1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

nguồn gốc TÂM LÝ của CHIẾN TRANH?????

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dadt4k7, 15/01/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. 01041992

    01041992 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/12/2007
    Bài viết:
    201
    Đã được thích:
    0
    ______________________
    trời ơi
    lâu lắm mới nghe thấy câu hỏi hay thế này
    đơn giản lắm, chiến tranh có rất nhiều loại
    rất nhiều kiểu, rất nhiều thế võ
    chứ........... để chiaki ngồi chơi đồ hàng ko phải...............
  2. FromtheStars

    FromtheStars Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/06/2007
    Bài viết:
    3.034
    Đã được thích:
    195
    Chiến tranh - Cuộc chiến của sự sống - còn.
    Những điều đó xuất phát từ sự duy trì tồn tại của bản thân, giống, loài.
    Con người hay loài động vật nào cũng vậy, luôn luôn cải tạo môi trường sao cho an toàn và đảm bảo cho sự tồn tại của bản thân. Trong sự đa dạng, tranh giành là điều tất yếu xảy ra. Song, cuộc chiến diễn ra ở mức độ, quy mô nào nó phụ thuộc vào nhận thức của từng loài. Sự nhận thức đó thành phản xạ, thói quen, rồi biến thành bản năng. (Giống như ta thấy mùi hôi thì cảm thấy khó chịu vậy). Và trong sự đa dạng ấy, sau những cuộc chiến ấy, tất cả các loài đã rút ra cho mình được một nhận thức - đó là luật. Ở thiên nhiên thì người ta gọi là luật *rừng*. Còn ở loài có tổ chức cao như con người, có ý thức, sau mỗi một sự nhận thức đó, người ta lại ngồi lại với nhau và đề ra những luật mới, phù hợp với những nhận thức mới mà trong đó có lợi cho sự tồn tại và phát triển của bên chiến thắng. Tuy nhiên trong sự tổn thất nặng nề do chiến tranh của cả 2 bên, người ta lại phải tính đến giải pháp ít tốn kém và hiệu qủa nhất. Đó là *đối thoại* hay *đấu khẩu* thay cho cuộc chiến đẫm máu. Tuy vậy cuộc chiến vẫn có thể tiếp tục xảy ra do sự nhận thức khác đi của một bên.
  3. PowerfulGirl

    PowerfulGirl Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/11/2007
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    chiến tranh xuất phát từ lòng tham của con người mà thôi
  4. dadt4k7

    dadt4k7 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/07/2007
    Bài viết:
    60
    Đã được thích:
    0
    Tai sao the gioi van con chien tranh ???????????
    bạn ủng hộ học thuyết nào nhất
    Theo các học thuyết lịch sử
    Những người theo thuyết lịch sử chú ý đến khía cạnh bất khả kháng của chiến tranh, họ cho rằng nó ngẫu nhiên nó như là một tai nạn giao thông. Có thể có các điều kiện, tình huống giống như là xắp sảy ra chiến tranh nhưng người ta không thể tiên đoán được thời gian và địa điểm sảy ra chiến tranh. Các nhà xã hội học phê phán cách tiếp cận này, họ cho rằng sự bắt đầu của các cuộc chiến tranh là do một số nhà lãnh đạo đưa ra, đó không phải là tai nạn thuần túy. Vẫn còn có những bất đồng nhưng thực sự rất khó khăn trong việc xây dựng một thống tiên đoán về chiến tranh.
    Theo các học thuyết tâm lý chiến tranh
    Đây là học thuyết đáng bị nên án vì theo thuyết này, chiến tranh xuất phát từ tâm lý của con người, cho rằng đó là "bản năng xâm lược" của con người, là "hành vi" của con người. Các đại diện của thuyết này như E.F.M. Durban và John Bowlby cho rằng loài người đặc biệt là đàn ông sinh ra đã có thói quan xung đột. Thông thường những loại xung đột này bị kìm nén bởi xã hội, nó cần một cơ hội để giải thoát các xung đột bằng chiến tranh.
    Text
    Theo các học thuyết về nhân khẩu
    Học thuyết nhân khẩu có 2 nhóm: những người theo thuyết Man-Tuýt và những người theo thuyết bùng nổ dân số trẻ. Theo thuyết Man-tuýt sự mất cân bằng giữa việc tăng dân số và tăng thức ăn là nguồn gốc của xung đột. Nghĩa là trong khi dân số tăng theo cấp số nhân thì nguồn tài nguyên, của cải lại tăng theo cấp số cộng tạo ra sự mất cân đối dẫn đến chiến tranh. Lý thuyết bùng nổ dân số trẻ lại quan niệm do sự mất cân đối giữa những lực lượng trẻ được đào tạo, đến tuổi trưởng thành, cần có việc làm và số lượng những vị trí có thể cho họ trong xã hội là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự nổi loạn trong xã hội (bao gồm cả chiến tranh). Theo các học thuyết này "con người cần thức ăn, cần vị trí nên họ bắn nhau".
    Man-tuýt (1766-1834) cho rằng dân số luôn tăng tận khi chúng bị hạn chế bởi chiến tranh, bệnh tật và đói kém. Đây là lý thuyết được tính toán với xã hội trước dây khi mà nền sản xuất chưa phát triển và tỷ lệ tăng dân số không điều khiển được
    Các loại chiến tranh
    Về chính trị-xã hội:
    Chiến tranh cách mạng
    Chiến tranh phản cách mạng
    Chiến tranh xâm lược là cuộc chiến tranh do một nhà nước, hoặc liên minh các nhà nước tiến hành nhằm xâm lược nước khác.
    Chiến tranh giải phóng dân tộc
    Chiến tranh bảo vệ tổ quốc
    Theo cách thức tiến hành:
    Chiến tranh chính quy
    Chiến tranh du kích
    Chiến tranh nhân dân
    Theo quy mô chiến tranh:
    Chiến tranh cục bộ
    Chiến tranh hạn chế
    Chiến tranh thế giới
    Theo phương tiện vũ khí, kỹ thuật:
    Chiến tranh thông thường
    Chiến tranh hiện đại
    Chiến tranh hạt nhân
    Chiến tranh sinh học
    chiến tranh thông tin
    Theo môi trường:
    Chiến tranh trên cạn
    Chiến tranh trên biển
    Chiến tranh sa mạc
    Chiến tranh biên giới
    Chiến tranh vũ trụ
    cách đây 2 tháng
  5. dadt4k7

    dadt4k7 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/07/2007
    Bài viết:
    60
    Đã được thích:
    0

    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

    Thảm sát Huế Tết Mậu Thân
    Các quan tài của những nạn nhân chưa nhận dạng nằm trong một trường học tại Huế, Tết Mậu Thân, 1968.Thảm sát tại Huế Tết Mậu Thân (tiếng Anh:Hue massacre) là tên gọi một sự kiện trong lịch sử chiến tranh Việt Nam về việc tìm thấy một số lượng lớn các ngôi mộ tập thể của những người đã chết tại Huế. Việc phát hiện này bắt đầu được tiến hành sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có một cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân vào Huế và đã rút lui sau một tháng chiếm đóng.
    ửa] Bối cảnh
    Sáng sớm ngày 31 tháng 1 1968, trong dịp tết âm lịch, quân đội Bắc Việt và quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN - còn được gọi là *********) cùng lúc tấn công bất thình lình tại nhiều thành phố và địa phương trên miền Nam Việt Nam - trong đó có Sài Gòn và Huế. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân tuy được xem là một thất bại quân sự nhưng lại là một chiến thắng có tầm vóc lớn về chính trị . Sau các thành công quân sự ban đầu, họ lập tức bị đẩy lui khắp nơi, trừ Huế.
    Với mục đích giành giật chủ quyền tại Huế, trận chiến 26 ngày giữa MTDTGPMNVN với Quân đội Hoa Kỳ và VNCH đã diễn ra và kết quả là 40% thành phố bị tàn phá, 116.000 người mất nhà ở. Quân đội Hoa Kỳ và VNCH báo cáo có khoảng 5.000 lính MTDTGPMNVN bị giết bên trong Thành nội Huế, và 3.000 người khác ở các vùng lân cận. Cũng trong thời gian này, máy bay Mỹ đã liên tục ném bom, phá hủy hàng trăm ngôi nhà và làm nhiều dân thường thiệt mạng [1].
    [sửa] Số liệu các hố chôn tập thể

    Thân nhân họ hàng đứng cạnh các bộ phận thân thể vừa được đào lên từ các mộ tập thể trong dịp Tết Mậu Thân, 1968.Sau sự kiện Tết Mậu Thân khoảng một tháng, một số lượng lớn các ngôi mộ tập thể của những người đã chết tại Huế đã dần được tìm thấy.
    Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike [2], lúc bấy giờ là nhân viên hành chính ngoại giao của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970,
    Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:
    Tổng số dân sự tử vong: 7.600 - chết lẫn mất tích
    Chiến trường: - 1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc
    Nạn nhân của những vụ giết tập thể:
    1.173 - số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968
    809 - số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7, 1969
    428 - số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9, 1969
    300 - số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11, 1969
    100 - số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969
    1.946 - mất tích (tính đến năm 1970)
    Tuy nhiên, theo Gareth Porter [1], một học giả Mỹ, các ước lượng ban đầu của Bộ Di Dân và An sinh Xã hội Việt Nam Cộng hòa, số dân thường thiệt mạng do giao tranh và bom pháo là 3.776, trên tổng số dân thường bị thương, chết hoặc mất tích là 6700 người [3], chứ không phải các con số 944 và 7600 do Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đưa ra[4]. (Các con số 944 và 7600 này đã được Pike Douglas dùng trong thống kê của mình.)
    Về các con số cụ thể tại các địa điểm khai quật, Gareth Porter [1] viết:
    ...tại địa điểm trường trung học Gia Hội, báo cáo chính thức của Mỹ, dựa trên thông tin cung cấp bởi Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10, đưa ra tổng số 22 mộ tập thể và 200 tử thi, với bình quân 9 tử thi mỗi mộ. Nhưng khi Steward Harris [phóng viên Thời báo Luân Đôn] được đưa đến địa điểm đó, người sĩ quan Việt Nam hộ tống nói với anh ta rằng mỗi ngôi mộ trong số 22 ngôi có từ 3 đến 7 xác, cho ra tổng trong khoảng từ 66 đến 150. Cũng khoảng trong thời gian đó, Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 xuất bản một cuốn sách nhỏ dành cho người đọc Việt Nam, trong đó nói rằng tại trường học có 14 mộ (chứ không phải 22), con số này còn làm giảm tổng số hơn nữa.
    Cũng theo Gareth Porter, Alje Vennema [5], một bác sỹ làm việc cho một đội y tế Canada tại bệnh viện Quảng Ngãi và đã tình cờ có mặt tại Bệnh viện Huế trong thời gian xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân, nói tổng số tử thi tại bốn địa điểm chính được phát hiện ngay sau Tết là 68, chứ không phải con số 477 như đã được tuyên bố chính thức.
    [sửa] Nguyên nhân
    [sửa] Pike
    Theo Pike [2]
    ... có 3 giai đoạn đưa đến những vụ xử tử.
    Giai đoạn đầu là một loạt các cuộc xử án bất hợp pháp công cộng kéo dài khoảng 5 - 10 phút do giới chức trong quân Bắc việt hay ********* dựng lên. Bị cáo luôn bị kết án "có tội với nhân dân".
    Giai đoạn nhì, khi họ cho rằng họ sẽ giữ được Huế lâu dài, quân Bắc việt / ********* bắt đầu tiến hành công tác giáo dục tư tưởng Mao Trạch Đông cho quần chúng. Những ai bị tình nghi có thái độ chống cách mạng từ từ bị truy lùng trong giai đoạn này. Người theo đạo công giáo, các nhà trí thức, thương gia, và đám người bị tội làm "tay sai Đế quốc" bị chiếu cố để "tạo dựng xã hội mới"
    Giai đoạn sau cùng, khi thấy rõ họ đang bị đánh bật ra khỏi Huế, quân Bắc việt / ********* thi hành những vụ thủ tiêu nhân chứng - bất cứ ai biết mặt họ, nhìn thấy những tội ác trong lúc Huế bị chiếm đều bị giết và chôn mất xác.
    Nhiều tác giả sử dụng báo cáo của Pike, trong khi nhiều người khác thì phủ nhận, cho rằng đây là một chiêu bài tuyên truyền của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa để tạo hỗ trợ cho sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam. Trong những thời gian đầu cuộc chiến, nhiều phóng viên chiến trường phải viết phóng sự tuân theo một quy định áp đặt từ chính phủ Hoa Kỳ.
    [sửa] Porter
    Về sau có khảo cứu của Gareth Porter [1] về vụ thảm sát Huế, trong đó, ông chỉ trích những phóng đại tuyên truyền từ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Ông nói các thông tin về cái gọi là đàn áp tôn giáo là thiếu chính xác [6]. Ông đã nêu ra các nguồn gốc không xác thực của những thông tin về vụ "thảm sát"[7]; sự không rõ ràng trong việc điều tra tại thực địa các ngôi mộ tập thể [8]; những mâu thuẫn trong các báo cáo về số lượng tử thi tìm thấy; những mâu thuẫn với kết quả tìm hiểu của một bác sỹ y khoa làm việc tại Huế lúc đó; một số chi tiết đáng chú ý xung quanh các cuộc khai quật vào năm 1969; những mâu thuẫn giữa bài viết của Douglas Pike với các nguồn thông tin khác[9]; những mâu thuẫn trong các lời khai của "người làm chứng" cho vụ thảm sát [10]; và kết quả của những trận bom của Mỹ tại Huế[11].
    Gareth Porter cho biết rằng một người bác sỹ có mặt tại Huế vào thời điểm tìm thấy các mộ chôn, Alje Vennema[5], viết rằng đối với các địa điểm trong khu lăng vua, hầu hết các tử thi có dấu vết của quân phục. Vennema kể rằng đã hỏi chuyện các dân làng gần đó, họ nói rằng trong các ngày 21 đến 26 tháng Hai khu vực trung gian đã bị bom và pháo dữ dội. Và, trái với các tuyên bố của chính phủ rằng nhiều nạn nhân đã bị chôn sống tại đó, Vennema nói rằng tất cả các tử thi đều có các vết thương.
    Trong kết luận của bài viết, Gareth Porter đồng ý rằng có những vụ xử tử, giết người tại Huế trong giai đoạn chiếm đóng; tuy nhiên không có bằng chứng cụ thể về nguyên nhân của những cái chết.
    Các bằng chứng có được -- không phải từ nguồn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, mà từ nguồn chính thức của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa và từ các quan sát viên độc lập -- cho thấy rằng câu chuyện chính thức về một cuộc tàn sát bừa bãi đối với những người được cho là không thích hợp với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là hoàn toàn bịa đặt. Không chỉ số lượng các thi thể được tìm thấy trong và xung quanh Huế đáng nghi vấn, mà quan trọng hơn, nguyên do của các cái chết có vẻ như là bị chuyển từ chính các trận đánh quân sự sang việc xử tử của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Và tường trình chi tiết nhất "có thẩm quyền" mà các chính phủ Mỹ hay Việt Nam Cộng hòa đưa ra về sự việc được cho là vụ thảm sát này đã không đứng vững trước các thẩm định. [12]
    [sửa] Young
    Marilyn B. Young trong sách tựa đề The Vietnam Wars, 1945-1990 [13]ghi lại,
    Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ ... khi trận chiến gần kết thúc bởi cuộc công pháo, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay vì thả họ ra hay bắt theo làm tù binh - với con số người chết không nhiều như chính phủ Sài gòn và Washington công bố, nhưng nhiều đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế...
    [sửa] Các nguồn khác
    Philip W. Manhard, một cố vấn cao cấp Hoa Kỳ tại Huế bị bắt đem ra trại tù binh ở miền Bắc Việt Nam (được thả năm 1974). Ông còn nhớ rõ những vụ bắn giết tại chỗ những người già yếu không đủ sức đi theo cuộc di tản tù nhân.
    Năm 1969, phóng viên Don Oberdorfer [14]sang ở Huế 5 ngày với Paul Vogle, giáo sư dạy Anh Văn người Mỹ tại Đại Học Huế, và phỏng vấn nhiều nhân chứng trong thời gian Huế bị quân MTDTGPMNVN chiếm đóng. Theo Oberdorfer, các vụ giết người chia làm hai loại:
    Loại xử tử có kế hoạch cho những giới chức chính phủ nam Việt Nam và gia đình thân quyến của họ, nhân viên chính phủ và dân sự và những người "theo Mỹ" .
    Loại bắn tại chỗ những ai chạy trốn không trả lời thẩm vấn, những ai nói xấu về cuộc chiếm đóng Huế, những ai có thái độ "không tốt" với quân cai quản.
    Tuy không thể minh định bằng nguồn tin nào khác, Oberdorfer báo cáo rằng hầu hết những người nam trên 15 tuổi trốn tránh trong một nhà thờ khu Phú Cam đều bị đem đi và bắn chết. Khi Oberdorfer phỏng vấn Hồ Tý, một viên chỉ huy ********* trong cuộc tổng tấn công 1968, ông này cho biết Đảng Cộng sản có lưu ý đặc biệt về khu công giáo Phú Cam vì "người công giáo là kẻ thù của chúng tôi".
  6. tudieude

    tudieude Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/01/2008
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    Tại sao con người lại gây ra chiến tranh? Đúng hơn là tại sao con người luôn gây ra chiến tranh? Phát hiện những dấu vết cổ nhất về chiến tranh trong khảo cổ và phân tích nhân chủng học có thể giúp chúng ta hiếu rõ hơn về các cuộc giao tranh thời hiện đại.
    Chiến tranh, theo các nhà các nhà nhân chủng học là một dạng bạo lực thường gây ra chết chóc giữa hai nhóm (người), bất kể quy mô của nhóm người đó ra sao và số lượng nạn nhân là thế nào. Nhưng trong chừng mực nào đó, một định nghĩa rộng như chiến tranh, hay nói chính xác hơn là các trường hợp xung đột xã hội cua con người nguyên thủy liệu có soi sáng được nguồn gốc và các hậu quả của các cuộc chiến tranh hiện đại như đã từng xảy ra ở Kosovo, Irắc, Rwanda, Việt Nam và Triều Tiên? Cách đây khoảng 30 năm, các nhà nhân chủng học nghiên cứu về chiến tranh đã từng có lần tụ họp lại trong một căn phòng nhỏ và tranh luận hăng say về chiến tranh. Giờ đã khác. Thời thế thay đổi và nghiên cứu nhân chủng học về chiến tranh đã được tiến hành sâu hơn và chín muồi hơn. Người ta thấy xuất hiện trên báo chí chuyên ngành chính trị cũng như các phương tiện thông tin đại chúng những vấn đề trước kia tưởng chỉ có các nhà chuyên môn quan tâm.
    Chiến tranh đến từ đâu?
    Vậy thì nguồn gốc chiến tranh từ đâu mà ra? Liệu nó có phải là một trong những điều kiện gắn liền với cuộc sống của con nguời? Thí dụ về Yanomami, một bộ lạc thổ dân da đỏ Châu Mỹ (Anh-Điêng) sống ở khu vực Venezuela và Braxin là một minh chứng điển hình.
    Năm 1968, ngay sau khi được công bố thì cuốn sách của Napoleon A.Chagnon dưới tựa đề Yanomamo: The Fierce People (Yanomamo: Dân tộc tự cường) đã trở thành một tài liệu được trích dẫn nhiều nhất trong ngành nhân chủng học. Đối với hầu hết các sinh viên trong lĩnh vực này thì đây được coi là cuốn sách nhập môn duy nhất. Luôn bị cuốn vào các cuộc chiến tranh vì các lý do như phụ nữ, uy tín và các cuộc cãi cọ giữa các dòng tộc, người Yanomami được coi như phiên mẫu của người nguyên thuỷ. Mở rộng lĩnh vực nghiên cứu ra hơn nữa, Chagnon khiến người đọc nghĩ rằng cái hung tợn của con người là do gen gây ra: đây là một phát hiện gây chấn động, kể cả khi phát hiện này là đúng.
    Trong năm 1974, nhà nhân chủng học Marvin Harris đã đưa ra một cách nhìn khác. Chiến tranh ở người Yanomami theo ông là câu trả lời phù hợp đối với một dân tộc phải đối mặt với sự cạn kiệt về các nguồn lương thực, đặc biệt là hết nguồn thú săn. Tuy nhiên, giả thiết đã không đứng vững trước một nghiên cứu khắc sâu hơn về sinh thái của người Yanomami.
    Năm 1995, R. Brian Ferguson, Giáo sư nhân chủng học của Đại học Rutgers (Mỹ) miêu tả những người Yanomami đã phải đối đầu với các đợt săn đuổi của người Châu Âu từ thế kỷ XVIII. Theo ông, các cuộc chiến tranh do bộ tộc này gây ra thường gắn liền với những thay đổi do những người Châu Âu mang tới. Các cuộc xung đột vũ trang gần đây nhất cũng xuất phát từ mối đe dọa mất quyền tiếp cận với các dụng cụ sản xuất bằng sắt và các phương tiện sản xuất khác do người Phương Tây mang tới.
    Những mâu thuẫn sâu sắc xuất hiện trong giới khoa học. Những sự tranh cãi dường như bớt ồn ào hơn và chỉ tập trong trong lĩnh vực học thuật khi cuốn sách Darkness in Eldorado: How Scientists and Journalists Devastated the Amazon (Màn đêm Edorado: các nhà khoa học và nhà báo đã tàn phá Amazon thế nào?) được xuất bản vào năm 2000. Cuốn sách này do một nhà báo viết là lời luận tội chống lại Chagnon, kết án cả cái nguồn gốc của chiến tranh mà ông này đưa ra. Các cuộc bút chiến lại tiếp tục giữa các nhà nhân chủng học: những người bảo vệ Chagnon và những người chồng ông này công kích nhau không thương tiếc. Nhiều nhà khoa học nghĩ rằng chính những người truyền giáo là thủ phạm lớn nhất. Kết cục của thời kỳ này là chẳng ai có thể tự nhận là mình hiểu được các cuộc chiến tranh của người Yanomami mà không phải tính đến lịch sử cực kỳ phức tạp của tộc người này.
    Ngoài trường hợp đặc biệt của Yanomami, thì dường như tất cả mọi nơi trên thế giới, cái mà người ta gọi là chiến tranh nguyên thủy hay chiến tranh bản địa thường biến đổi, ác liệt hơn và đôi khi nhanh chóng hơn khi tiếp xúc với người phương Tây. Một loạt các nghiên cứu lịch sử của Brian Ferguson và Neil L.Whitehead (ĐH Wisconsin-madison) đã kết luận rằng những thay đổi về tính chất chiến tranh như vậy đều đã xảy ra trước khi các nhà dân tộc học bước chân tới những vùng dân tộc hẻo lánh. Chiến tranh bản địa được miêu tả qua hàng thế kỷ gần đây không thể được coi là điển hình cho chiến tranh thời tiền sử. Những phát hiện khảo cổ học đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn vấn đề.
    Năm 1996, để trả lời câu hỏi này, Lawrcnce H. Kecley, nhà khảo cổ học của Đại học lllinois đã xuất bản cuốn sách: War before Civihza-tion ( Chiến tranh trước thời Văn minh). Bằng cách thu thập một số trường hợp bạo lực tiêu biểu, Keeley dường như chứng tỏ rằng con người luôn luôn gây ra chiến tranh. Điều này cũng được ông tuyên bố trong Tạp chí Nature: chiến tranh cũng giống như thương mại và những trao đổi. Đó là những thứ mà con người tạo ra.
    Chiến tranh hiện đại
    Mới đây hơn, Stcven A.Leblanc, nhà khảo cổ thuộc Đại học Harvard chứng tỏ rằng tại những nơi còn tồn tại các dấu tích khảo cổ, chiến tranh liên tục xảy ra và hầu như thời nào cũng có chiến tranh. Leblanc đã phát triển một lý thuyết để chứng tỏ kết luận nói trên. Ông cho rằng người tiền sử không hề biết đến việc bảo vệ nguồn lợi thiên nhiên, họ lãng phí các nguồn tài nguyên trong khi dân số gia tăng, họ thiếu thức ăn và điều này dân tới chiến tranh: đây là quan điểm của nhà kinh tế học Malthus. Về phần mình, Brian Furguson cho rằng cần phải xem xét kỹ những bằng chứng khảo cổ lâu đời nhất để có thể đưa ra được nguyên nhân logic của chiến tranh. Mặc dù vẫn đang trong quá trình nghiên cứu những nhận xét đầu tiên của Brian Ferguson là phản đối ý kiến cho rằng chiến tranh là một trong các đặc tính trong sự tồn tại của loài người. Ngược lại, nhũng khám phá khảo cổ mới đây đã cho thấy rằng chiến tranh đã từng là một hiện tượng phổ biến cách đây tới cả 10.000 năm.
    Bằng chứng hiển nhiên nhất của chiến tranh được khảo cổ chứng minh là một nghĩa trang tập thể dọc theo bờ sông Nit, khu vục Sudan. Được biết dưới cái tên Site 117 (địa điểm 117), nghĩa trang này đã được xác định là có tới 12.000 - 14.000 tuổi. Có 59 bộ xương được bảo quản cẩn thận trong nghĩa trang trong đó 24 bộ xương có các dấu vết bị thương do đá (vũ khí của thời đó). Cần chú ý một chi tiết là thời kỳ này trùng lặp với một thời kỳ khủng hoảng sinh thái: nước thượng nguồn tăng nhanh khiến lòng sông đã biến thành một lũng sâu. Đồng bằng bị nước ngập và sau đó lại bị hạn hán khiến dân cư bị mất nguồn lương thực. Bên ngoài Site 117, kiểm tra kỹ càng khoảng 100 bộ xương thì chỉ khoảng một tá bộ xương người Homo sapiens độ tuổi khoảng hơn 10.000 năm có những dấu hiệu bạo lực giữa người với người.
    Nguồn cơn của các trận chiến
    Phía Bắc của nước Úc, những dấu vết khác trên đá có tuổi hơn 10.000 năm cho thấy hình của các cuộc chiến tay đôi giữa hai người hoặc hai nhóm nhỏ người. Chiến tranh, nếu tính cả các cuộc đối đầu giữa hai nhóm người đã xuất hiện cách đây khoảng 6.000 năm. Các biến đổi khí hậu đã khiến mực nước biển dâng cao và nhấn chìm dần dần bình nguyên rộng lớn nối liền Úc với Tân Ghinê.
    Vùng Cận Đông cũng có một vài bằng chứng về các cuộc chiến giữa các tộc người vốn rất hòa bình. Nhiều dấu vết được phát hiện ở người hái lượm Natofien, những người sống ở khu vực Israel, Uban, Cận Jordania, Syria, ngày nay nhưng cách đây khoảng 12.800 -10.500 năm. Chỉ có hai trong số 370 bộ xương được kiểm tra cho thấy những dấu hiệu của đánh đập. Những bức tường Jericho đầu tiên (10.500 - 9.300 tuổi) thường được người ta trích dẫn như là bằng chứng về nguồn gốc của chiến tranh nhưng thực tế giờ đã được chứng minh có tác dụng như những con đê chống lụt. Một điều kỳ cục là các bằng chứng mới đây cho rằng cuộc chiến tranh kéo dài bất tận cách đây khoảng 10.000 năm lại bắt đầu từ khu vực Bắc của Irăc hiện nay. Ba khu vực nông nghiệp trong đó cổ nhát là Qennez Dere lại có đầy dấu vết của những cái chùy, mũi tên với các bộ xương và ngôi nhà kiên cố. Như vậy với các bằng chứng này thì đây có thể được coi là nơi khởi nguồn của chiến tranh.
    Các dấu hiệu chiến tranh cách đây khoảng 8.000 năm dọc theo các con đường núi cao ở Thổ Nhĩ Kỳ. Dọc theo sườn núi Anatolien, người ta khai quật được các bàng chứng khảo cổ của cả một ngôi làng được bao bọc bởi một tưởng thành ở Icel. Được xây dựng cách đây 6.300 năm rồi bị tàn phá, ngôi làng được xây dựng bới một nền văn hóa hoàn toàn khác biệt. Dọc theo dòng sông Nit, trong khu vực hiện giờ là Ai Cập, dòng sông đã làm sụt lở các tầng địa chất vào thời điểm cách đây hơn 6.300 năm. Nhưng kể từ thời điểm trên, người ta lại thấy những cái chùy tương tự như đã tìm thấy ở Mesopotamie. Lên tiếp trên thượng nguồn, gần khu vực Khartoum, người ta cũng thấy những chiếc chùy có tuổi còn nhiều hơn 2.000 năm, trước cả thời kỳ xuất hiện nông nghiệp. Tại Trung Á, ở phía Đông biên Caspie, tại các địa điểm còn lại dấu vết của các trại người hái lượm và những khu vực nông nghiệp đầu tiên, người ta không hề thấy có bất cứ dấu hiệu nào của chiến tranh. Nhưng những nơi này có độ tuổi khoảng 5.000 năm. Tại các vùng thượng Pakistan, những người trồng trọt đã bắt đầu xây dựng các bức tường cách đây ít nhất khoảng 6.000 năm.
    Châu Âu và Châu Mỹ
    Tại Châu Âu, không có bất cứ bằng chứng xác thực nào của xung đột trong thời kỳ đồ đá cũ dù rằng nhiều nhà khảo cổ vẫn nghĩ ngược lại. Tuy nhiên, cách đây khoảng 10.500 năm, khi dân số nông nghiệp định cư bắt đầu tăng lên, tại nhiều địa điểm người ta đã tìm thấy dấu hiệu của bạo lực cá nhân và cũng có những dấu hiệu của bạo lực tập thể. Trong thời kỳ này, những dấu hiệu bạo lực cũng được tìm thấy tại một số các địa điểm khai quật khác. Bắt đầu cách đây từ 6.500 năm, tại các địa điểm trước kia là đường hào người ta tìm thấy các bộ xương với những vết thủng hình tròn, cũng có nhiều dấu hiệu của các đợt tàn sát tập thể cả ngôi làng. Vào thời kỳ đồ đồng, 2.000 năm sau đó, chiến tranh và quân đội đã thực sự là đối tượng của việc thờ cúng.
    Vùng Bắc Mỹ có tình hình rối rắm và phức tạp hơn theo từng khu vực khác nhau. Người Kennewick, bộ xương được tìmthấy tại bang Wash-inglon có tuổi khoảng 7.500 - 9.200 năm có dấu hiệu vết thương ở vùng xương chậu. Nhưng đây chỉ là một trường hợp cá biệt. Tại vùng biền Thái Bình Dương, phía Đông Bắc, người ta tìm thấy các dấu vết đánh đập trên các bộ xuống còn sót lại, trong khi những dấu hiệu của xung đột bắt đầu xuất hiện cách đây 4000 năm trong các khu vực phía Bắc trong khi ở phía Nam, những dấu hiệu tương tự chỉ xuất hiện vài trăm năm sau đó. Nhiều bộ xương đã được tìm thấy trong những khu rừng cỏ phía Tây chứng tỏ rằng đã có những dấu hiệu của bạo lực. Trong một số trường hợp, thí dụ như tại một địa điềm ở bang Florida thời điểm cách đây khoảng 7.000 năm, nhiều cá nhân đã liên quan tới các đụng độ bạo lực. Nhưng những khám phá đặc biệt lại thuộc về thời cách đây khoảng 5.000 năm. Tại khu vục Đồng bằng lớn ở phía Nam, trong số 173 bộ xương có tuổi khoảng hơn 2.500 năm, chỉ có một bộ xương có dấu hiệu của sự giết người: một người đàn bà bị đập hai lần vào đầu. Những dấu vết chiến tranh không thể chối cãi được tại khu vực Đông Bắc cách đây ít nhất khoảng 2.000 năm đặc biệt ấn tượng. Gần như 2/3 thậm chí hầu như tất cả trong số 90 xác chết chôn tại một hang động ở phía Nam băng Utah đều đã bị giết chết.
    Một bài báo mới đây nói về địa điểm Oaxaca ở Mêhicô đã khẳng định một cách hùng hồn nguồn gốc của chiến tranh. Tóm lại, nếu chiến tranh là chuyện khá phổ biến thời kỳ tiền sử thì vô vàn nhùng di tích khảo cỏ được tìm thấy phải chứa những dấu vết về nó. Nhưng chúng lại hầu nhu chằng có gì nhiều. Chúng ta đang gặp một trường hợp trong đó "sự vắng mặt của bàng chứng không có nghĩa là có bằng chứng ngoại phạm".
    Nhưng tại sao các dân tộc yên lành trong quá khứ lại bỗng trở thành những xã hội đầy bạo lực. Những nguyên nhân chính xác dường như ít thấy hiển hiện nhưng theo Brian Fugcrson thì có 5 điều kiện tiên quyết liên quan tới việc xuất hiện chiến tranh thời tiền sử. Một trong số đó là giai đoạn chuyển từ phong tục di cư thành định cư không hoàn toàn gắn với nông nghiệp. Thực ra khi một bộ phận dân cư cảm thấy phù hợp với một khu vục nào đó và thấy ở đó có các nguồn cung cáp lương thực thì họ thường ít phải trải qua những thời kỳ khốn khó.
    Một điều kiện tiên quyết khác là sự tăng trưởng nhanh chóng trong nội bộ của một bộ phận dân cư dẫn tới việc cạnh tranh nhau để tiếp cận với nguồn tài nguyên. Tiếp đến là sự phát triển về mặt trật tụ xã hội, một tầng lớp tinh túy xuất hiện cùng với những địch thủ cạnh tranh. Rồi là sự gia tăng thương mại từ xa đến, đặc biệt là việc buôn bán các đồ vật có giá trị: những thứ đáng phải tranh giành nhau. Cuối cùng, việc chiến tranh bắt đầu hoặc gia tăng cường độ chiến tranh thường liên quan tới một thời kỳ biến động lớn về khí hậu khiến các điều kiện cung cấp những vật phàm thiết yếu cho cuộc sống con người bị thay đổi.
    Quan hệ phụ thuộc
    Raytnond C. Kelly, nhà nhân chủng học thuộc Đại học Michigan cùng đã đưa ra một cách xác định nguyên nhân của chiến tranh. Theo ông, một trong những nguyên nhân của chiến tranh có liên quan tới hiện thực của xã hội. Bàng việc phân tích các ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau để so sánh thực tế xã hội của những người hái lượm có chiến tranh với nhũng người cùng thời nhưng sống hòa bình, ông đã nhận thấy rằng trong một vài trường hợp của các xã hội người hái lượm thanh bình, các tổ chức xã hội không vượt quá phạm vi của họ hàng và một hệ thống lỏng lẻo nhưng lại khá linh hoạt. Ngược lại, các xã hội có chiến tranh thường là tập hợp của các tập thể lớn và được xác định như kiểu các phường hội. Sự tồn tại cua các nhóm người tập trung này dẫn tới việc xuất hiện khái niệm lăng mạ tập thể và mong muốn thay thế tập thể.
    Trải qua hàng nghìn năm, chiến tranh giữa các bộ tộc trở thành chuyện thường tình chứ không phải là cá biệt. Khi các điều kiện cho chiến tranh đã trở nên chín mùi thì phần lớn nhất của một dân tộc trong những vùng rộng lớn nhát bỏ đi nơi khác. Sự phát triển này đã phát triển cái ý tưởng gây chiến tranh đối với những nhóm người khác. Thí dụ các Nhà nước cổ sử dụng nhũng kẻ "mọi rợ" ở các khu vực ngoại vi đề mỏ rộng vương quốc của mình và đàm bảo an toàn cho hệ thống thương mại của họ. Cuối cùng, việc bành trướng của người Châu Âu từ sau năm 1492 đã khiến những người bản địa đứng dậy đánh lẫn nhau vì chủ quyền lãnh thổ của họ, bảo vệ những nô lệ và ảnh hưởng thuộc địa của mình. Những nhóm người tị nạn buộc phải trở về nước của họ, những đồ vật chế tạo được đưa vào và các lý do mới của chiến tranh lại xuất hiện (như trong trường họp của người Yanomami). Chính việc phổ biến vũ khí của người Châu Âu đã khiến các cuộc giao tranh trở nên đẫm máu hơn bao giờ hết.
  7. tudieude

    tudieude Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/01/2008
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    nguồn gốc chiến tranh _phần 2
    Quan hệ phụ thuộc
    Raytnond C. Kelly, nhà nhân chủng học thuộc Đại học Michigan cùng đã đưa ra một cách xác định nguyên nhân của chiến tranh. Theo ông, một trong những nguyên nhân của chiến tranh có liên quan tới hiện thực của xã hội. Bàng việc phân tích các ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau để so sánh thực tế xã hội của những người hái lượm có chiến tranh với nhũng người cùng thời nhưng sống hòa bình, ông đã nhận thấy rằng trong một vài trường hợp của các xã hội người hái lượm thanh bình, các tổ chức xã hội không vượt quá phạm vi của họ hàng và một hệ thống lỏng lẻo nhưng lại khá linh hoạt. Ngược lại, các xã hội có chiến tranh thường là tập hợp của các tập thể lớn và được xác định như kiểu các phường hội. Sự tồn tại cua các nhóm người tập trung này dẫn tới việc xuất hiện khái niệm lăng mạ tập thể và mong muốn thay thế tập thể.
    Trải qua hàng nghìn năm, chiến tranh giữa các bộ tộc trở thành chuyện thường tình chứ không phải là cá biệt. Khi các điều kiện cho chiến tranh đã trở nên chín mùi thì phần lớn nhất của một dân tộc trong những vùng rộng lớn nhát bỏ đi nơi khác. Sự phát triển này đã phát triển cái ý tưởng gây chiến tranh đối với những nhóm người khác. Thí dụ các Nhà nước cổ sử dụng nhũng kẻ "mọi rợ" ở các khu vực ngoại vi đề mỏ rộng vương quốc của mình và đàm bảo an toàn cho hệ thống thương mại của họ. Cuối cùng, việc bành trướng của người Châu Âu từ sau năm 1492 đã khiến những người bản địa đứng dậy đánh lẫn nhau vì chủ quyền lãnh thổ của họ, bảo vệ những nô lệ và ảnh hưởng thuộc địa của mình. Những nhóm người tị nạn buộc phải trở về nước của họ, những đồ vật chế tạo được đưa vào và các lý do mới của chiến tranh lại xuất hiện (như trong trường họp của người Yanomami). Chính việc phổ biến vũ khí của người Châu Âu đã khiến các cuộc giao tranh trở nên đẫm máu hơn bao giờ hết.
    Khi bắt đầu nghiên cứu về chiến tranh giữa những năm 1960, Ferguson đã bị ảnh hưởng của tư tưởng có tên là văn hóa sinh học mà người hậu duệ hiện văn đang báo vệ cho tư tưởng này là Steven Leblanc. Áp lực của dân số lên các nguồn cung cấp lương thực (đất đai, thú săn, thú nuôi) trong quá khứ luôn được coi là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc. Trong vài trường hợp, thuyết này tỏ ra đúng. Thí dụ như ở những dân tộc sống dọc theo bờ biển Tây Bắc Thái Bình Dương chẳng hạn. Trước khi dân số của các tộc người này giảm đi vào thế kỷ XIX, nhũng cuộc giao tranh dữ dội đã diễn ra để giành quyền tiếp cận tới các nguồn lương thực cơ bản như các cửa sông nơi có các đàn cá hồi sinh sống. Tuy nhiên, chiến tranh tại nhiều khu vực khác của trái đất không phải hoàn toàn bát nguồn từ lý do lương thực.
    Ngày nay, thuyết này được nhiều chuyên gia sử dụng lại dưới cái tên "an toàn môi trường". Họ giải thích những lý do gây bạo động thời gian gần đây lý do sự khan hiếm các nguồn lương thực gây ra bởi dân số tăng và môi trường bị hủy hoại. Nhưng khi xem xét một số các trường họp xung đột thời gian gần đây ở Chiapas (Mêhicô) hay ở Rwanda, các nhà nghiên cứu lại không ủng hộ thuyết "sinh học" này. Các nhà nhân chủng học lại khám phá ra rằng nếu một nhóm dân nào đó thiếu các nguồn lực cơ bản thì nguyên nhân chính lại là việc phân chia không công bằng các tài nguyên ngay trong nội bộ của xã hội đó. Đây là một nguyên nhân chính trị và kinh tế chứ không phải là do dân số gia tăng về mặt cơ học và các nguồn lương thực thiếu thốn. Ngành nhân chủng học có thể đưa ra một cái nhìn hoàn toàn khác về các thảm họa diệt chủng ở Rwanda hay các cuộc nội chiến tại các nước Balcan. Nghiên cứu các xung đột hiện đại cho thấy các nguyên nhân chiến tranh khá đa dạng: do nhu cầu lương thực, do quan hệ sinh học khu vực thay đổi, do đấu tranh giành quyền lực giữa các chính phủ hay trong một nước hoặc các nguyên nhân khác như tôn giáo và sắc tộc.
    Quyền lợi của các nguyên thủ
    Vả lại, các thòi kỳ khủng hoảng được nhìn nhận khác nhau theo từng nhóm người khác nhau. Các quyết định liên quan tơi nhận thức và quyền lợi của mỗi người khác nhau. Thông thường thì việc nhìn nhận một sự việc gắn bó chặt chẽ với quyền lợi của người xem xét vấn đề. Khi một cuộc xung đột xảy ra và các cuộc tàn sát bắt đầu thì các sắc thái nguyên nhân chiến tranh biện mất. Số phận của một người được quyết định đơn giản bởi tôn giáo, dân tộc hay bộ tộc mà người đó tham gia. Cuộc tàn sát những người Tutsi trong đợt diệt chủng ở Rwanda vào năm 1994 là một ví dụ điển hình. Nhưng những khác biệt này không phải là nguyên nhân của xung đột.
    Theo R. Brian Ferguson, trong nhiều trường hợp (không phải tất cả), quyết định chiến tranh liên quan tới việc theo đuổi quyền lợi riêng của chính những người đưa ra quyết định. Một xung đột có thể liên quan tới các vấn đề lương thực cơ bản nhưng nó cũng có thể nổ ra khi quyền tiếp cận tới nguồn lương thực chỉ được giành riêng cho một nhóm người tinh hoa nào đó. Quyết định chiến tranh còn phụ thuộc vào tính toán hơn thiệt giữa giá phải trả của cuộc chiến với các nguy co tiềm tàng sau đó có đe dọa không chỉ mạng sóng mà cả tài sản của những người tham gia cuộc chiến. Nói một cách nào đó cụ thể hơn thì quyết định liên quan tới vị trí trong bảng thứ hạng chính trị nội bộ: các "đại gia" của Tân Tây Lan là các hoàng thân và tổng thống, các nhà lãnh đạo thường ủng hộ chiến tranh vì chiến tranh tạo điều kiện trở lại cho các lãnh đạo. Tất nhiên, nhưng người muốn thúc đầy chiến tranh không bao giờ đưa ra quyết định bởi chính quyền lợi của mình. Thường điều này liên quan tới mối hiểm nguy và lợi ích của một tập thể. Những người ủng hộ chiến tranh thường luôn đưa ra những giá trị cao cả cần phái bảo vệ, sự cần thiết phải chống trả lại những hành động qủy quái, bảo vệ tôn giáo chính thống hay ủng hộ dân chủ. Chính bằng những lá bài này mà họ tranh thủ được những kẻ còn chần chừ và tạo ra được một quyết tâm đầy cảm tính.
    Hành trình của chiến tranh không chỉ, thậm chí không hoàn toàn bởi các mưu mô bị ổi. Cùng có thể nó được tạo ra bởi như cầu tự điều chỉnh về lương thực của con người. Những người tuyên bố chiến tranh bao giờ cũng tin rằng lý lẽ và sự lựa chọn của mình là đúng. Đó chính là khả năng đã biến con người thành một giống loài hết sức nguy hiểm
  8. tudieude

    tudieude Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/01/2008
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH
    THEO QUAN ÐIỂM PHẬT GIÁO?
    Nhân loại đã quên rằng anh ta có một trái tim. Anh ta quên rằng nếu anh ta đối xử với thế giới một cách tử tế thì thế giới sẽ đối xử tử tế lại với anh ta.
    Chúng ta đang sống trong một thế giới của những sự mâu thuẫn thực sự kinh hoàng. Một mặt, con người sợ chiến tranh; mặt khác, họ chuẩn bị cho chiến tranh với một sự điên cuồng. Họ sinh ra dư thừa, song họ phân phát khổ đau. Thế giới ngày càng trở nên đông đúc, nhưng con người ngày càng trở nên cô lập nhau và ngày càng cảm thấy cô đơn. Nhân loại đang sống gần gũi với nhau trong một đại gia đình, song mỗi cá nhân tìm cho bản thân mình ngày càng nhiều hơn so với trước đây, bị tách biệt khỏi những người láng giềng của anh ta. Sự hiểu biết và thành thật với nhau đang ngày càng thiếu đi trầm trọng. Con người không thể tin tưởng lẫn nhau cho dù người kia có tốt thế nào đi nữa.
    Khi tổ chức Liên Hiệp Quốc được hình thành sau những nỗi kinh hoàng của cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai, những vị đứng đầu của tổ chức họp lại để ký kết một hiến chương đồng ý với lời mở đầu sau đây: ?oBởi vì chính trong tâm của con người mà chiến tranh bắt đầu, chính trong tâm con người mà thành luỹ bảo vệ hòa bình phải được xây dựng. Chính quan điểm này được nhấn mạnh trong bài kệ đầu tiên của Bản Kinh Pháp Cú:
    ?oÝ dẫn đầu các pháp,
    Ý làm chủ, ý tạo;
    Nếu với ý ô nhiễm
    Nói lên hay hành động,
    Khổ não bước theo sau,
    Như xe, chân vật kéo?. (PC-01)
    Niềm tin rằng con đường duy nhất để đánh lại bạo lực là bằng cách áp dụng nhiều quyền lực hơn đã đưa đến sự xung đột vũ trang giữa các quốc gia lớn mạnh với nhau. Và sự cạnh tranh này nhằm tăng cường vũ khí trang bị cho chiến tranh đã mang lại cho nhân loại nguy cơ huỷ diệt hoàn toàn sự sống con người. Nếu chúng ta không làm gì để ngăn chặn hành động đó, thì cuộc chiến kế tiếp sẽ là sự kết thúc của thế giới nơi mà sẽ không có những kẻ chiến thắng và cũng không có nạn nhân của chiến tranh. Chỉ còn lại những xác chết ngổn ngang trên chiến trường.
    ?oHận thù không thể dập tắt bằng hận thù;
    Hận thù có thể dập tắt bằng tình thương?.
    Ðó là lời khuyên của Ðức Phật cho những ai tuyên thuyết một học thuyết về sự đối kháng, sân hận và cho những ai dẫn dắt nhân loại vào chiến tranh và phản loạn chống lại nhau. Nhiều người cho rằng lời khuyên của Ðức Phật là hãy chuyển hóa ác thành thiện là một lời khuyên không thiết thực. Trên thực tế, đó là một phương pháp đúng đắn duy nhất để giải quyết vấn đề. Phương pháp này được một bậc đạo sư vĩ đại giới thiệu thông qua sự chứng nghiệm bản thân của Ngài. Bởi vì chúng ta kêu căng, tự hào và ngã mạn, chúng ta miễn cưỡng để chuyển hoá ác thành thiện, nghĩ rằng quần chúng có thể đối xử chúng ta hèn nhát như mọi người. Thậm chí có một số người nghĩ rằng sự tử tế, từ tâm và lịch thiệp là mang tính đàn bà chứ không mang tính đàn ông! Nhưng tác hại sẽ như thế nào nếu chúng ta giải quyết những vấn đề của chúng ta và mang lại niềm hạnh phúc và an lạc cho mọi người bằng cách chấp nhận phương pháp đầy tính văn hóa này và bằng cách hy sinh sự kiêu căng ngã mạn đầy sự hiểm nguy của chúng ta?
    Tinh thần khoan dung độ lượng phải được thực hành nếu hoà bình phải đến với nhân loại trên trái đất này. Quyền lực và sự ép buộc sẽ chỉ tạo ra thái độ không khoan dung. Ðể thiết lập hoà bình và hài hoà giữa nhân loại, mỗi một người trước tiên phải học tập phương pháp thực hành nhằm đưa đến sự chấm dứt của tham lam, sân hận và si mê, nguồn gốc của tất cả các quyền lực đầy tội lỗi. Nếu nhân loại có thể diệt tận tất cả những thế lực xấu xa này thì khoan dung và hoà bình sẽ xuất hiện nơi thế giới bất an này.
    Ngày nay, chúng ta là những người đi theo con đường của Ðức Phật từ bi nhất, cho nên chúng ta phải có một nhiệm vụ đặc biệt là hãy cùng nhau hoạt động nhằm thiết lập nền hoà bình cho thế giới và chỉ cho những người khác một tấm gương để noi theo bằng cách noi theo lời khuyên của bậc đạo sư:
    ?oMọi người sợ hình phạt;
    Mọi người sợ tử vong;
    Lấy mình làm ví dụ;
    Không giết không bảo giết?.
    (Pháp Cú ?"129)
    Hoà bình có thể luôn luôn đạt được, nhưng phương pháp để đạt được hoà bình không chỉ bằng cách cầu nguyện và lễ nghi. Hoà bình là kết quả của sự hài hoà giữa con người với chúng sanh đồng loại và môi trường sống xung quanh. Nền hoà bình mà chúng ta cố đưa ra giới thiệu bằng bạo lực thì không phải là một nền hoà bình vĩnh viễn lâu dài. Ðó là một khoảng trung gian giữa những cuộc xung đột của tham ái ích kỷ và những điều kiện thế gian.
    Hoà bình không thể tồn tại trên thế giới này mà không có việc thực hành hạnh khoan dung. Ðể khoan dung, độ lượng, chúng ta không nên cho phép trạng thái tâm sân hận và ganh tỵ ngự trị trong tâm chúng ta. Ðức Phật dạy: ?oKẻ thù hại kẻ thù; oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân?. PC-42)
    Phật giáo là một tôn giáo khoan dung bởi vì Phật giáo tuyên thuyết một cuộc sống tự kiềm chế. Phật giáo dạy một cuộc sống được căn cứ vào không chỉ những giới luật mà còn căn cứ vào những nguyên lý. Phật giáo không bao giờ hành quyết hay ngược đãi đối với những ai mang trong mình một tín ngưỡng khác biệt. Giáo lý như thế không cần thiết đối với bất kỳ một ai phải gán cho chính anh ta một nhãn hiệu ?~Phật tử?T để thực hành những nguyên lý cao thượng của tôn giáo này.
    Thế gian như một tấm gương và nếu chúng ta nhìn vào tấm gương với một gương mặt mỉm cười, thì chúng ta có thể nhìn thấy chân diện mục của chính mình, một gương mặt tươi cười tuyệt mỹ. Trái lại, nếu chúng ta nhìn vào tấm gương với một gương mặt dài thòng thì nhất định chúng ta sẽ nhìn thấy sự xấu xa của gương mặt. Tương tự như vậy, nếu chúng ta đối xử với thế giới tử tế, nhã nhặn thì thế giới chắc chắn sẽ đối xử lại chúng ta một cách tử tế. Hãy học hạnh an lạc, hoà bình nơi chính bản thân mình và thế giới cũng sẽ hoà bình với chúng ta.
    Tâm con người được ban bố cho quá nhiều sự giả dối về bản ngã đến mức độ anh ta không muốn chấp nhận những yếu điểm của mình. Anh ta sẽ cố tìm ra một lý do nào đó nhằm thoả mãn hành động của anh ta và tạo ra một sự vô minh mà anh ta không nhìn thấy. Nếu một con người thực sự muốn được tự do giải thoát, thì anh ta phải can đảm chấp nhận những yếu điểm của mình. Ðức Phật dạy: ?oLỗi người khác thì dễ nhìn thấy còn lỗi của chính mình thì thực sự khó nhìn thấy?.

  9. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    @Dakt: Bạn nên tránh những ngữ nhạy cảm liên quan đến chế độ chính trị ; đặc biệt là từ "+ sản"; nếu không hệ thống tự động kiểm tra của ttvn sẽ chặn không cho bạn post bài trong box nữa!
    @member: Chủ đề mà chủ topic nêu là nguồn ngốc TÂM LÝ (vậy nên bàn về nguyên nhân TÂM LÝ làm trọng tâm)
    Được mrking_hoang sửa chữa / chuyển vào 16:56 ngày 30/01/2008

Chia sẻ trang này