1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Người viết sử của một vùng đất huyền thoại

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi do_re_mi, 05/02/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    Người viết sử của một vùng đất huyền thoại

    Thâý trang này đọc bài cũng hay mọi người đọc góp ý:
    (nguồn www.binhthuan.gov.vn)
    Năm 81 tôi đến huyện Tháp Mười thuộc tỉnh Đồng Tháp cùng với mấy người bạn. Đi đông người lại ở ngắn ngày thì chỉ có đi chơi chứ viết lách gì. Lúc nói chuyện có một chị ở huyện bảo, nếu tôi muốn viết về Tháp Mười thì phải gặp ông Chín ở xã Đốc Binh Kiều. Ông là pho sử sống của địa phương, hiểu rành rẽ mọi việc từ năm cách mạng 45 đến nay. Tôi vâng vâng, cười cười rồi bỏ đó. Trong đời viết của tôi, tôi đã được gặp nhiều người lăn lộn với phong trào trong nhiều chục năm, biết đủ mọi chuyện, hiểu rất nhiều việc và người, ghi chép cả một cuốn nhưng không viết được một dòng nào. Người làm sử có thể viết được nhưng người viết văn thì chịu. Những từng trải, khái quát, chi tiết đều thuộc lãnh vực chính trị chứ không thuộc lãnh vực văn học. Rất khó chuyển đổi sang văn học, nếu có, nhiều lắm chỉ là sự gọt rũa, trang điểm cho nò màu mè hơn, uốn éo hơn mà thôi. Trong văn chương cũng lắm cái lạ lắm, một chi tiết nhỏ có thể làm bùng nổ một áng văn hay, còn một sự kiện lớn lúc viết ra lại nhạt như một bài lý tầm thường.
    Lần thứ hai tôi đến Tháp Mười vào năm 84. Lại một anh ở huyện nhắc nên gặp ông Chín, ông đã lớn tuổi lại đang đau, sợ rằng lần tới sau ông không còn, mà không được gặp ông thì tiếc lắm. Ông Chín ở xã Đốc Binh Kiều, chạy xuồng máy cũng phải mất cả buổi. Xã Đốc Binh Kiều có năm ấp, chu vi rất rộng. ấp Một giáp Tiền Giang, cặp kinh Cái; ấp Hai theo kinh 5 chạy ra kinh Ba Tháp, giáp Phú Riềng; ấp Ba dọc kinh Sáng, có trụ sở ủy ban Hành chính xã; ấp Bốn theo kinh Bùi, giáp Long An; ấp Năm theo kinh Sáng chạy thẳng. Ông Chín ở ấp Năm, tôi ngủ lại một đêm ở ủy ban xả, sáng hôm sau đi tiếp đò máy khoảng gần trưa thì tới nhà. Bà vợ ra tiếp tôi, bảo ông đang bệnh, đi lại nói năng đều mệt. Nghe nói tôi là nhà báo từ Sài Gòn tới, bà liếc nhìn vào trong rồi nói rất nhỏ: "Xin chú lui lại bữa khác, ông ấy đau cả mấy tháng nay, ngồi nói lâu sợ bệnh cũ tái phát". Tôi hỏi: "Ông Chín bị bệnh gì?" Bà vợ thở dài: "Suốt mấy chục năm nằm hầm rúc bụi, ngâm mình trong kinh trong đìa, lại bị thương mấy bận, giờ lục phủ ngũ tạng rữa nát trơn trọi". Tô đã buồn quá, chưa biết tính sao thì một giọng hỏ từ buồng trong vọng ra: "Ai tới chơi đó?" Phó chủ tịch xã đi cùng nói to: "Có anh nhà báo từ Sài Gòn tới thăm chú nhưng thím bảo chú đang mệt" - "Chờ chút, tôi ra liền đây". Ông Chín năm đó khoảng 62, 63 tuổi, tóc chưa bạc nhưng gầy ốm lắm, mặt mũi hốc hác, nhưng bàn tay ông nắm lấy tay tôi lại rất chặt như người còn khỏe. Ông cười, bảo: "Tôi chờ mấy chú nhà báo muốn thụt con mắt. Mừng chú đã tới chơi thăm". Tôi cũng nói là tôi muốn được hỏi ông nhiều về vùng đất nay từ năm 45 đến giờ. Đọc sử của địa phương cũng có thể biết nưng không thể viết được. Cái nghề của tôi là phải gặp được người thật kể về những công việc chính họ đã làm, đã chứng kiến thì mới dễ tưởng tượng, mới thành văn. Ông Chín lại cười: "Vậy là chú gặp trúng người rồi!" Tôi lại nói: "Chuyện tôi muốn hỏi thì nhiều, sức khỏe của bác lại kém, thôi thì tùy bác, nói được chừng nào thì nói, còn sau đó..." Ông Chín giơ tay huơ huơ trước mặt: "Tôi cố sống đến hôm nay chỉ cốt được gặp một nhà báo ghi giúp câu chuện đời mình cũng là lịch sử của một địa phương để người đời sau có thêm bằng cứ tra cứu. Cho tôi hỏi chú thứ mấy?"

    2. Ông Chín mở đầu câu chuyện bằng cách bảo tôi thử lắng nghe có tiếng động gì khác lạ không? Tôi nghiêng đầu nghe ngóng một lúc rồi nói: "Có nghe thấy gì đâu. Lặng lẽ quá! Chỉ có tiếng sóng đập nhẹ vào bờ kinh, tiếng chim hót, tiếng gió thổi và tiếng cá quẫy trong lu thôi". Ông cười, hàm răng trên đã rụng vài chiếc: "Vậy mà trong thời còn chiến tranh tôi luôn luôn mơ ước có được dăm mười phút thật yên lặng để ngắm trời ngắm đất và được nghe tiếng gọi hỏi không sợ hãi của con người. Là chỉ dám mơ ước thôi chứ không tin mình có phước dư sống được tới ngày đó". Ông Chín kể, vùng đất này hoang vu lắm. Cách đây trên một ngàn năm cũng đã có người nhưng là giứng người khác tới, cao trên hai mét. Rồi họ biến mất, không để lại dấu tích gì. Thời các Chúa Nguyễn cũng vẫn hoang vu. Thời Tây vào cũng vẫn đầm lầy, cỏ dại với lúa trời. Người đầu tiên tới mấy xã quanh đây là ông Lương Văn Trung, khi kênh Ba Tháp vừa đào xong, là năm 1889. Ông Trung là người Cần Đước, Cần Giuộc. Mộ ông Trung là ngôi mộ lâu đời nhất. Rồi chuyện ông Đốc Binh Kiều, một lãnh tụ của nghĩa quân kháng Pháp hồi Pháp mới vào. Quanh gò tháp ông xây năm đồn: đồn Tiền, đồn Hậu, rồi Tả, Hữu, đồn Trung là gò Tháp, bây giờ vẫn còn nền. Những cây sao chôi sâu làm thành lũy nay vẫn còn phần gỗ cắm trong đất. Khi ông Kiều tử trận, nghĩa quân chôn ông ở chân gò, gọi là Mả Quan Lớn, lập miếu thờ, lấy ngày mồng 4 Tết là ngày giỗ ông Đốc Binh, cũng là ngày giỗ các binh lính tử trận trong thời đầu đánh Pháp. Con cháu các đời sau theo lời dặn của cha ông cứ đến ngày đó đem thịt thú rừng tới cúng tế gọi là cúng Mười Hai Cửa Rừng. Trong đám nghĩa quân có ông cố Bảy là một ông tổ của dòng họ làm Vận Lương quan của ông Đốc Binh, chuyên vận chuyển lương thực bằng ghe lường và bằng xe trâu. Con đường xe trâu nay gọi là đường Gạo, dầu đã cày đi bừa lại cả trăm năm vẫn còn sâu, lội vẫn ướt đít. Hết chuyện ông Đốc Binh lại đến chuyện đồn điền Tây ở vùng này, gọi là Hội Canh nông Kỹ nghệ Đồng Tháp Mười, bao hết mấy xã Mỹ An, Tân Ninh, Đốc Binh Kiều, gọi tắt là đồn điều Hội Tháp Mười, có sáu người Pháp và một người Việt Nam là Hội đồng Bền trong bộ máy hành chính của đồn điền, do Brondeau chỉ huy. Phía dưới có section, dưới section có điểm điền, dưới kiểm điền có cạp rằng. Kho thâu lúa hàng năm của đồn điền còn lớn hơn kho của Sở Lương thực bây giờ. Chúng nuôi hai con béc giê, mua thịt bò và cá lóc nấu cho chó ăn. Có người mẹ bảo con: "Con chụm lửa mẹ đi lấy cá về nấu", rồi ra vườn thắt cổ chết. Rồi đến chuyện Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Sau ngày cuộc khởi nghĩa thất bại, ông Tám Cảnh là anh thứ tám của bà Thập gạt về Tháp Mười bơi xuồng bán cám nghêu ngao để tuyên truyền cách mạng, xây dựmg cơ sở mới. Ông Tư, anh ruột ông Chín là cơ sở cũ của ông Tám ở đồn điền. Ông Tám thường hay đi với người cháu là Nguyễn Tất Thành, vốn là thầy dạy võ. Sau cách mạng ông Thành là tỉnh đội trưởng dân quân đầu tiên của Mỹ Tho. Khi ông Thz2nh hy sinh tỉnh đổi tên kinh sáng Lacôm thành kinh Nguyễn Tất Thành. Nói ông Thành lại phải nói đến ông Lữ Đồng Tân, tên là Tân, người xã Long Hưng, bị Tây đánh thọt chân. Ông ở nhà chăn nuôi heo lấy tiền nuôi tỉnh ủy. Ông nói: "Tao không đi công tác được, tao làm ruộng nuôi bọn bây, đứa nào phản tao giết". Rồi đến chuyện thời Diệm là thủ tướng, các giáo phái nổi lên, quân quyền đủ loại. Quân mình thì tập kết ở Cao Lãnh. Quân Cao Đài đóng ở gò Tháp Mười. Quân Hòa Hảo đóng ở chợ Thiên Hộ. Cách hợ 500 mét là lính quốc gia. Đủ các sắc áo, đủ các màu cờ. Quân nào cũng súng ống đầy đủ nhưng những người kháng chiến chín năm lại phải chôn súng để thực hiện hiệp định Giơnevơ. Lại kể cái đận chôn súng, cho mỡ bò vào quy lát, đặt súng trong thùng gỗ đóng bằng cây vên vên chịu được nước. Năm 59 moi súng lên vẫn tốt nguyên. Lại nói quân các giáo phái, chỉ riêng mối đạo Hòa Hảo đã có bao nhiêu loại quân. Quân của Năm Lửa, quân của Ba Cụt, của Nguyễn Giác Ngộ, của Lâm Thành Nguyên. Tất thảy các đội quân này đều có người của Dân Xã Đảng nắm. Rồi nói tới Lục Tướng Giáng Nhị Điều, tức là sáu ông tướng của các giáo phái ra tuyên bố đòi Diệm phải từ chức và thống nhất quân đội trong đó có quân của các giáo phái. Giữa năm 55 tàn quân Bình Xuyên thất trận ở Rừng Sát theo Kinh Ba Tháp về Tháp Mười để câu lực lượng của Năm Lửa. Rồi vợ Năm Lửa thay chồng đàm phán với Nguyễn Ngọc Thơ đại diện chính quyền Diệm ở vùng chợ Lán Tượng. Vì thơ đã từng làm tỉnh trưởng Long Xuyên thời Pháp trở lại, có quan hệ thân tình với Hòa Hảo có căn cứ ở vùng Thất Sơn. Năm ấy cấp trên chưa cho phép nổ súng thì anh em lại tìm cách nhập vào các đơn vị vũ trang của Hòa Hảo, Cao Đài, Bình Xuyên để tổ chức và chỉ huy họ chiến đấu chống quân Ngô Đình Nhiệm. Nên tiếng súng nổ trở lại ở Đồng Tháp Mười sớm lắm, từ tháng 3 năm 56. Vỏ của người, ruột của mình, ngao cò tương tranh ngư ông đắc lợi, có lắm chuyện rất ly kỳ nên không thể không nghe, đã nghe không thể không hỏi. Mà đã hỏi là ông Chín phải nói thêm cả giờ. Ví như hỏi Năm Lửa là ai thì ông phải kể Năm Lửa, được Tây phong là tướng hai sao. Nhưng khi đại tá chỉ huy sếch-tơ (chi khu) Cần Thơ tổ chức lễ gắn sao bên Cái Vồn năm 47 lại thiếu mất một. Lại hỏi, Hai Ngoán là người thế nào, trả lời một dọc, tên hắn là Lâm Thành Nguyên, thiếu tướng Hòa Hảo, đóng quân ở Bảy Núi, là dân áp phe, nuôi cá sấu sản xuất da xuất khẩu, giàu lắm, chuyên dùng tiền mua quyền lực. Trịnh Minh Thế cũng có bao nhiêu là chuyện, từ lúa ra đầu Diệm tới lúc bị bắn chết ở cầu Tân Thuận. ấy là mới tới đận đầu trào Ngô mà tài liệu ghi đượ đã gần hết một cuốn vở học trò. Còn thời đánh Mỹ phải nói thêm bao nhiêu buổi nữa?

    Ông Chín thở dài, chú Tư à, anh em ra Bắc rồi bọn tôi ở lại buồn thảm lắm, nhiều tâm sự lắm... Cúc vàng rụng xuống đồng sân. Mùa thu trở lại cố nhân xa rồi... Nhìn ra xung quanh trời đất vắng teo như không còn có ai nữa. Biết làm gì đây, biết sống và chiến đấu ra sao đây. Được sống trong độc lập suốt chín năm, bây giờ phải quay trở lại cái thời còn bị áp bức đầu óc cứ quáng quàng, vừa buồn vừa bực, tại sao lại phải thế, thời thế sao mà đa đoan đến thế. Lại nhớ đến ông Thống lãnh Linh tức ông Thống Linh, người Cao Lãnh, trước lúc bị Pháp hành quyết ở làng Mỹ Trà, còn kịp đọc to hai câu thơ: Rất tiếc thù chung chưa trả đặng. Sụt sùi chín suối dễ nào nguôi. Nợ nước mình mới trả có một nửa, nửa phần còn lại biết đến thuở nào mới hoàn tất. Quân đội đi rồi, súng ống chôn rồi, sẽ hoàn tất bằng cách nào đây? Đang nói to, cười to bỗng dưng phải nói nhỏ, cười nhỏ. Cái nhìn tin cậy mọi khi cũng không còn, mình là vậy, nhưng bạn bè có vậy? Mỗi lần gặp nhau ngó trước dòm sau rồi hỏi nhỏ: "Mày sao?" - "Mày sao tao vậy, chết thôi!". Vậy là bạn vẫn chí cốt với cách mạng, là người có thể tin cậy được. Hoặc ba bốn thằng ngồi xúm lại với nhau trong bụi, hát nho nhỏ bài "Tiểu đoàn Ba lẻ bảy", hát một câu ớn óc rùng mình một câu. Nhớ lắm, nhớ đến bật khóc. Gục đầu vào vai nhau khóc hù hù, hù hù...

    Đã hết hai ngày, lại qua thêm một ngày, ông Chín vẫn kể, tôi vẫn ghi mà như câu chuyện mới chỉ bắt đầu. Ông thì cái gì cũng biết, biết rạch ròi, biết đến mức tôi phải ngờ là ông bịa. Có phải chỉ chuyện của xã, của huyện thôi đâu, cả chuyện của Sài Gòn, của các giáo phái ông biết cũng rất rành. Người dưới xã biết nhiều đến thế làm sao tin được. Về đến Sài Gòn là tôi tra cứu lại liền, tìm sách đọc cũng có, hỏi người này người nọ cũng có, đúng y chóc, người việc đã không sai mà ngày tháng cũng không mấy trật. Một ông nông dân lại có bộ óc bách khoa của người viết sử cũng thật lạ lùng.

    3. Ông Chín kể chuyện cách mạng, chuyện chính trị với các nhân vật, sự kiện đã thuộc về lịch sử. Còn bà Chín mỗi tối sau bữa cơm là lúc rảnh rỗi trước giờ ngủ cũng nhẩn nha nói đủ thứ chuyện về cái thời một mình nuôi con, chờ chồng, chờ ngày chiến thắng. Bà Chín kém chồng chừng dăm tuổi, lại đẻ và nuôi cả một bè con, lớp lo nuôi con, lớp nuôi chồng đi hoạt động, rồi lo biệt kích, lo chỉ điểm, lo giặc càn, lo pháo bắn mà không điên không bệnh, người cứ sắt lại như lõi tràm cừ. Bây giờ bả vẫn khỏe, từ năm giải phóng đến giờ không đau một ngày nào, không nằm một ngày nào. Bà cùng hai đứa nhỏ còn ở nhà nuôi hai con bò cái, trồng mấy công tràm, nhặt nhạnh chỗ này một tí tiền, chỗ kia một tí tiền, cũng đủ tiền thuốc cho ông Chín, tiền ăn học cho mấy đứa lớn trên thành phố và chi dùng vặt vãnh việc nhà. Nuôi bò không tốn kém gì, gom cỏ ngoài đồng về là thành tiền. Còn nuôi heo lại phải mua cám. Bò chửa nuôi chín tháng là đẻ, nuôi con nó bày tháng là dứt sữa, bò hai mươi tháng trở lên bán được 50 giạ lúa. Nhà này một năm phải có hai trăm giạ lúa mới tạm đủ, một năm có những tám cái giữ. Trồng tràm có tiền lắm nhưng trồng tràm như đánh bạc, chú ơi! Tràm đã cháy thì không có cách gì cứu nổi. Chú hỏi tại sao mà cháy ư? Đốt lửa bắt ong tàn rớt là cháy. Đốt cò hun chuột là cháy. Vỏ tràm cháy nó bung ra bay đỏ rừng đỏ đống, mương kinh không ngăn được. Trúng cỡ cừ mà không bán được, chỉ bán làm củi thôi. Nên vẫn trồng tràm mà không dám buông đất ruộng.

    Bà Chín nói, vùng đất này hoang hóa nhiều nhưng là đất vàng bạc nên các cụ từ Cần Giuộc, Cần Đước, Chợ Gạo là nơi đồng khô cỏ cháy, đất chật hẹp mới lũ lượt kéo về. Rồi con cháu các cụ nghĩa quân cũng dỗn về. Đủ loại người, trộm cướp có, phạm pháp có, người hiền lành tử tế có, đời này qua đời nọ mới thành dân Đồng Tháp. Cái thời trước cách mạng, năm tôi còn nhỏ, dân Đồng Tháp không hiền như bây giờ đâu, mạnh hiếp yếu, khôn hiếp dại nên phải có võ mới sống nổi. Không có võ thì phải nuôi thầy dạy võ trong nhà, hoặc ông thầy dạy võ nơi khác nhưng mình cho ông ở nhờ, có khi còn nuôi cơm để ông ấy bảo vệ cho mình. Đất thì dữ nhưng chưa có ai bỏ đất này mà đi vì nó nuôi người dễ lắm. Tháng 10 ta, nước giựt xuống, cá trong lùm cỏ quậy sình nghe ột ệt như cơm sôi, gạt cỏ ra cá lóc nghển đầu, thồi lồi con mắt chờ mưa, phải bắt cả gánh. Trước đây vùng này sen cũng nhiều, sen rừng mọc ở bưng lẫn với cỏ đế nhìn không thấu, đi một buổi bẻ gương sen chở khẳm một xuồng, nấu ăn như cơm cũng ngon lắm. Thịt chuột cũng ngon, đặt cái dậm cù bắt chuột ăn mầm cỏ, ăn củ năng béo mẫm, thịt trắng thơm như thịt gà. Này, chú đã được ăn trứng rùa chưa? Trên đời không có trứng gì, gan gì ngon hơn trứng ga con rùa. Rùa vàng thịt ngon, rùa nắp gan ngon, rùa quạ rùa thơm hơn cả trứng gà.

    Chuyện cách mạng một chút, chuyện mần ăn một chút, rồi chuyện vui chuyện buồn, chuyện nào cũng lạ vì cách nói, vì chữ dùng, đã không ghi chép gì, nghe chơi thôi, rồi cũng phải lấy sổ lấy bút ra, ghi lại, hỏi lại. Vừa nghe bà Chín nói dứt miệng: Con gái địa chủ bàn cẳng trắng như miếng dừa cậy..., lại bắt bà nói lại. Bà bật cười, vẻ ngạc nhiên: "Nói thế mà chú cũng ghi sao, mọi câu mọi ghi, ghi cả tháng cũng chưa hết. Lúc nào cần ghi chú cứ bảo"... Cái hồi khó khăn truyền đơn của nó lớp nào dính ngọn cây, lớp nào dính ngọn cỏ, lớp dưới đất, lớp cũ rồi lớp mới... Cũng ghi à?... Lúa trời là lúa ma, chống xuồng chạy càn cứ lằng nhằng như mắc vào dây võng... Khốn khó với thằng Mỹ lắm chú ơi, chúng nó ăn gạo sấy, ăn xong nhảy lên hai cái cá nóc, hai cái cá lẹp, môt cái đầu láng đi trinh sát, thấy vỏ thuốc Ara, lá bánh tét hoặc chỉ một bãi phân người là mấy phút sau máy bay nó đã bu đến đen đặc, quần đảo bắn phá cả giờ... Cái năm anh em mình mới đi tập kết, còn lại mấy người kháng chiến cũ, ngó ông chồng để tóc dài bới gọn phía sau nhỏ bằng trái mận, cái áo bà ba rộng thùng thình, cái quần lỡ dài lỡ cụt, xách mười lít mật lên miệt trên bán mà đau ruột quá. Bao nhiêu hy vọng suốt chín năm rút cuộc lại ra thế này sao!...
  2. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    4. Tôi đã ngồi trò chuyện với ông Chín được bốn ngày. ấy là phải nói tóm lược mới được già nửa câu chuyện phải nói. Càng nói ông như càng khỏe ra, minh mẫm thêm ra, ăn một bữa hai lưng cơm ngon lành, nghe bà vợ nói mấy đêm rồi ông ngủ cũng ngon giấc, không trằn trọc, ngủ từ tối đến bốn, năm giờ sáng. Trưa nào, sáng nào chính ông phải gọi tôi dậy làm việc vì tôi đâu còn trẻ, năm ấy đôi đã 53, 54 rồi, đã bắt đầu mệt, bắt đầu lười rồi. Tôi bảo, việc gì phải vội. Tôi có thể ở đây với anh chị cả thành, cho xong mọi việc mới về Sài Gòn. Ông cười buồn, nói: "Tôi phải vội hơn chú, bữa nay tôi khỏe có thể trò chuyện với chú nhưng lỡ bữa mai... Thế này nhá, chuyện nào thật quan trọng ta nên nói trước, chuyện nào nhiều người cùng biết lui lại nói sau. Bữa nay tôi kể chú nghe những ngày cuối tháng Tư năm 75 ở vùng đất này..."
    Trước khi kể vào việc chính, ông Chín bắt đầu nói từ năm 73 quân ta ồ đạt kéo về Tháp Mười, vây bót, thành khu da beo. Năm 74 địch đưa 23 tiểu đoàn về càn rồi đóng lại tranh dân tranh đất với ta từng ly từng tí. Rồi chuyện lớn xảy ra, tháng 3 năm 75 sau khi thua ở Buôn Ma Thuột địch rút luôn ba tỉnh Cao Nguyên. Lại nghe tin đài quân ta từ vĩ tuyến tấn vô, địch phải bỏ Huế, bỏ Đà Nẵng, bỏ một dọc các tỉnh miền Trung, tin theo dõi trên bản đồ ghi không kịp, không nghe tin đánh mà mình đã chiếm rồi. Đêm không ngủ, ngày cũng không ngủ, hồi hộp quá, biết là đại thắng rồi, thời cuộc sắp thay đổi lớn rồi mà chưa dám thật vui, vẫn còn hãi cái vui nữa chừng của năm 54. Đến mặt trận Xuân lộc thì cuộc tấn công như tạm dừng lại. Lại lo, lại sợ. Phải thắng hết mới thật an tâm. Chứ thắng đến hai phần ba, đến ba phần tư, cái phần còn lại vẫn có thể nở ra nhiều chuyện rắc rối khác. Địch cầm cự được 18 ngày rồi bỏ Long Khánh, cửa ngõ vào Sài Gòn đột ngột mở toang. Thiệu chửi ngược Mỹ rồi ra đi, già Hương lên cầm quyền nói nhệu nhạo trên đài như người khóc. Nhưng chắc là còn phải đổ máu nhiều chứ đâu chúng chịu xuôi tay lẹ vậy. Chúng còn Sài Gòn, còn miền Tây Nam Bộ, lực lượng đâu phải ít, vẫn còn chổ đứng, còn danh nghĩa để Mỹ có thể lại nhảy vào.
    Ông Chín rút một điếu trong bao thuốc của tôi châm hút, ông vốn nghiện nặng nhưng do bệnh mà phải bỏ thuốc đã mấy năm nay. Ông hít một hơi ngắn rồi cứ cầm điếu thuốc trên tay im lặng rất lâu, nét mặt hơi nhăn lại, mắt nhìn chăm chú một điểm nào đó rất xa. Tôi hỏi: "Anh chín cảm thấy khó chịu à? Ta nghỉ ở đây mai nói tiếp". Ông Chín hơi cười nhưng cứ như người mếu, đuôi mắt nhấp nhánh ướt như có nước: "Không sao, cái ngày 30 tháng Tư ấy mà, từ sáng sớm tôi đã bật radio bắt đài Sài Gòn, xem nó còn hay mấy, lấy nó làm chuẩn. Rồi tôi tắt đài, ngả lưng nằm một chút vì đã mệt quá, đã buồn ngủ quá, mắt cứ nhíu lại không cưỡng nổi. Rồi tôi ngủ thật, chắc là giấc ngủ say lắm, cứ nghe văng cẳng như có ai gọi tên mình, rồi có ai lay chân mình: "Dượng Chín, ngủ gì mà ngủ dữ vậy dượng Chính!". Tôi mở choàng mắt nhìn thằng cháu vợ nước mắt đầm đìa, quỳ bên miếng ván tôi nằm, nói hào hển: "Thắng hết rồi Dượng ơi, Dương Văn Minh đầu hàng rồi, quân ta vào Sài Gòn rồi. Êm hết rồi!" Chả biết hồn vía tôi để đâu người cứ ngẩn ra, ngực đau thắt lại, mãi mới nói được mấy câu cũng chẳng nhớ đã nói những gì. Tôi chờ đợi, mơ ước suốt hai chục năm cái giờ phút thiêng liêng này nhưng tới cái lúc cần thức để hét to một tiếng, khóc òa một tiếng rồi nằm vật ra nhìn trời nhìn đất bao la cười dài một hơi cho đã đời thì lại ngủ quên mất. Giải phóng toàn miền Nam không đầy một giấc ngủ, trước lúc ngủ thì chưa, ngủ dậy mọi sự đã rồi. Có đau không chứ, có uất không chứ! Suốt mấy tháng sau giải phóng cả mọi nhà buồn vui lẫn lộn, nhà khác thì được đoàn tụ, nhà mình thì thiểu vắng quá nhiều. Nhà nào cũng khói nhanh nghi ngút, cũng cơm cúng mỗi buổi, vừa khóc vừa cười. Suốt trong mấy tháng lòng dạ mọi người cứ bồn chồn, không làm cái gì ra cái gì. Dầu mỡ hết nên không cày được, mần cỏ rác rồi sạ lúa cũng chậm. Thì đã từng thề, độc lập rồi, cởi trần, mặc quần vắn, ai khoai ăn củ cũng sướng. Chỉ cần thế thôi, không cần cái gì hết, không thấy cần bất cứ cái gì. Thương yêu hết, anh em đồng chí hết. Không nghĩ rằng được sống mà vẫn sống ở đời với con với cháu để hưởng cái độc lập còn mong muốn gì hơn...
    Chập tối cơm xong, bà Chín vừa nhai trầu vừa nói:
    - Xưa nay đám lơ xe nói mười tiếng là đù mẹ mười tiếng. Sau giải phóng họ đi dép râu, mặc áo bà ba đen, đi suốt một chặng đường không có một tiếng đù cha đù mẹ. Nhưng cái tiếng đù mẹ lại từ miệng anh cán bộ, anh chiến sĩ nói ra. Thế là dân ngả theo cái rụp.
    Bà lại nói:
    - Vùng Đồng Tháp Mười thời sau Cách mạng tháng Tám là hết mọi hủ tục, hết khăn đóng áo dài, hết lạy lục. Bây giờ dần dần lại phục hồi đủ cả. Có một anh cán bộ lâm nghiệp cưới vợ cho con mười hai ngàn tấp thiệp, mờ cả gánh hát về, đưa cả sang bên sui hát. Ăn nhậu tới ba bốn ngày.
    Thế là lại bắt sang đời nay, đời nay với bao nhiêu chuyện phải nói, phải cãi, phải kêu. Nào giá lúa và giá mía, nào thuế tràm và nhiều trò ngạo ngược của cán bộ kiểm lâm. Rồi người giàu với người nghèo, người thật thà với đứa gian manh, người có chức quyền và dân thường. Gần trọn một ngày ông Chín nói rặt những chuyện của hôm nay nhưng tôi không ghi chép được mấy. Ông rất từng trải trong chiến tranh nhưng lại ít hiểu biết về cuộc sống trong thời bình. Chuyện tất nhiên phải xảy ra ông xem như trời sập, cứ như đất nước được thống nhất, độc lập ngày hôm trước thì hôm sau thiên đường lập tức hiện ra. Không được thế là ông bực, rồi ông hờn giận, thành người khó khăn, gắp cán bộ của xã của huyện là ông hặc tội nên họ cũng tránh ông dần. Họ tránh ông thì ông cũng tránh họ, gặp lại bạn bè cũ cũng ít vì quan niệm khác nhau, nói chuyện với vợ con cũng không hợp, bè họ một ý kiến, mình ông một ý kiến. Họ không nghe ông thì ông không nói nữa, nói ít dần, lặng lẽ nhiều hơn, ngồi một mình ngẫm nghĩ nhiều hơn. Nên ông chỉ thích nói lại những chuyện ngày xưa, chuyện trong chiến tranh, cái thời ông là một anh hùng, tính đâu trúng đó, đoán người đoán việc như thần, nhưng nói chuyện chiến tranh lúc này mấy người nghe. Cũng không mấy người hỏi ngoài mấy người viết sử của huyện, của tỉnh... Và tôi là một thằng nhà văn. Tôi rất trân trọng ngày hôm qua bởi tôi thành người cũng từ ngày hôm qua. Tôi gặp ông Chín ở chỗ này. Nhưng tôi cũng khác ông vì tôi biết nhìn nhận mọi sự đang diễn ra một cách bình tĩnh, nó tất nhiên là phải thế, không thể khác thế. Muốn khác phải năm ba chục năm nữa. Lai tạo giống cây mới còn khó còn lâu huống hồ cải tạo những anh Chí Phèo, Xuân Tóc Đỏ thành người đàng hoàng tử tế đâu phải chuyện chỉ một hai đời người. Có điều, trước hết phải thống nhất, độc lập cái đã, những chuyện khác mới có thể bắt đầu.
    Trong bữa cơm chia tay để tôi về huyện, tôi đã nói rất chân thành cách nghĩ của tôi về ngày hôm nay với ông Chín. Tôi nói rất say sưa nhưng ông có vẽ mệt, mắt nhìn lừ đừ, uống tới ba bốn ly rượu nhỏ, rồi thở dài, rồi ngáp làm tôi cũng buồn. Mình là người của hôm qua phải biết lắng nghe chuyện của hôm nay chứ! Thời nào có anh hùng của thời ấy, chớ có xem thường. Mình chịu nghe chuyện của họ, họ mới chịu nghe chuyện của mình, từ đó mà bử sung những khiếm khuyết của nhau. Mình rầy la, rẻ rúng họ thì họ sẽ chạy biến, tự lo lấy mọi việc đầu cần có sự có mặt của mình nữa. Bởi vậy tôi đã tự hứa sẽ viết lại chuyện ông Chín để ông được trò chuyện qua tôi với thế hệ trẻ. Cuốn sách viết trong vài tháng thì xong, được Nhà xuất bản Trẻ nhận in với số lượng khá lớn. Đó là cuốn tiểu thuyết "Vòng sóng đến vô cùng". Nhưng sách không bán được, sách bị ế, cũng chả có dư luận gì trong số bạn đọc quen thuộc. Đến ngay tỉnh Đồng Tháp và huyện Tháp Mười cũng không thấy nói sao, là được hay không được. Tấm lòng của tôi về một vùng đất là như thế, người kể phải nói là tuyệt hay, người viết cũng có một chút tay nghề mà vẫn không làm nên một cuốn tiểu thuyết đọc được. Do đó tôi mới viết thêm bài này để có dịp bộc bạch cái bất cập của mình. Thôi thì cái dài bạn đọc đã chê thì đọc bài văn ngắn vậy để ông Chín có cơ hội tự trình làng, nói được chút ít cái sức sống mãnh liệt, bất khuất của một vùng đất đã đi vào huyền thoại. Được thế thôi cũng đã lấy làm mừng lắm.
    Tháng Chín năm 96

Chia sẻ trang này