1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Người Việt có họ từ bao giờ?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi muatrencayhoanglan, 18/08/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    HỌ DÂN GIAN:
    Trong số "trăm họ" hiện được dùng, có chừng 30 họ là gốc Việt hoàn toàn, lúc đầu vốn là họ bộ tộc. Chúng tôi nói "họ" Việt mà không nói "người" Việt vì đến nay, mấy ai có thể chứng minh là thuần "len" hay "máu" Việt.
    Ngược dòng lịch sử, Việt tộc xuất phát từ đồng bằng phía Nam sông Dương-tử bên Tàu. Bị người Hán xâm chiếm, tổ tiên ta đã phải thiên cư xuống phía Nam và lập quốc ở vùng đồng bằng sống Hồng, Bắc Việt. vào khoảng thế kỷ thứ IV trước Công-nguyên. Từ năm 1069, người Việt nam tiến chiếm toàn thể nước Chiêm-Thành năm 1693 và chiếm đóng phần đồng bằng phía đông Cam-Bốt tức Thủy Chân-Lạp năm 1759. Cuộc Nam tiến đã dừng lại khi người Pháp chiếm đóng và thành lập Ðông dương thuộc địa. Phần khác, nước ta từng bị nhà Hán và các triều đại Trung quốc sau đó đô hộ cả ngàn năm, một số quân lính sang đất Giao Chỉ rồi ở lại lập gia đình sanh con đẻ cháu. Mặt khác nữa, nước ta đã từng đón nhận nhiều người Hoa đến tị nạn hoặc di trú. Ðáng kể nhất là quần thần nhà Minh tới định cư ở Nam Việt ta sau khi bị người Mãn Châu (Thanh) xâm chiếm nước họ.
    Ðó là lý do lịch sử của một số họ Việt gốc Hoa như Khổng, Lưu, Trương, Mai, Lâm, Lữ, Nhan, Sử, Tăng, Trịnh, Vương, v.v. hoặc gốc Miên như Thạch, Sơn, Danh, Kim, Lâm là năm họ nhà Nguyễn đã ban cho, hoặc gốc Chàm như Chế, Chiêm, v.v. hoặc họ của đồng bào thiểu số (trong nước hiện gọi là "dân tộc") như Linh, Giáp, Ma, Ðèo, Kha, Diêu, Vi, Quách, Nông, Chữ, Ngân, Ông, Trà, Lang, Lục, sầm, v.v.
    Ý-NGHĨA HỌ NGƯỜI VIỆT:
    Tất cả họ Việt Nam đều có một ý nghĩa ngữ nguyên. Trong số "trăm họ", có những họ xưa tới ba bốn ngàn năm, vào thời đại mà mỗi bộ tộc có một tượng vật riêng, hoặc cây cỏ hoặc cầm thú. Sau đó những tên biểu hiệu tượng vật đó được một số gia tộc dùng làm họ, thí dụ họ Âu. Một số khác biểu tượng nghề nghiệp như họ Ðào (thợ gốm), hoặc cách sinh sống của bộ tộc, như họ Trần. Một số biểu tượng nơi bắt gốc bộ tộc hoặc gia đình. Họ lúc đầu là họ bộ tộc, đó là lý do người Anh và Pháp gọi là "patronym(e)" để phân biệt với "nom de famille / family name".
    Lúc đầu được ghi chép bằng chữ Hán, sau thêm chữ Nôm rồi "quốc ngữ" hóa, họ người Việt theo dòng lịch sử bị nhiều ảnh hưởng, đã biến đổi hoặc hiểu sai lạc, khiến cho người thời nay khó hiểu được ý nghĩa sơ nguyên của họ. Cùng một phát âm như của ngày hôm nay, chưa chắc một chữ đã gợi lên cùng một ý nghĩa, như các họ Ðinh hiện được hiểu là "công dân", "người". Quách nghĩa là vật chắc chắn, có sức đối kháng mà cũng có nghĩa là "lớp thành ngoài". Họ Lê vốn nghĩa là "dân chúng" nói chung.
    Vì những lý do đã nêu, các họ được ghi chép lại, được hiểu là phải viết như một danh từ chung, nhưng không nên hiểu là có cùng một ý nghĩa như danh từ đó. Cũng như người Pháp có các họ Boucher, Boulanger ... có thể từ nguyên gốc để chỉ những nghề của tổ tiên họ. Các chữ không nhất thiết phải gợi lên hành động, trạng thái hoặc đối tượng của danh từ, nhất là từ khi có chữ quốc ngữ la-tinh, các chữ gợi hình ít hơn và cũng dễ gây hiểu lầm hơn. Tên họ ghi chép trong các từ điển hiện nay nên được xem như không có ý nghĩa chắc chắn, vì thế ta không thể khẳng định họ viết như thế phải nghĩa là thế này hoặc họ đó tương đương với danh từ chung diển tả sự vật hoặc hành động.
    Chú-thích:
    (1) Dã lan Nguyễn Ðức Dụ. Gia-phả: khảo luận và thực hành. Hà Nội: Văn Hóa, 1992. Tr. 26.
    (2) Dã Lan NDDD. Sddd. tr. 200.
    NGUỒN GỐC HỌ NGƯỜI VIỆT:
    - Họ các triều đại: Ða số người Việt mang một họ trong số 16 dòng họ đã từng cai trị lẫy lừng trong lịch sử. Theo thứ tự niên đại, đó là những họ Thục, Trưng, Triệu, Mai, Khúc, Lý, Phùng, Kiều, Ngô, Ðinh, Lê, Trần, Hồ, Mạc, Trịnh và Nguyễn. Hoặc họ là con cháu thật sự của những dòng họ kể trên, hoặc họ xử dụng như mượn họ hoặc bị bắt buộc mang những họ đó nhưng khác họ thật.
    Có gia đình tự ý đổi lấy họ đương triều để chứng tỏ sự trung thành. Có người do nhà vua ban cho như Nguyễn Trãi có lúc đổi tên là Lê Trãi theo họ nhà vua. Một số khác bị bắt buộc phải đổi họ của triều đại vừa bị lật đổ để lấy họ đương triều để chứng giám lòng trung thành với triều đại mới. Trong nhiều trường hợp, triều đình bó buộc dân gian bỏ họ gốc để lấy quốc tính để tránh những nhóm ********* có ý lật đổ triều đình hay làm loạn đưa người họ triều triều đại vừa bị lật đổ vào cho có lý do chính trị (ý trời, "thuận thiên"). Nhà Nguyễn thời Gia Long và MInh Mạng đã bắt những người họ Lê đổi họ thành Nguyễn chỉ vì thời đó những kẻ cầm đầu những phong trào ********* mang họ Lê: Lệ
    Riêng họ Nguyễn, còn là họ triều đại quân chủ cuối cùng, có thêm một lý do khác khiến họ này trở nên thông dụng nhưng lại khó hiểu dưới mắt người Tây phương. Ðời Trần Thái-Tông (1232), sau khi đã đoạt ngôi nhà Lý, Trần Thủ Ðộ lấy lý do tổ nhà Trần tên Lý, đã bắt tất cả những người họ Lý là họ dòng vua vừa bị hoán vị, lẩn dân gian, phải đổi làm họ Nguyễn; tuy nhiên ý đồ thật sự là khai tử dòng vua Lý để sẽ không còn ai nhớ đến dòng họ Lý nữa.
    Ngoài ra, có người cải đổi tên họ vì trốn sưu thuế, trốn lính hoặc bất đắc dĩ phải đổi lấy họ đương triều vì ông cha bị tội hình như "tru di tam tộc" - cũng là lý do tại sao ngày xưa khi đi thí phải khai họ ba đời. Có người đổi họ vì một lý do riêng tư khác. Như Hàn Thuyên vốn họ Nguyễn, được vua Trần ban cho họ Hàn vì ông làm bài văn ném xuống sông khiến cá sấu bỏ đi, như chuyện Hàn Dũ bên Trung Hoa trước đó. Và vì Hàn Thuyên hay làm thơ phú bằng quốc âm nên về sau các nhà văn học sử có khi gọi thơ văn chữ Nôm là thơ văn "Hàn luật". Hoặc như Hồ Quý Ly tổ tiên gốc người Chiết Giang (Trung Hoa) sang nước ta định cư, đến tổ tiên đời thứ tư là Hồ Liêm làm con nuôi nhà họ Lê nên đổi lấy họ Lê. Nhưng khi Hồ Quý Ly dấy nghiệp, ông lấy lại họ Hồ và đặt cả quốc hiệu là Ðại Ngu vì ông nhận làn dòng dõi nhà Ngu.
    Hoặc vì kiên tên húy của vua chúa, nhiều người phải đổi họ, như ông trạng Hoàng Nghĩa Phú (1511), tổ tiên vì kiêng tên vua Lý mà đổi ra họ Trịnh, rồi lại phải đổi ra họ Trần; đến đời Trần Khắc Minh mới đổi lấy lại họ Hoàng. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ vốn họ Hồ và dòng dõi Hồ Quý Ly, sau lấy họ mẹ là Nguyễn. Cùng trường hợp với Nguyễn Quang Bích là cháu đời thứ hai của Ngô Quyền(Sưu tầm)
  2. muatrencayhoanglan

    muatrencayhoanglan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2006
    Bài viết:
    219
    Đã được thích:
    0
    Để tớ tổng hợp hai bài viết rất bổ ích của maseo và dungsamtien và phân tích bài của cả 2 bạn nhé.
    1. Trước Bắc thuộc: ko có họ, tên cũng chỉ kiểu "ông già ở bờ suối" hay "chị vợ bác thợ cày" thôi, chủ yếu chỉ có tác dụng phân biệt người này với người kia trong 1 cộng đồng nhỏ. Các cái tên nổi nổi hơn 1 chút được ghi vào sách sử của Tàu thì có Hùng thực ra là Pò Khun (vị tù trưởng lớn), Mị Nương thực ra là Mê Nang (con gái tù trưởng), những từ này hiện vẫn còn trong tiếng Mường.
    Nếu ý kiến trên là đúng thì nước ta có họ từ sau thời các vua Hùng. Nước ta Bắc thuộc từ sau khi khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, nhưng thời đó đã có họ, Bà Trưng cụ thể là họ Trưng (tôi khẳng định vì tôi đọc điều này trong Đại Việt Sử Ký toàn thư). Điều đó có nghĩa là nước ta có họ từ trước thời Bắc thuộc chứ không phải chờ đến khi Bắc thuộc người Hán mang họ vào nước ta.
    Do đó hơn hai ngàn năm trước, tổ tiên ta đã nghĩ lập ra "sổ điền" cốt để nhà vua kiểm kê nhân và dân số hàng năm hoặc theo một thời hạn cố định, mục đích nhằm phân chia ruộng nương thời đó thuộc về nhà vua. Việc phân chia này đòi hỏi một sự hiểu biết tường tận từng nóc gia. Với họ và tên gọi, quan chức triều đình có thể ấn định số người trong mỗi gia đình. Về sau thêm "sổ đinh" hoặc "sổ bộ", ghi họ tên chính thức về hộ tịch từng cá nhân và gia đình. Rồi từ "sổ bộ", mỗi gia đình lập một sổ riêng, ghi chú tất cả những việc cưới hỏi, sinh đẻ và tang ma. Ðó là nguồn gốc của gia phả.
    Mình nghĩ đây cũng là một cách giải thích rất hợp lý (nó phù hợp với một số truyền thuyết của VN mà mình đang thắc mắc), nhưng nếu vậy thì có nghĩa dân thì được đặt họ để quản lý, còn Vua và quan thì không có họ ? và lý thuyết này mâu thuẫn với việc các quan tướng của An Dương Vương và Triệu Đà không hề có họ, chỉ có tên và hiệu thôi.
    Như bạn nào nói ở trên thì An Dương Vương và Triệu Đà có thể không được tính là vua của VN nhưng họ cai trị ở nước Việt nên tạm thời chúng ta cũng tính vào trong quá trình hình thành họ ở VN.
    Mời các bạn thảo luận tiếp.
  3. Amor

    Amor Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/07/2002
    Bài viết:
    477
    Đã được thích:
    0
    Em rất quan tâm đến nguồn gốc mấy họ chính của người VN mình như Nguyễn, Trần, Lê, Vũ, Phạm... Ngoảnh sang anh TQ thấy TQ cũng có y xì mấy họ này, như vậy những họ này hoàn toàn được "nhập cảng" từ TQ sang? Qua mấy bài post trước em hiểu thế này được không: giả sử em họ XYZ, thuộc dòng di cư từ TQ sang VN từ thời ông tổ ABC. Nhưng rất có thể em không phải 100% dòng máu di cư ấy mà thuộc một bộ tộc bản địa khác của người Việt cổ, vốn trước không có họ, sau khi họ XYZ truyền sang thì nhập vào họ XYZ. Hoặc giả bộ tộc ấy hồi trước Bắc thuộc đã có họ riêng một cách rất sơ khai (gọi tên dựa theo thần vật mà bộ tộc ấy thờ cúng / theo ngành nghề sinh sống), nhưng sau nhiều biến động lịch sử, cái họ nguyên thủy không giữ được nữa, nói tóm lại, đổi họ. Em hiểu thế có đúng không ạ?
  4. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    - Chữ "Hùng" - đúng như bạn nói, là cách đọc trại của các từ Pò Khun/Khun (tiếng chỉ chưsc vị người cầm đầu và cũng là tiếng chỉ các quý tộc nói chung, người được tôn kính ở các dân tộc thuộc ngữ hệ Môn-Khơ me và Thái))/ Cun/Kun (tiếng Mường) chỉ người con trưởng ngành trưởng nhà Lang cai quản 1 Mường (khác "Đạo" là con trưởng ngành thứ của Lang, cai quản 1 xóm)
    - Chữ Hùng này không có nghĩa là "Gấu" và những cụ tổ Hùng Vương của chúng ta chẳng liên hệ quái gì với mấy ông Sở Hùng XYZ bên TQ thời Chiến Quốc như 1 số người hay nghĩ cả. Bạn nào có sẵn bộ "ĐÔng CHu Liệt Quốc" ở đấy mở ra xem lại họ của mấy ông vua nước Sở hợ mình 1 tý.
    - Trong tiếng Mường chỉ có các từ "ả, nàng, bà nàng" là dùng để chỉ các phụ nữ thuộc tầng lớp Quý tộc. Đối với con gái thường dân thì dùng từ "mái/mại". Dùng phương pháp so sánh ngữ ngôn học lịch sử thì Mỵ~Mái/Mại và Nương ~ nường/nàng --> Mỵ Nương cũng chỉ có nghĩa là "phụ nữ, con gái, giống cái" nhưng có sắc thái trang trọng hơn (VÌ từ Mỵ Nương chỉ được dùng cho con của Hùng Vương/An Dương Vương)
    Họ Lò, họ Sa là họ của người Thái, chỉ xuất hiện khi mà tầng lớp trên của người Thái tiếp xúc mật thiết với giai cấp thống trị của nhà nước phong kiến Việt Nam.
    Bách tính là từ Hán Việt chỉ số nhiều chứ không phải 100 họ, giống như Bách Việt, Bách Thú, Bách Thảo vậy. Đâu cứ phải đủ 100 dân tộc Việt, 100 loài thú, 100 loài cây đâu.
  5. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Chán bạn quá, đã có lần tôi post cái tài liệu a cố GS Trần QUốc Vượng phân tích và "truy tìm" lại tên gốc của các tên Trưng Trắc, Mê Linh, Văn Lang, Luy Lâu. Hiện nay tài liệu đó đang nằm bên http://5nam.ttvnol.com/f_533.ttvn. Bạn có thể đợi đến lúc cái site đó sử xong không hay là để tôi upload lại? Tài liệu này sẽ phủ nhận cái lý thuyết HBT mang họ Trưng.
    (Hình như bác COdep có đọc qua topic đó rồi thì phải)
  6. muatrencayhoanglan

    muatrencayhoanglan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2006
    Bài viết:
    219
    Đã được thích:
    0
    Vậy nếu như tài liệu của cố giáo sư Trần Quốc Vượng là đúng (và hội đồng lịch sử nào công nhận đúng?) thì Đại Việt Sử Ký là sai ? Có vài người bạn của tôi cũng có thắc mắc một vài chi tiết về tính đúng đắn của DVSK , nhưng bây giờ đó là cuốn sử chính thống của VN, không tin vào đó thì biết tin vào đâu đây? Nếu bạn cần tôi cũng có thể trích đoạn viết đó ra đây để mọi người tham khảo. (Ngày trước khi chưa đọc DVSK tớ cũng nghĩ Trưng không phải là một cái họ, hình như tớ post ý kiến này ở bài đầu tiên rồi thì phải)
    Tớ là người mới vào ttvnol nên những tài liệu cũ tớ chưa được đọc, nếu có thể bạn post lên đây để tớ và mọi người đọc lại có được không?
  7. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Câu nói bậy bạ này đã bị phê phán là không có bằng cớ đã
    từ lâu và nhiều lần rồi, nhưng vẫn có người không hiểu, mà
    cứ khăng khăng không biết người Việt gốc vốn ở ViệtNam .
  8. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Bác nóng tính quá..đã gọi là tài liệu sưu tầm thì mình phải tôn trọng"bản quyền" của người ta...Có thể sai hoặc đúng, nhưng theo em nghĩ nó chỉ có tính chất tham khảo...
  9. Amor

    Amor Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/07/2002
    Bài viết:
    477
    Đã được thích:
    0
    Bác CoDep,
    Kiến thức lịch sử của em còn hạn hẹp lắm, lại không có kiên nhẫn vào lục lọi đám bài cũ trong 5nam.ttvnol, vì thế bác làm ơn tóm tắt lại cho em gốc tích người Việt cái. Em biết là trước khi có dòng di cư của tộc Việt từ phía Bắc xuống, trên địa bàn VN đã có người sinh sống rồi. Nhưng họ là tộc người gì? Cũng là Việt hay là tộc người thuộc ngữ hệ Môn-Khơme, Nam Đảo... gì gì đó?
  10. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Không có tài liệu của những tác giả có tiếng là nghiên cứu
    khoa học ngày nay cho biết có dòng di cư nào của tộc Việt
    từ phía bắc xuống cả .
    Chỉ có Trương Thái Du và đệ tử của anh ta nói như vậy thôi .

Chia sẻ trang này