi vẫn thấy muốn làm việc gì để cảm ơn con người thật ra không quen biết ấy, để đền đáp lại nụ cười đã sưởi ấm lòng tôi, đền đáp lòng tin cậy của người ấy đối với tôi, đền đáp mấy câu nói nhân từ ấy. Và giờ đây tôi biết rất rõ, tôi tin chắc rằng cuộc đời thật sự của tôi tất cả cuộc sống với mọi niềm vui nỗi khổ của tôi đã bắt đầu chính từ ngày hôm đó, chính từ bao kigiăc ấy. Tôi nói như vậy bởi vì chính hôm đó, lần đầu tiên trong đời tôi đã không đắn đo, không sợ bị phạt, đã quyết định và làm điều tôi cho là cần thiết. Khi các bạn bỏ tôi lại, tôi chạy trở về trường Đuysen, trút bao kigiăc xuống dưới cửa và cắm đầu chạy men theo các khe rãnh, các hẻm đá ở chân núi nhặt kigiăc.
    Tôi cứ chạy mãi, không còn biết mình đi đâu nữa, như thể vì quá dư sức mà tim tôi sung sướng đập rộn rã trong ***g ngực, tựa hồ như tôi đã làm nên công trạng vì vô cùng to lớn. Và cả mặt trời cũng như biết rõ vì đâu tôi sung sướng đến thế. Phải, tôi tin rằng mặt trời cũng biết vì đâu tôi lại chạy tung tăng nhẹ nhàng như thế. Bởi vì tôi đã làm được một việc nhỏ hữu ích.
    Mặt trời đã xế bóng ngang các sườn đồi, nhưng tôi cảm thấy dường như còn chần chừ không muốn lặn, còn muốn nhìn tôi. Ánh mặt trời tô điểm con đường tôi đi: mặt đất rắn mùa thu trải qua dưới chân tôi nhuộm thành màu đỏ, màu hồng, màu tím. Từng cụm bông lau khô vun vút bay hai bên như những tia lửa lập loè. Mặt trời rọi lửa lên những chiếc cúc mạ bạc trên tấm áo đầy mụn vá tôi mặc. Và tôi cứ chạy đi, trong lòng hoan hỉ nói với đất trời, với gió mâ: ?oHãy nhìn tôi đây! Hãy nhìn xem tôi đang kiêu hãnh chừng nào! Tôi sẽ học hành, tôi sẽ đến trường và sẽ dẫn các bạn khác đến!??
    Không biết tôi chạy như thế bao lâu, nhưng tôi bỗng sực nhớ ra là phải nhặt kigiăc nữa. Thế nhưng lạ thay, suốt mùa hè ngần ấy súc vật thả ở đây và lúc nào cũng thấy nhan nhản bao nhiêu kigiăc, vậy mà giờ đây tựa hồ như đất đã ngốn hết mất cả. Hay chỉ vì tôi không chịu tìm? Tôi chạy hết chỗ này sang chỗ kia, càng đi xa kigiăc càng ít đi. Bấy giờ tôi mới nghĩ ra rằng từ giờ đến tối không thể kịp nhặt được đầy túi phân mất, tôi sợ hãi, chạy lung tung theo các bụi lau, ôi cuống cuồng vội vã. Cuối cùng tôi cũng nhặt được nửa bao. Lúc ấy mặt trời đã lặn hẳn, trong hẻm núi trời bắt đầu sẩm tối rất nhanh.
    Chưa bao giờ tôi ở ngoài đồng một mình muộn đến thế. Đêm đã buông cánh đen sẫm xuống những triền đồi yên lặng, không một bóng người. Sợ thất thần, tôi vác chiếc bao lên vai và cắm đầu chạy về làng. Tôi khiếp đảm và có lẽ tôi đã kêu lên, khóc lên, nếu không có một ý nghĩ, dù là lạ lùng, tự nhiên kìm tôi lại, là thầy Đuysen sẽ nói sao, nếu trông thấy tôi yếu đuối như thế này. Và tôi đã lấy lại can đảm, tự cấm mình không được ngoái nhìn lại nữa, như có thầy đang đứng một bên nhìn theo tôi vậy.

  7. deckelrand

    deckelrand Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2006
    Bài viết:
    801
    Đã được thích:
    132
    Tôi chạy về đến nhà, thở hổn hển, người đầy bụi và mồ hôi. Tôi vừa thở vừa bước qua ngưỡng cửa. Thím tôi đang ngồi cạnh bếp, đứng lên đón tôi, vẻ doạ nạt. Thím tôi vốn là người độc ác thô bạo.
    - Mày đi đâu mất mặt thế? ?" Thím bước lại gần tôi và tôi chưa kịp thốt ra lời nào, thím đã giật lấy chiếc bao trên người tôi và lẳng sang một bên. ?" Suốt ngày mày lượm được từng này đây hở?
    Thì ra tụi bạn gái đã hớt lẻo với thím tôi rồi.
    - Con quỷ đen kia! ?" Đứa nào xúi mày ghé vào trường? Sao mày không chết rấp trên cái trường ấy đi cho rảnh. ?" Thím túm lấy vai tôi và bắt đầu đánh liên hồi vào đầu. ?" Quân không cha không mẹ! Chó sói có bao giờ lại thành chó nhà được. Con nhà người ta thì tha của về nhà, còn nó chỉ chực đem của nhà đi cho thiên hạ. Muốn xem trường thì rồi tao sẽ cho xem, mày cứ còn bén mảng đến gần đấy là tao đánh què cẳng đi. Tao sẽ cho mày nhớ đời cái trường ấy?
    Tôi nín lặng, chỉ muốn sao đừng thét lên. Nhưng sau đó, vừa ngồi đẩy bếp tôi vừa lặng lẽ khóc vụng, tay sẽ vuốt ve con mèo mướp, còn con mèo thì lúc nào tôi khóc nó cũng biết và nhảy lên đầu gối tôi. Tôi không khóc vì những đòn thím tôi đánh, không, vì tôi đã quen chịu đòn quá nhiều rồi, tôi khóc vì hiểu rằng thím tôi không đời nào chịu cho tôi đi học?
    Hai ngày sau, sáng sớm trong làng chó bỗng sủa ran lên và có những tiếng nói oang oang. Hoá ra là Đuysen đi từng nhà gọi trẻ em đến trường. Lúc bấy giờ trong làng còn chưa có ngõ lối gì cả, ai tiện đâu thì làm nhà đấy. Đuysen cùng bọn trẻ kéo theo sau thành một đám ồn ào đi hết nhà nọ sang nhà kia.
    Nhà tôi ở tận cuối làng. Giữa lúc ấy tôi đang cùng thím tôi giã kê trong chiếc cối gỗ, còn chú tôi thì đang đào chỗ thóc để dưới hố gần nhà chứa đồ để mang ra chợ bán. Tôi và thím tôi đang đứng giã, lần lượt giáng những chày nặng nề xuống cối, nhưng tôi vẫn kịp lén nhìn xem thầy giáo còn xa không. Tôi sợ thầy không đi đến tận nhà chúng tôi. Dẫu tôi biết thím tôi sẽ không cho đi học, tôi vẫn muốn Đuysen đến, dù chỉ để thầy biết tôi ở chỗ nào. Và tôi thầm van thầy đừng quay trở lại trước khi đến nhà tôi.
    - Chào bà chủ, cầu trời phù hộ cho bà! Mà trời không phù hộ thì cả bọn chúng tôi sẽ cùng ùa vào giúp một tay, bà xem chúng tôi có đông không này! ?" Đuysen chào thím tôi bằng một câu pha trò kéo theo sau lũ học trò tương lai.
    Thím tôi ậm ự trả lời, còn chú tôi thì ở dưới hố chôn thóc cũng chẳng thò đầu lên.
    Nhưng điều đó không làm Đuysen bối rối. Thầy ngồi xuống khúc gỗ nằm ở giữa sân, vẻ bận rộn, lấy bút chì và giấy ra.
    - Hôm nay chúng tôi bắt đầu dạy học ở trường. Con gái bà bao nhiêu tuổi?
    Thím tôi không đáp, giận dữ ném chày vào cối. Thím tôi rõ ràng không muốn tiếp chuyện. Người tôi như co rúm lại: rồi cơ sự sẽ ra sao đây? Đuysen nhìn tôi và mỉm cười. Và cũng như lần ấy, tôi thấy lòng ấm hẳn lại.
    - Antưnai, em bao nhiêu tuổi? ?" Thầy hỏi.
    Tôi không dám trả lời.
    - Việc gì mà anh phải biết nó bao nhiêu tuổi, anh là thứ thanh tra gì thế? ?" Thím tôi giận dữ nói. ?" Nó không học được đâu. Cái quân không cha không mẹ ấy thì học gì, đến những đứa có mẹ có cha hẳn hoi cũng còn không học nữa là. Anh cứ kéo cả lũ oắt kia đi mà dạy, không bận gì đến anh ở đây cà.
    Đuysen đứng phắt dậy.
    - Bà hãy nghĩ lại xem bà nói gì thế? Nó mồ côi thì có tội tình gì? Hay có luật lệ nào không cho các trẻ em mồ côi đi học?
    - Luật lệ của anh thì tôi cần gì! Tôi có luật lệ riêng của tôi, anh không cần phải dạy tôi.
    - Luật lệ là luật lệ chung. Và nếu bà không cần đến cháu gái, thì chúng tôi cần nó, chính quyền Xô-viết cần nó. Còn bà chống lại thì chúng tôi sẽ cho bà biết!
    - Ồ gớm nhỉ, anh là cái thá gì mà dám lên mặt với tôi! ?" Thím tôi đứng chống nạnh, vẻ khiêu khích. ?" Theo anh thì ai là người có quyền cai quản nó? Thử hỏi tôi nuôi nấng nó hay anh, cái thứ cầu bơ cầu bất hết đời cha sang đời con kia?
    Không biết rồi câu chuyện sẽ kết thúc ra sao, nếu lúc ấy chú tôi, mình trần trùng trục, không trèo lên khỏi hố thóc. Chú thường bực mình không sao chịu được khi thấy vợ cứ nhúng vào những công việc không phải của mình, quên mất rằng trong nhà thì người chồng làm chủ. Chú tôi thường đánh đập thím ấy tàn nhẫn vì những tội như vậy. Và lần này cũng có thể thấy rõ ràng chú đã điên tiết lắm rồi.
    - Thôi đi, đồ đàn bà! ?" Chú vừa quát tháo vừa leo lên. ?" Bà làm chủ trong nhà này từ bao giờ đấy, bà bắt đầu chỉ huy từ bao giờ thế hả? Bớt ba hoa đi mà làm nhiều vào. Còn con ông Tastanbek kia, anh cứ đưa con bé đi, muốn dạy nó học thì dạy, muốn làm gì nó thì làm. Thôi cút đi!
    - A, thế ra con bé sẽ đi lêu lổng ngoài trường học, còn công việc ở nhà thì ai làm cho? Để dồn cả tôi à? ?" Thím tôi vừa hé miệng, chú tôi đã chặn ngay:
    - Thôi, không lôi thôi gì nữa!
    Chẳng có việc gì mà lại không có một phần may. Chuyện tôi được đi học lần đầu là như thế đấy.
    Từ hôm đó sáng nào thầy Đuysen cũng đến từng nhà để gọi chúng tôi.
    Lần đầu tiên chúng tôi tới trường, thầy giáo sắp xếp cho chúng tôi ngồi trên các ổ rơm trải giữa sàn nhà rồi phát cho mỗi đứa một quyển vở nhỏ, một cái bút chì và một chiếc bảng con.
    - Các em tì bảng lên đầu gối mà viết cho dễ, - thầy Đuysen giảng giải.
    Rồi thầy chỉ lên bức chân dung của một người Nga dán trên vách nói:
    - Đây là Lênin!
    Suốt đời tôi vẫn nhớ bức chân dung ấy. Không hiểu tại sao về sao tôi không thấy nơi nào có bức đó nữa và trong thâm tâm tôi vẫn thầm gọi là bức chân dung Lênin ?ocủa Đuysen?. Lênin trên bức ảnh mặc chiếc áo dài quân nhân hơi rộng, má gầy hóp, bộ râu cằm lởm chởm. Cánh tay bị thương của Người treo băng trước ngực đầu đội mũ lưỡi trai hơi hất ra sau, đôi mắt chăm chú của người nhìn xuống một cách điềm đạm. Cái nhìn dịu dàng làm ấm lòng người dường như nói với chúng tôi: ?oCác cháu ơi, giá các cháu biết một tương lai đẹp đẽ đến nhường nào đang chờ các cháu!?. Trong phút yên lặng ấy tôi cảm thấy như Người quả đang nghĩ đến tương lai của tôi thật. Bức chân dung in trên loại giấy áp phích thường, những đường gấp đã sờn và mép giấy đã nát bươm, chứng tỏ rằng Đuysen giữ bức ảnh đã lâu. Nhưng ngoài tấm chân dung ấy ra, trên bốn bức vách của lớp học không còn gì nữa.
    Thầy Đuysen nói:
    - Thầy sẽ dạy các em biết đọc, biết đếm, hướng dẫn các em viết chữ cái, chữ số.
    Và quả nhiên thầy đã dạy chúng tôi tất cả những gì thầy biết và trong khi dạy bảo chúng tôi, thầy đã tỏ ra kiên nhẫn lạ thường. Cúi xuống sát từng học sinh một, thầy chỉ bảo từng cách cầm bút chì, rồi về sau lại say sưa giảng cho chúng tôi những chữ khó.
    Giờ đây nghĩ lại tôi không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: làm thế nào người thanh niên biết không được bao nhiêu chữ nghĩa, khi đọc còn phải đánh vần một cách chật vật, trong tay không có lấy một quyển sách giáo khoa, ngay đến cả sách vỡ lòng cũng không có, mà lại dám đảm nhận một công việc thật là to lớn như vậy? Dạy những đứa bé từ đời ông, đời cụ bảy tộc tổ tiên đều không biết lấy một chữ cắn đôi có phải chuyện đùa đâu! Và tất nhiên Đuysen cũng không hề có một khái niệm cỏn con nào về chương trình, về phương pháp giảng dạy. Nói cho đúng hơn, Đuysen cũng không hề ngờ rằng trên đời có những thứ đó.
    Đuysen đã đem hết năng lực dạy cho chúng tôi, biết được bao nhiêu, thầy dạy bấy nhiêu, dạy tất cả những gì thầy tự cho là cần thiết theo trực giác. Nhưng tôi tin chắc như đinh đóng cột rằng lòng nhiệt tình chân thành của thầy trong công việc dạy dỗ đã chẳng phí hoài.
    Thầy Đuysen đã lập một chiến công mà không hề biết. Thật vậy, đó là một chiến công, bởi vì chính hồi đó, dưới mái trường này, hay nói cho đúng hơn dưới mái nhà tranh vách đất hở hoác đến nỗi ngồi trong lớp lúc nào cũng nhìn thấy những đỉnh núi tuyết phủ, một thế giới mới, chưa bao giờ nghe nói đến, chưa bao giờ nhìn thấy, đã mở ra trước mắt chúng tôi, những đứa trẻ của xứ Kirghizi chưa hề bước chân ra khỏi làng.
    Chính khi ấy chúng tôi được biết là thành phố Matxcơva, nơi Lênin đang sống, lớn hơn Auliat rất nhiều, lớn hơn cả Tasken nữa và trên mặt đất còn có những biển cả rộng hơn cả bình nguyên Talax, trên mặt bể có những chiếc tàu thuỷ qua lại to như những quả núi. Chúng tôi còn được biết rằng dầu hoả mà người ta mua ở chợ về là phải lấy từ dưới đất lên. Và chúng tôi đã tin tưởng chắc chắn rằng sau này, khi dân ta đã giàu có hơn, trường chúng tôi sẽ được đặt trong một toà nhà lớn quét vôi trắng có những cửa sổ rộng và các em học sinh sẽ có bàn ngồi học.
    Chúng tôi mới biết qua loa vần chữ cái, còn chưa biết viết những chữ ?omẹ?, ?obố?, đã viết được chữ ?oLênin? lên giấy. Vốn từ chính trị của chúng tôi gồm có những khái niệm như ?ophú nông?, ?ocố nông?, ?oXô-viết?. Và, thầy Đuysen hứa một năm sau sẽ dạy chúng tôi viết từ ?ocách mạng?.
    Nghe thầy Đuysen kể chuyện, chúng tôi ngỡ như mình đang cùng thầy đánh đông dẹp bắc tiễu trừ quân bạch vệ. Còn khi kể về Lênin, thầy bồi hồi xúc động như thể chính mắt thầy đã được thấy Người. Bây giờ thì tôi đã hiểu rằng nhiều điều thầy kể lại là những chuyện truyền khẩu đã hình thành trong dân gian về vị lãnh tụ vĩ đại, nhưng đối với chúng tôi, những người học trò của thầy Đuysen hồi ấy, thì đó là những sự thật hiển nhiên, như thể sữa bao giờ cũng trắng.
    Có lần chúng tôi hỏi thầy một câu hoàn toàn không có ẩn gì bên trong cả:
    - Thưa thầy, thầy vẫn thường được bắt tay Lênin chứ ạ?
    Thầy buồn bã lắc đầu đáp:
    - Không, các em ạ, thầy chưa được nhìn thấy Lênin bao giờ cả.
    Thầy thở dài ân hận như người có lỗi ?" thầy thấy ngượng với chúng tôi.
    Cứ cuối mỗi tháng thầy Đuysen lại lên huyện có việc. Thầy đi bộ và thường hai ba ngày sau mới về.
    Trong những ngày đó, chúng tôi buồn lắm. Dù là anh ruột tôi, có lẽ tôi cũng chẳng nóng lòng mong ngóng như mong thầy Đuysen về trong những ngày ấy. Tôi lẻn trốn thím tôi chạy ra sau nhà và đứng hồi lâu nhìn về phía con đường cái chạy qua thảo nguyên: bao giờ bóng thầy Đuysen với chiếc dây vải sau lưng mới hiện ra, bao giờ tôi mới được nhìn thấy nụ cười ấm áp của thầy, bao giờ mới được nghe những lời lẽ vẫn đem lại cho chúng tôi những hiểu biết mới mẻ?
    Trong số học sinh của thầy tôi là đứa lớn nhất. Có lẽ vì thế nên tôi học khá hơn những học sinh khác, mặc dù tôi vẫn nghĩ đó không phải là những nguyên nhân duy nhất. Mỗi lời thầy giảng, mỗi chữ thầy viết ?" tất cả đối với tôi đều thiêng liêng. Và trên đời này tôi không hề có gì quan trọng hơn là hiểu cho được những điều thầy dạy. Tôi muốn gìn giữ quyển vở của thầy, cho nên tôi đã lấy mũi liềm tập viết những chữ cái ra đất, dùng than viết trên vách, lấy que viết trên mặt tuyết, trên bụi đường. Tôi cảm thấy trên đời này không có ai học rộng và thông minh hơn thầy Đuysen.
  8. deckelrand

    deckelrand Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2006
    Bài viết:
    801
    Đã được thích:
    132
    Phần 3

    Tiết trời đã sắp sang đông.
    Trước những trận mưa tuyết đầu mùa, mỗi khi đi học chúng tôi phải lội qua một con suối lòng đá chảy róc rách dưới chân đồi. Nhưng về sau không thể nào lội qua được nữa, vì nước băng lạnh buốt cóng cả chân. Khổ nhất là những em nhỏ, thậm chí chúng phải phát khóc lên. Những lúc ấy, thầy Đuysen đã bế các em qua suối. Lưng thì cõng, tay thì bế và cứ như thế thầy lần lượt đưa hết các em sang.
    Giờ đây nhớ lại cảnh xưa, thấy khó lòng mà tin được rằng tất cả những điều đó là có thực. Nhưng lúc bấy giờ, không biết vì ngu dốt hay vì nông nổi, người ta đã cười thầy Đuysen, nhất là bọn nhà giàu thường trú qua mùa đông ở trên núi và chỉ xuống làng khi cần xay thóc. Đã nhiều lần gặp chúng tôi ở chỗ lội qua suối, bọn họ, đầu đội mũ lông cáo màu đỏ, mình mặc những chiếc áo lông cừu quý, nghễu nghện trên những con ngựa hung dữ no căng, giương mặt nhìn thầy Đuysen rồi bỏ đi. Một tên trong bọn cười nấc lên và huých tay tên đi bên cạnh nói:
    - Đứa thì cõng, đứa thì bế, trông đã hay chưa!
    Và tên kia ghìm con ngựa đang thở phì phì, nói thêm:
    - Ôi, thật đáng tiếc, sao mình không biết trước, lấy vợ lẽ là phải chọn những người như thế!
    Rồi chúng quất cho ngựa chạy làm nước và bùn bắn tung toé lên chúng tôi, cười phá lên rồi đi khuất.
    Sao lúc đó tôi muốn đuổi theo những con người ngu xuẩn ấy thế, muốn nắm lấy cương ngựa và quát thẳng vào những bộ mặt láo xược của họ: ?oCác người không được nói thầy giáo của chúng tôi như thế! Các người ngu lắm, các người tồi lắm?.
    Nhưng liệu có ai chịu nghe lời một con bé thơ dại như tôi?
    Và tôi chỉ còn biết nuốt những giọt lệ căm uất đang trào lên, nóng hổi. Còn thầy Đuysen thì dường như không để ý những lời lăng mạ đó, coi như không nghe thấy gì hết. Thường là thầy nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự.
    Thầy Đuysen có cố gắng bao nhiêu cũng vẫn chưa kiếm đủ gỗ để bắc một chiếc cầu nhỏ qua suối. Có lần ở trường về, sau khi đã đưa hết các em nhỏ sang, tôi cùng với thầy Đuysen dừng lại bên bờ suối. Chúng tôi quyết định lấy đá và những tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối để bước qua cho khỏi bị ướt chân.
    Thật ra thì bà con trong làng chỉ cần tập hợp lại và cùng nhau bắc qua suối đôi ba cây gỗ là trong nháy mắt đã có chiếc cầu cho các em đi học. Nhưng số là vì hồi ấy người ta vẫn còn u mê nên coi nhẹ việc học hành và khá ra thì cũng chỉ cho thầy Đuysen là một con người hết sức gàn dở không biết làm gì khác nên phải bày trò nhì nhằng với bọn trẻ con. Thích thì dạy, không thích thì đuổi chúng về nhà. Bản thân họ bao giờ cũng đi ngựa nên chẳng cần đến cầu. Nhưng dù sao dân làng chúng tôi tất nhiên rồi cũng phải suy nghĩ vì đâu người thanh niên ấy, vốn chẳng thua kém gì ai và cũng không ngu ngốc hơn những người khác, lại phải chịu khó, chịu thiệt, phải nghe những lời châm chọc, nhạo báng để dạy cho con cái họ học, mà lại dạy với một ý chí kiên trì hiếm có, với một quyết tâm phi thường như thế?
    Hôm chúng tôi xếp đá qua dòng nước, tuyết đã phủ đầy trên mặt đất và nước buốt đến chết cóng đi được. Tôi không tưởng được thầy Đuysen làm thế nào chịu nổi ?" vì thầy tôi đi chân không, làm không ngơi tay. Tôi chật vật đặt chân xuống suối, tưởng chừng như dòng suối rải đầy than hồng nóng bỏng. Bỗng dưng đến giữa suối tôi bị chuột rút ở chân, người co rúm lại. Tôi không thể kêu lên một tiếng, cũng không thể đứng thẳng lên được nữa và từ từ ngã xuống nước. Đuysen lẳng tảng đá đi, nhảy ngay lại bên tôi, đỡ tôi lên tay, rồi bế tôi chạy lên bờ và lót chiếc áo choàng đặt tôi ngồi vào đấy. Thầy hết xoa hai chân đã tím bầm, cứng đờ như gỗ của tôi, lại bóp chặt đôi tay lạnh cóng của tôi trong lòng bàn tay mình, rồi đưa lên miệng hà hơi ấm cho tôi.
    Thầy Đuysen khẽ nói:
    - Antưnai, em ngồi đây cho ấm, đừng xuống nữa. Một mình thầy làm cũng đủ?
    Cuối cùng khi những chỗ đặt chân xếp đã xong. Đuysen vừa xỏ chân vào ủng, vừa nhìn nét mặt ỉu xìu, tái mét của tôi và mỉm cười hỏi:
    - Thế nào, cô em giúp việc, đã đỡ rét chưa? Khoác cái áo choàng lên, thế? thế! ?" Thầy yên lặng một lát rồi hỏi:
    - Antưnai, lần ấy có phải em trút lại kigiăc ở trường không?
    - Vâng ạ, ?" tôi đáp.
    Thầy hơi nhếch mép mỉm cười, như thể tự nhủ: ?oMình đoán đúng mà!?
    Tôi còn nhớ lúc ấy máu dồn lên má tôi nóng ran: như vậy nghĩa là thầy đã biết và chưa quên một điều tưởng như nhỏ mọn ấy. Tôi sung sướng quá, lịm cả người đi và Đuysen cũng hiểu niềm hân hoan của tôi.
    - Dòng suối trong trẻo của thầy, - thầy âu yếm nhìn tôi nói, - em thông minh lắm?Ôi, ước gì thầy được gửi em ra thành phố lớn. Em còn sẽ khá hơn biết chừng nào.
    Đuysen bước nhanh lên bờ.
    Và giờ đây tôi mường tượng thấy thầy đang đứng trước mặt tôi, như lúc bấy giờ thầy đã đứng giữa dòng suối đá đang réo lên ầm ầm, hai tay để sau gáy và đôi mắt long lanh đăm đăm nhìn theo những đám mây trắng xa tít đang bị gió thổi cuốn qua các ngọn núi.
    Thầy nghĩ gì khi ấy? Có thể thầy đang mơ tưởng cho tôi ra một thành phố lớn học thật chăng? Còn tôi, lúc bấy giờ cuộn tròn trong chiếc áo choàng của thầy Đuysen, tôi thầm nghĩ: ?oƯớc gì thầy là anh ruột của tôi! Ước gì tôi được bá cổ thầy, nhắm nghiền mắt lại và thủ thỉ với thầy những lời đẹp đẽ nhất! Trời ơi, ước gì thầy Đuysen là anh ruột tôi!?
    Chắc chắn tất cả đám học sinh chúng tôi đứa nào cũng yêu mến thầy vì tấm lòng nhân từ, vì những ý nghĩ tốt lành, vì những ước mơ của thầy về tương lai chúng tôi. Tuy chúng tôi còn bé, nhưng tôi nghĩ rằng lúc đó chúng tôi đều đã hiểu được những điều ấy. Còn có cái gì khác bắt chúng tôi ngày nào cũng đi xa, leo đồi lội suối, bạt hơi vì gió rét, chân ngập trong những cồn tuyết như vậy được nữa? Chúng tôi tự nguyện đến trường, không ai phải xua chúng tôi đến cả. Không ai có thể buộc chúng tôi phải chịu cóng trong căn nhà kho lạnh lẽo: tuy ngồi trong nhà, mà mỗi khi thở ra là hơi giá bám trắng xoá cả mặt mũi, tay chân, quần áo. Chúng tôi chỉ dám thay phiên nhau đứng sưởi cạnh lò, còn tất cả đành phải ngồi tại chỗ nghe thầy Đuysen giảng bài.
    Vào một trong những ngày giá buốt ấy ?" tôi còn nhớ là khoảng cuối tháng giêng. ?" Đuysen, vẫn như thường lệ, đến từng nhà tập hợp tất cả chúng tôi lại và dẫn tới trường. Thầy lặng lẽ bước đi, không nói một lời, vẻ nghiêm nghị, đôi lông mày nhíu lại như đôi cánh chim ưng và nét mặt lại như luyện bằng thép. Chưa bao giờ chúng tôi nom thấy thầy như vậy. Chúng tôi liếc nhìn thầy rồi cũng đều im lặng: chúng tôi cảm thấy có điều gì không lành.
    Mỗi khi trên đường đi có những đống tuyết lớn là thầy Đuysen thường đi trước để mở đường, tôi đi theo sau thầy, rồi đến các bạn khác. Lần này cũng thế; ở chỗ chân gò đêm qua tuyết xuống nhiều nên Đuysen lại đi trước. Đôi khi chỉ cần nhìn vào lưng một người ta đã có thể đoán biết ngay được tâm trạng họ ra sao, có những cảm xúc gì đang diễn ra trong lòng họ. Lúc đó cũng vậy, có thể thấy rõ thầy Đuysen đang có điều gì đau buồn vô hạn. Đầu thầy cúi gầm xuống, hai chân lê đi một cách khó nhọc. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ mãi cái cảnh khủng khiếp của những màu đen, màu trắng lần lượt tiếp theo nhau trước mắt tôi. Chúng tôi nối đuôi nhau leo lên đồi. Dưới chiếc áo choàng màu đen, lưng thầy Đuysen khom hẳn lại và trên đỉnh dốc nhấp nhô những đống tuyết trắng trông như những cái bướu lạc đà, gió vẫn cuồn cuộn thổi hất tuyết từ các ụ đó xuống. Và cao hơn nữa ?" trên bầu trời trắng nhờ nhờ lơ lửng một đám mây đen cô độc.
    Khi chúng tôi tới trường thầy Đuysen không nhóm lò sưởi.
    Thấy nói:
    - Các em đứng dậy!
    Chúng tôi đứng dậy.
    - Bỏ mũ xuống!
    Chúng tôi ngoan ngoãn nghe theo và thầy cũng bỏ chiếc mũ kị binh ở trên đầu xuống. Chúng tôi không hiểu tại sao phải làm như thế. Lúc đó thầy cất giọng khàn khàn nói đứt quãng:
    - Lênin đã mất. Giờ đây trên khắp quả đất đang mặc niệm Người. Các em cũng hãy đứng tại chỗ và yên lặng. Các em hãy nhìn lên đây, nhìn bức chân dung này. Các em hãy ghi nhớ lấy ngày hôm nay.
    Toàn trường chúng tôi lặng ngắt đi, tưởng chừng như đã vùi kín dưới tuyết. Có thể nghe thấy tiếng gió lùa qua các kẽ hở. Có thể nghe thấy cả tiếng những bông tuyết rơi nhè nhè xuống mái rơm.
    Trong giờ phút ấy, trong khi tất cả các thành phố vốn nhộn nhịp đều đã lặng đi, trong khi những công xưởng đã làm rung chuyển cả mặt đất đã im bặt tiếng máy, trong khi những đoàn tàu lăn bánh ầm ầm bỗng đứng lặng yên trên các đường sắt, trong khi toàn thế giới đang chìm sâu trong tang tóc, ?" trong giờ phút đau thương đó thầy trò chúng tôi, một bộ phận nhỏ bé của toàn dân, cũng đang nín thở, nghiêm trang đứng mặc niệm trong căn nhà kho lạnh giá không hề ai biết tới, được gọi là trường học ấy, để vĩnh biệt Lênin, thầm cho mình là những kẻ thân thuộc nhất của Người và thương tiếc Người hơn ai hết. Còn Lênin của chúng tôi vẫn vận chiếc áo dài quân nhân hơi rộng với cánh tay bị thương treo ngang trên ngực, vẫn từ trên vách nhìn xuống chúng tôi, cái nhìn trong sáng vẫn như nói với chúng tôi: ?oCác cháu ơi, giá các cháu biết một tương lai đẹp đẽ nhường nào đang chờ các cháu!? Và tôi có cảm giác rằng trong giây phút yên lặng đó Người đang nghĩ về tương lai của tôi thật.
    Sau đó thầy Đuysen đưa ống tay áo lên lau nước mắt và nói:
    - Hôm nay thầy phải lên huyện. Thầy đi để gia nhập Đảng. Ba ngày nữa thầy sẽ về.
    Đối với tôi ba ngày đó mãi mãi là những ngày lặng lẽ nhất trong những ngày đông tháng giá mà tôi phải chịu đựng. Dường như có những sức mạnh hùng vĩ nào của thiên nhiên đang muốn ra sức thay thế trên mặt đất con người vĩ đại vừa đi khỏi thế giới của chúng ta: gió không ngừng thổi réo lên từng cơn, bão tuyết cứ quay cuồng không ngớt, băng giá kêu lanh lảnh như tiếng sắt? Sức mạnh của thiên nhiên không sao yên được: nó ***g lộn, vật vã trên mặt đất, khóc than nức nở.
    Làng tôi chìm lặng dưới chân những ngọn núi lờ mờ tối sẫm giữa các tầng mây mù bay là là sát đất. Những làn khói trắng nhỏ toả ra từ các ống khói ngoằn ngoèo. Không một ai ló ra khỏi nhà. Hơn nữa lũ chó sói đói bỗng trở nên liều lĩnh. Ban ngày chúng trắng trợn hoành hành trên các ngả đường, tối đến chúng sục sạo ở ngay cạnh làng và suốt đêm cho tới sáng cứ tru lên đói khát, điên dại.
    Không hiểu sao tôi cứ lo thay cho thầy chúng tôi: không có áo lông, chỉ mặc phong phanh chiếc áo choàng bộ đội ấy thì thầy làm sao chịu được cơn rét này? Và đến ngày Đuysen phải về, tâm can tôi cứ như lửa đốt: lòng tôi đã cảm thấy có điều gì chẳng lành. Chốc chốc tôi lại chạy ra sân, nhìn ra cánh thảo nguyên vắng vẻ phủ đầy tuyết trắng xem thầy giáo có xuất hiện trên đường cái không. Nhưng vẫn không có lấy một bóng người.
    ?oThầy ơi, thầy ở đâu? Em van thầy, thầy đừng về khuya đấy, về nhanh lên thầy! Chúng em đang đợi thầy đây, thầy có nghe thấy không? Chúng em đang mong ngóng thầy về?.
    Nhưng thảo nguyên không hề đáp lại tiếng gọi thầm lặng của tôi và không hiểu sao tôi oà lên khóc nức nở.
    Thím tôi đã phải bực mình vì tôi cứ ra vào mãi. Rồi thím giơ ngón tay lên đe tôi:
    - Hôm nay mày có để cho cái cửa được yên không nào? Ngồi ngay vào một chỗ, cầm lấy ống sợi mà quay. Mày làm cho mấy đứa trẻ chết cóng lên rồi đấy. Có giỏi cứ nhảy ra ngoài một lần nữa tao xem nào! ?" Và thím không cho tôi ra khỏi nhà nữa.
    Trời đã sẩm tối, thế là tôi không được biết thầy đã về hay chưa. Vì thế tôi không thể nào ngồi yên được. Khi thì tôi tự an ủi rằng Đuysen chắc đã về đến làng rồi ?" vì chưa lần nào thầy trở về lỡ hẹn cả. Khi thì tôi lại chợt nghĩ hay thầy bị ốm nên phải đi chậm, hễ trời nổi cơn bão tuyết lên là đêm hôm thế này chẳng mấy chốc thầy sẽ bị lạc trên thảo nguyên. Tôi không sao làm việc được nữa, không sao điều khiển nổi hai cánh tay, sợi cứ đứt luôn, làm cho thím tôi điên tiết lên.

  9. deckelrand

    deckelrand Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2006
    Bài viết:
    801
    Đã được thích:
    132
    - Hôm nay mày làm sao thế? Tay mày là tay gỗ hay sao? ?" thím tôi càng nói càng nổi xung, mắt lườm tôi. Cuối cùng không sao chịu được nữa, thím quát:
    - Ô, sao mày không chết quách đi cho rảnh! Tốt hơn hết là mày xéo đi, mang trả cho bà cụ Xaikan cái bao tải.
    Thiếu chút nữa tôi đã nhảy cẳng lên vì vui sướng. Thầy Đuysen lại ở ngay nhà bà cụ Xaikan. Hai ông bà Kartanbai và Xaikan vốn có họ xa với mẹ tôi. Trước đây tôi vẫn thường lui tới chỗ hai cụ, đôi khi tôi còn ngủ lại đấy nữa. Không hiểu thím tôi có nhớ tới chuyện đó hay trời xui khiếm thím ấy. Thím vừa dúi cái bao tải vào tay tôi vừa nói thêm:
    - Hôm nay mày làm tao phát ngấy lên, như trong những năm đói phải ăn cám mãi ấy. Cút đi ngay, nếu ông cụ bà cụ cho ngủ thì ở quách lại đằng ấy. Đi cho khuất mắt tao?
    Tôi chạy vụt ra sân. Gió cứ điên cuồng ***g lộng như một lão phù thủy hung dữ: nó sặc sụa một lát, rồi phần phật thổi hắt tung những nắm tuyết lạnh buốt vào khuôn mặt nóng bừng của tôi. Tôi cặp chặt chiếc bao tải vào nách và chạy một mạch theo những vết chân ngựa thưa thớt còn mới nguyên đến cuối làng. Trong đầu tôi bấy giờ chỉ có một ý nghĩ duy nhất: ?oĐã về chưa, thầy giáo đã về chưa??.
    Tôi chạy tới nơi, nhưng không thấy thầy đâu. Thấy tôi im thin thít đứng ngoài ngưỡng cửa, thở hổn hển, bà cụ Xaikan lo sợ hỏi:
    - Cháu làm sao thế? Sao cháu phải chạy hộc tốc thế? Có chuyện gì chẳng lành phải không?
    - Không ạ, chẳng sao đâu ạ. Cháu mang cái bao tải đến đây này. Bà cho cháu ở lại đây tối nay được không?
    - Cháu quý của bà, cháu cứ ở lại đây. Trời ơi, con ranh này làm cho hoảng cả lên, sao từ mùa thu đến giờ cả thấy cháu thò mặt đến? Cháu ngồi lại gần lửa mà sưởi cho ấm.
    Ông cụ Kartanbai đang ngồi cạnh cửa sổ vá mấy chiếc ủng cũ nói vọng ra:
    - Này, bà nó này, đem thịt rang lại cho cháu gái nó ăn đi. May ra Đuysen cũng sắp về rồi đấy. Lẽ ra anh ấy phải về từ lâu rồi, nhưng không sao, anh ấy sắp về đấy, cũng mới bắt đầu tối thôi. Con ngựa nhà này phóng nước mã hồi nhanh lắm.
    Ngoài cửa sổ trời đã tối sẫm lại từ lúc nào không biết. Trong lòng tôi cứ thấp thỏm không yên. Mỗi khi nghe thấy tiếng chó sủa hay tiếng người nói văng vẳng là tôi im lặng đi. Nhưng thầy Đuysen vẫn chưa về. May sao bà cụ Xaikan luôn miệng nói chuyện này chuyện nọ, thành thử cũng đỡ sốt ruột.
    Chúng tôi cứ thế đợi thầy Đuysen hết giờ này sang giờ khác, nhưng tới gần nửa đêm ông cụ Kartanbai cũng đã mệt và bảo bà cụ:
    - Thôi, bà nói trải giường đi. Anh ấy chả về tối nay đâu khuya rồi. Các ông lãnh đạo ấy khối việc ra, chắc lại giữ anh ta lại thôi, không thì anh ấy đã về đến nhà từ lâu rồi.
    Ông cụ lên giường ngủ.
    Bà cụ dọn chỗ nằm cho tôi trong góc nhà sau lò sưởi. Nhưng tôi không tài nào chợp mắt được. Ông cụ cứ ho húng hắng, trở mình thì thầm đọc kinh, rồi lo lắng lẩm bẩm:
    - Chả hiểu con ngựa của mình ra sao? Đến nắm cỏ cũng chẳng ai cho không, còn lúa thì dù có tiền cũng chẳng mua được cho nó ăn.
    Chả mấy chốc cụ Kartanbai đã ngủ say. Nhưng ngoài trời gió vẫn không dịu xuống. gió sục sạo trên mái nhà, lùa những đuôi mái tranh ở đầu hồi bay lất phất, quất từng trận vào cửa kính. Nghe thấy cả tiếng tuyết rơi đập vào tường ở mé ngoài.
    Lời nói của ông cụ cũng chẳng làm tôi yên tâm được. Tôi cứ có cảm tưởng là thầy giáo sắp về đến nơi và tôi cứ nghĩ mãi về thầy, hình dung thấy thầy đang trên đường về, ở giữa cánh đồng tuyết phủ mênh mông. Tôi cũng không hiểu tôi chợp mắt ngủ được bao lâu, nhưng bỗng có cái gì khiến tôi phải cất đầu lên khỏi mặt gối. Có tiếng tru ú ớ chuyền đi trên mặt đất rồi mất hút trong thinh không. Chó sói! Và không phải chỉ một con, mà cả một bầy. Lũ chó sói gọi nhau ở tứ phía, rồi dồn lại rất nhanh. Những tiếng tru của bầy sói quyện lại với nhau thành một tiếng rống kéo dài hoà theo gió vang đi khắp thảo nguyên, khi xa dần, khi gần lại. Có khi tưởng chừng luẩn quẩn đâu đây, ngay bên cạnh, ngay ngoài đầu làng.
    - Tiếng sói gọi bão đấy! ?" Bà cụ thì thầm.
    Ông cụ im lặng lắng tai nghe, rồi nhảy từ trên giường xuống.
    - Không, bà nó ạ, không phải chỉ có thế đâu! Chó sói đang rượt theo ai. Chúng nó vây người hay ngựa đấy. Thấy không? Cầu chúa phù hộ cho Đuysen tai qua nạn khỏi. Anh ấy chẳng biết lo nghĩ gì cả, anh ấy còn trẻ người non dạ quá thôi! ?" Ông cụ Kartanbai đứng phắt dậy, tìm cái áo lông trong bóng tối. ?" Đèn đâu, bà nó ơi, thắp cái đèn lên! Trời ơi nhanh lên!
    Chúng tôi run cầm cập vì sợ hãi và choàng dậy. Trong lúc bà cụ Xaikan tìm được đèn, đang thắp lên thì tiếng chó sói rống bỗng câm bặt, như bị cắt ngang.
    - Lũ ******** tiệt chộp được mồi rồi. ?" Ông cụ Kartanbai thét to lên, vớ lấy chiếc gật toan chạy ra cửa, nhưng vừa lúc ấy lại có tiếng chó sủa. Có tiếng đế giày bước lạo xạo trên mặt tuyết, có ai chạy qua dưới các cửa sổ, rồi có tiếng gõ mạnh, dồn dập vào cánh cửa.
    Hơi lạnh ở bên ngoài lùa vào phòng thành một đám mây dày đặc. Khi đám mây đó đã tan hết, chúng tôi mới nhìn thấy Đuysen. Mặt xám ngắt, thở hổn hển, thầy lảo đảo bước qua ngưỡng cửa, rồi ngả lưng dựa vào tường.
    - Súng! ?" Đuysen nói trong tiếng thở phào. Nhưng chúng tôi hầu như không hiểu thầy định nói gì. Mắt tôi tối sầm lại, rồi tôi chỉ còn nghe thấy hai cụ vừa khóc vừa than thở.
    - Xin cúng một con cừu đen, xin cúng một con cừu trắng! Thôi nhờ đức Baubêdin phù hộ cho anh. Có phải anh đấy không?
    - Súng, đưa súng đây cho tôi! ?" Thầy Đuysen nhắc lại.
    - Không có, anh định làm gì đấy, anh đi đâu?
    Ông cụ và bà cụ mỗi người bám lấy một bên vai thầy Đuysen.
    - Đưa cho tôi cái gậy vậy!
    Nhưng hai cụ khẩn khoản nói:
    - Chừng nào chúng tôi còn sống, anh không được đi đâu cả, không đi đâu nữa. Thà anh giết chúng tôi ngay tại chỗ còn hơn.
    Tôi bỗng thấy người mệt lả rã rời, đành lặng lẽ nằm xuống giường.
    - Tôi không kịp? chúng đã đuổi sát đến tận nhà ?" thầy Đuysen vừa thở hổn hển vừa nói rồi lẳng chiếc roi da vào góc nhà. ?" Dọc đường về ngựa đã kiệt sức, rồi lại bị chó sói đuổi, nó vừa chạy đến đầu làng thì ngã gục xuống. Lũ chó sói nhảy xổ ngay tới.
    - Thôi kệ xác nó, quý hồ anh còn sống là được rồi. Con ngựa mà không quỵ xuống thì chúng nó cũng chẳng tha cho anh về đâu. May mà đức Baubêdin phù hộ cho nên mới được như thế. Bây giờ cởi áo ra, ngồi lại gần lửa mà sưởi. Đưa tôi tháo ủng cho ?" cụ Kartanbai lăng xăng bên cạnh Đuysen nói, - còn bà lão xem có gì ăn đem ra hâm lại đi.
    Họ ngồi xuống cạnh lửa và bây giờ cụ Karkunbai mới thở phào nhẹ nhõm.
    - Thôi, cái gì trời đã định là không sao tránh khỏi. Nhưng sao anh lại ra về muộn thế?
    - Thưa bác, hội nghị ở uỷ ban huyện bị kéo dài. Cháu vào Đảng rồi.
    - Hay lắm. Nhưng sáng hôm sau hãy về có phải hơn không, nào có ai bắt anh phải về ngay đâu.
    - Cháu đã trót hứa với các em là sẽ về hôm nay. ?" Thầy Đuysen đáp. ?" Mai phải bắt đầu học rồi.
    - Ôi, thật là ngốc! ?" Cụ Kartanbai nhổm cả người dạy và bực dọc lắc đầu. ?" Này, bà già nó ơi, thử nghe xem: anh ấy đã trót hứa với lũ trẻ con, với cái bọn nhãi ấy mất rồi! Thế nhỡ mệnh hệ nào thì sao hả! Mà anh có hiểu là anh đang nói gì không?
    - Đây là bổn phận của cháu, nhiệm vụ của cháu bác ạ. Nhưng còn cái này bác thử nghĩ xem: thường cháu vẫn đi bộ, thế mà lần này, không biết ma quỷ nào xui khiến cháu mượn của bác con ngựa để đem cúng cho lũ sói?
    Cụ Kartanbai cáu kỉnh nói:
    - Nhưng tôi không nói chuyện ấy. Con ngựa chết tiệt ấy mất đi thì mặc xác nó. Coi như nó hiến thân để chuộc mạng cho anh! Trước kia hàng bao nhiêu năm tôi không có ngựa, thì bây giờ mất ngựa cũng chẳng sao. Chính quyền Xô-viết còn thì tôi còn làm ra được.
    - Ông già nói phải đấy, ?" bà cụ Xaikan tiếp lời, giọng đầy nước mắt, ?" Chính quyền Xô-viết còn là ta sẽ còn lảm ăn được? Này, ăn đi con, kẻo nguội mất.
    Họ yên lặng. Một lát sau cụ Kartanbai vừa cời than hồng ra, vừa nói, vẻ trầm ngâm:
    - Anh Đuysen, tôi xem anh cũng không đến nỗi đần độn mà lại còn thông minh nữa là khác. Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao anh cứ bịn rịn với cái trường này, với bọn trẻ con khờ dại ấy? Hay anh không kiếm được nghề nào khác? Anh cứ đi chăn cừu thuê cho người ta cũng sẽ được no ấm chán?
    - Bác ạ, cháu hiểu rằng bác chỉ mong điều lành cho cháu. Nhưng nếu những trẻ thơ dại kia sau này cũng cứ nói như bác cần gì trường học, cần gì phải đi học, thì sự nghiệp của nhà nước Xô-viết sẽ chẳng nhích đi được bao xa. Thế nhưng bác lại muốn sao cho chính quyền Xô-viết đứng vững, sao cho nó sống mãi. Chính vì vậy nên đối với cháu trường học không phải là gánh nặng bác ạ, giá cháu dạy được cho các em học thật tốt thì cháu không còn mơ ước gì hơn nữa. Chính Lênin đã từng nói?
    - Ừ thì tiện anh nói? ?" Cụ Kartanbai chặn lời Đuysen, yên lặng một lát rồi nói tiếp: - Đấy, anh cứ đau buồn thương tiếc mãi. Nhưng nước mắt cũng chẳng làm cho Lênin sống lại được! Hừ, giá có được phép lạ ấy! Hay là anh tưởng những người khác không hề buồn, không hề đau khổ chăng?? Anh thử nhìn vào tận trong ***g ngực tôi mà xem, tim tôi cũng ứa máu ra chứ có phải không đâu. Tôi không biết làm như vậy có hợp với cái chính trị của anh không, chứ mặc dầu Lênin là người khác tín ngưỡng, tôi cứ mỗi ngày năm lần cầu nguyện cho Người. Anh Đuysen ạ, có khi tôi lại nghĩ rằng dẫu chúng ta khóc Người bao nhiêu chăng nữa cũng chẳng được ích gì. Anh Đuysen ạ, tôi cứ tự phán đoán theo lối các cụ thế này: Lênin bao giờ cũng sống mãi trong nhân dân và cứ theo dòng máu lưu truyền từ đời cha đến đời con?
    - Thật cháu xin cảm ơn những lời bác nói. Bác nghĩ đúng lắm, Lênin tuy mất rồi, nhưng chúng ta sẽ noi gương Người mà sống.
    Trong khi nghe cụ Kartanbai và Đuysen nói chuyện với nhau tôi hoàn hồn dần: hồn vía tôi từ một nơi nào xa lắm từ từ trở lại. Thoạt đầu tất cả những việc xảy ra hệt như một giấc mơ. Mãi tôi vẫn chưa tin được rằng Đuysen đã về, vẫn còn sống và vẫn lành lặn. Rồi một nguồn vui bồng bột, chan hoà như dòng nước lũ mùa xuân tràn vào tâm hồn tôi, rồi dường như chìm ngập trong dòng tình cảm nóng hổi đó, tôi oà lên khóc nức nở. Có lẽ chưa có ai qua những phút mừng rỡ như tôi bấy giờ. Trong giây phút đó đối với tôi không còn gì tồn tại nữa: kể cả túp lều vách đất, cả đêm bão tuyết ngoài sân, cả đàn sói đang xâu xé con ngựa duy nhất của cụ Kartanbai ở đầu làng. Không có gì nữa hết! Tất cả tâm hồn, ý nghĩa, cả con người tôi đều tràn ngập một niềm hạnh phúc phi thường, không lường hết được, vô tận, vô cùng như vũ trụ. Tôi trùm chăn kín đầu và bịt chặt miệng lại để đừng ai nghe thấy tiếng khóc của tôi. Nhưng thầy Đuysen đã hỏi:
    - Ai khóc thút thít sau lò sưởi thế?
    Bà cụ Xaikan đáp:
    - Antưnai đấy mà, lúc nãy nó sợ quá nên đang khóc đấy.
    - Antưnai à? Em ấy ở đâu đến đây? - Thầy Đuysen đứng phắt dậy chạy lại quỳ xuống đất ngay cạnh đầu giường tôi rồi khẽ chạm tay vào vai tôi: - Antưnai làm sao thế? Tại sao em khóc?
    Tôi quay mặt vào tường và càng khóc to hơn trước.
    - Sao thế, sao em sợ đến thế? Em đã lớn rồi kia mà, sao lại thế? nào, nhìn thầy này?
    Tôi ôm chặt lấy thầy Đuysen, áp chặt đôi má nóng bừng, ướt đẫm nước mắt vào vai thầy giáo và khóc nức nở, không tài nào tự chủ được nữa. Niềm vui sướng tràn ngập tâm hồn tôi, tôi run lên như trong cơn sốt và không còn đủ sức để kìm lại nữa.
    - Ừ?hẳn là con bé hồn xiêu phách lạc đi đâu hết. Cụ Kartanbai cũng đâm lo và đứng dậy. ?" Kìa, bà khấn khứa cho nó một tí, nhanh lên nào?
    Và cả hai cụ bỗng tíu tít cả lên. Bà cụ Xaikan thì thầm mấy câu thần chú, rồi vẩy hết nước lạnh đến nước nóng vào mặt tôi, xông hơi cho tôi và cũng khóc oà lên cùng với tôi.
    Trời ơi, giá các cụ hiểu được rằng tôi ?ohồn xiêu phách lạc? vì một niềm hạnh phúc lớn lao mà tôi không đủ sức để kể ra có lẽ cũng không tài nào diễn tả nổi.
    Thầy Đuysen vẫn ngồi cạnh tôi, đưa bàn tay mát lạnh vuốt nhẹ lên vầng trán nóng hổi của tôi cho đến lúc tôi nín hẳn và ngủ thiếp đi.
  10. deckelrand

    deckelrand Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2006
    Bài viết:
    801
    Đã được thích:
    132
    Phần 4

    ? Mùa đông đã du mục sáng bên kia đèo. Mùa xuân đang lùa những đàn gia súc màu xanh của nó đến. Trên những cánh đồng bằng, tuyết đã tan, mặt đất ướt như sưng phù lên từng chỗ. Từ miền ấy, những luồng hơi ấm bốc lên lùa vào núi, mang theo hơi thở mùa xuân của đất đai, hương vị của sữa đang lên hơi. Các cồn tuyết cũng xẹp xuống, những tảng băng trên núi đã chuyển mình và các dòng suối đóng băng cũng nứt nẻ, vỡ toác ra, rồi tràn lên, cuồn cuộn chảy thành những thác nước dũng mãnh réo ầm ầm trong các thung lũng.
    Có lẽ đó chính là mùa xuân đầu tiên trong thời niên thiếu của tôi. Dù sao đối với tôi nó cũng vẫn đẹp hơn tất cả các mùa xuân trước. Đứng ở trường chúng tôi, từ trên đỉnh đồi, có thể nhìn thấy cả thế giới tươi đẹp của mùa xuân mở rộng ra trước mắt. Mặt đất dường như dang tay chạy từ trên núi xuống và không đủ sức dừng lại nữa, cứ lao vùn vụt vào các vùng xa tắp của cánh thảo nguyên đang lấp lánh như bạc dưới ánh nắng, bao phủ trong một làn hơi huyền ảo. Ở một nơi nào xa tít tận góc biển chân trời có những hồ nước băng tan xanh biếc, ở một nơi nào xa tít tận góc biển chân trời có những bầy ngựa đang hí lên, trên nền trời xanh đàn sếu bay qua cánh nâng những làn mây trắng. Đàn sếu bay từ đâu tới và gọi lòng người về đâu mà cất tiếng kêu lanh lảnh buồn buồn như vậy?
    Mùa xuân tới, gieo vui vào lòng chúng tôi. Chúng tôi bày đủ trò chơi, luôn cất tiếng cười vô cớ, cứ đến giờ tan học, suốt dọc đường về làng, chúng tôi vừa chạy vừa gọi nhau ầm ĩ. Thím tôi rất ghét cái lối ấy và không bỏ lỡ dịp mắng mỏ tôi:
    - Con đĩ, mày làm gì mà cứ tớn tác lên thế? Mày làm bà cô thế mãi mà không biết dơ à? Con nhà có phúc như người ta mà bằng tuổi mày cũng đã có chồng có con vui nhà vui cửa từ lâu rồi, còn mày thì? Đằng này lại thích đi học cơ! Nhưng cứ đợi đấy?bà sẽ cai quản mày?
    Thật ra thì tôi cũng chẳng để tâm đến những lời doạ nạt của thím ấy lắm, vì đó không phải chuyện lạ ?" suốt đời thím ấy chỉ chửi mắng. Còn nói rằng tôi làm bà cô thì thật không đúng chút nào. Có điều là mùa xuân năm nay tôi lớn như thổi.
    Thầy Đuysen nói đùa tôi:
    - Em còn là một cô bé đầu bù tóc rối, mà hình như tóc em lại còn đỏ nữa kia chứ!
    Những lời của thầy không làm tôi chạnh lòng chút nào cả. Tôi thầm nghĩ: ?otất nhiên mình đầu bù tóc rối thật đấy, nhưng tóc mình chả đỏ tí nào đâu. Rồi đến lúc mình lớn hơn ít nữa, mình sẽ là một cô gái đến tuổi lấy chồng, mình chả đầu bù tóc rối thế này nữa đâu. Lúc đó thím cứ thử nhìn xem mình có xinh không?. Thầy Đuysen vẫn nói tôi có đôi mắt sáng như sao, có khuôn mặt cởi mở thật thà.
    Có một lần, khi chạy ở trường về, tôi thấy hai con ngựa lạ đứng ngoài sân. Cứ trông yên ngựa, dây thắng, cũng biết chủ của chúng là những người ở trên núi xuống. Và trước đây cũng có khi họ đã ghé vào nhà chú tôi mỗi khi đi chợ về hay mang thóc xuống xay.
    Đứng ngoài ngưỡng cửa tôi đã nhói lên vì tiếng cười thiếu tự nhiên của thím tôi:
    - Gớm, thôi, đừng lo anh ạ, không nghèo đi đâu mà sợ. Rồi sau này khi con chim non đã cầm chắc trong tay rồi, anh sẽ thầm cảm ơn tôi cho mà xem, hì hì hì! ?" Đáp lại lời thím tôi có tiếng vâng dạ rối rít và những tiếng cười ha hả. Đến khi tôi bước vào cửa thì mọi người im bặt. Cạnh đống nỉ phủ chiếc khăn trải bàn có một người đàn ông to béo phục phịch, mặt đỏ, ngồi chềnh ềnh như khúc gỗ. Đầu hắn đội mũ lông chồn che kín cả cái trán nhễ nhại mồ hôi. Hắn đưa mắt liếc tôi rồi đằng hắng một cái và cụp mắt xuống.
    Thím tôi nhoẻn miệng cười âu yếm, nói:
    - Ồ, con đã về đấy à, vào đây con!
    Chú tôi cũng ngồi cạnh đống nỉ với một người lạ mặt. Hai người vừa đánh bài, vừa nhắm rượu với bánh ô mạch. Cả hai đều ngà ngà say và mỗi khi họ quất bài xuống, đầu họ cứ lắc lư đến kì quặc.
    Con mèo mướp bò lên chỗ khăn trải bàn, nhưng lão mặt đỏ dùng đốt ngón tay cốc mạnh vào đầu nó một cái, khiến nó kêu thét lên, rồi nhảy vọt sang một bên và chúi đầu vào xó nhà. Khổ thân con mèo, nó đau quá! Tôi muốn bỏ đi ngay, nhưng tôi không biết làm thế nào. May vừa lúc ấy thím tôi nói:
    - Con ạ, thức ăn ở trong chảo ấy, con ăn đi kẻo nguội.
    Tôi bước ra khỏi phòng, trong lòng rất khó chịu với thái độ của thím tôi vừa rồi. Và tôi bắt đầu thấy chột dạ. Tôi bất giác đề phòng.
    Chừng hai giờ sau, hai người khách lên ngựa trở về núi. Lập tức thím tôi lại bắt đầu chửi mắng tôi như thường lệ và tôi thấy đỡ lo. Tôi nghĩ thầm: ?oté ra thím có vẻ ôn tồn như vậy chẳng qua vì say rượu thôi?.
    Ít lâu sau có lần bà cụ Xaikan ghé qua nhà chú tôi. Lúc đó tôi ở ngoài sân, nghe thấy bà cụ nói:
    - Lạy trời, mợ làm gì vậy! Mợ giết nó thôi.
    Bà cụ Xaikan và thím tôi lấp cả lời nhau, tranh cãi kịch kiệt điều gì và lát sau cụ Xaikan bước ra khỏi nhà, vẻ rất tức giận. Bà cụ nhìn tôi bằng đôi mắt vừa giận dữ vừa thương xót và lặng lẽ ra về. Tôi bỗng thấy bứt rứt trong người. Tại sao cụ lại nhìn tôi như vậy, tôi đã làm gì đến nỗi cụ không hài lòng?
    Ngày hôm sau đến trường tôi nhận thấy ngay thầy Đuysen vẻ mặt sa sầm, như đang có điều gì lo nghĩ, mặc dầu thầy cố giấu đi. Tôi còn nhận thấy có điều nữa là không hiểu tại sao thầy không hề nhìn về phía tôi. Sau buổi học, khi chúng tôi ào ào chạy ra khỏi trường như ong vỡ tổ, thầy Đuysen gọi giật tôi lại:
    - Antưnai, đứng lại thầy bảo. ?" Thầy bước lại gần tôi, nhìn chằm chằm vào mắt rồi đặt tay lên vai tôi. ?" Em đừng về nhà nữa. Antưnai, em có hiểu thầy không?
    Tôi lặng người đi vì kinh hãi. Bây giờ tôi mới hiểu thím tôi định làm gì tôi.
    Thầy Đuysen nói:
    - Thầy sẽ chịu trách nhiệm về em. Em ở tạm nhà bác Kartanbai với thầy. Và lúc nào cũng phải đi theo thầy.
    Chắc hẳn lúc ấy tôi không còn chút máu mặt nào nữa. Thầy Đuysen lấy tay nâng cằm tôi lên, nhìn thẳng vào mắt tôi và mỉm cười như mọi khi:
    - Antưnai, em đừng sợ! - Thầy vừa cười vừa nói. - Thầy còn ở bên em, thì em không phải sợ ai cả. Em cứ học đi, cứ đến trường như cũ và đừng nghĩ ngợi gì? Vì thầy vẫn biết là em nhát lắm. Và nhân đây thầy kể cho Antưnai nghe một câu chuyện mà thầy đã định kể từ lâu ?" thầy Đuysen lại phì cười, hẳn đang nhớ lại điều gì ngộ nghĩnh ?" Chắc em còn nhớ có lần cụ Kartanbai dậy thật sớm và biến đi mất ấy. Té ra cụ đi mời? cụ dẫn ai về nhà em có biết không? Dẫn bà lang Giainakôva về. Thầy hỏi: ?oLàm gì thế bác??. Cụ trả lời là: ?oẤy để cho bà ấy cúng bái một chút đi gọi hồn nó về, không thì con bé sợ quá hồn xiêu phách lạc đi đâu mất?. Thầy nói: ?oMời bà ấy ra đi, không lại phải cúng cho bà ấy một con cừu mất thôi. Mà nào nhà mình có giàu có gì cho cam. Ngựa cũng chả có mà cúng, có mỗi con thì cúng bầy chó sói mất rồi??. Còn em thì lúc đó đang ngủ say. Thế là thầy đuổi cổ được mụ thầy cúng ra khỏi nhà. Về sau cụ Kartanbai giận thầy suốt một tuần lễ, không thèm trò chuyện với thầy. Ông cụ nói: ?oTôi già cả thế này mà anh còn chơi khăm tôi?. Nhưng ông cụ, bà cụ là những người phúc hậu, hiếm có những người tốt như thế. Thôi bây giờ ta về đi, Antưnai?
    Dù tôi có cố gắng can đảm lên bao nhiêu cho thầy Đuysen khỏi bận tâm, những ý nghĩ lo sợ cũng vẫn không buông tha tôi. Vì bất thần lúc nào thím tôi cũng có thể đến cưỡng bức lôi tôi đi. Rồi ở nhà họ muốn làm gì thì làm, không ai ở trong làng cấm được họ cả. Suốt đêm tôi trằn trọc không ngủ được vì mải lo nghĩ tới tai hoạ sắp đến.
    Tất nhiên thầy Đuysen hiểu rõ tâm trạng tôi. Cũng có thể vì muốn xua đuổi những ý nghĩ đen tối đó của tôi nên ngày hôm sau thầy mang về trường hai cây phong nhỏ. Sau buổi học, thầy cầm tay tôi dẫn sang một bên.
    Thầy mỉm một nụ cười bí ẩn và bảo tôi:
    - Antưnai, bây giờ thầy với em cùng làm chung một việc. Hai cây phong này thầy mang về cho em đấy. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em cũng sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt. Em có một tâm hồn đẹp và một đầu óc ham học. Thầy bao giờ cũng nghĩ rằng em sẽ trở thành người thông thái. Thầy tin như vậy, em ạ, số phận em nhất định sẽ như thế. Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này. Antưnai ạ, ta sẽ tự tay trồng lấy hai cây phong này. Và mong sao em sẽ tìm thấy hạnh phúc trong học tập, ngôi sao nhỏ trong sáng của thầy ạ?
    Hai cây phong ấy còn non, vừa cao bằng người tôi, thân biêng biếc. Và khi hai chúng tôi đã trồng xuống khoảng đất cạnh trường, từ chân núi đưa lên một làn gió nhẹ, lần đầu tiên chạm vào những khóm lá bé lăn tăn như thổi một luồng sinh khí vào chúng. Mấy khóm lá run rẩy, hai cây phong bắt đầu lay động, đung đưa?
    - Em trông, đẹp chưa kìa! ?" Đuysen cười, lùi lại ngắm. ?" Bây giờ ta hãy đào một đường dẫn nước ở ngọn suối đằng kia về. Rồi em sẽ thấy hai cây phong của chúng ta đẹp đến nhường nào! Chúng nó sẽ đứng trên ngọn đồi này, sát cánh nhau như hai anh em. Và mọi người sẽ luôn luôn nhìn thấy chúng và những người lành sẽ thấy lòng vui lên khi nhìn thấy chúng. Đến khi ấy cả cuộc sống cũng sẽ khác, Antưnai ạ. Tất cả những gì đẹp nhất đều hãy còn ở phía trước?
    Ngay cả bây giờ tôi cũng không sao tìm được những lời lẽ có thể nói lên ít nhiều lòng cảm kích của tôi trước tâm hồn cao thượng của Đuysen. Còn khi ấy, tôi chỉ đứng yên nhìn thầy. Tôi nhìn Đuysen như thể lần đầu tiên tôi được thấy hết vẻ đẹp sáng ngời trên gương mặt thầy, tấm lòng trìu mến và trung hậu ánh lên trong đôi mắt thầy, dường như trước kia tôi chưa từng biết đôi bàn tay của thầy mạnh mẽ và khéo léo như thế nào trong lao động, nụ cười trong sáng của thầy có có sức sưởi ấm lòng người đến nhường nào. Và trong lòng tôi, như một đợt sóng nồng nàn, bỗng cuộn lên một tình cảm mới mẻ mà tôi chưa hề biết, từ một thế giới xa lạ nào lan tới. Và cả tâm hồn tôi như vươn mạnh đến Đuysen, để nói với người: ?oThầy ơi, em cảm ơn thầy đã sinh ra với một tâm hồn đẹp đẽ như vậy?Em muốn ôm hôn thầy!? Nhưng tôi e ngại không dám nói lên những lời ấy. Đáng lẽ tôi nói ra mới phải.
    Lúc ấy chúng tôi chỉ đứng yên dưới vòm trời trong sáng giữa vùng đồi xuân xanh mơn mởn, mỗi người theo đuổi một ước mơ riêng. Và giờ phút ấy tôi quên bẵng mối nguy cơ đang lơ lửng trên đời tôi. Thậm chí tôi cũng không hề nghĩ xem ngày mai đây cái gì đang chờ đợi tôi và cũng không nghĩ xem tại sao đã hai ngày nay thím tôi không đi tìm tôi. Có lẽ họ đã quên tôi chăng, hay họ đã đành chịu để mặc tôi. Nhưng thật ra Đuysen lại đang nghĩ đến điều đó.
    - Em đừng buồn, Antưnai ạ, ta sẽ tìm ra lối thoát, ?" Đuysen nói khi chúng tôi trở về thôn, ?" Ngày kia thầy sẽ lên huyện. Thầy sẽ bàn việc của em với các đồng chí trên ấy. Có lẽ họ sẽ nghe thầy mà cho em lên tỉnh học. Em có muốn không?
    - Thầy đã nói sao, em cũng xin vâng lời, ?" tôi đáp.
    Tuy tôi không hình dung được trên tỉnh ra sao, nhưng những lời của Đuysen nói cũng đủ sức để tôi ước mơ cuộc sống ở thành thị. Có khi tôi thấy sợ hãi trước cảnh sống xa lạ nơi đất khách quê người, có khi tôi lại quyết tâm ra đi ?" nói tóm lại bấy giờ trong trí óc tôi không lúc nào không lởn vởn những tỉnh với thành.
    Và hôm sau, trong khi ngồi học, tôi cũng chỉ nghĩ đến việc ấy: tôi sẽ sống ở tỉnh ra sao và biết ở nhà ai? Nếu có ai cho tôi ở nhờ, tôi sẽ bổ củi, xách nước, giặt giũ, họ sai gì tôi cũng làm. Tôi đang suy nghĩ liên miên như thế trong khi ngồi học thì bỗng giật mình thảng thốt khi chợt nghe tiếng vó ngựa dồn dập sau mấy bức vách ọp ẹp của ngôi trường chúng tôi. Những tiếng động ấy đột ngột quá và mấy con ngựa phi nhanh quá, đến nỗi tưởng như chúng sắp xéo bừa lên ngôi trường. Chúng tôi ai nấy đều nín thở, chờ đợi.
    - Các em đừng để ý, cứ lo việc của các em đi, - Đuysen nói nhanh.
    Nhưng lúc ấy cánh cửa bỗng mở toang nghe đánh sầm một tiếng và trên ngưỡng cửa thím tôi hiện ra, trên môi nở nụ cười hả hê nanh ác, đầy vẻ thách thức. Đuysen bước ra cửa.
    - Bà đến có việc gì?
    - Đến có việc chẳng dính dáng gì đến mày. Tao đem con tao đi gả chồng. Ê! Cái con cầu bơ cầu bất kia! ?" Thím chồm về phía tôi, nhưng Đuysen đã chặn lối.
    - Ở đây toàn là nữ sinh cà, chưa có em nào gả chồng được! ?" Đuysen nói, giọng rắn rỏi và điềm tĩnh.
    - Để rồi xem. Ê! Bọn đàn ông! Bắt lấy con ******** ấy, lôi nó ra! Thím tôi giơ tay vẫy một tên trong bọn cưỡi ngựa. Đó chính là cái lão mặt đỏ đội mũ da cáo. Thêm hai tên nữa cầm những chiếc gậy nặng vót nhọn xuống ngựa theo sau lão ta.
    - Đồ chó lộn nòi, sao mày lại dám tự tiện xem con gái nhà người ta như vợ mày thế hả? Thôi cút đi!
    Nói đoạn tên mặt đỏ xông vào Đuysen như một con gấu.
    - Các người không có quyền vào đây, đây là trường học! ?" Đuysen nói, hai tay nắm chặt lấy thành cửa.
    - Tôi đã bảo mà! ?" Thím tôi rít lên ?" Hắn hú hí với con ấy đã lâu. Hắn rủ rê con chó đẻ ấy đến đây để hưởng không!
    - Tao nhổ toẹt vào cái trưởng học của mày! ?" Lão mặt đỏ gầm lên, tay hoa chiếc roi da.
    Nhưng Đuysen đã nhanh tay hơn hắn. Thầy giơ chân đạp mạnh vào bụng hắn. Hắn kêu lên một tiếng và ngã xuống. Ngay lúc ấy hai tên cầm gậy nhọn xông vào Đuysen. Lũ trẻ con kêu rú lên và chạy bổ về phía tôi. Cánh cửa bị xô mạnh vỡ ra từng mảnh. Tôi lao vào đám đánh nhau, lôi theo cả lũ trẻ đang bíu vào người tôi.
    - Buông thầy giáo ra! Không được đánh! Tôi đây, bắt tôi đi chứ không được đánh thầy giáo!
    Đuysen quay lại nhìn. Mình mẩy Đuysen máu me bê bết, vẻ căm giận trông rất khủng khiếp. Thầy cúi xuống đất lấy một tấm ván khoa lên, quát:
    - Chạy đi các em, chạy về làng! Antưnai, chạy đi! ?" Tiếng kêu của Đuysen nghẹn ngào thành tiếng nấc.
    Chúng nó đã đánh gãy tay Đuysen; thầy ép cánh tay vào ngực, bước lùi lại, còn bọn kia thấy thầy không còn sức chống cự, liền xông vào đánh thầy, rống lên như một đàn bò dại.
    - Đánh! Đánh! Đập vỡ đầu nó ra! Đánh chết nó đi!
    Thím tôi và lão mặt đỏ hầm hè xông vào tôi. Họ lấy bím tóc của tôi quấn quanh cổ tôi và lôi xềnh xệch ra sân. Tôi cố sức vùng dậy và thoáng một giây tôi trông thấy đám bọn trẻ đờ người ra gào thét và Đuysen đứng cạnh tường, mình đầy những vết máu đen thẫm.

Chia sẻ trang này