1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Người Việt Nam tốt đẹp

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi mumiy, 15/11/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. tmkien

    tmkien Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    494
    Đã được thích:
    0

    Cái đường Lê Văn Lương đấy cụ thể quá, tớ không biết sai đúng thế nào. Nhưng theo bác Vietel, những ví dụ sau đây cũng trong bài viết đúng hay sai:
    Tượng đài kỷ niện 50 chiến thắng Điện Biên tốn 57 tỷ vừa làm đã sụt. Tượng đài và công viên Hoàng Quốc Việt ở thị xã Bắc Ninh, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông xảy ra sự cố đổ 30 mét tường 1 ngày trước lễ khánh thành nên không có người chết, nhưng cũng tốn tiền tỷ. Đặc biệt, tượng đồng vua Lý Thái Tổ nhân dịp 995 năm Thăng Long - Hà Nội cũng vì chạy theo thành tích, đốt cháy thời gian nên không kịp thẩm định kỹ càng, chỉ khi dựng lên rồi ai qua cũng ngỡ ngàng vì thấy vua nước mình đội mũ thiên tử triều Tống. Những tượng đài khác có hư hỏng thì mang tiền dân ra sửa được, còn tượng vua Lý kia nên phá đi đúc lại hay cứ đành để đó giữa công viên bên hồ Hoàn Kiếm, với nỗi nhục muôn đời cho con cháu ta hứng chịu?
  2. kien098

    kien098 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    530
    Đã được thích:
    15

    Mấy cái đó báo đăng đầy, đủ cả ảnh. Chắc chắn đúng thôi.
    Đủ dữ kiện thế còn bịa ra chuyện "ở chỗ nhà tôi ở" làm quái gì cho lộ mặt mẹt, fải không tmkien. Lần sau tmkien cũng rút kinh nghiệm, cứ lấy báo chí ra mà đè, đừng có "chỗ tôi làm" với "chỗ tôi ở"... nhé, lộ lắm
    Một sự bịa đặt trắng trợn như vậy đủ thấy cái tâm của tác giả không trong sáng!!!
    Cũng như chú maple_leaf bên "cùng đọc và suy ngẫm" phụ họa tát nước theo mưa về những câu chuyện bẩn của cảnh sát, bịa ra cả chuyện "nhà em gần trường TH cảnh sát, trộm cắp như ranh" Nói chung là phê phán gì thì phê phán, đừng có bịa chuyện để câu khách, lộ ra lại thành phản tác dụng
    Có ai tin được những nơi đăng những bài có nhiều bịa đặt kiểu như "dân trong nước chết đói hơn năm 45" hay "cựu TTg. bị đâm lòi kèn" ........... không??? Câu trả lời là: Có nhỉ tmkien nhỉ
  3. tmkien

    tmkien Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    494
    Đã được thích:
    0
    Nước VN vốn nghèo, thời tiết khắc nghiệt nên kiếm sống rất khó khăn. Tuy nhiên hoàn cảnh khắc nghiệt ấy cũng tạo nên một đức tính tốt nữa của người VN, đó là tính cẩn thận, cẩn trọng. Tại sao phải cẩn thận? Phải cẩn thận vì tài nguyên mình ít, của cải mình ít, nếu không cẩn thận thì sẽ có nguy cơ mất trắng và lâm vào cảnh đói kém ngay. Tính cẩn thận, cẩn trọng này đã ngấm sâu vào văn hóa VN, con người VN nên người VN làm cái gì cũng rất cẩn thận, suy xét rất kỹ càng, nhìn trước ngó sau xem đã có ai làm trước chưa, nếu người ta làm rồi mình mới yên tâm mà làm. Chẳng hạn VN cứ phải chờ TQ làm trước cái đã rồi cử vài chục đoàn sang học hỏi kinh nghiệm và tham quan (du lịch) rồi mới dám làm theo. Một ví dụ cụ thể dưới đây sẽ làm rõ hơn về đức tính quí báu cẩn thận, cẩn trọng của người Việt Nam:
    Đề án thuê tổng giám đốc còn xa vời
    http://vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2005/12/3B9E485A/
    Có chủ trương từ 3 năm trước song đến nay câu chuyện thuê tổng giám đốc cho 5 tổng công ty nhà nước vẫn còn dang dở. Tổng công ty công nghiệp ôtô VN (Vinamotor) trình Bộ Giao thông Vận tải quy chế cách đây một tháng, song đến nay vẫn chưa nhận được câu trả lời.
    Ông Từ Văn Hùng, Phó tổng giám đốc Vinamotor - người trực tiếp soạn thảo quy chế - cho biết 4-5 cuộc hội thảo đã được tổ chức để lấy ý kiến đóng góp, riêng chữ "thuê" cũng tranh cãi cả một buổi mà vẫn chưa ngã ngũ. Có ý kiến đề nghị không gọi là thuê mà nên "mềm hóa" đi là hợp đồng thí điểm giữa hội đồng quản trị và tổng giám đốc.
    Đề án của Tổng công ty Thiết bị kỹ thuật điện (VEEC) đã viết đi viết lại đến lần thứ 8, Bộ Công nghiệp vẫn yêu cầu xem xét lại. Dự kiến trong tuần này lãnh đạo bộ sẽ có buổi thẩm định tiếp. Bộ trưởng Hoàng Trung Hải cho hay sẽ cố gắng xem xét để đẩy nhanh việc phê duyệt, nhưng cũng không dám chắc vì còn rất nhiều điểm chưa xuôi.
    Ngay cả Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy (Vinashin), dù đã được Chính phủ phê duyệt đề án từ tháng 10, nay vẫn chưa có quy chế trình Bộ chủ quản. Chậm như vậy, nên phần lớn lãnh đạo các tổng công ty đều từ chối đưa ra thời điểm thực hiện việc thuê tổng giám đốc.
    Vướng mắc đầu tiên vẫn được các tổng công ty nhắc lại là chuyện lương bổng. Theo quy chế của Vinamotor, ứng viên cho ghế tổng giám đốc phải có ít nhất 3 năm kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp trong lĩnh vực cơ khí, ôtô với quy mô doanh thu hơn 1.000 tỷ đồng/năm. Người nước ngoài phải biết tiếng Việt còn người Việt phải đọc thông viết thạo một ngoại ngữ thông dụng. Với tiêu chuẩn như vậy, lương dành cho tổng giám đốc người VN ít nhất 30-40 triệu đồng, người nước ngoài 50-60 triệu đồng. Tính vậy song ông Hùng cho hay thực tế có thể sẽ khác, vì giám đốc VN, Malaysia hay châu Âu mỗi người lại có đòi hỏi khác nhau. Với người Việt lương như vậy có thể chấp nhận được, nhưng với một giám đốc đến từ châu Âu thì số tiền đó quá thấp.
    VEEC thì đang do dự lương tổng giám đốc không thấp hơn 300 triệu đồng/năm. Ngoài lương, các tổng giám đốc còn được thưởng 2-5% lợi nhuận sau thuế, phần vượt thêm so với năm trước.
    Ngay cả khi có đủ ngân sách để trả lương thì vẫn còn hàng loạt những vấn đề phải giải quyết. Bộ trưởng Đào Đình Bình khi trao đổi với VnExpress cũng rất băn khoăn lương tổng giám đốc (thuê) tới 60-70 triệu mỗi tháng, trong khi lương các phó tổng giám đốc (không thuê) chỉ mấy triệu đồng sẽ tính sao để không tạo ra sự so bì.
    Rồi chuyện thế chấp, quản lý một doanh nghiệp vốn vài nghìn tỷ đồng của Nhà nước không thể tay trắng, nhưng bao nhiêu là đủ, hay chỉ đề ra để lấy lệ. Vinamotor đưa ra quy định ứng viên người nước ngoài có thế chấp 5 tỷ đồng, người VN 1 tỷ đồng. Bộ trưởng Công nghiệp Hoàng Trung Hải lại cho rằng hợp đồng giữa hội đồng quản trị và tổng giám đốc đơn thuần là hợp đồng kinh tế vì thế khoản thế chấp sẽ do hai bên thỏa thuận chứ không nhất thiết đặt ra một mức cụ thể.
    Vướng mắc lớn nhất khi soạn thảo quy chế thuê tổng giám đốc theo nhận xét của các tổng công ty là quyền đề bạt nhân sự. Theo cơ chế của Việt Nam hiện nay, các bộ, ngành bổ nhiệm hội đồng quản trị các tổng công ty. Sau đó, hội đồng quản trị lại bổ nhiệm tổng giám đốc, kế toán trưởng, các phó tổng giám đốc, giám đốc các công ty thành viên... Bên cạnh đó, trong mọi trường hợp đều phải có ý kiến Đảng, đoàn thể, người lao động.
    Trên thực tế muốn làm được việc, tổng giám đốc phải có bộ máy ăn ý của mình, ông Từ Văn Hùng cho rằng nếu không có quyền bổ nhiệm cán bộ thì "quân" còn coi tổng giám đốc ra gì. Thế nhưng các bản quy chế vẫn không thể thoát khỏi ràng buộc hiện tại, mà chỉ dám mạnh dạn quy định tổng giám đốc có quyền giới thiệu các giám đốc thành viên, các phó tổng giám đốc tổng công ty, kế toán trưởng tổng công ty, quyết định mức lương... còn quyền phê duyệt vẫn thuộc về hội đồng quản trị.
    Về công tác điều hành, trên danh nghĩa các đề án đều viết rằng tổng giám đốc có toàn quyền đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của tổng công ty, nhưng thực tế triển khai một dự án đầu tư không chỉ có hội đồng quản trị tham gia mà còn phải lấy cả ý kiến của các bộ ngành liên quan. Do vậy Vinamotor quy định tổng giám đốc chỉ được hội đồng quản trị uỷ nhiệm là đại diện pháp lý cho tổng công ty trong một số trường hợp.
  4. tmkien

    tmkien Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    494
    Đã được thích:
    0
    Con người VN sinh ra và lớn lên trong một đất nước hiền hòa, tươi đẹp, rừng vàng biển bạc lại được giáo dục trong một truyền thống văn hóa trọng văn chương, chữ nghĩa nên trong mỗi người VN đều tiềm ẩn tình yêu với "cái đẹp". "Cái đẹp" này có nhiều dạng như kiến trúc đẹp, cảnh quan đẹp.. Trong bài viết này tớ xin đề cập tình yêu với một cái đẹp là "số đẹp" của người Việt. Có nhiều quan niệm về thế nào là "số đẹp" nhưng người Việt vốn thật thà, chất phác lại nghèo nên cứ đơn giản cho là số càng lớn thì càng đẹp, càng được người đời ngưỡng mộ! Họ sẵn sàng làm mọi thứ để có được cái "số đẹp" này vì họ rất yêu nó. Chẳng hạn, ở Seagame thì nước ta dù nghèo, nhà nước vẫn sẵn sàng bỏ ra hàng chục triệu USD để đầu tư cho các vận động viên, sẵn sàng lập ra những môn thi kỳ lạ mà các đại hội thể thao thông dụng trên thế giới không có (như môn lặn) để mang về càng nhiều huy chương càng tốt. Tình yêu "số đẹp" còn được thể hiện qua những việc rất nhỏ như đi xin người ta "bình chọn" cho mình trên forum TTVN chẳng hạn. Đợi mãi chả có ai "bình chọn" cho mình mà mình thì lại thích cái số người "bình chọn" cho mình càng lớn càng tốt, càng đẹp nên đành vác rổ đi xin vậy. Được bao nhiêu hay bấy nhiêu để có thể nở mặt với đời, dù đời ở đây là đời ảo, cái danh chỉ là danh hão. Trên bình diện vĩ mô thì tớ xin trích một bài ở đây để minh họa về tình yêu với cái "số đẹp" của người Việt:
    Đánh giá tăng trưởng kinh tế của các địa phương: Cần trung thực!
    http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=117446&ChannelID=118
    TTCN - Dịp cuối năm các tỉnh, thành phố công bố tăng trưởng sản phẩm quốc nội của tỉnh mình với những con số chóng mặt: GDP tăng từ 10-15%, tỉnh kém nhất cũng tăng 9-9,9%. Nghĩa là 64 tỉnh thành cả nước đều có tốc độ tăng GDP khủng khiếp.
    Nhiều nhà kinh tế băn khoăn đặt câu hỏi: 64 tỉnh thành đều tăng trưởng GDP rất cao, tại sao GDP cả nước lại chỉ tăng 8,4%? Từ 15 năm nay, GDP nước ta chưa bao giờ vượt ngưỡng 8,5%. Thời kỳ 1991-1997, tăng trưởng GDP bình quân 8,5% năm là năm cao nhất. Thời kỳ 1998-2000 do khủng hoảng tài chính khu vực, tăng tưởng GDP giảm còn 5,8-6,5%! Từ 2001-2004, GDP bình quân tăng 7,2-7,5%/năm. Năm 2005, GDP nước ta đạt 8,4%, là một trong những nước cao nhất thế giới. Thế mà con số đó chỉ bằng nửa hoặc hai phần của tốc độ tăng GDP của nhiều tỉnh? Thậm vô lý.
    GDP là tổng sản phẩm quốc nội, là tổng trị giá tiền tệ của tất cả các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ phát sinh trong một nền kinh tế trong một năm. GDP cả nước sẽ bằng GDP 64 tỉnh thành cộng với GDP khu vực kinh tế trung ương. Ở đây có hai cách lý giải: một là GDP các tỉnh là con số dỏm; hai là GDP khu vực kinh tế trung ương không tăng, thậm chí âm.
    Nhưng thực tế thì GDP khu vực kinh tế trung ương (các tổng công ty bộ, ngành trung ương) bao giờ cũng tăng cao hơn các địa phương vì có ưu thế về vốn, thiết bị, thị trường... Theo cách tính đó thì GDP bình quân của nước ta năm năm qua phải tăng từ 12-15% mỗi năm trở lên, chứ không phải phấn đấu cật lực mới được 8,4%, thậm chí năm 2006 Chính phủ chỉ đặt chỉ tiêu tăng trưởng GDP 8%.
    Đồng ý là qua 20 năm đổi mới, tình hình đời sống kinh tế của nước ta đã khá hơn thời bao cấp rất nhiều. Nếu theo tốc độ tăng GDP mà các tỉnh nêu thì nước ta đã giàu có lắm lắm, nhưng sự thật lại không phải như vậy. Có địa phương GDP năm 2005 tăng 12%, nhưng cả tỉnh chỉ xuất khẩu được 50 triệu USD (chủ yếu là xuất khẩu titan), hàng mấy chục DNNN thua lỗ, nợ khó đòi hàng ngàn tỉ đồng!
    Tỉ trọng lao động nông-lâm-ngư nghiệp vẫn chiếm trên 75%, lao động thất nghiệp ở nông thôn còn cao. Nghĩa là về mặt định lượng GDP chung thì có vẻ ?otỉnh nhà không ngừng phát triển?, nhưng về chất lượng phát triển, năng lực cạnh tranh của sự tăng trưởng thì không đạt được, kinh tế vẫn lạc hậu.
    Vậy GDP cao ?otrên trời ?oấy đi đâu?
    NGÔ MINH KHÔI
  5. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Các bạn thân mến! Đây là topic dành cho những người yêu dân tộc Việt Nam , để họ thể hiện lòng tự hào của mình. Những gì xấu xa của người Việt, tôi không phản đối nhưng các bạn nên post qua topic " Người việt xấu xí".
    Tôi nghĩ, đều là người Việt cả, các bạn dĩ nhiên cũng có lòng tự hào và cũng có những điều chưa hai lòng về dân tộc Việt. Nhưng xin các bạn hãy thể hiện đúng chỗ, để thể hiện lòng tự trọng của mình, và không nên phô bày một cách quá rõ ràng những nhân cách hèn mọn, nhỏ nhen, thậm chí đê tiện của mình, nếu có. Xin cám ơn ! Chúc một ngày vui vẻ !
  6. mc_queen1

    mc_queen1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/12/2005
    Bài viết:
    4.151
    Đã được thích:
    4.157
    Người việt nam có tính cách tốt đẹp đấy chứ, cứ như forum này thì biết : qthang, kien098,newgod,... và nhiều bạn khác nữa đấu tranh không mệt mỏi chống lại bất công. Chẳng gì thì phần lớn chúng ta đều có ý thức đoàn kết để lên án và đấu tranh chống lại bất công.
    Tất nhiên người việt nam cũng có tính xấu, ví dụ không chịu nhận sai lầm ngay cả khi biết mình sai, cãi lí đến cùng chỉ để không bị tiếng là đuối lí. Hay như trên forum này còn 1 loại người nữa: có câu" những kẻ chỉ đọc và tin 1 cuốn sách là những kẻ dốt nát", trên forum này có những kẻ chỉ đọc "1 cuốn sách" rồi tự cho mình là đã biết, bệ nguyên si lên đây đi dạy dỗ thiên hạ.
  7. mltr_sg

    mltr_sg Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    404
    Đã được thích:
    0
    Các bạn không nên sa đà vào việc chỉ trích cá nhân mà đi xa nội dung chủ yếu của diễn đàn! Trong thời gian 48 giờ nữa, những bài có tính cách chỉ trích hoặc không liên quan đến chủ đề sẽ bị xóa.
  8. tieucaluoi

    tieucaluoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/11/2005
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    0
    Tôi nghĩ tính nết đẹp - xấu của con người liên quan tới nền tảng văn hóa đào tạo ra họ. Tôi rất thích bài của anh Trương Hồng Quang tổng kết các ý kiến của Giáo sư Trần Đình Hượu về đặc sắc văn hóa Việt Nam, tôi gửi để các bạn tham khảo nhé.
    Trần Đình Hượu
    Về đặc sắc văn hoá Việt Nam
    1.
    Trong lịch sử của ta có hiện tượng các phương thức sản xuất không đầy đủ, không thay thế nhau bằng cách cái sau phủ định cái trước. Những tàn dư của xã hội nguyên thủy (như ruộng công làng xã), của một chế độ nô lệ không điển hình (như nô tì công và tư), của một chế độ phong kiến phân tán chưa thành hình (như các hào trưởng, hào cường), một chế độ phong kiến tập trung quá sớm nhưng không trọn vẹn vì thiếu kinh tế đô thị, tồn tại song song, đan chéo vào nhau như một dạng trầm tích. Cho nên trong tư tưởng cũng có dạng trầm tích như vậy. Nhưng nước ta lại sớm thống nhất, thống nhất dưới hình thức quận huyện của chính quyền đô hộ rồi thống nhất thành quốc gia độc lập tạo ra điều kiện để dân tộc hình thành sớm. Cho nên ý thức hệ cũng có dạng thống nhất. Sự thống nhất ở đây được thực hiện đơn giản bằng cách kết hợp tư tưởng bản địa với tư tưởng Tam giáo, Âm dương, Ngũ hành và các yếu tố khác.
    2.
    Tôi cho rằng Nho giáo là xương sống của khối liên kết đó. Rõ ràng là trong cái toàn thể mà ta hình dung thì Nho giáo là một phần trong nhiều phần, thế nhưng nó là bộ phận then chốt, quy định sự chọn lọc, sự sắp xếp vì nó là học thuyết thống trị, và hơn thế, nó thích hợp với cơ chế chính trị - kinh tế - xã hội.
    3.
    Các vị anh quân và cả những nhà yêu nước lớn như Nguyễn Trãi chăm lo, phát triển Nho giáo học, xây dựng Tư văn, tổ chức học hành thi cử, lo biên soạn quốc sử, khuyến khích văn học... đều theo lời khuyên của thánh hiền, đều theo trị đạo của Nho giáo.
    4.
    Ta thường hiểu Nho giáo đơn giản, phiến diện, sách vở, coi nó chỉ là ngoại lai, theo quân xâm lược phương Bắc vào, phục vụ cho chế độ phong kiến... dường như nó là công cụ xâm lược, là chỉ có sức hấp dẫn những giai cấp thống trị cũ mà không thấy Nho giáo rất thích hợp với cuộc sống hẹp, tự nhiên, đóng kín gia đình, họ hàng làng xã, rất thích hợp với nông thôn, với nền sản xuất của hộ tiểu nông. Một cuộc sống có trên, có dưới, có tình anh em bà con, láng giềng, cô bác kiểu gia đình êm ấm từ trong nhà cho ra đến làng, đến nước ; một cuộc sống thái bình ổn định, an cư lạc nghiệp vốn rất hợp với lòng mong mỏi của nông dân...
    5.
    Xã hội bình trị được đạt đến bằng lễ. Một thứ hoà mục làm mọi người vui vẻ, một tình cảm êm đềm đằm thắm làm cảm hoá cả thiên nhiên đến hết cả thiên tai hạn hán, làm xúc động tình cảm, đi vào âm nhạc thành tiếng hoà vui của câu ca, tiếng hát, đi vào nghi lễ thành cái khoan hoà tiết tấu của hành vi cử chỉ.
    6.
    Ðạo đức Nho giáo là đạo đức của con người hình dung mình sống trong gia đình, gia tộc, làng xóm, nước, thiên hạ, trời đất, một thế giới gồm những cộng đồng từ nhỏ đến lớn hình dung theo mô hình gia đình mở rộng. Không chỉ thiên hạ bình mà thiên địa vị, vạn vật dục, khí hoà tràn đầy khắp trời đất.
    7.
    Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hoá của ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật. Ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội hoạ... phát triển rất cao ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hoá thành đặc sắc văn hoá của dân tộc đó. Ở ta thần thoại không phong phú - hay là có nhưng một thời gian nào đó đã mất hứng thú lưu truyền? Tôn giáo hay triết học cũng đều không phát triển. Người Việt Nam không có tâm lý kiền thành, cuồng tín tôn giáo, mà cũng không say mê tranh biện triết học. Các tôn giáo đều có mặt, nhưng thường là biến thành một lối thờ cúng, ít ai quan tâm đến giáo lí. Không có một ngành khoa học, kĩ thuật, giả khoa học nào phát triển đến thành có truyền thống. Âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ. Trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, cũng có dịp làm dăm ba câu thơ. Nhưng số nhà thơ để lại nhiều tác phẩm thì lại không có. Xã hội có trọng văn chương, nhưng cũng chưa bao giờ tôn ai là thi bá, và bản thân các nhà thơ cũng không ai nghĩ cuộc đời, sự nghiệp của mình là ở thi ca. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, một ngành văn hoá nào đó trở thành đài danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn hoá.
    8.
    Hoàn cảnh dẫn ta đi theo con đường tiếp nhận, bắt chúng ta chỉ được nghĩ những chuyện thực tế, dạy chúng ta cách ứng dụng nhanh chóng cái học được để ứng phó. Nhằm mục đích thực tế, cha ông chúng ta đã lựa chọn những cái đã có sẵn, chấp nhận nó, không tính cả chuyện những cái đó hoà hợp hay chống đối nhau, nhưng lại biết cách sử dụng cho có ích không gây ra chống đối. Ðối với thực tế mà nhu cầu đặt ra chỉ như vậy kho Kinh, Tạng của Tam giáo Trung Quốc là quá dư thừa, thậm chí là quá mênh mông, ít ai có điều kiện học đủ.
    9.
    Nhìn vào lối sống, quan niệm sống, ta có thể nói người Việt Nam sống có văn hoá, người Việt Nam có nền văn hoá của mình. Những cái thô dã, những cái hung bạo đã bị xoá bỏ để có cái nền nhân bản. Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà. Không có khát vọng để hướng đến những sáng tạo lớn mà nhạy cảm, tinh nhanh, khôn khéo gỡ các khó khăn để tìm được sự bình ổn.
    10.
    Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình hợp lí. Áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải.
    11.
    Văn hoá truyền thống của ta là tốt đẹp. Và trong tương lai, biết đâu cái màu sắc dịu dàng, tươi mát, cái không khí thanh bình của nó lại không phải là nơi cần tìm đến trong cuộc sống căng thẳng của nền sản xuất hiện đại?
    12.
    Lược bỏ cũng có nghĩa là đơn giản hoá, sơ lược hoá. Thế nhưng làm như thế mà giảm bớt đi được những cái tế toái, cứng nhắc, những cái trái tự nhiên, trái nhân đạo, vốn có nhiều trong cách giải thích kinh điển Trung Quốc thì không phải là dở. Sự linh hoạt - không biết nên giải thích là tinh thần trung dung của Nho giáo, tinh thần nhu đạo, bất tranh của Lão - Trang, tinh thần hỉ xả, từ bi của Phật hay chỉ là tập quán chín bỏ làm mười bản địa - tất nhiên là hạn chế lớn cho cách tư duy chính xác, hệ thống, nhất quán cần thiết để tìm chân lí, để có tư duy khoa học, triết học. Nhưng trong điều kiện nhu cầu đơn giản, hoàn cảnh căng thẳng thì như vậy thường lại có hiệu quả.
    13.
    Trong lịch sử học thuật của ta không có những nhà kinh học để cả cuộc đời tra cứu, biện bác làm sáng tỏ nghĩa kinh điển mà cũng không có những nhà tư tưởng nhìn tổng quát cả học thuật quá khứ để phê phán, đề xuất kiến giải riêng. Những người lỗi lạc, có tinh thần tự hào dân tộc đều muốn phát triển Tư văn ở Việt Nam bằng cách đi theo và tiến kịp không thua Trung Quốc chứ không phải phê phán nó để tìm cái của mình.
    14.
    Trong một xã hội mà quan tâm hàng đầu là giữ gìn sự ổn định, sự nhất trí đề phòng giặc ngoài xâm lược, với một thể chế mà làng xã là thành lũy, với một nền sản xuất mà năng suất dựa vào kinh nghiệm, sự cần cù, bàn tay khéo léo thì kĩ thuật không đòi hỏi nhiều khoa học, khoa học không cần nhiều triết học. Nếu có những thời điểm mà có thể nói là nóng bỏng, xuất hiện những nguy cơ xã hội như thế kỉ XIV, XVI, XVIII còn lại vang bóng trong văn học thì cũng cũng không có điều kiện gì để nhìn thế giới theo một cách khác. Với nhu cầu và điều kiện như thế đặt ra làm gì và ai đặt ra được vấn đề quan niệm thế giới theo một cách khác?
    15.
    Người Việt Nam có thể coi là ít tinh thần tôn giáo. Họ coi trọng hiện thế trần tục hơn thế giới bên kia. Không phải người Việt Nam không mê tín, họ tin có linh hồn, có ma quỷ, Thần Phật. Nhiều người thực hành cầu cúng. Nhưng về tương lai, họ lo cho con cho cháu hơn là cho linh hồn của mình. Tuy là coi trọng hiện thế nhưng cũng không bám lấy hiện thế, không quá sợ hãi cái chết (sống gửi thác về). Trong cuộc sống, ý thức về cá nhân và sở hữu không phát triển cao. Của cải vẫn được quan niệm là của chung, giàu sang chỉ là tạm thời, tham lam giành giật cho nhiều cũng không giữ mãi mà hưởng được. Người ta mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn cho no đủ, sống thanh nhàn, thong thả, có đông con nhiều cháu, ước mong về hạnh phúc nói chung là thiết thực, yên phận thủ thường, không mong gì cao xa, khác thường, hơn người. Con người được ưa chuộng là con người hiền lành, tình nghĩa. Không chuộng trí mà cũng không chuộng dũng. Dân tộc chống ngoại xâm liên tục nhưng không thượng võ. Ðâu đâu cũng có đền thờ những người có công đức - chủ yếu là có công chống ngoại xâm - nhưng không một anh hùng xuất chúng, một võ sĩ cao cường nào được lưu danh. Trong tâm trí nhân dân thường có Thần và Bụt mà không có Tiên. Thần uy linh bảo quốc hộ dân và Bụt hay cứu giúp mọi người; còn Tiên nhiều phép lạ, ngao du ngoài thế giới thì xa lạ. Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn. Ðối với cái dị kỉ, cái mới, không dễ hoà hợp nhưng cũng không cự tuyệït đến cùng, chấp nhận cái gì vừa phải, hợp với mình nhưng cũng chần chừ, dè dặt, giữ mình.
  9. tieucaluoi

    tieucaluoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/11/2005
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    0
    (tiếp)
    16.
    Hiểu đúng cha ông là để khai thông cách suy nghĩ của người Việt Nam ngày nay, để dễ tiếp cận với triết học hiện đại. Khuynh hướng «thiết thực» dễ làm nghiêng về duy vật hơn là duy tâm, biện chứng hơn là siêu hình, song duy vật thô sơ, biện chứng tự phát (sự chiêm nghiệm trực quan trong tục ngữ của ta). Người vận dụng tha hồ tùy tiện bàn chuyện của mọi phạm vi lớn nhỏ (với trình độ hỗn tạp, chất phác). Do đó tư tưởng của ta vừa xa lạ cái thần bí, vừa xa lạ cái duy lí.
    17.
    Ở phương Tây vấn đề Thượng đế sáng tạo thế giới và quyết định mọi việc được tôn giáo khắc sâu vào tư tưởng, đè nặng lên con người, thành hòn đá lấp lối mọi tự do. Cho nên quá trình duy tâm triết học hoá Thượng đế, hay duy vật phủ nhận sự sáng tạo thế giới đã cắm những cái mốc cho việc mở rộng vương quốc của tự do, cho giải phóng con người, tìm ra bản nguyên thế giới... Phương Ðông cũng có ý niệm Thiên Mệnh, Trời, khuyên kính Trời, yên Mệnh. Song mối quan tâm chính là tu dưỡng đạo đức, trị nước nên con người «kính quỷ thần nhi viễn chi». Khuynh hướng «thiết thực» này (nghĩa vụ làm người, làm dân) dồn cả Trời và Mệnh vào một góc: Trời và Mệnh chỉ còn ý nghĩa bảo vệ quyền làm vua của một dòng họ, quyền hưởng phú quý cho kẻ giàu sang. Thói quen gạt bỏ những cái «xa vời», khó hiểu, xa lánh quỷ thần, không quan tâm đến thế giới linh thiêng làm cho con người không bỏ mê tín song cũng không hứng thú cái thần bí, không tò mò và ít hoài nghi, không say mê tìm hiểu những cái chưa biết, gạt bỏ những cái khác lạ. Chính vấn đề Tâm - Vật, và trước kia là vấn đề Lý - Khí cũng thuộc loại bị gạt ra ngoài như vậy.
    18.
    Nho giáo tự chọn thái độ «trung dung», đứng ở chỗ «đúng mức» nhất, coi ai cũng có nhược điểm «quá» và «bất cập» - ở mặt này hay mặt kia - tức ở những chỗ không thích hợp của cái đó với thể chế xã hội có sẵn (chế độ chuyên chế - tông tộc), ví dụ như chê Mặc vô phụ, chê Dương vô quân, chê Phật không quân thần phụ tử, chê tư tưởng phương Tây quá chú ý vật chất... Tức các học thuyết khác cũng có chỗ «khả thủ», có thể lấy được, chấp nhận được, lúc ở thế bí thì nó «lấy», vay mượn, bổ sung cho mình, ví dụ đối với phương Tây thì «Ðông học vi thế - Tây học vi dụng». Trong xã hội Nho giáo hoá cái mới bị cô lập, dần dần tha hoá và bị rút tỉa, bị Nho giáo nuốt mất trong đó cái khả thủ. Ở Việt Nam từ thế kỉ XVII đã có sự tiếp xúc Ðông - Tây ở cả Ðằng Ngoài lẫn Ðàng Trong; các chúa Trịnh - Nguyễn sớm nhận ra sự lợi hại của tàu và súng phương Tây, song tư tưởng phương Tây thì không thể nào bám rễ. Ở Trung Quốc chủ nghĩa Mao đã hình thành trong chính cái thế, trong cung cách Nho giáo nuốt học thuyết Mác, lấy cái khả thủ.
    19.
    Hán hoá đã thành một xu thế, một thực tế lâu dài trong lịch sử. Xu thế, thực tế đó làm cho nước ta, cũng như Trung Quốc, ở những thế kỉ cuối rơi vào tình trạng trì trệ. Phi Hán hoá không phải đã là một xu thế mạnh mẽ trong quá khứ mà là một yêu cầu cấp thiết của ngày nay đòi hỏi tự ý thức, tự phê phán để giải phóng tư tưởng, để hiện đại hoá đất nước.
    20.
    Chúng ta đào tạo đội ngũ khoa học, kĩ thuật đông đảo. Nhưng trong điều kiện kinh tế phát triển còn thấp, không có đủ cơ sở để sử dụng thì kĩ sư không phải là người hành nghề mà thành cán bộ, sống bằng bằng cấp và danh vị... Thanh niên và các bậc phụ huynh lại toan tính con đường chắc chắn: học cho có bằng cấp, vào biên chế sống dựa vào nhà nước kiếm lộc, kiếm bổng. Chuẩn bị vào đời bằng trau dồi «tư cách» (đánh giá về đạo đức, vốn hoạt động chính trị) và bằng bằng cấp chứ không phải bằng nghề nghiệp tự lập.
    21.
    Những con người, ông già và thanh niên, giống như những nhà nho xưa trà lá, lề mề và hay nói suông, thiếu khả năng và quả quyết hành động thực tế, đầy thiện chí thương dân, yêu nước mà cũng đầy ảo tưởng; theo ảo tưởng nên tính toán sai, đầy thiện chí nên tự tin, cố chấp không những gây ra lùng nhùng mà giẫy dụa trong lưới lùng nhùng.
    22.
    Cái đáng phê phán ở Nho giáo là sự ngu trung với vua hay là ảo tưởng bình trị dưới chế độ chuyên chế?
    23.
    Nho giáo bồi dưỡng nên một nhân vật văn hoá là nhà nho, với hình ảnh cụ thể là ông thầy đồ, chăm lo học hành, coi trọng văn hoá, văn chương nhưng không phải là người làm học thuật, người làm khoa học, người làm kĩ thuật, người làm nghệ thuật mà chỉ là người noi gương thánh hiền, giữ đạo đức đến sống gò bó, ngụy thiện, lo học thuộc sách vở, mở miệng là lời kinh sử, lấy nó bàn suông mọi chuyện trên đời.
    24.
    Nhà nho không phải là người tìm tòi khoa học kĩ thuật, vốn gắn liền với sản xuất, mà chỉ có chức năng giáo hoá, giữ sự yên ổn (đức trị - hoà mục). Một chế độ phi sản xuất, phi kinh doanh, chỉ sống bằng tô thuế, cần giữ yên chứ không phát triển thì nho thần lừng khừng cũng được việc.
    25.
    Chỉ có những gia đình lớn nhỏ chứ không có xã hội, nhà nước. Không có con người mà cũng không có công dân. Mọi người chỉ lo xử lí các quan hệ người trên và người dưới, tìm sự hoà thuận êm ấm, không hướng con người vào việc tìm tự do và hạnh phúc trong việc cải tiến tổ chức xã hội và làm chủ các lực lượng tự nhiên.
    26.
    Nho giáo không bao giờ nhận giao tranh trước những địch thủ mạnh hơn, mà rút lui một cách ung dung, kiêu hãnh về với cuộc sống thôn dã, về với làng xã gia đình, về tâm giới.
    27.
    Danh vị, phận vị khiến người ta quy cái bất công do Trời, do Mệnh, triệt tiêu mọi lí do hành động chống đối. Ðó cũng là lí do của ảo tưởng về nhân cách, che lấp thực trạng mất nhân phẩm.
    28.
    Ta nên phát huy khả năng truyền thống du nhập và linh hoạt ứng dụng để nhanh chóng có cái hiện đại, hay tìm tòi từ đặc sắc dân tộc cái của mình?
    29.
    Cái hiện đại, cái thế giới cũng không phải là hay cả, nhưng nếu dùng dân tộc đóng cửa chính lại thì cái dở nhất của nó sẽ chui vào cửa sổ.
    30.
    Hiểu đặc sắc văn hoá dân tộc còn là giải phóng cho sức sáng tạo, nói đúng hơn là tìm phương thức vun xới cho sức sáng tạo. Trong nền văn hoá cũ, sức sáng tạo của ta không khỏi có khuynh hướng tiểu kĩ, ứng dụng, thiếu những sáng tạo lớn. Ðó là con đẻ của tinh thần thiết thực. Trong tương lai đó là một nhược điểm. Ðổi thay được nhược điểm đó chắc chắn không phải là dễ dàng. Cũng khó mà kế hoạch hoá việc sáng tạo. Ta chỉ có thể chờ đợi điều đó ở những nhà tư tưởng, những nghệ sĩ, và ở nền sản xuất, tổ chức xã hội có khả năng sản sinh ra họ.
  10. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bác Tieucaluoi mang bài này vào đây, có nhiều điều thật hay và đáng suy ngẫm.
    Trong phần luận về Nho Giáo (từ 18 -27), tác giả muốn nói đến Nho Giáo từ thời Khổng Tử trở đi.
    Tôi đọc Sử Ký Tư Mã Thiên, thấy viết:
    " Khổng Tử dạy bốn điều: văn học, đức hạnh, trung thành, tín nghĩa; bỏ bốn điều: không có định kiến trước, không nhất thiết phải theo một mặt, không cố chấp, không chỉ thiên về mình." [1]
    Như vậy, Nho Giáo trước khi Khổng Tử san định, có vẻ cởi mở, phóng khoáng, khai phóng, và cầu toàn hơn rất nhiều.
    Xin quý vị góp ý về các điều Khổng Tử bỏ không dạy và hậu quả của nó trong xã hội chúng ta ngày nay.
    _________
    [1] Tư Mã Thiên. Sử Ký. Phan Ngọc dịch. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Học, 2002.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này