1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Người VN ở Đức

Chủ đề trong 'Đức (German Club)' bởi Nadeshiko, 11/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. deepredvslacoste

    deepredvslacoste Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/09/2003
    Bài viết:
    1.178
    Đã được thích:
    0
    Công nhân..chán thật...Thôi cố lên KU!!!
  2. cow-n-chicken

    cow-n-chicken Moderator

    Tham gia ngày:
    01/01/2001
    Bài viết:
    3.615
    Đã được thích:
    1
    paste ra cho bà con đọc luôn nè :
    Người Việt ở Berlin:
    Phần 1 - Những người tị nạn mặc đồ hiệu



    Ðầu tiên, mục sư Thomas rất lấy làm lạ khi thấy trong các buổi giảng lễ có hai nhóm người châu Á luôn ngồi tách xa nhau. Không chỉ vậy, hai nhóm người này lại có ý tránh nhau những lúc nói chuyện tại tiền sảnh nhà thờ. Và điều làm ông ngạc nhiên nữa chính là: tất cả họ đều đến từ Việt Nam. Chỉ có điều, một nhóm là người Việt Tây Berlin, còn nhóm kia là người Việt Ðông Berlin.
    Thực ra, sự phân biệt này không hoàn toàn chính xác. Theo ước đoán của chính quyền Ðức, số người Việt hiện nay ở Tiểu bang Berlin xấp xỉ trên 40 ngàn, trong đó, số người có đăng ký nhân khẩu chính thức là khoảng 12 ngàn (Tây Berlin khoảng 4 ngàn, Ðông Berlin khoảng 8 ngàn), kể cả gần 3 ngàn người đã nhập quốc tịch Ðức.

    Như vậy, gần 3/4 số người Việt ở Berlin không có giấy tờ hợp lệ - họ là những người đang xin tỵ nạn (nhưng chưa hoặc không được công nhận tỵ nạn) tại các tiểu bang khác dồn về Berlin để tìm cách làm ăn.

    Ðối với mọi sắc dân xin tỵ nạn, nhà nước Ðức đều có trách nhiệm lo chỗ ở (tại Berlin nói riêng và các tiểu bang phía Ðông nói chung, là các chung cư trung bình 2-3 người một phòng), với chi phí chỗ ở khoảng 300-500 , mỗi tháng.

    Nếu tính cả phí tổn bảo hiểm y tế bình quân 200 ,/tháng và các dịch vụ xã hội khác (như giảm giá tàu xe, miễn phí tư pháp,...) và tiền ăn mặc 160-200 ,/tháng được phát (gọi là trợ cấp tỵ nạn), thì chi phí của chính quyền cho một người xin tỵ nạn là khoảng xấp xỉ 1000 , mỗi tháng.

    Tuy nhiên, phần đa người xin tỵ nạn Việt Nam còn rất trẻ, còn rất nhiều nhu cầu, nên gần 200 , tiền mặt đối với họ là không đủ. Bà Meinbach - nhân viên xã hội một trại tỵ nạn dành cho thanh thiếu niên ngay gần trung tâm Berlin "hết sức ngạc nhiên khi thấy hầu hết các cô cậu tỵ nạn Việt Mam đều xài quần áo mác-mỏ đắt tiền và hút thuốc lá sang chứ không dùng thuốc quấn".

    Lý do đơn giản là hầu hết dân xin tỵ nạn Việt Nam đều không trông chờ (có nhiều người còn "khinh") trợ cấp tỵ nạn; và họ đều tìm kế kiếm tiền riêng.
    Nơi trú ngụ của dân xin tỵ nạn từ xa đến ở Berlin là nhà người quen hoặc là những căn hộ nhỏ nhờ người quen thuê hộ. Ðiều kiện ăn ở và sinh hoạt trong những "tổ hợp chung chạ" bất hợp pháp này cũng chẳng khá hơn so với ở chung cư tỵ nạn, có những căn hộ đứng tên một người thuê, nhưng tối đến là 9-10 người lăn lóc trên những tấm đệm trải tạm. "Nhưng dù sao, người mình ở với nhau vẫn cứ vui hơn, và cũng tiện cho chuyện làm ăn hơn"- một thanh niên 19 tuổi cho biết như vậy.

    Hàng xóm người Ðức "không thể tưởng tượng nổi" và không dễ chấp nhận hiện trạng "vui vẻ" này, nên chỉ những hãng nhà chả mấy đàng hoàng mới dám "nhắm mắt" cho thuê những căn hộ trên. Ðiều không may cho con số 3 /4 này là, theo luật tỵ nạn của Ðức, họ chỉ được phép cư ngụ và di chuyển trong phạm vi địa phương mà họ đã nộp đơn xin tỵ nạn, và trong thời gian chưa hoặc không được chấp nhận tỵ nạn này (tỷ lệ người Việt được công nhận tỵ nạn tại Ðức là 2-3 phần ngàn), việc xin được giấy phép lao động, đặc biệt ở các tiểu bang phía Ðông, là một điều không tưởng.

    Vì vậy, 3 /4 người Việt ở Berlin phải ở "chui", và ngoài việc ăn trộm hay bán thuốc lá lậu thuế, nếu kiếm được việc làm trong một cơ sở kinh doanh của người Việt Nam nào đó, thì cũng là làm "lậu". Ðối với số người này, việc bị cảnh sát bắt giữ và đuổi về vùng quy định là một nguy cơ luôn lơ lửng trên đầu.
    Tại Berlin cũng có khoảng 2000-3000 người Việt Nam được đăng ký xin tỵ nạn và tạm dung - phần lớn là thanh thiếu niên hoặc những người khai bớt tuổi thành thanh thiếu niên, và cũng có những người từ nơi xa đến đây không phải để làm ăn phi pháp. Những người này "chui" vào Berlin mấy triệu dân này "để có bạn cho vui" (Nhiều trại tỵ nạn tại các tiểu bang khác phía Ðông được tu sửa từ những trại lính Liên Xô cũ, ở tách hẳn khỏi những khu vực dân cư).

    Một cô gái trẻ cho biết: "Mấy đứa bọn em suốt ngày nằm xem chương trình VTV 4 hoặc băng phim tập Trung Quốc, Việt Nam. Thực ra, cũng có đứa thích xem chương trình Ðức, nhưng mù tịt tiếng, nên đành chịu...Còn quay trở về Việt Nam ư? Về đó, thần thế không có, chúng em biết làm gì? Mất bao nhiêu tiền mới sang được đến đây, nay về tay không, biết ăn nói với cha mẹ và làng nước ra sao? Thôi thì người ta cho ở ngày nào thì biết ngày đó vậy!".

    Rồi ở đây, cuộc sống bất ổn đến mức bấp bênh, khép kín đến mức bế tắc này sẽ dẫn những chàng trai, cô gái đó tới đâu? Cảnh sát Ðức cho biết: trong người Việt, nạn nghiện ma túy đã trở nên trầm trọng và đã có vài cô gái Việt phải bán thân.
    Phạm Việt Vinh
    Theo Talawas


    `·.¸¸.·´¯`·.¸¸¸.ối giời ơi.¸¸¸.·´¯`·.¸¸.·´
  3. cow-n-chicken

    cow-n-chicken Moderator

    Tham gia ngày:
    01/01/2001
    Bài viết:
    3.615
    Đã được thích:
    1
    Phần 2 - Đông Tây và bức tường trong những người xa xứ

    [​IMG]Phá bỏ bức tường Berlin - đó mới chỉ là sự phá bỏ hình thức.

    Phá bỏ bức tường Berlin - đó mới chỉ là sự phá bỏ hình thức.
    Cùng trong một tiểu bang Berlin, nhưng những người Việt ở hai đầu Đông - Tây vẫn thực sự khác hẳn nhau. Hơn 10 năm sau khi bức tường Berlin bị phá bỏ, nhưng giữa chính họ - những người ngoại quốc sống trên xứ sở này - dường như vẫn còn tồn tại bức tường ngăn cách về lối sống và quan niệm.

    Những Việt kiều Tây Berlin

    So với số người tỵ nạn, 1/4 đồng bào còn lại (mà bà con tỵ nạn gọi gộp lại là "kiều", Việt kiều - để chỉ những đồng hương ở phía Tây, hay là "dân có Pass", dân có hộ chiếu - giấy tờ với dấu của Ðức cho phép thường trú, dùng để chỉ dân "cựu lao động hợp tác" phía Ðông ), có những quan tâm hoàn toàn khác.

    Tại nhà thờ đã kể trên, câu chuyện giữa những người được gọi là "dân Tây Berlin" chủ yếu xoay quanh chuyện xã hội Ðức, chuyện công sở, hội họp, chuyện tổ chức dạ hội...

    Ðến nước Ðức từ trước 30.4.1975 (phần đa là sinh viên du học) hoặc sau đó (là thuyền nhân), họ đã được chính quyền sở tại ưu ái khá nhiều. Hoàn toàn không phải lo đến chuyện quy chế lưu trú, họ dễ dàng được tham gia các chương trình học tập, đào tạo và nhanh chóng hòa đồng vào xã hội Ðức. Phần đông những người này thạo tiếng Ðức, có công ăn việc làm ổn định, và ở ngay cái đất nước còn khá là "quốc gia chủ nghĩa" này, nhiều người trong họ vẫn có vị trí nhất định trong xã hội, có người là giáo sư viện trưởng y khoa, có người là chuyên viên cao cấp của công ty lớn...Vậy nên chẳng có gì làm lạ khi nỗi đắn đo của họ khi hè đến là đi nghỉ mát ở Hy Lạp hay ở Hoa Kỳ, hoặc là cuối tuần này đi khiêu vũ ở đâu.

    Nếu ai trong họ không may bị thất nghiệp quá lâu, thì việc nhận trợ cấp xã hội đảm bảo cuộc sống cũng rất nhẹ nhàng. Trong con số hơn 4 ngàn người Việt ở Tây Berlin đã có khoảng gần 3 ngàn người là công dân Ðức, và nước Ðức luôn phải có trách nhiệm đối với họ.
    Những Việt kiều Đông xứ

    Ðồng hương của họ ở phía Ðông thì ít được lưu tâm hơn. Nội dung chủ yếu câu chuyện của họ là tình hình cửa hàng buôn bán, là chuyện về phép thăm nhà, chuyện học hành của con cái.

    Tuyệt đại đa số có nguồn gốc là những người từ các tỉnh miền Bắc Việt Nam sang "lao động hợp tác" tại Cộng hòa Dân chủ Ðức trước đây, họ chỉ được nước Ðức thống nhất chính thức cấp quy chế thường trú từ 1997, phần đa kèm theo điều kiện là không được đòi hỏi trợ cấp xã hội, tức là họ bắt buộc phải tự lo cho đời sống của mình.

    Với 5-6 năm được phép chính thức hóa "trung tâm cuộc sống" cá nhân trong một môi trường nói chung là mới lạ, kiếm việc làm trong hãng xưởng hay công sở chẳng khác nào "mò kim đáy biển" nên hầu hết người Việt bên Ðông đều phải làm chủ các hãng mini như quán ăn, quán báo, cửa hàng quần áo rẻ tiền, hàng xén, hàng thực phẩm,?cũng là lẽ đương nhiên. Một số ít đi làm hãng thì cũng chỉ được nhận những việc chân tay đơn giản như vệ sinh, phụ bếp...

    Số làm khoa học, làm đúng chuyên môn có thể đếm được trên đầu ngón tay.
    Cũng may, nhờ tháo vát, chịu khó, người bên Ðông đã dần dần ổn định cuộc sống, thu nhập kinh tế của họ đã khá cao tuy sức lực bỏ ra quá lớn. Nhiều người trong họ tâm niệm: "Hy sinh đời bố, củng cố đời con", dồn sức cho sự học hành của con cái. Tỷ lệ học sinh Việt Nam học giỏi, được vào đại học rất cao, âu cũng là một nét đặc biệt của những người di dân gốc Việt từ trước tới nay.

    Có điều, khi vào được Ðại học, sự vượt trội của người Việt không còn, rất hiếm có sinh viên Việt Nam nào học Ðại học một cách xuất sắc. Có người lý giải hiện tượng này bằng thực tế những sinh viên đó nói chung là sinh ra, lớn lên ở Việt Nam, và đã sang Ðức vào những năm thân nhân còn chưa ổn định. Vậy là, về mặt học hành và sự nghiệp, người Việt mình lại phải kiên tâm hy vọng vào thế hệ sau - vào những đứa con sinh ra và lớn lên ở Ðức.
    Nhưng thực tế, điều này hình như cũng chỉ là một kỳ vọng. Một số thăm dò xã hội cho thấy, với cách nuôi dậy con em còn ít nhiều nặng tính Khổng giáo, với khả năng tiếng Ðức khá yếu, với sự thiếu hụt về kiến thức và ý thức xã hội nói chung, người Việt dường như đang chỉ có khả năng đóng góp cho cộng đồng một giới trẻ chăm chỉ nhưng ít sáng tạo và hầu như chưa có đầu óc phê phán - một trong những động lực của xã hội phương Tây.

    Chị T., một người Việt rất hăng say hoạt động xã hội và chính trị tại Berlin, khi tìm kiếm thiếu niên người Việt cho Kinderparlament (Nghị viện Trẻ em - một hình thức của chính quyền, tụ hợp những thiếu niên có quan tâm và có năng khiếu về chính trị, xã hội để luyện tập việc trình bày và đề xuất phương án giải quyết các vấn đề địa phương và quốc gia), đã rất buồn bã và thất vọng: "Theo tiêu chuẩn của Berlin, thì chỉ thiếu niên từ 12 đến 16 tuổi mới được tham gia Nghị viện trẻ em. Từ 16 tuổi trở lên, thanh niên đã phải có ý thức và hoạt động chính trị rõ ràng. Nhưng, thanh thiếu niên Việt Nam thì cho đến 18 tuổi, vẫn hết sức thơ ngây trong chính trị và xã hội. Có một số thanh niên Việt Nam bắt đầu quan tâm đến các vấn đề trên, thì họ đã ở lứa tuổi 19-20, tức là không đủ tiêu chuẩn vào Nghị viện Trẻ em". Nghĩa là, về tầm vóc xã hội, người Việt mình ít nhất cũng "trẻ em" hơn người Ðức từ 3 đến 4 tuổi.
    Nhìn kỹ, thực trạng "tụt hậu" trên đây không phải chỉ có ở phía Ðông, mà cũng là một điều phổ cập cả ở phía Tây. Mặc dù cuộc sống coi như ổn định đã lâu, nhưng sự học hỏi của giới trẻ Việt Nam ở Tây Berlin nói riêng và Tây Ðức nói chung không hề hơn giới trẻ phía Ðông và họ cũng không vượt trội cả về ý thức xã hội. Ðó là một sự giống nhau, một sự "thống nhất" của người Việt Ðông- Tây; và đáng buồn là ở chỗ "chưa thể bằng người".

    Dù sao, một điều dễ nhận thấy là thanh niên Việt Nam phía Tây đã hội nhập sâu hơn vào cuộc sống nước Ðức - họ tự tin hơn, hồn nhiên hơn. Trong khi nhiều sinh viên Việt Nam bên Tây đã theo học, đã tốt nghiệp những ngành "bay bổng" như vũ trụ hàng không, nghệ thuật biểu diễn,...thì sinh viên bên Ðông chủ yếu vẫn theo các ngành "truyền thống", "ăn chắc mặc bền" như tin học, kinh tế, kinh doanh,... Ở đây, tác động của những ông bố, bà mẹ phía Ðông "đã một thời khốn khó" đóng một vai trò không nhỏ.
    Phạm Việt Vinh
    Theo Talawas


    `·.¸¸.·´¯`·.¸¸¸.ối giời ơi.¸¸¸.·´¯`·.¸¸.·´
  4. cow-n-chicken

    cow-n-chicken Moderator

    Tham gia ngày:
    01/01/2001
    Bài viết:
    3.615
    Đã được thích:
    1
    Phần 3 - Sống cho quê nhà hay cho đất khách?

    [​IMG]

    Tự cô lập mình bằng lối sống "ở Tây kiểu Ta, về Ta kiểu Tây", nhiều người Việt rất khó khăn trong việc hòa nhập, dù ở bất kỳ cộng đồng nào.
    Người Việt ở nước ngoài luôn mong muốn bình đẳng và đòi hỏi mọi quyền lợi như người bản xứ, nhưng trong thâm tâm, nhiều người trong số họ chưa bao giờ tự hỏi rằng liệu mình có nghĩa vụ gì với mảnh đất đang sinh sống hay không? Mâu thuẫn đó đã làm nên những lô cốt cho chính người Việt trong mắt cộng đồng người chính quốc.
    Lá rụng về cội

    Hình như, để bù lại sự cực nhọc và thiệt thòi, bà con bên Ðông có một chốn đi về khá thuận tiện và rẻ tiền là Ðất Việt - nơi quê nhà cũ. Từ vài năm gần đây, khi chính sách đối với "kiều bào" của chính quyền trong nước thay đổi, người bên Ðông (tuyệt đại đa số vẫn dùng hộ chiếu Việt Nam) có thể qua lại Việt Nam bất cứ lúc nào mà không cần phải xin thị thực tại Tòa Ðại sứ.

    Hầu hết số bà con này còn cha mẹ, anh chị em trong nước nên sự đi lại thuận lợi này càng thiết chặt hơn mối quan hệ của họ đối với Việt Nam. Nhiều người trở thành chỗ dựa kinh tế quan trọng cho thân nhân trong nước, có người mang tiền về mua nhà cửa, khách sạn cho thuê, ngoài thu nhập tại Ðức còn có lợi tức hàng ngàn đô la mỗi tháng trong nước; người ít tiền hơn thì chí ít cũng còn một góc nhà, một miếng đất cha mẹ, ông bà chờ đợi.

    Rõ ràng, sự gắn bó này, ngoài mặt tình cảm còn có một mặt không kém phần sắc đậm là vật chất. Theo một thống kê không chính thức, gần 80% người Việt tại Ðông Berlin nói riêng và tại Ðông Ðức nói chung có một số vốn nào đó còn "cắm" ở Việt Nam.
    Xa lạ ở cõi tạm

    Cùng với "truyền thống lá rụng về cội", cái vốn rất vật chất này cũng là một trong những nguyên nhân sự hòa nhập rất yếu của người Việt bên Ðông vào xã hội Ðức.

    Cô Jane Chang- một nhà xã hội học người Hoa Kỳ gốc Trung Quốc, sau khi tìm hiểu người Việt tại Ðông Ðức đã than vãn: "Quả thật là tôi rất khó chịu khi thấy người Việt các anh ở đây luôn mong muốn bình đẳng và đòi hỏi mọi quyền lợi như người Ðức trong khi các anh chưa bao giờ coi đất này là quê hương của mình, các anh nguyền rủa nó và chưa bao giờ tự hỏi rằng mình có nghĩa vụ gì với nó hay không?"

    Khi ở Việt Nam có lũ lụt, trong vòng vài ngày, một hội đoàn Việt Nam ở Ðông Berlin quyên góp ngay được vài ngàn Euro gửi về trong nước. Nhưng lúc cơn lũ thế kỷ tràn qua nước Ðức, khi quân đội Ðức cùng hàng chục ngàn người tình nguyện dầm mình dưới nước đắp đê và chạy lụt cho cả những kho hàng và cửa hiệu Việt Nam thì cũng hội đoàn này, sau vài tuần suy tính đã phải khá chật vật mới quyên được một số tiền khiêm tốn, còn trong dòng người tình nguyện tham gia chống lũ, hình như chẳng thấy đâu một gương mặt Việt Nam.

    Tuy đã có hàng trăm người nộp đơn xin nhập quốc tịch Ðức sau khi Luật nhập tịch được nới lỏng cách đây gần bốn năm, nhưng trong tiềm thức, đa số người Việt bên Ðông vẫn coi nước Ðức là một chốn "ăn đậu, ở nhờ", hoặc là một "khu chợ" buôn bán nhất thời. Tình trạng làm việc hết sức, nhưng ăn ở lại tạm bợ, để "áo gấm về Việt Nam" tiêu tiền như rác ("ở Tây thì sống như Ta, về Ta thì sống như Tây"!) vẫn còn khá phổ biến.

    Hệ thống bảo hiểm - một trong những cột trụ của xã hội Ðức, vẫn là một điều đáng ghét đối với bà con Việt Nam luôn sợ thiệt. Do tâm thức "đóng vào thì phải lấy được ra" (và có lãi thì càng tốt), đã có người về nước ăn chơi 30 ngày vụ hè, khi sang Ðức khai bị tai nạn giao thông phải nằm viện 28 ngày, kèm theo "giấy chứng nhận" rởm của bác sỹ Việt Nam nhằm mục đích đòi tiền bảo hiểm.

    Có người muốn cho con trai nhập tịch Ðức để "mọi chuyện được thuận lợi như người Ðức", nhưng phải vắt óc tìm cách "tránh cho cháu phải đi lính nghĩa vụ". Nhìn chung, người Việt bên Ðông Ðức vẫn coi đây là "cõi tạm", là một quãng chặng làm ăn, trong đó người ta trông mong và phấn đấu cho mọi lợi ích có thể có, người ta gạt đẩy mọi trách nhiệm và hầu như không có sự gắn bó tình cảm. Sự này, đối với Việt Nam, chẳng biết có nên vui?
    Khác với phía Ðông, mối gắn bó với trong nước của người Việt ở Tây Berlin hầu như không liên quan đến vật chất, mà chỉ mang tính tinh thần, mang cái bóng dáng của một hoài niệm cố hương. Anh A., ngày xưa vượt biển sang đây, học phổ thông, học nghề ở Ðức, nay là một thợ điện lành nghề cho một công ty thành phố; anh vẫn giữ quốc tịch Việt Nam, có vợ Việt Nam, nhưng mẹ anh đang ở Ðức, mấy anh em thì người ở Ðức, người ở Hoa Kỳ.

    Ba bốn năm một lần anh cũng "đi phép thăm Việt Nam". Quê anh ở Sài Gòn, nhưng ở đó hầu như "chẳng còn ai thân thích" nên gia đình anh thường về Hà Nội. Sau mỗi lần, anh lại cho bạn bè ở Ðức xem những cuốn video anh "du lịch" Việt Nam - gần giống như những cuốn băng anh thu từ chuyến đi Las Vegas, Majorca hay Cyprus.

    Cũng có những người còn họ hàng trong nước, nhưng không còn hộ chiếu Việt Nam, "xin thị thực về thăm quê cũng phải mất vài tuần để Sứ quán họ xét, nên cũng ngại". Một số người vì lý do chính trị, "nếu có xin thị thực cũng không được cấp", nên chẳng biết đến bao giờ mới được thấy lại quê hương. Con cháu những người này, mặc cho cha mẹ ông bà cố gắng đến đâu, cũng vẫn coi Việt Nam là một vùng xa lạ. Nói chung, lòng yêu quê hương của người Việt phía Tây mang nặng tình thâm đối với một cái đã qua. Liệu rằng sẽ có lúc, hiện tại và tương lai sẽ đón họ về Việt Nam với những nhiệt tình thuở cũ?
    Có vẻ như, niềm hy vọng vẫn còn khá lớn, nên mặc dù vì những lý do khác nhau, nhưng chính ở Tây Berlin mới là nơi hay diễn ra những buổi gặp gỡ xoay quanh những vấn đề của Việt Nam, chứ không phải bên Ðông - trừ những buổi họp của Tòa Ðại sứ được "đóng đô" cũng ở phía Ðông.

    Có điều, thời gian bao giờ cũng là vô địch. Với người Việt tại Tây Berlin, thời gian không ngừng xói mòn sự gắn bó và hy vọng đối với quê hương. Anh S., một chuyên viên tạo mẫu xe hơi, tâm sự: "Do tham gia một hội đoàn hải ngọai nên đã rất lâu tôi không được về nhà, nhớ lắm! Giờ đã 55 tuổi rồi, nếu có điều kiện thì còn có thể đóng góp cho đất nước 5-7 năm nữa. Sau thời gian này, nếu có được phép, thì cũng chỉ về Việt Nam để tĩnh già, hay để thăm thú "cưỡi ngựa xe hoa" thôi.

    Nỗi "chia lìa" chầm chậm này, ở bên Ðông cũng diễn ra, nhưng với bên Tây, nó đau đớn hơn, vì ít nhiều là một sự bắt buộc khách quan.
    Bức tường Đông Tây
    Trên toàn nước Ðức, tất cả những khác biệt đặc thù trên đây chỉ là bề nổi, chỉ là hiện tượng. Ðiều đáng nói hơn là những dị biệt ngầm sâu, dị biệt tư duy. Bê tông cốt thép của bức tường ngăn cách Ðông-Tây Berlin vỡ vụn từ 13 năm hầu như vẫn để lại nguyên vẹn sự cách chia trong suy nghĩ, trong tư tưởng giữa người Việt Ðông-Tây; và, buồn hơn cả thân phận người Ðức, dân Việt mình còn bị níu kéo thêm bởi sự phân tuyến tinh thần được "di tản" từ Việt Nam qua.
    Vào những ngày bức tường Berlin mới sụp, nhiều bà con bên Tây hân hoan, tận tình chào đón những người đồng hương "mới thoát cũi, sổ ***g". Thế rồi, tiếp theo vài tháng mặn nồng tình nghĩa đồng bào, là một cảm nhận thất vọng bẽ bàng.

    Anh B., một kỹ sư tin học ở Tây Berlin từ 1972, đã đứng liền hàng tuần lễ bên những chỗ tường đổ tìm gặp và mời về nhà mình những người bà con từ bên Ðông, để sau khi tay bắt mặt mừng mới nhận thấy rằng "họ không thể nói chuyện được với nhau, nhất là những vấn đề về đất nước".

    Anh C., cựu đội trưởng một đội "hợp tác lao động", không nhận vé máy bay về Việt Nam cùng 3000 DM tiền nước Ðức bồi thường do hủy bỏ hợp đồng, kiên quyết ở lại Berlin, sau thời gian choáng ngợp với sự huy hoàng của Tây Berlin, lại quay về ngụ tại bên Ðông với một niềm tâm sự: "Dân bên đó - tức người Việt Nam ở Tây Berlin, chẳng hiểu biết gì về chúng tôi. Chuyện chính trị của họ sặc mùi *********".

    Những định kiến về nhau như vậy, cho đến nay, hầu như vẫn không hề phai nhạt. Vậy cho nên mỗi khi đến Tết Nguyên đán, Rằm Trung thu... bà con hai bên đều phải tổ chức riêng. Ai đó "dũng cảm" đi thăm dò "phía bên kia", thường phải trải qua những kinh nghiệm không dễ chịu, để "một lần đi rồi không bao giờ quay trở lại".

    Thực ra, vài năm sau khi nước Ðức thống nhất, đã bắt đầu có sự "giao thoa" nhân khẩu: một số người bên Ðông thuê nhà ở bên Tây, và ngược lại; nhưng để vui vẻ, hòa đồng với bạn bè, họ bao giờ cũng tìm về chốn cũ.
    Nhưng nói gì thì cũng sẽ chẳng có gì là phóng đại khi thấy rằng: Người Việt tại đây chưa được chữa lành vết thương chia cắt Ðông-Tây, và cũng chẳng có ai giúp họ lấp rãnh đào ngăn cách Bắc- Nam ngày trước. Vĩ tuyến 17 đã được người mình mang ra nước ngoài và vẫn lù lù một cách vô hình tại đất Berlin.
    Berlin 10.2003
    Phạm Việt Vinh
    Theo Talawas


    `·.¸¸.·´¯`·.¸¸¸.ối giời ơi.¸¸¸.·´¯`·.¸¸.·´
  5. sweet-briar

    sweet-briar Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2002
    Bài viết:
    1.770
    Đã được thích:
    0
    Tôi đã đọc bài viết này tại topic Been there-done that trong box Du lịch cũng khá lâu, nhân bài báo trên của bò&gà tôi xin post lên đây, để mọi người cùng bình luận xem thế nào.
    Trích bài của B.Fut
    Và đây là chiêm nghiệm của một người đã sống hơn một thập kỷ tại Đức.
    Mười lăm năm ?" Người Việt tại Đức
    Tùy bút của nguyễn văn Thọ
    1-Khi bức tường Berlin đổ
    Bây giờ các bạn hãy cùng tôi ngược chiều thời gian.
    Đa số người Việt tới Đức với tư cách Thợ Khách ?" Lao động xuất khẩu trong nhiều chuyến bay ồ ạt ở thời điểm 1987 tới 1988.
    Mùa đông năm 1989, bức tường Berlin sắp sụp đổ. Trước đó, người lao động Việt Nam tại Đông Đức đã sấp sỉ bẩy vạn. Trong chớp mắt, số phận bẩy vạn người như trứng treo đầu đẳng. Rất nhiều kẻ trong số họ, vừa chân ướt chân ráo tới Đức, chưa hề biết đến nỗi sợ lạnh giá của băng tuyết, mùa đông ập tới vẫn hớn hở nhẩy ra giữa trời, như trẻ nhỏ hồn nhiên dang hai tay quay trong mưa hoa tuyết, khi họ lần đầu tiên nhìn thấy nó. Sẽ phải quay về tổ quốc với bàn tay trắng? Lập tức có tâm lý, phải nhanh chóng kiếm tiền trước khi bước chân lên máy bay. Ngay cả khi có chính sách của nhà nước CHLB Đức, đổi tiền Ost và west ngang giá, đền bù mỗi lao động VN phải trở về nước 3000 Mark thì sức nặng giá trị của đồng tiền phía Tây càng thôi thúc tâm lý: kiếm vội thêm tiền rồi chuồn, sôi sục hơn!
    Tại tây Berlin bấy giờ, ở ngay các đầu lên và xuống đường hầm tầu điện ngầm, cạnh Nhà Thờ Cụt, người ta nhìn thấy dăm thanh niên da trắng và da mầu tay cầm vài gói thuốc lá Marlboro bao mềm mời chào khách qua đường. Cũng bao thuốc ấy, trong các cửa hàng bán thuốc lá có tem, giá 4 Dm. Gói thuốc bán trao tay nơi cửa đường hầm kia chỉ bán với giá 3Dm. Vài người Việt còn phát hiện ra, rằng cách đó không xa, có một chợ trời mở tại sân vận động bỏ trống, gần nhà ga tầu điện không người lái. Nơi đó, mỗi khi có có gió lớn, bụi cát mù mịt thổi thốc vào đám người đông cả vài ngàn, chen chúc đủ các sắc tộc. Đa phần họ là người Thổ, sau đó là đám Ba Lan, Nam Tư, Ru và cả Tiệp hay Ấn. Người ta bán đồ cũ, những linh kiện của máy tính, phụ tùng ô tô, linh kiện tivi và cả đồ giả cổ v..v... Hai ba dãy bán đồ mới như thảm chùi chân, đồng hồ cân, các vật dụng hàng xén và đồ chơi nhái cho trẻ con, băng nhạc rởm. Nhưng cũng tại đó, trong vài gầm bàn, khi nhận ra bạn hàng quen thuộc, những người Ba Lan, Thổ lôi ra trong túi dứa hàng chục cây thuốc Marl bao mềm với giá 17 Dm một tút. Lập tức, tiền lãi khi bán một gói thuốc được vài người Việt, vốn là khôn vặt, nhẩm tính.
    Cũng bấy giờ, tại một trục đường phố trung tâm của thành phố du lịch Postdam, đám người Việt thất nghiệp chờ chuyến bay bắt đầu bầy công khai trên chiếc bàn nhỏ vài chiếc bật lửa ga, những chiếc đồng hồ dỏm, dăm khẩu súng nhựa khi bóp cò phát ra ba bốn loại thanh âm và đèn xanh đỏ bật nhấp nháy v...v? Trong sự nhộn nhạo sắp thay đổi thể chế, và cả sau khi thống nhất, chính quyền CHLB Đức chưa đặt vững bàn chân trên miền đất mới, sở thuế, cảnh sát đã làm ngơ cho đám người buôn bán không môn bài nói trên. Người Việt ta thuộc câu: thấy bở đào mãi, lấn tới trước sự buông lỏng ấy. Hàng trăm mẹt hàng như thế bầy la liệt bên ven mặt đường đẹp nhất của thành phố du lịch rộng ba chục mét chỉ dành cho người đi bộ. Tương tự như vậy, khắp nơi tại Đông Đức, nơi nào có lao động xuất khẩu Việt, nơi đó xuất hiện thứ chợ trời tự phát, một loại chợ mà ta có thể bắt gặp ngày xưa bên ngoài chợ Hôm, chợ Đuổi, chợ Đồng Xuân buôn bán tem phiếu trong thời gian bao cấp!?
    Chỉ một tuần sau khi đám công nhân Việt tại Potsdam phát hiện ra siêu lợi nhuận trong việc bán lẻ thuốc lá, trên những mẹt hàng xuất hiện dăm cây thuốc Marl bán với giá 3.5 Dm một gói. Đã là người ai chẳng hám lợi! Những người Đức nghiện nặng, trong đó hầu hết là đám thất nghiệp và ông bà già lĩnh lương hưu đã mau chóng trở thành khách hàng thường xuyên của đám buôn thuốc lá lậu người Việt.
    Hai ba tuần sau, thông tin về: bán thuốc lá một tuần có thể thu tới ba bốn ngàn Us Mỹ, loang ra như đám dầu trên mặt nước trong cộng đồng người Việt. Thế là từ Chemnitz bốn mùa lạnh giá tới nhiều thành phố công nghiệp lớn như Hale hay Leisich v..v.., khắp nơi, người Việt ta truy lùng Marl bao mỏng để bán.
    Cuối mùa xuân năm ấy, trước thời điểm nước Đức chính thức thống nhất tiêu chung một thứ tiền, tôi dậy từ hai giờ sớm theo đám thanh niên trong đội xuyên trong sương giá đi chuyến ô tô bus đầu tiên trong ngày ra nhà ga Lút vích. Từ đó sau một giờ ngồi tầu hai tầng, chạy không dưới cả trăm cây số giờ, chúng tôi xuống nhà ga Kalhhorsp. Tại đây, cứ vào hai ngày, thứ ba và thứ năm, có chuyến tầu từ Ba Lan đổ về. Bấy giờ hiệp ước giữa hai nhà nước Ba Lan và CHDC Đức còn hiệu lực, những người Ba Lan sang Đức không cần vi sa. Mới ba rưỡi sớm! Khi tôi bước xuống sân ga đã thấy nhiều đám đông đồng hưng ngỗi lố nhố trên sàn đá, mặc trời tuyết bay và gió từng cn trắng xóa. Thì ra c ngàn người Việt từ khắp các đội lao động phạm vi trăm cây số quanh Berlin đã tập trung tại đây từ ba giờ sớm để ngóng chờ tầu Ba Lan. Tôi kéo cái mũ lông xuống quá vành tai chống lại cái buốt muốn rụng tai. Theo gió, bỗng thốc về mang tới mùi xôi thơm nựng quyện trong mùi muối vừng ngầy ngậy. Lại nghe: xôi đây! Cafe nóng nào! Bánh mì nóng ròn nào! Tôi ngỗi xuống, đám đông vây quanh một cô gái chừng mười tám xuân son đang tíu tít rót trà, ngầy ngậy mùi hưng đưa lên từ những chiếc cốc nhựa đủ màu. Có cộng đồng người Việt là có sự tái hiện những cảnh sống nơi quê nhà? Tôi gọi một gói xôi với một nhúm muối vừng bọc trong giấy thiếc bạc, nhận nó từ bàn tay của một em gái chừng hơn hai chục tuổi. Xôi dẻo và vừng béo!
    -Em ơi! Em là công nhân ở đội nào? ở Việt Nam em ở vùng nào mà thổi sôi dẻo vậy?- Tôi muốn thốt lên câu hỏi ấy nhưng không thể!
    Nhiều người Việt, do hoàn cảnh sống, đã tự dấn thân vào nhiều nghề khác nhau trong những cảnh huống như vậy. Tuyết vẫn trùng trùng dệt cước và tan ngay trên miếng xôi tôi vừa véo ra. Suốt hơn chục năm sau, tôi đã lang thang nhiều nước trên thế giới, cũng thấy nhiều điều lạ. Nhưng cái lần ấy, với tiếng rao đêm sân ga cứ đôi khi như mơ hồ vọng lên âm vang trong tiềm thức, ám ảnh theo chân tôi mãi.
    Có nhiều con người thuộc nhiều dân tộc phải tha hương trên hành tinh này và, mỗi dân tộc cứ gắn bó tới đay nhức hay phởn phơ với cách sống của họ để mà nhận biết. Người Nga có chai rượu trắng với khúc cá hun khói rút ra từ túi quần hôi rình nhưng luôn luôn thường trực nụ cười dễ mến và sẵn sàng chia sẻ ngụm rượu mạnh cuối cùng với bạn đường; Người Thổ râu rậm, mắt sâu thoang thong mùi tỏi và mùi thịt cừu để tôi nghĩ tới món Doenerkebap của họ; Người Nhật ngày nay trắng hồng, mắt một mí, chẳng lùn còi như sách xưa đã chép, vừa bước ra khỏi cửa xe du lịch đã lao ra vội vã để chớp đèn, bấm máy ảnh lia lia; Người Pháp lịch sự nhưng cũng tính đếm đáo để và thực đáng yêu khi tha thẩn cả buổi bên một sinh vật lạ; Và, bè bạn tôi người Đức có thể ồn ào nơi quán rượu bia nhưng sẵn sàng tự giam mình cả tháng không nói nửa lời trong một khu vườn yên tĩnh tới ghê người để tự thỏa mãn điều gì đó thực chả dễ hiểu chút nào? Còn người Việt? Tôi nhớ tới sự cần mẫn thu vén từng pennic nhưng cũng hay sỹ diện tự ái vu vơ và cái ồn ào chợ vỡ năm ấy và tiếng rao lơ lửng treo trong trời đêm tuyết gió?
    Theo quy luật cung cầu, những người Ba Lan anh em mang tới quần bò, áo len, thuốc lá. Đúng vậy, tầu xình xịch vào ga và vừa dừng lại, lập tức trào ra hàng ngàn người Ba lan to xụ bởi do khoác lên người họ nhiều lớp áo len, áo bò, quần bò. Và, từ nhiều chỗ kín trong con tầu, họ lôi ra cơ man nào thuốc Marl đủ loại, cứng, mềm. Quang cảnh sân ga khi ấy hết sức nhốn nháo. Người bán kẻ mua diễn ra cấp tập, không đầy một giờ để sau đó tất cả tan đi như có phép thần, trơ lại sân ga vắng ngắt, như chưa từng có một thứ chợ đặc biệt ở nơi đây.
    Cậu Vinh, anh bạn trẻ cùng đội, đón tôi ngay đầu đường hầm bên kia ga để nhẩy tầu ngược về Lutwich. Lặc lè trên lưng nó là chiếc ba lô đã ấn đầy chặt quần áo các loại. Hai tay là hai túi dứa nặng chịnh. Trong đó chứa hơn sáu mươi cây thuốc Marl hộp cứng!
    Sự buôn bán chảo chớp như thế không tránh khỏi máu tham nổi dậy của đám giang hồ thảo khấu. Đã có vài bận, cả hai bên có kẻ lừa đảo lẫn nhau. Một lần, súng nổ vang, xé tan màn đêm khi đám thanh niên trẻ người Việt cướp cạn vài chục cái áo len mỏng của một tay Thảo mai (1)Ba Lan nào đó. Vài phát súng vang lên, người Việt chạy túa đi. Nhưng sau phát súng thứ tư, khi nhận ra là súng đạn cay, họ bâu lại, nện cho tay súng kia một trận chí tử. Sự buôn bán và những sự kiện như thế làm chính quyền để mắt đến. Hai tháng sau, hơn trăm cảnh sát và cả hai chục con chó nòi có ánh mắt như tia chớp đã xóa sổ tụ điểm buôn bán này, một đầu mối bán buôn cò con, hỗn tạp.
    Thực chất của giai đoạn ấy, việc buôn bán của người Việt tại Đức hết sức ấu trĩ, không có nghiệp vụ và mang tính tự phát, kẻ nọ bắt chước người kia. Nhưng một mặt nó ít nhiều mang lại tiền cho đám người hơn bẩy vạn phải trở về quê hương và giúp đỡ biết bao nhiêu gia đình trong một giai đoạn cha mẹ, anh em họ còn rất đói nghèo, vẫn mỏi mòn con mắt trông chờ đám người đi bán sức lao động ở xứ người có nguy cơ trở về tay trắng. Mặt khác, tại Đức, nó giúp cho việc tháo gỡ một phần, sự khan hiếm hàng hóa khi chính quyền cũ sụp đổ mà chính quyền mới tuy giầu vẫn không thể đủ sức bao quát hết, chú ý tới đời sống thiết thực của người dân tại đó. Nhưng mặt nữa, là nó manh nha một kiểu làm ăn phi pháp và từ đó, cái giá trả cho những đồng tiền ngoại tệ mạnh là hàng trăm người Việt sau đó vài năm đã chết thê thảm trong những cuộc thanh trừng bắn giết lẫn nhau để dành giật miếng sống. Không có món lợi nào chỉ có sự được. Nhất là khi món lợi ấy xuất phát từ phưng thức trốn tránh pháp luật.
    Nhưng một mặt khác, sau này , theo thời gian, người Việt cũng dần nhận ra rằng, muốn tồn tại làm ăn trong một xã hội ổn định và sống theo luật pháp thì người ta cũng phi sống có luật pháp. Chỉ sau ba bốn năm, trật tự bán buôn và bán lẻ của người Việt dần theo xu hướng công khai, có đăng kí tại sở thuế để chịu sự kiểm soát của luật pháp. Và chính điều ấy cũng giúp họ sống an toàn hơn bởi xã hội đen chính là con đẻ của tình trạng làm ăn phi pháp mà ra. Điều này tôi xin trở lại kỹ ở phần sau.
    <P>

    <P><FONT color=hotpink><EM>finding...</EM></FONT></P>
    <P><FONT color=#ff69b4><EM>a piece of something...</EM></FONT></P>
    <P><FONT color=#ff69b4><EM>to call mine</EM></FONT></P></P>
    Được sweet-briar sửa chữa / chuyển vào 05:03 ngày 12/01/2004
  6. sweet-briar

    sweet-briar Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2002
    Bài viết:
    1.770
    Đã được thích:
    0

    2- Buôn bán và số phận?
    Ban đầu, sau thời kì buôn bán trao tay nói trên, người ta phát hiện tại Berlin có dăm cửa hàng Thổ chuyên bán những thứ hàng vặt vãnh đã kể. Những nhà buôn Anh, Thổ, kiều dân Nga sau khi bức tường vừa sụp đổ, sống tại phía tây đã nhậy cảm nhận thấy lực lượng bán lẻ Việt Nam thực cần cù và hùng hậu. Lập tức nhiều cửa hàng bán buôn xuất hiện cung cấp vài mặt hàng cho người Việt bán lẻ. Khắp nước Đức người Việt ùn ùn kéo về Berlin khuân đi hàng kiện quần áo len mỏng, khăn trải bàn ni lon, những thùng các tông đồng hồ, súng điện tử trẻ con, pin các loại, cả máy nghe băng rẻ tiền v..v?Phải nói rằng, qua khâu bán lẻ của người Việt khi ấy mới thấy hết sự thảm hại của nền kinh tế đóng cửa quá trì trệ, chủng loại hàng hóa tiêu dùng đơn điệu, rất kém về mẫu mã và hình thức so với phía Tây. Nhất là sau khi đổi tiền, lúc mà những vòi bạch tuộc của những nhà kinh doanh phía Tây chưa nhanh nhậy nắm bắt thị trường béo bở phía đông Đức cũ. Rất nhiều người Việt đã kiếm vài chục ngàn đô Mỹ qua hai ba tháng buôn bán vặt vãnh như thế. Người ta bất chấp chất lượng, ùn ùn khuân về nơi địa phương họ lao động những lô hàng áo len chất lượng thấp kém, nhưng dáng kiểu tân thời, hoặc lỗi mốt phía Tây nhưng lại là ?olần đầu nhìn thấy? ở phía Đông, từ Anh, ý, Pháp nhập về qua nhiều luồng.
    Thời kỳ ấy, chỉ cần một cái bàn dài ba mét, bầy lên đó bất cứ cái gì cũng chỉ sau nửa ngày là hết vèo! Những dịp lễ hội, như Noel hay ngay lễ trứng, một người Việt chậm chạp ù lì nhất, cũng có thể kiếm cả năm sáu trăm Dm một buổi chợ, bỏ túi như bỡn cợt!
    Thực tế là khi ấy, trong hàng trăm chuyến bay, cả khi cấp tập mở vội cầu hàng không Berlin-Hà Nội để ném những thợ khách Việt Nam trở lại quê hương, đã không ít người mang theo được một số tiền mà khi đó cả đời nằm mơ cũng không thấy. Bây giờ, khi nhớ lại, người Việt tại Đức gọi đó là thời kỳ xúc vàng của họ.
    Theo hiệp định giữa hai nhà nước, Đức và Việt, thợ khách Việt được phép ở lại Đức bấy giờ sấp sỉ hai vạn người. Tất nhiên, họ là những người đầu tiên thất nghiệp khi nhà nước kinh tế thị trường Tây Đức chiến thắng nhà nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Chính vì lẽ đó, tới 90 % số người Việt ở lại tiếp tục xông pha gió tuyết trên hè phố, trên các khu chợ cuối tuần mở giữa trời để tồn tại. Sự khai thác hàng hóa kiểu cò con từ mấy nhà buôn Thổ, Pa Kit Tăng, Nga chấm dứt, khi nhiều người buôn lớn hơn ở nước ngoài nhận ra thị trường béo bở tại Đông Đức, mà đội quân bán lẻ người Việt tuy ô hợp nhưng chăm chỉ hạt bột, rất nhậy cảm và thực đông đảo đã làm tốt vai trò một mắt xích quan trọng, đắc lực, phát huy tác dụng rất hiệu quả trong việc lưu thông phân phối hàng hóa ở khâu bán lẻ.
    Cạnh đội tôi ở có người đội phó phiên dịch tên là H. Trước đó hắn còn phải vay tiền be bét để đóng hòm gửi về Việt Nam. Một ngày đẹp trời, hắn lang thang đi kiếm nguồn hàng vô tình gặp phải một nhà buôn quần áo may mặc sẵn người Pa kít tăng chuyên đánh hàng về từ Anh. Lập tức gã bí mật chuyên chở như điên dăm ô tô hàng về giao lại cho người Việt ngay tại khu tập thể hắn ở. Vụ hè năm ấy, mỗi tuần hắn giao cỡ cả ngàn chiếc áo sơ mi mà đa phần số đo rộng thùng thình giành cho các bà béo ngoại cỡ. Mỗi cái áo bán được chỉ lãi ba đồng Mark. Vị chi người ngu cũng tính được rằng, cả vụ năm ấy hắn ẵm trọn hơn ba trăm ngàn Dm từ cái duyên nói trên. H bây giờ trở thành một đại gia từ như thế. Gã có trong tay hai trung tâm bán buôn tại Berlin và Hale, dăm cửa hàng bán lẻ và bán buôn nữa. Có nghĩa là từ kẻ nghèo như nhiều người hôm nào, hắn hôm nay, có thể xúc đùa một tháng vài cân kí lô vàng ròng!
    Sự hình thành mạng lưới bán buôn của người Việt hoà toàn tự phát và từng bước chuyển đổi theo thời gian bằng chính kinh nghiệm sống, chứ đa số trong họ không có kiến thức kinh doanh từ trước khi đi lao động xuất khẩu. Từ việc lập ra những nơi chỉ dăm cửa hàng bán buôn phân tán khắp nước Đức, người Việt bắt chước nhau dựng nhanh những khu bán buôn sang trọng và sầm uất như khi Rihn Str 100 hôm nay mà tổng giá trị hàng hóa lưu chuyển tới vài trăm triệu US hàng năm.
    Ngày nay những đại gia tại Đức không chỉ bán buôn quần áo. Và chất lượng hàng hóa cũng được đặc biệt chú trọng để cạnh tranh lại với mạng lưới bán lẻ đã lâu đời của Đức. Tại những trung tâm bán buôn từ thủ đô Đức cho tới Hale hay Leisich, bạn có thể mua ở đấy để bán lẻ từ mớ rau cho tới miếng đậu phụ hay gói mì và cả ngàn mặt hàng bách hóa, điện dân dụng, điện thoại cầm tay moden v..v?. Và nếu cần, bạn có thể đặt hàng, những món ăn dân tộc hôi hổi mang tới từ chuyến bay siêu thanh gần nhất. Cũng không chỉ một nguồn hàng đơn điệu như xưa. Người Việt đã lần mò ra rất nhiều mối hàng từ khắp nơi trên thế giới và khống chế hoàn toàn các khu bán buôn này. Không như ở Nga hay Ba Lan?, người Việt bán buôn bị người Hoa chèn lấn và ép vía. Cộng đồng bán buôn tại Đức đủ kinh nghiệm và sức mạnh vẫn đang làm chủ trận chiến, dẫu là đám bán buôn người Trung Hoa đã đặt chân tại đây từ khi trước khi Honkon trở về tay Trung Hoa lục địa, thèm khát vô cùng trước mặt trận béo bở này mà đến hôm nay vẫn bó tay nem nép vài quầy hàng trong các trung tâm bán buôn tại Đức.
    Sự phát triển của hệ thống bán buôn thực chất bởi sự thúc đẩy từ hệ thống bán lẻ của người Việt tại khắp nước Đức. Suốt hơn chục năm qua, từ tư cách thợ khách chăm chỉ trong xưởng thợ, người Việt trở thành người bán hàng rong cần mẫn không biết tới một ngày nghỉ trong năm trên khắp các xó xỉnh ở địa phần đông Đức. Mười làm năm trôi qua rồi, nhiều người bán lẻ đã cố gắng làm ăn và ít nhiều có chút ít tiền phòng khi bất trắc; Cũng có người từ bán lẻ, vượt lên xoay chuyển bán buôn hay ngành khác mang lại hiệu quả bất ngờ và đầu tư cả nhà máy sản xuất ngay tại quê hương họ ở Việt Nam trị giá cả triệu US. Nhưng có nhiều người trong số họ, do thiếu kinh nghiệm chống lạnh, dù thành đạt hay chưa, khi đã để buốt đôi chân thời họ đi chợ trời chợ sớm, tới nay khi đã về chiều đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe. Có người thường bị đau lưng, nhức vai; có người bị phù thận và chả thiếu kẻ trở về với cát bụi, trong lọ tro bay trở lại quê nhà, để lại không ít đồng tiền ngấm đầy mồ hôi và nhiều đau khổ của thân phận tha hương!
    Nhiều người trong họ ít nhiều khi đã có tích lũy đã mang tiền về Việt Nam để mua nhà mua cửa, hoặc về hẳn kinh doanh ngay tại quê hương. Song có số ít người quyết định ở lại dài lâu, đã mua nhà mua đất. Giá trị bất động sản này, giao động từ ba bốn trăm ngàn Eu tới cả triệu tùy theo khả năng tài chính hay khả năng vay ngân hàng trả dần của từng cá thể. Nhưng thực tế con số này rất ít trong số những người thợ khách
    Tại Đức có bốn đại gia là nữ. Từ bán lẻ rồi chuyển nhanh sang bán buôn có đại gia M, tài sản không thể lường được. Chị nhanh nhậy và đầu tư cả khách sạn khá hiện đại tại Hàng Bông ngay từ thời Hà Nội những năm đầu 90 chư acó nhiều nững khách sạn có cầu thang máy hiện đại. Năm kia chị gặp hạn, bị trôi tuột cả triệu US mà khi gặp tôi vẫn nhởn nhơ như không! Một đại gia nữa kinh doanh chợ, khu trung tâm bán buôn Gê len dê ngay từ thời mấy đấng mày râu còn ngu ngơ như bò đội nón về lĩnh vực này. Nhưng thành đạt hơn cả phải tính tới cử nhân luật Minh Tâm. Vốn xuất thân từ thành phần quý tộc tại Việt Nam, chị là một phụ nữ vừa đẹp vừa sắc sảo và có thần kinh như thép. Hơn chục năm gom góp cơ đồ, phát triển từ một quán ăn nhanh bên nhà ga tại đông Berlin. Minh Tâm hôm nay là một doanh nghiệp có trong tay cả hơn hai chục quán ăn nhanh sang trọng, thiết kế mầu sắc rất Châu á tại các Zentrum hiện đại vừa xây cất ở nhiều trung tâm và nhà ga đầu mối. Hiện tại, công ty của chị đang thò vòi chiếm lĩnh trên thị trường phía Tây. Chị đang có kế hoạch trở thành nhà sản xuất chế biến vịt với quy mô vừa, đáp ứng một nhu cầu lớn của ngành ăn uống tại cả Âu Châu! Những con người như thế, bằng sự nhậy cảm tinh tế với thời cuộc, bằng cả nghị lực và sự liều lĩnh cần thiết khi làm ăn lớn, đã vượt qua những năm tháng làm ăn ấu trĩ, đã hòa nhập vào thế giới kinh doanh hợp pháp tại Châu Âu hiện tại và tương lai. Sự thành đạt của họ cả nam và nữ làm vinh danh cho người Việt lao động (đã có vài doanh nhân được các đài truyền hình Đức chú ý và giới thiệu cho công chúng Đức) và tạo ra không ít công ăn việc làm cho đồng bào của mình dẫu khi, đã là chủ, tất yếu khi nào đã là ông bà chủ, ít nhiều cũng mang theo cả sự nghiệt ngã trong kinh doanh, đôi khi có cảm giác tới khắt khe tưởng như rơi vãi chút tình quê!
    Nhưng trong số đội quân bán lẻ đông đúc thủa hàn vi ấy, không thiếu kẻ vì nhiều nguyên nhân không những thua thiệt nhiều mặt mà vẫn tay trắng hoàn tay trắng . Có kẻ tan nát gia đình, trở thành lang bạt kì hồ, trong tài khoản nhiều khi âm. Có kẻ lên voi xuống chó chỉ vì khi có ít tiền chui vào Casino nướng tới cháy túi cả triệu Dm để hôm nay vật vờ như cái xác cô hồn thương nuối một thời xông xênh. Có người như số phận định đoạt ngoài tầm nỗ lực bản thân. Đ là một cán bộ cảnh sát sang Đức từ 88 rất ít khi gặp may dẫu là anh rất chăm chỉ cần cù.lao động. Hơn chục năm anh về phép hai lần để ?tìm vợ. Cưới được vợ chưa hết tuần trăng mật, Đ bán phá giá cửa hàng bán lẻ lỗ nặng, để nợ đầm đìa. Hơn mười năm sương gió, Đ hôm nay quắt queo như như bộ xương còn dính chút da thịt vì bại thận(?) Anh hoàn toàn mất sức lao động, hàng tuần phải lọc máu chờ về với tổ tiên và nhìn đời bằng đôi mắt u hoài không bút nào nói hết. H là một kỹ sư được đào tạo ở Đức hẳn hoi quê xứ nghệ. Thương nhớ vùng đất nghèo xác toàn sỏi đá hoa mua có gia đình của vợ con, anh tiết kiệm tới không giám mua cả củi sưởi. Mỗi lần phép là một túi nặng chịch cả ba bốn trăm hộp cao con hổ Sao Vàng, để mỗi tối một hộp xoa khắp người, chui vào chăn chống lại cái lạnh tới âm mười độ trong phòng! Anh chưa bao giờ có miếng ăn miếng để. Khỉ thực, những người như thế chẳng mấy ai giầu và ráo mồ hôi là hết tiền!
    Rất nhiều gia đình người Việt sau biến động của sự đổi tiền mới Euro, khi sức mua tại Đức giảm quá nhanh đã tạo thành giây chuyền phá sản trong kinh doanh bán lẻ áo quần của người Việt. Nhiều người đành giã từ vũ khí sang Tây Đức làm thuê cho những công xưởng mà người Đức chả ham hố bao giờ. Bạn vợ tôi là một người như thế trong số họ. Chị kể, em hàng ngày có mặt hơn mười tiếng trong nhà lạnh, xẻ thịt những chú gà tây khổng lồ, có con tới gần 50 kí lô. Nhà lạnh phải âm 40 độ để bảo quản thịt. Xa nhau một năm gặp lại, chị từ một người phụ nữ còn mởn mai mai đào, nay da dẻ săn lại nhăn nheo. Lớp da mặt khô xác bởi không thể làm quen với độ lạnh khô chưa khi nào hợp với người gốc xứ nhiệt đới, nguy hiểm cho sức khỏe hơn cả cái lạnh tự nhiên Nam hay Bắc cực.
    Người ta không thể biết rằng, có nhiều kẻ cả hơn mười năm nay về phép với cha mẹ ở Việt Nam chỉ một lần, thậm chí chưa một lần. Ai có thấu cho họ rằng, bên những điều giả, thật xông xênh của đám Việt Kiều khi về nước, có những chuyến về mà sau đó là cái gánh nặng tới oằn vai vì nợ nần nơi xứ người chỉ vì quà cáp, vì sĩ diện, vì nhiều khi phải bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng ở vài cuộc chơi đẹp với đám bạn bè cũ.
    Cho tới hôm nay, có thể nhận ra có nhiều cách kiếm sống trong kinh doanh quy mô nhỏ tại Đức còn tồn tại. Nó giống như một làng Việt Nam thu nhỏ tại xứ người. Đa phần còn buôn bán lẻ quần áo, tất ấm các loại và đồ tạp hóa. Một số người xoay ra bán hoa và trái cây. Một bộ phận tới 25% kinh doanh hàng ăn, còn lại số rất ít là những nhà chế biến các món ăn quê hương như đậu, giò, chả, chè sôi, phở và vài chục quầy cắt tóc, gội đầu. Ngành dịch vụ có phiên dịch, du lịch, bán vé máy bay, chữa xe ô tô, bảo hiểm và chỉ chỏ các loại. Đây là một bộ phận nhiều khi ăn trắng mặc trơn, khi nào cũng óng ả và máy tính sách tay, điện thoại di động run rảy liên miên trong túi áo! Tất nhiên nghề nào cũng có cái khó nhọc của nó, nhưng dù sao họ cũng tránh được cái đối mặt với thiên nhiên tuyết gió, những con đường nhầy nhụa mồ hôi và tuyết trắng, nhất là khi trực diện nơi chợ trời với lũ choai choai đầu trọc sẵn sàng nhẩy sổ vào bạn và đấm đá bằng những chiếc gầy cao cổ da dầy, đen sì cùng với chiếc gậy đánh bóng chày chỉ vướng một đòn là nhớ đến suốt đời!
    Cách nhà xuất bản Hội Nhà Văn, phố Nguyễn Du không xa có quầy điện tử ăn dỗ trẻ con của anh bạn tôi đã từ bỏ thế giới vàng về với mẹ. Anh bán hàng như tôi tại bãi đỗ ô tô tại thị trấn Teltow. Một ngày tháng năm gió nhẹ, nắng he năm ấy, anh bị bốn thanh niên cao lớn, nặng cả tạ, từ đâu lao đến trên một chiếc xe, không nói một câu đánh Hùng một trận đòn chí tử. Người bạn ấy, xưa đã từng chiến đấu ở binh chủng đặc biệt trên phía Bắc, cắn răng chịu đòn và đánh trả không lại với bốn người. Chúng cướp đi hơn bẩy trăm D tiền hàng và để lại anh ngất lịm trên hè phố... Tôi mang anh từ sở công an thành phố, về dìm vào bể tắm pha nước gừng và muối. Bồn nuớc hồng lên vì máu. Hùng, sau đó nhiều khi chẳng nhớ lại một cách cụ thể điều gì. Bây giờ gặp lại, nước Đức với anh, nhiều kỷ niệm vừa vui vừa buồn, vừa hạnh phúc vừa khốn nạn bởi những thế lực khủng bố còn như nhọt bọc làm nhức nhối bao người dân lương thiện.
    Cuộc di dời dân xuất khẩu lao động tại Đức mang lại rất nhiều quyền lợi tính bằng tiền cho nhiều gia đình người Việt, nhưng từ đặc thù trong kiếp tha hương khi tiếp xúc với nền văn hóa khác, trong sự cô đơn tới cùng cực và cần phải liên kết để sống, nhiều mối tình đã nảy nở ngay trong lòng những người đã có gia đình. Chính điều ấy đã gây nên biết bao bi kịch cho rất nhiều con người và phá vỡ hạnh phúc cũ. Tôi đã hỏi chuyện rất nhiều chị em phụ nữ, hàng ngàn gia đình và hàng ngàn đứa trẻ đã sống trong cảnh li tán. Bên cạnh sự phê phán về tính chung thủy của người đàn bà Việt khi xa xứ, nhiều nhà văn đã vội vã thường đổ tất cả lên đầu chị em, khi lấy họ xây dựng nhân vật tiêu cực. Phải chăng, người ta cũng nên lưu tâm, rằng phải xét tới hoàn cảnh nghiệt ngã khi phải nai lưng ra kiếm sống để gửi tiền về nuôi chồng con nơi quê nhà! Và, chính hoàn cảnh thân cô thế cô ấy đã đẩy nhiều chị em tới điều họ hoàn toàn không muốn và ham hố. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự tan vỡ, chia lìa của nhiều gia đình có vợ con đi Đức của ngày hôm qua và xét tới cùng, đại đa số, người đau khổ nhất trên đời trong bi kịch này luôn luôn bao giờ vẫn là người đàn bà. Mấy ai hiểu thấu cho họ? Những dòng sông nước mắt nơi đất khách khi tôi ngồi với chị T, một phụ nữ ngay tại khu Rihn Str ăm ắp tiền, hàng quanh chị, khi chị kể cho tôi nghe về cuộc: đi trở lại mắc núi, về trở lại mắc sông, sau hơn chục năm lăn lộn, để đổi lấy đồng tiền mầu xanh có in hình tổng thống Hoa Kỳ, hàng năm gửi về Việt Nam nuôi hai con ăn học nên người và ít nhiều cho người chồng chưa khi nào phải lo tới vật chất?! Và sau cả sự đổ vỡ thứ nhất ấy, không thiếu gì nhiều sự đổ vỡ kế tiếp để tạo nên sự nhắc nhớ về biết bao thân phận nàng Kiều, những cô gái đáng yêu Việt Nam vốn dĩ yếu mềm, trên đất Đức, đất Nga, Tiệp trong cuộc tha phương cầu thực lắm nỗi truân chuyên này!


    finding...
    a piece of something...
    to call mine
  7. sweet-briar

    sweet-briar Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2002
    Bài viết:
    1.770
    Đã được thích:
    0

    3-Buôn thuốc lá lậu và xã hội đen
    Ngay từ những năm đầu thập kỉ chín mươi, nguồn thuốc lá lậu chảy qua biên giới Ba Lan, Tiệp bằng con đường đưa trộm bằng sức người qua biên giới. Nhưng con đường ấy chỉ là giọt nước so với bát nước, số thuốc lá người Việt đã tiêu thụ hàng tháng, kéo suốt cả gần ba năm tại Đức. Nguồn thuốc khủng khiếp thứ hai ấy là từ các đại gia giấu mặt của thế giới ngầm Âu Châu đã thao túng người Việt. Không có sự tiếp tay ấy, không thể có những chuyến thuốc lá mỗi tuần hai ba lần từ những chuyến xe xuyên lục địa dài ngoãng gần trăm mét, vận chuyển thuốc lá lậu bay qua biên giới vào Đức. Người ta dùng cả thủ thuật vận chuyển quá cảnh từ cảng Hamburg để bất ngờ đổ tuột hàng, hàng triệu gói thuốc một lần trong các khu rừng cho hai ba chục chiếc xe vệ tinh nhỏ của người Việt ăn hàng. Từ đó sinh ra hệ thống khâu phân phối bán buôn thuốc lá, khâu trung gian thứ hai nữa cho người bán lẻ trên đường phố.
    Nguồn hàng lớn nữa được đổ bí mật từ những sân bay quân sự của nước X tại Đông Đức. Tôi từng nghe kể lại có cả vị tướng trong đội quân chiếm đóng Đông Đức tham gia vào mối làm ăn này. Hàng tuần, máy bay trực thăng quân sự, loại khổng lồ được huy động từ sân bay bí mật nào đó đổ xuống một điểm Z. Tại đó, điện thoại di động báo cho các xe Bus của người Việt. Thường là khi nhập nhoạng tối hay sáng sớm. Các xe ô tô vệ tinh của người Việt được dấu bí mật và cùng nổ máy cất hàng khi nhận được tín hiệu.
    Các đại gia người da trắng chỉ làm việc với một đầu mối. Đầu mối người Việt này gom tiền của hàng loạt ông chủ Việt khác chia nhau một xe cả chục ngàn cây thuốc mỗi chuyến. Thường là tiền trao cháo múc trong rừng khi ăn hàng. Nhưng cũng có khi họ nhận tiền trước một phần và sau khi ăn hàng xong nhận nốt từ đầu mối thứ nhất. Không thể lấy hàng rồi chuồn. Thế giới đen không biết đùa !
    Mùa đông năm 1991. Tôi theo xe của Khánh. Khánh xưa là bạn thân của đám tay chơi Bình Tẩu sau học điện ảnh, mà tôi cũng sơ sơ giao tiếp, quen biết nhau từ hồi còn họ còn choai choai ở Hà Nội. Anh là đầu mối của năm sáu người khác và đã nạp tiền gom cho B tại Berlin. Xe xuất phát từ bốn giờ chiều và lên đường cao tốc. Điện thoại di động hai chiếc, bắt liên lạc không ngừng tới nóng cả máy. Chúng tôi không được biết trước nơi đổ hàng. Tám giờ tối, xe chúng tôi đột ngột đổi hướng chạy sang Bradenburg. Ô tô chạy tốc độ trăm sáu chục cây, mưa tuyết thưa, bay chéo quất mạnh vào kính trước, phát sáng trắng trong ánh đèn pha. Chúng tôi đột ngột rẽ xuống đường Land và tiến vào một khu rừng không một bóng người. Từ đâu đó cũng đồng loạt xuất hiện hơn hai chục chiếc Bus cũng tắt đèn và rì rầm bò theo sự hướng dẫn đường từ điện thoại. Trước mắt tôi, trên một trảng cỏ rộng giữa rừng, hiện ra đột ngột, chềnh ềnh một chiếc xuyên lục địa dài cả bẩy tám chục mét cao như tòa nhà. Trong chớp mắt, bạt hậu được tháo bung và chiếc xe thứ nhất tiến vào ăn hàng. Tôi nhìn rõ bốn năm người da trắng ném như xiếc, rào rào những thùng thuốc Gold, Maln xuống mặt đất. Bất chợt có tiếng động xé gió rất lớn và từ đâu như phù thủy biến ảo hiện ra ánh đèn pha sáng trắng rọi từ một chiếc trực thăng đã bay rất thấp bất ngờ nhao tới xế lưng đầu chúng tôi. Quang cảnh chợt hỗn độn như hồi đánh trận, bị phục kích. Khánh nắm tay tôi bỏ xe chạy thục mạng, tạt sang cánh rừng bên trái. Tôi nhận ra rất nhiều bóng quân phục Zohnspandung ?" Hải quan đặc biệt và cảnh sát dã chiến bịt mặt chống buôn lậu. Đèn pin lia khắp rừng. Tôi nhắm mắt nhẩy quàng như điên vào một bụi rậm rồi bò nhanh sang bên kia, rơi vào một khe suối cạn. Cứ thế thục mạng chạy như bị chó đuổi, thoát hiểm khỏi vòng vây.
    Chuyến đi thực tế ấy làm tôi nhớ đời và chẳng khi nào dám mạo hiểm tái hiện thêm một lần. Bởi nếu tôi bị tóm, có thể nhận án tù từ một tới hai năm hoặc trục xuất lập tức. Người ta dùng cả biện pháp phạt tới bốn trăm D Mark một cây thuốc tang vật. Nếu tôi không có tiền trả, phải ngồi tù, mỗi ngày tù tương ứng 50 DM cho tới khi nào hết tiền phạt. Khánh cũng thoát hiểm trong vụ ấy, mất một số tiền khá lớn. Sau này anh còn dính vào vụ khác, bị ngay bạn hàng Polan chĩa súng vào đầu trong rừng biên giới lột hết tiền hàng. Hai năm buôn lậu, Khánh có tiền như nước rồi lại hoàn tay trắng và một lần nữa tí bị bắn khi giao dịch đổ bể công việc với một băng khác. Anh từ bỏ thế giới vàng chuyển sang nghề Imbis ?" quán ăn nhanh, làm lại từ đầu. Thương thay, người bạn có tiếng nghĩa cử hay đùm bọc bè bạn tha phương, nổi danh trong đám giang hồ lại rất yêu văn chương này năm ngoái đã biến thành tro tàn bình gốm khi chuẩn bị có miếng ăn miếng để. Trời bắt anh về! Anh mải mê công việc, không biết trong đầu mình có cái u ác tính hay gây những cơn đau đầu để anh chết bất ngờ. Khi đọc lời điếu tự tôi viết cho anh, cho người bạn văn nhiều lỡ hẹn ấy, trước hàng trăm người bè bạn thân sơ có mặt trong lễ tang tại Potsdam, tôi chợt nghĩ tới cái bóng anh vọt lên kéo tay tôi chạy thoát hiểm nguy ở mùa đông năm nào và không cầm nổi nước mắt xót xa!
    Việc buôn bán mang lại siêu lợi nhuận luôn cập kè với bất trắc. Cũng là nơi mầm độc sinh ra thế giới ngầm ngay trong cộng đồng người Việt tại Đức. Từ đầu những năm 92 đã xuất hiện nhiều băng nhóm tranh dành nhau ảnh hưởng trong việc chiếm lĩnh vùng bảo kê, thực chất là việc bán chỗ cho người bán thuốc lá lẻ. Anh làm ăn phi pháp, bán thuốc lậu trốn thuế, anh không dám trình diện tố cáo với cảnh sát hành vi phi pháp khác. Đấy là gót chân Acsin của người sống ngoài vòng pháp luật! Chính vì vậy nhiều người Việt tị nạn hiện nay khi bán thuốc lậu vẫn tự nguyện nộp tiền cho nhiều băng nhóm xã hội đen này. Tôi đã hỏi một bạn trẻ, hàng tháng nộp năm trăm Eu tiền chỗ bán thuốc gần chợ Biên Giới, anh trả lời bình thản: người ta như mình, xã hội nương tựa nhau để sống!!
    Sự nhượng bộ ấy vô hình chung tạo thành mảnh đất tốt cho mầm ác. Sau năm 92, có nhiều băng nhóm mang tính chất Mafia người Việt hoạt động ở Đức. Một giai đoạn dài, nhóm Từ Thiện là mạnh nhất. Họ là nỗi kinh hồn cho nhiều nhóm người tại ngay Berlin. Những nhóm người này đôi khi ngang nhiên bắn nhau ban ngày ban mặt như những phim bạo lực của Mỹ. Người ta, những ai sống ở khu trung cư hình móng ngựa Rihn Str 139 hẳn còn nhớ hôm nào, hai tay súng chống trả hơn bẩy tám tay súng ngay giữa sân chơi rộng kẹp giữa ba khu nhà lớn của người Việt. Đạn réo cầy tung bụi mặt đất. Người ta cũng hẳn không quên cuộc ám sát Vân biệt danh Vân Bụng, người có nhiều ảnh hưởng tới nhóm Từ Thiện. Bốn phát súng của sát thủ nổ vang trên hành lang hạ gục Vân khi anh ta vừa bước chân khỏi phòng ngủ với hai vệ sỹ. Sự đau lòng còn tiếp diễn cho những đứa con xứ Việt là sau đó, là nhiều cuộc thanh trừng, thanh toán đẫm máu đã xảy ra giữa nhiều băng nhóm, mà cho tới nay còn nhiều người mất tích chưa có câu trả lời trong các khu rừng ôn đới.
    Có một điều lạ là khi đó cảnh sát Đức dường như thờ ở với việc điều tra nghiên cứu về tình trạng bất an này. Chỉ tới khi một cuộc tàn sát thanh trừng đẫm máu xảy ra, bẩy mạng người Việt bị bắn chết trong phòng ngủ vào một buổi sớm tại khu Aren làm chấn động lương tâm toàn nước Đức thì lực lượng chống tội phạm đặc biệt của Đức từ Bonn mới được điều về để lần lượt đưa những trùm băng nhóm và đồng đảng, chân tay tội ác vào nhà đá.
    Theo thống kê đánh giá của nhiều tổ chức điều nghiên đã đăng tải trên báo chí Châu Âu thì các băng nhóm tội phạm người Việt chưa được xếp hạng ở Âu Châu về quy mô và trình độ chuyên môn, nhưng về tính chất dã man thì tội ác họ gây ra đối với đồng bào mình ở Đức không kém bất cứ tổ chức tội ác nào ở Châu Âu. Thậm chí tính chất dã man và số người chết vì bị bắn, bị chém, bị chôn ngoài rừng trong vài năm đầu thập kỉ 90 mà báo chí Đức đã đưa tin thì Mafia VN tại Đức dẫn đầu thành tích trong các băng nhóm tội ác kể cả với ý, Nga hay Thổ!
    Có thể do ý thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của các băng nhóm tội ác người Việt nếu không có biện pháp tức thời phản ứng, nên nhiều năm gần đây cơ quan an ninh Đức đã tích cực truy quét và giải giáp nhiều nhân vật quan trọng trong các băng nhóm tội ác người Việt. Cảnh sát Đức đã áp dụng nhiều biện pháp và chi khá nhiều tiền cho những hoạt động này, họ lập ra cả những trạm liên lạc tự động ghi âm và trả lời tiếng Việt cùng sự tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng thông qua đài phát thanh tiếng Việt tại Đức nhằm giúp các công dân Việt Nam hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ giúp đỡ chính quyền chính là cách tạo nên thêm điều kiện an toàn tốt nhất để bảo đảm cuộc sống lâu dài của người Việt.
    Thực tế những cố gắng ấy về phía Đức mấy năm gần đây đã hạn chế rất nhiều số vụ việc xảy ra gây tổn thất tiền và tính mạng người Việt Nam. Nhưng một nguyên nhân nữa đưa đến hoạt động của xã hội đen người Việt giảm thiểu, chính là việc buôn bán thuốc lá trốn thuế đã bị các lực lượng an ninh, thuế vụ, hải quan Đức dùng nhiều hình thức kỹ thuật nghiệp vụ dập tắt. Họ bịt kín các con đường chuồn thuốc lậu vào Đức trên quy mô lớn. Lùng bắt ráo riết và trừng phạt rất nặng những ai buôn thuốc lá lậu theo luật định. Giờ đây, những người Việt theo dạng Thợ khách hoàn toàn từ bỏ việc dấp dính với thuốc lá lậu. Như vậy, tức là họ, đám thợ khách đã cắt đứt mối liên hệ với thế giới đen. Thi thoảng trên các nhà ga hay đường vào vài chợ biên giới cũ, vẫn thấy dăm ba kẻ buôn thuốc lá phất phơ đứng nép vào các vật khuất. Họ là những người tị nạn mới từ Việt Nam sang, trót nghe theo sự lừa phỉnh của các tổ chức đưa người trái phép về một thiên đường chưa bao giờ có, nay cố kiếm tiền trả cái nợ 7000 Us khi nuôi mộng hão chi phí từ Việt Nam sang Đức làm giầu!?
    Nước Đức đã qua giai đoạn chập chững về quản lý vi mô và vĩ mô sau thống nhất tại phần Đông Đức cũ. Giờ đây với sự kiểm soát công dân của thời đại máy tính, hãy quên đi thời kỳ nhộm nhoạm làm giầu phi pháp. Và đặc biệt sau khi đổi tiền thì việc buôn bán làm ăn quy mô nhỏ của không riêng người Việt giảm sút một cách báo động. Do vậy nó hoàn toàn không phải miền đất hứa cho mộng làm giầu của bất cứ những ai, nhất là họ tới từ Việt Nam, không đồng vốn, không biết tiếng Đức, không có tri thức, kinh nghiệm và hiểu biết về một xã hội đã ổn định và có rất nhiều kinh nghiệm về quản lý hành chính xã hội


    finding...
    a piece of something...
    to call mine
  8. sweet-briar

    sweet-briar Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2002
    Bài viết:
    1.770
    Đã được thích:
    0

    4-Đi về đâu? Mối lo âu của người Việt còn tồn tại.
    Số người Việt ở Đức, nhất là diện thợ khách cũ sau hơn chục năm sóng gió giờ đây đã ổn định về cuộc sống. Những ai đã thành đạt thì thành đạt rồi và tiếp tục củng cố giữ vững sự làm ăn của họ. Những người không có khả năng kinh doanh, chỉ giỏi bắt chước dần bị quy luật cạnh tranh tự nhiên loại bỏ khỏi thương trường và đẩy về thất nghiệp hay đi làm với tư cách nhân công bán sức lao động cho các hãng của Đức hay Việt. Nhiều người trong số thợ khách đã đón gia đình vợ con đoàn tụ để quy về một mối. Quay lại với quy luật của con người Việt nam, giờ đây họ lo âu cho con cái học hành mong sau này chúng đỡ vất vả một tuyết hai sương như bố mẹ chúng. Họ bắt đầu nghĩ tới đời sống tinh thần sau nhiều năm lãng quên bởi đồng tiền. Nhiều nơi lập ra tổ chức Hội Người Việt để giúp đỡ nhau khi hoạn nạn, lúc trái gió trở trời trên xứ người. Mấy năm gần đây, sứ quán Việt Nam, ban cộng đồng cũng hết sức quan tâm vấn đề này và giúp đỡ họ trong hy vọng hòa nhập ổn định cuộc sống tại Đức và hướng về nguồn cội. Nhiều tổ chức văn hóa văn nghệ dưới hình thái Câu lạc bộ hình thành mang lại mầu sắc mới trong đời sống tinh thần của người Việt. Một số nhân sỹ, nghệ sỹ cũng có nhiều nỗ lực trong nhiều hoạt động văn hóa như tổ chức ca nhạc, nói chuyện về văn học nghệ thuật, phổ biến phim ảnh của nền điện ảnh Việt Nam v..v?
    Người ta hẳn không quên năm kia, hàng ngàn người Việt, có người vượt qua cả nửa ngàn cây, tới tập trung tại nhà văn hóa của Đào Minh Quang để nghe nhà thơ Trần Đăng Khoa tới đọc thơ và nói chuyện tếu. Nhà Thơ Nguyễn Duy cũng tới đây triển lãm ảnh trên giấy gió và buổi nói chuyện của anh về thơ cũng thức dậy tới nghẹn ngào biết bao con tim xứ Việt để nhớ về một mảnh đất chữ S có biết bao thương yêu?Việc phát sóng VT 4 trên vệ tinh cũng rút ngắn khoảng cách vời vợi ngàn trùng của người xa xứ với nơi chôn nhau cắt rốn của người Việt. Có ngạc nhiên không ở một nơi như Đức, những người lính cũ đã muốn thành lập hội cựu chiến binh bởi họ chưa khi nào quên một thời kỳ mà cả dân tộc cam go trong chiến tranh có sự đóng góp không nhỏ cả đời thanh xuân của họ. Tháng 11 năm ngoái, khi dẫn nhà làm phim tài liệu đài truyền hình trung ương, đạo diễn Chu Hòa đi thu thập tài liệu về người lính cũ tại Đức, chúng tôi khi quay được những thước phim về họ, đã quay cả bức sơn mài Bác cùng chúng cháu hành quân trang trọng treo trên tường một thương gia nổi tiếng thành công về ngành ăn uống khách sạn tại thành phố du lịch Swerin và nhiều câu chuyện cảm động tới trào nước mắt về những năm tháng gian khổ chiến đấu ở chiến trường.
    Cũng giống như nhiều người Việt ở các nơi khác, người Việt tại Đức chưa khi nào quên đi mảnh đất họ sinh ra và lớn lên. Rất nhiều cuộc quyên góp bấy nay dành cho đồng bào lũ lụt thiên tai ở Việt nam. Nhưng điều quan trọng và lớn lao hơn cả là họ giáo dục con cái họ về tổ quốc. Nhiều gia đình đã ý thức vấn đề này từ kinh nghiệm xương máu của đồng bào họ bên Pháp và Mỹ, nhiều gia đình tại Đức buộc trẻ con trong gia đình phải dùng ngôn ngữ , dạy dỗ con cái họ đọc và viết tiếng Việt. Anh chị Tiến - Uyên và anh chị Phương Huyền tại Potsdam dạy con cái họ đọc thông viết thạo tiếng Việt. Họ tâm sự, nếu ở Đức thành thạo một ngoại ngữ lại quên đi ngay tiếng mẹ đẻ tức bằng không và đâu còn người Việt? Chị Ngọc Trai nguyên phó tổng biên tập tờ báo Văn Nghệ mỗi lần tới thăm cháu nội ở Đức không phải lo âu canh canh như vài người cũng làm văn học ở nước khác.
    Cũng giống như ở nhiều nước khác trên thế giới, thế hệ thứ hai ở Đức của cộng đồng người Việt đang phát triển và có nhiều hứa hẹn, thoát ra khỏi cuộc sống lầm than sương gió trên đường phố. Học sinh Việt Nam đa phần học giỏi và thông minh. Năm kia một cháu gái Việt Nam đoạt bằng tú tài với số điểm 1 là điểm giỏi tuyệt đối. Cháu nội nhà văn Cao Nhị ?" cháu Mai Ninh từ 12 tuổi nổi tiếng khắp thị trấn Moelln vì năng khiếu hội họa. Mai ninh hôm nay đã là chàng trai sắp tốt nghiệp một trường cao đẳng kỹ thuật và dự tính sau khi ra trường sẽ lập một công ty riêng thiết kế trên máy tính phần mềm động và tĩnh. Cách đây mấy tuần Mai ninh là tác giả của bìa sách tập truyện ngắn Vàng Xưa của tôi. Bìa sách của cậu làm nhiều họa sỹ nổi tiếng trong nuớc ngạc nhiên khâm phục.
    Rất nhiều tấm gương học tập và tài năng như vậy trên đất Đức của thế hệ con cái những Thợ Khách Việt Nam đã qua cả gần 15 năm sương tuyết chân lấm tay bùn vật lộn với cuộc sống trên xứ người. Nó hứa hẹn nhiều đIều chưa thể lường hết về khả năng sống và làm việc phục vụn cho xã hội, con người và tổ quốc Việt Nam. Tất nhiên bố mẹ chúng vẫn phảI tiếp tục lăn lộn trên thương trường đối phó với nhiều biến động trên đất Đức và những tác động tương hỗ trong mối tương quan tình hình chính trị của thế giới. Nhất là sau khi đồng Euro ngự trị trên cộng đồng chung Châu Âu đã gây không ít khó khăn trong đời sống kinh tế của người sống ở Đức, không kiêng nể bạn là ai, sắc tộc nào.
    Không nắm được những thông tin về tình hình nước Đức, nhiều người Việt cho tới nay vẫn mắc lừa nhiều nhóm đưa người trái phép tiếp tục bằng mọi giá tới Đức. Họ không biết rằng, ngày nay khó có cơ hội kiếm tiền, dầu chỉ là để trả cho xong món nợ chi phí để họ tới Đức. Năm ngoái tôi và cô Chu Vân Anh cháu nội cố thượng tướng Chu Văn Tấn gặp một người ngu ngơ như vậy trên đường phố Berlin. Trả hơn bẩy ngàn U.S cho một người tên là X, người đàn ông đã hơn bốn chục tuổi này qua Nga được đưa tới Đức. Sau hơn một tuần chỉ ăn mì và uống nước lã trong một khu rừng bí mật hẻo lánh, anh bị đẩy ra đường phố trong túi không một đồng Cent, quần áo lấm lem bẩn thỉu và trong trạng thái đói lả. Trong khi nuốt vội bánh mỳ và súp nóng do Vân Anh mua tặng, anh nghẹn ngào kể:
    - Tôi chót bán hết gia sản, một cái nhà nát bên đường một tại Việt nam, sang tới Nga rồi qua đây. Họ đã giam tôi hơn một tuần trong rừng để buộc tôi thanh toán thêm số tiền 500 Eu nữa phát sinh vì những điều quái quỷ nào đó. Thực ra tôi không thể thanh toán bởi người quen tôi ở đây bặt âm vô tín và họ buộc thả tôi tại thành phố này từ một cái xe con rồi mất biến.
    Chỗ tôi bán hàng gần sở ngoại kiều bang. Tôi đã hỏi rất nhiều người Việt tị nạn tới đây ra hạn giấy tờ được biết nhiều người Việt đã vỡ mộng khi tới đây tị nạn và hoàn toàn không biết xoay sở ra sao nếu bị buộc phải quay về nhà vì đa số gia đình họ đều nợ đầm đìa cho họ ra đi.
    Có thể vì nhiều nguyên nhân, nhưng nhiều người trong số tôi nói trên sau biết bao nỗ lực kiếm tiền trả nợ đã thối chí và chán đời rơi vào bẫy nghiệnn ngập. Người ta kể với tôi rằng ở Berlin hiện tại có ba lò nghiện và vài tụ điểm gái điếm Việt Nam. Ma túy bây giờ đang là nỗi lo của cộng đồng người Việt tại Đức vài năm gần đây. Bởi tại Đức việc mua bán thứ chết người này không khó khăn lắm. Sau khi mắc nghiện, người ta không còn con đường nào khác là đi chôm vặt trong các siêu thị và đập hộp chính những người đồng hương bà con của mình. Sự thể này sẽ đi về đâu khi cha mẹ nhiều đứa trẻ hàng ngày đầu tắt mặt tối từ sớm tới tối mịt khó thể kiểm soát con cái họ ở những thành phố đông người Việt quần tụ. Những quán Karaoke, những phòng nhẩy và cả ngay bên cạnh vài trung tâm buôn bán giờ đây đang ẩn chứa mối nguy hiểm khó có thể tính hết về vấn đề này.
    Nhiều người Việt sớm có ý thức đang đề nghị các tổ chức hội người Việt Nam tại Đức, các câu lạc bộ và những văn phòng giúp đỡ người Việt do người Đức lập ra tổ chức tuyên truyền giáo dục thanh thiếu niên và cha mẹ của chúng những hiểu biết về tác hại của Matúy và những kinh nghiệm kiểm soát con cái. Chắc chắn sau thời gian nữa, khi tệ nạn Ma túy phát triển, cộng đồng người Việt tại Đức sẽ phải đương đầu với khả năng kèm theo của nó là căn bệnh thế kỷ: Si đa! Bởi cái không thể lường được là, ai biết được số gái điếm từ Việt Nam và Nga sang đang hành nghề lén lút tại Đức có kèm theo Siđa hay không?
    Mười lăm năm trôi qua có bao nhiêu ngày? Biết bao câu chuyện có thể kể liên miên không dứt về từng ngày mang nặng biết bao điều được và mất của những đứa con Việt Nam trên xứ người. Khi viết những dòng cuối này, trước mắt tôi hiện lên biết bao người đã gặp. Những cảnh huống khi vui đến nổ trời và khi buồn tới sa lệ của biết bao gia đình, con người và số phận của họ đã được bầy đặt trong hoàn cảnh lịch sử của đất nước và thế giới. Không thể đoán trước những gì sẽ tới trong tương lai của cộng đồng người Việt tại Đức, bởi con đường kiếm sống và thương trường thế giới chẳng hề giản đơn bao giờ; bởi không riêng gì Đức mà ngay toàn Châu Âu đang và cả thế giới đang biết bao lo ngại với những diễn biến chính trị căng thẳng hôm nay tại vùng dầu mỏ Irắc và Trung Cận Đông. Nhưng dù thế nào chăng nữa, tôi vẫn hy vọng từ những ưu điểm cơ bản của người Việt, ở đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, ở khả năng chịu đựng mà tồn tại và phát triển trong bất cứ hoàn cảnh nào v..v? Hãy cầu chúc cho những đứa con của đất nước trên Đức và nhiều nước trên thế giới bớt đi những điều đau lòng trong chuyến đi dài vừa qua, gặt hái thêm nhiều thành quả và may mắn để luôn nhìn thấy khuôn mặt rạng rỡ, hạnh phúc của người Việt trên những chuyến bay trở về thăm tổ quốc mỗi dịp lại xuân về.
    Hà Nội - Xuân 2003


    finding...
    a piece of something...
    to call mine
  9. sweet-briar

    sweet-briar Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2002
    Bài viết:
    1.770
    Đã được thích:
    0
    Nói thế nào nhỉ, tớ nhận thấy ở cả 2 bài viết của 2 người khác nhau, 1 người ở VN thì ko nói làm gì, đằng này 1 người ở Đức mười mấy năm giời mà viết đến chữ Halle với lại leipzig cũng không đúng nữa Hôm tớ đọc bài này tớ tí sặc thứ 1 về mức độ nghiêm trọng hoá vấn đề của bài viết và thứ 2 về lỗi chính tả và mức độ sai sự thật của bài viết(1 người ở Đức lâu năm như thế mà viết cái trại tị nạn thành trung tâm bán buôn Gê len dê thì tớ cũng chịu). Tớ chưa thấy có con gà tây nặng đến 50kg lần nào (hay đó là con gà điểu). Địa điểm cùa bài viết hầu như ở berlin hơn thế nữa bài viết này mới (Xuân 2003) chứ cũng chẳng xa xưa gì, nhưng thực sự tớ chưa bao giờ thấy người VN đi chợ bị đánh đập bằng gậy bóng chày bao giờ cả. Có thể là trước đây chứ bây giờ thì . Thôi có gì để mọi người đọc bài viết rồi cho ít lời. Chẳng lẽ sống tại cái nước Đức này lại như sống cảnh tù túng như trong địa ngục hay sao??


    finding...
    a piece of something...
    to call mine
  10. biettuot82

    biettuot82 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    128
    Đã được thích:
    0
    Một trong những cái giỏi của các nhà báo là áp đặt suy nghĩ chủ quan và cái nhìn phiến diện của mình thành sự thật, và những nhân vật trong bài viết cũng chỉ là những con chốt để chứng tỏ rằng chủ nhân của nó luôn luôn đúng.Nhà báo là những nhà văn tồi, những nhà văn chuyên viết truyện qua cái cửa sổ của phòng ngủ của họ.
    Biettuot@

Chia sẻ trang này