1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nguyên âm dài ngắn trong tiếng Việt

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Liv, 27/04/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hinattvn

    hinattvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/07/2008
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bác Restless! Em đã đọc đc mấy cái bác dẫn ra. Hay ghê nhưng cũng còn nhiều cái khó hiểu (chắc chuyên môn quá!) Đúng là phải xét cái nguyên âm dài ngắn này nằm trong vần chứ o thể tách riêng chúng ra được, như Â, Ă đấy, đứng một mình thì chúng còn không thể phát âm được nữa.
    Theo bảng nguyên âm mà bác nào đã đưa ra ở trên đó thì
    - Các nguyên âm dòng trước dễ đi với âm cuối ngạc mềm (mặt lưỡi) để có inh/ích, ênh/ếch, enh/éch (tức: anh/ách); rất khó đi với âm cuối ngạc cứng (gốc lưỡi) nên chỉ tồn tại hiếm hoi ở nguyên âm có độ mở lớn là eng/éc
    - Các nguyên âm dòng sau CŨNG dễ đi với âm cuối ngạc mềm (mặt lưỡi) để có ung/úc, ông/ốc, ong/óc (mặc dù viết là -ng/-c nhưng thực tế phát âm cũng giống như -nh/-ch); rất khó đi với âm cuối ngạc cứng (gốc lưỡi) nên chỉ tồn tại hiếm hoi ở nguyên âm có độ mở lớn là oong/oóc
    - Các nguyên âm dòng giữa dễ đi với âm cuối ngạc cứng (gốc/cuối lưỡi) để có ưng/ức,ơng/ớc(không tồn tại), âng/ấc, ang/ác, ăng/ắc; không đi với âm cuối ngạc mềm.
    - Các nguyên âm đôi đều đi với âm cuối ngạc cứng để có iêng/iếc, ương/ước, uông/uốc.
    Đặc điểm dễ thấy khi phân biệt âm cuối ngạc cứng là có thể giữ miệng mở lâu hơn sau khi kết thúc phát âm 1 tiếng; trong khi với âm cuối ngạc mềm thì miệng phải ngậm lại ngay.
  2. restless

    restless Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/04/2007
    Bài viết:
    592
    Đã được thích:
    0
    Các diễn giải của bạn đã rõ ràng hơn tôi rát nhiều về các phương án kết hợp nguyên âm và phụ âm cuối. Tôi chỉ sửa lại về quy ước ngạc cứng và ngạc mềm của bạn đã bị nhầm lần về cấu âm
    -Âm ngạc cứng: là nh/ch (ɲ/c) khi phát âm ta dùng luồng hơi bật ra qua quá trình đóng mở giữa mặt lưỡi trước tiếp xúc với phần ngạc cứng cố định (vòm cứng)
    - Âm ngạc mềm: ng/k ( </k) phát âm sử dụng gốc gưỡi tiếp xúc vứi phần ngạc phía sau mềm (lưỡi con-vòm mềm)
  3. wuwudao

    wuwudao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/04/2009
    Bài viết:
    93
    Đã được thích:
    0
    Từ những nhận xét trên đây, bạn hinattvn có thấy rằng tiếng Việt khi nói thì rõ ràng, dứt khoát, đâu ra đấy nhưng khi viết bằng "chữ quốc ngữ" - là loại chữ ghi âm - thì lại trở nên rắc rối nhập nhằng với những qui tắc khiên cưỡng, gượng gạo không ?
    "Chữ quốc ngữ" là chữ ghi âm nhưng nó lại không tuân thủ nghiêm ngặt các qui tắc ghi âm nên làm phát sinh ra nhiều phiền phức cho việc học hiểu cũng như sử dụng trong cuộc sống.
    Bạn hinattvn biết nhiều thứ tiếng, có thể đối chiếu với tiếng Việt để tìm hiểu kĩ hơn bản chất vấn đề được không? Rất mong bạn chia xẻ thêm những nhận xét của bạn.
    Trân trọng.
  4. hinattvn

    hinattvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/07/2008
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0
    Vâng! Em cũng thấy tiếng nói thì "chuẩn" hơn chữ viết, vì nó là cái có trước, cái chủ đạo mà; còn chữ viết - cái chính là hình thức thể hiện của tiếng nói. Với một số (có giới hạn) các kí hiệu (hình ảnh ngắn gọn, súc tích) thì không thể thể hiện hết được cái phong phú của tiếng nói. Chắc là kí hiệu phiên âm quốc tế cũng vậy! Nhưng em cũng thấy rằng chữ quốc ngữ là thứ chữ phù hợp nhất cho tiếng Việt hiện nay, tất nhiên nó chưa phải là tất cả và cuối cùng, có thể mai sau có thứ chữ chuẩn hơn chăng!
    Chữ quốc ngữ, mặc dù có một số điểm cần chỉnh cho hay hơn nhưng cơ bản nó khá hợp lí, có quy tắc chứ không đến nỗi: rắc rối nhập nhằng với những qui tắc khiên cưỡng, gượng gạo - đâu bác à! Bác có thể nói rõ hơn không!?
    Về cái bảng nguyên âm (âm chính) của tiếng Việt, em thấy nó rất hài hoà, cân đối và có quy tắc đấy chứ! Chữ viết thể hiện cho chúng cũng khá khít! Em chưa thấy ở các thứ tiếng khác có các nguyên âm được "xây dựng" một cách hệ thống như trong tiếng Việt. Chẳng hạn
    - Số lượng chúng khá phong phú, không quá ít như tiếng Nhật, Hàn, TQuốc, Nga..; nhưng cũng không quá nhiều như tiếng Anh, Pháp (tuy nhiều nhưng lại khó phát âm, khó phân biệt). Mà trong tiếng Việt thì hầu hết chúng dễ phát âm (miệng dễ mở, ít chuyển đổi, phát âm rõ), hầu hết là những âm chính trong phiên âm quốc tế, trùng với nhiều thứ tiếng khác trên thế giới (như I, Ê, E, U, O, Ô, A, Ơ, còn Ư, Ă, Â, IÊ, ƯƠ, UÔ thì ít hơn)
    - Chúng rải đều ra trên các hàng các cột theo vị trí của lưỡi, độ mở của miệng, hình dáng của môi (những tiêu chí chính nhất để phân loại nguyên âm). Nói chung, chúng sắp xếp quá cân đối!
    - Tính hệ thống (mảng) rất cao. Khi xét đến sự kết hợp để tạo vần, tạo từ thì khả năng của chúng cái chung là như nhau (đi với âm đầu, âm cuối, dấu, âm đệm theo trật từ, hàng hàng lớp lớp). Nhưng mỗi 1 âm chính ở 1 ô trên bảng nguyên âm thì cũng có những khả năng kết hợp riêng, đặc thù với vị trí đắc địa của riêng nó; không những vậy mỗi cái lại nằm trong mối quan hệ với những cái cùng hàng cùng cột khác. Chẳng hạn các nguyên âm cùng dòng trước thì đều phát âm không tròn môi, độ mở miệng tăng dần từ nhỏ đến lớn. Khi kết hợp với âm đệm /w/ khả năng của chúng là như nhau, kết hợp với âm cuối /w/ cũng vậy và tất nhiên không kết hợp được với âm cuối /j/ thì cũng như nhau luôn. E không hề bất quy tắc mà chỉ đặc biệt do vị trí của nó nên dù cùng dòng với I, Ê, IÊ nhưng độ mở lớn nhất nên âm đệm dùng O (cũng độ mở lớn)=&gt;OE, trong khi đám còn lại dùng U =&gt; UY, UYÊ/UYA, UÊ. Tương tự với âm cuối sẽ có EO, còn đám kia sẽ là IU, IÊU, ÊU. Hay cùng hàng với I là U, Ư vì chúng cùng có độ mở miệng nhỏ. Nếu I kết hợp với âm liền kề với nó là Ê để tạo nguyên âm đôi là IÊ thì U, Ư cũng tương tự với UÔ, ƯƠ. Khi trong vần không có âm cuối thì miệng có thể mở rộng và kéo dài hơn đến A, thế nên có IÊ=&gt;IA thì cũng có UÔ=&gt;UA, ƯƠ=&gt;ƯA. Còn nét riêng thì I dòng trước không tròn môi nên dùng với âm đệm có UY, U dòng sau tròn môi sẽ không thể có UU, Ư dòng sau không tròn môi (trung gian) cũng có thể tạo UƯ nhưng khó phát âm nên không dùng. Tương tự với âm cuối /W/ ta có IU, ƯU mà không có UU(vì thế của /W/ gần U); với âm cuối /J/ ta có ƯI, UI mà không có II(vì thế của /J/ gần với I).
    - Qua phân tích trên bằng việc dùng chính các chữ cái làm ví dụ cũng có thể thấy cách dùng chữ để thể hiện cho các âm chính tiếng Việt khá quy tắc và hợp lí. Hơn nữa nếu ta để ý một chút về hình dạng các chữ cái với phát âm của nó ta cũng thấy đôi chút liên hệ: miệng phát âm tròn môi nhất thì thể hiện bằng chữ O là quá sát rồi còn gì. Ô cũng tròn nhưng bắt đầu nhô môi (chụm miệng theo chiều dọc). U thì chúm chụm nhất (nếu kí hiệu như hình cái bát úp thì thấy có vẻ chuẩn hơn?). Cả U, Ô, O đều cùng dòng sau tròn môi, tư thế miệng ưu tiên theo chiều dọc nhiều hơn nên đều có nét cong, các nét đường dọc thì dài hơn các nét đường ngang. Ngược lại các âm chính của dòng trước như I, Ê, E do không tròn môi nên nét chữ không hề có cong, tư thế miệng ưu tiên theo chiều ngang( nhỏ, hẹp, bè môi ra) thế nên cả I, E, Ê đều có nhiều nét ngang và nổi bật hơn so với nét dọc (chú ý là I đánh máy khác với I viết hoa bằng viết). Còn dòng giữa thì sao? Do cũng là dòng sau nên kí hiệu cũng khá gần Ư~&gt;U, Ơ~&gt;O, nhưng do phát âm có tính chất ứ đọng, hàm môi dưới hơi đưa về phía trước nên thêm cái râu (rõ ràng là có mục đích, tuy chưa hoàn toàn thể hiện chính xác). Đặc biệt tính chất ứ đọng giảm dần và mất hẳn khi đi xuống A, tại A thì độ mở miệng (rạng, há, ngoác) cũng là lớn nhất (vừa theo chiều ngang, vừa theo chiều dọc). Kí hiệu âm A với 1 nét ngang và 2 nét chéo rạng (háng), giang rộng ra khá thú vị? (Nếu kí hiệu A như hình vuông/chữ nhật mà bỏ đi cạnh dưới thì thấy cũng hay?)
    . Ă gần giống A nhưng hơi hắt hàm môi trên lên một tí, phát âm có vẻ ngắn và khó nhọc hơn A, thảo nào có thêm dấu á!
    .....
    Em thử sắp xếp bảng nguyên âm lại như hình dưới, các bác xem thử thế nào!
    Thực sự thì em không rành nhiều thứ tiếng như bác nghĩ vậy đâu, hầu hết chỉ vỡ lòng hoặc do có liên quan đến việc so sánh với tiếng Việt nên để mắt đến nó hơn một chút. Vì chơi tay ngang nên có khi một số từ khái niệm, thuật ngữ của ngôn ngữ học em dùng không chuẩn. Chẳng hạn bài trên về ngạc cứng/ngạc mềm bác retless sửa rất đúng.[​IMG]
  5. wuwudao

    wuwudao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/04/2009
    Bài viết:
    93
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn bạn hinattvn đã trao đổi í kiến.
    Một âm /k/ mà khi thì viết "c", khi thì viết "k", khi thì viết "q" (con kéc què).
    Âm /d/ thì không viết bằng chữ "d" có sẵn trong bảng chữ cái phổ thông mà lại chế ra chữ "đ" không giống ai.
    Rồi âm /z/ thì lại viết bằng chữ "d" hay hai chữ "gi", có khi còn bỏ bớt một chữ "i" hay đổi thành chữ "y" khi hai chữ "i" đi liền nhau (giáo dục, giết, diệt, giặt gỵa).
    Âm /f/ thì viết bằng hai chữ "ph".
    Âm /g/ thì viết bằng "g" hoặc "gh" (gọn ghẽ).
    Âm /w/ thì khi viết "o" khi viết "u" (hoạn quan, hoa huệ).
    Âm /i/ khi viết "i" khi viết "y" (chí lý, lý trí).
    Âm /e/ khi viết "e" khi viết "a" (anh em).
    Dấu thanh khi đặt trên hoặc dưới chữ trước, khi đặt trên hoặc dưới chữ sau trong trong các "nguyên âm kép" (hiểm địa), (người ngựa), (cuối mùa).
    Dùng chung hai chữ "ng" cho nhóm các vần ưng, âng, ang, ăng và nhóm các vần ung, ông ong là không hợp lí vì sẽ gây hiểu lầm là âm cuối trong các vần này là giống nhau.
    Dùng chung dấu "sắc" cho các vần ám và áp, án và át, áng và ác hay dùng chung dấu "nặng" cho các vần ạm và ạp, ạn và ạt ạng và ạc cũng vậy.
    ......
    Vì không xem được hình đính kèm nên không biết bạn sắp xếp lại bảng nguyên âm như thế nào. Bạn có thể gửi lại hình khác hoặc bạn nào có cách gì khác vui lòng giúp được không?
    Cảm ơn bạn hinattvn và các bạn rất nhiều.
    Được wuwudao sửa chữa / chuyển vào 09:04 ngày 18/06/2009
  6. hinattvn

    hinattvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/07/2008
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0
    Vâng, những cái bác đưa ra có thể xem là vấn đề thường xuyên của tiếng Việt; mỗi chúng ta, ít nhiều chắc đã có lần thắc mắc về nó rồi! Thế nên chúng ta sẽ không mổ xẻ gì nhiều nữa, có thể tóm tắt ngắn gọn thế này:
    - Chữ ''c'', ''k'', ''q'' đều viết cho âm /k/; về cơ bản là dùng chữ ''c''; nhưng ''c'' đi với vần bắt đầu bằng ''i'', ''e'' thì ci, ce =&gt; ki, ke (vd: cí=&gt;kí, cé=&gt;ké, cẹo=&gt;kẹo, ciếm=&gt;kiếm,...); và ''c'' đi với vần có âm đệm /w/ thì cu, co =&gt; qu (vd: coa=&gt;qua, cuy=&gt;quy, cuyết=&gt;quyết, cuơ=&gt;quơ...).
    - Chữ ''g'', ''gh'' đều viết cho âm /g/ về cơ bản là dùng ''g''; khi ''g'' đi với vần bắt đầu bằng ''i'', ''e'' thì gi, ge =&gt; ghi, ghe (vd: gì=&gt;ghì, gim=&gt;ghim, gét=&gt;ghét,...). Sở dĩ /k/ và /g/ có biến thể tí ít là do ảnh hưởng mạnh mẽ của chữ cái Latin đối với các ngôn ngữ trên thế giới chứ không riêng gì VN. Trong rất nhiều thứ tiếng thì ci, ce hay phát âm thành xi, xe; còn gi, ge thì thành ji, je.
    - Chữ ''o'', ''u'' ở vị trí âm đệm đều viết cho âm /w/; về cơ bản dùng ''u'' nhưng dùng ''o'' cho các âm chính có độ mở lớn như a, ă, e (vd: oa, oăn, oeo, hoa, xoắn, loè,...). Cái này là dựa vào đặc điểm nguyên âm của tiếng Việt.
    - Chữ ''i'', ''y'' đều viết cho nguyên âm /i/, về cơ bản là dùng chữ ''i''; trong những nhưng âm tiết có âm đầu là /?/ thì do phân biệt từ gốc Hán-Việt mà dùng chữ ''y'', còn gốc Việt thì dùng chữ ''i'' (vd: ì (ạch), ý (nghĩa), ỉa, yến,...); nếu trong âm tiết có âm đệm /w/ thì /w/+/i/=&gt;uy, tránh nhầm lẫn với /u/+/j/=&gt;ui (vd: uy, huy, quyên, khuya...). ''i'' và ''y'' cũng viết cho âm cuối /j/, cơ bản là dùng chữ ''i'', chỉ có ăi=&gt;ay, âi=&gt;ây). Sở dĩ người ta hay lộn xộn vụ viết ''i'' với
    ''y'' là do các cơ quan nhà nước thì chỉ mới khuyến khích, chưa ra luật thống nhất, bắt buộc; còn dân thì nhiều khi chưa nắm rõ và dùng tuỳ tiện theo ý thích.
    - Vụ dùng "ph" cho /f/, ''đ'' cho /d/, ''d'' cho /z1/, ''gi'' cho /z2/ hoàn toàn là quy định của mỗi ngôn ngữ, tiếng nào thì dùng theo ý nghĩa của tiếng đó (vd âm /k/ tiếng Việt thường viết bằng ''c'', tiếng Anh thường viết bằng ''k'', tiếng Hoa thường viết bằng ''g''; hay như cùng là chữ Latin ''e'' nhưng tiếng Việt thì phát âm là /e/, tiếng Nhật lại /ê/, tiếng Hoa lại /ưa/, /e/, /ê/, tiếng Anh lại /i/, /ơ/, /ê/,...). Nếu ta chỉ biết tiếng Việt thì ta cũng sẽ không thắc mắc cái này.
    - Trong chữ "anh" thì âm chính không phải là /a/, nhưng cũng không phải là /e/ hoàn toàn mà là /e/ lai với /a/. Cũng như ''gi'' với ''d'' nếu phân tích kĩ thì chúng viết cho 2 âm hơi khác nhau một tí (rõ ràng chúng trong tiếng địa phương ở một số vùng ở miền Bắc, miền Trung khác hẳn nhau, thậm chí tiếng địa phương ở miền Nam có khi còn đọc lệch hẳn qua âm /y/ như trong các từ Yali, NewYork, Yukos); ngày nay do giao lưu vùng miền và quốc tế nên 2 âm này đang ngày càng gom về làm 1. ''e''-''a'', ''gi''-''d'' chỉ là 2 trong số nhiều trường hợp (còn của nhiều ngôn ngữ khác) mà đến kí hiệu phiên âm quốc tế cũng không thể hiện chính xác được. Kí hiệu phiên âm quốc tế còn vậy thì với 26 chữ cái, trong đó chỉ có 5-6 chữ dùng cho nguyên âm thì làm sao thể hiện hết-đúng-khít phát âm của hàng trăm thứ tiếng trên thế giới!
    - Với nguyên âm đôi trong vần không có âm cuối thì dấu đánh trên nguyên âm đầu là do âm thứ 2 phải đóng vai trò khép lại phát âm của tiếng đó, do đó độ dài phát âm của âm thứ 1 thì hơn âm thứ 2 =&gt; dấu phải đánh trên nó (vd: mía, mưa, mua...). Với nguyên âm đôi trong vần có âm cuối thì dấu đánh trên nguyên âm thứ 2 là do đã có âm cuối để khép lại phát âm của tiếng đó, khi phát âm thì âm thứ 1 lướt nhanh để đi được âm thứ 2 =&gt; dâu phải đánh trên âm thứ 2. Cái này cũng do đặc điểm của phát âm tiếng Việt. Chữ viết phản ánh lại tiếng nói mà!
    - Tiếng Việt có 6 dấu gồm ngang (bằng, cao, dài, không gãy), huyền (bằng, thấp, dài, không gãy), hỏi (trắc, cao, dài, gãy), ngã (trắc, thấp, dài, gãy), sắc (trắc, cao, ngắn, không gãy), nặng (trắc, thấp, ngắn, không gãy). Cơ bản thì 6 dấu thể hiện trong tất cả các tiếng (âm tiết) nhưng với những tiếng có âm cuối /t/, /p/ và /k/ thì chỉ có dấu sắc và nặng. Khác với /n/, /m/, /ng/ là các âm cuối tắc-vang (có thể ngân nga, nấn ná, vang vọng thêm một ít trong miệng khi kết thúc phát âm 1 tiếng) thì /t/, /p/, /k/ là các âm cuối tắc-ồn (làm tiếng kết thúc phát âm rất ngắn, nhanh). Do đó chúng chỉ dễ đi với các dấu (thanh) ngắn là sắc (cao) và nặng (thấp). Cái này cũng do đặc điểm của tiếng Việt.
    Những cái gọi là "rắc rối" cho chữ viết và lời nói tiếng Việt cũng đâu có bao nhiêu, nếu một mai người ta chỉnh lại thì nó còn tuyệt hơn nữa; so với những thứ tiếng cùng dùng hệ Latin như Anh, Pháp và ngay cả Hoa-pinyin thì quả là một trời một vực. (chẳng hạn khi học tiếng Anh, hầu hết các từ đều phải tra phiên âm (còn phải ghi phiên âm bên cạnh từ), có khi tra hàng chục lần mà vẫn phát âm không chuẩn, lâu mà không dùng là lại phải tra lại. Tiếng Hoa-pinyin thì đỡ hơn, còn tiếng Nhật thì lại đỡ hơn hẳn.). Tóm lại là không thể có thứ chữ nào đơn giản với chừng đó kí hiệu mà thể hiện được cái tỉ lệ 1:1 với tiếng nói thế nên "Chữ quốc ngữ, mặc dù có một số điểm cần chỉnh cho hay hơn nhưng cơ bản nó khá hợp lí, có quy tắc".
    Về cái hình tam giác nguyên âm tiếng Việt, em thấy nó chỉ ra rõ hơn so với cái bảng theo hàng cột. Có lẽ do diễn đàn hay sao ấy mà lúc thì thấy được nó lúc thì chỉ là cái khung.
  7. vomosu

    vomosu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/02/2007
    Bài viết:
    124
    Đã được thích:
    0
    Có quan điểm của các nhà ngữ âm học trong vấn đề ong - oong, ông - ôông là tiếng Việt ghép vần sai.
    Ghép vần: o - ngờ - ong. Nhưng thuận mồm thì là o - ngờ - oong. Tức là vần oong là gồm o và ng
    Còn vần ong như tiếng Việt ghép âm hiện tại, phân tích ra thì là a-u - ngờ - ong
  8. Liv

    Liv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2003
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    Điều này thì đúng, chữ Quốc ngữ còn nhiều điều bất cập, tại hạ không dám không đồng ý. Có điều thật ra nếu xem xét âm vị học Quốc ngữ với âm vị học của các ngôn ngữ Nam Âu thì chúng ta sẽ thấy có nhiều điểm tương tự và hợp lí, tuy không phải là tất cả.
    Ví dụ: chữ Q được sử dụng phổ biến ở các ngôn ngữ chính Nam Âu, chữ Quốc Ngữ cũng kế thừa từ đó.
    C trong tiếng Ý, khi đi chung với A, U, O thì đọc là /k/, nhưng khi đi với I, E thì sẽ đọc như "ch" trong tiếng Việt, vì thế mới thay bằng K để khỏi nhầm lẫn. Có điều tại hạ không hiểu tại sao lại phải có chữ "K" làm gì, vì các cụ truyền giáo hoàn toàn có thể viết như tiếng Ý, ví dụ CI (đọc là "chi") và CHI (đọc là "ki").
    Cách dùng chữ D thì đúng là khiến tại hạ ghét nhất trong bảng chữ cái Quốc ngữ . Xem lại thì tiếng Ý có GL, tiếng Castillian có LL, và tiếng Bồ (gần nhất với chữ Quốc ngữ) có LH để diễn tả một âm tương tự, nhiều khi tại hạ thấy thay D = LH là tiện, và có thể vứt Đ đi cho rồi.
    Còn "d" (lh :D) với "gi" thì người miền Nam nói rất khác, chỉ trong một số tiếng Bắc thì đọc nhập chung mà thôi. Vậy không thể viết nhập chung được.
    Về PH thì tại hạ nghe một lối giải thích là tiếng Việt thời thế kỷ 17 không có âm /f/ như ngày nay, mà âm tương đương đó là một âm P bật hơi nên được viết là PH thì hợp lí. Nhưng tại hạ cũng thắc mắc, tiếng Việt làm gì có âm /p/ đâu, vậy thì chữ P dùng làm gì ngoại trừ sử dụng trong digraph PH?
    Còn G với GH thì nguyên nhân có lẽ cũng bắt nguồn từ âm vị học tiếng Ý, tương tự với C đi với I, E mà tại hạ vừa trình bày trên.
    /w/ được viết thành U hoặc O cũng là kế thừa âm vị học vùng Nam Âu.
    Sự lẫn lộn I và Y là chuyện thời nay, do chúng ta sử dụng quá cẩu thả, chứ không phải do lỗi của chữ Quốc ngữ. Trước đây Y chỉ dùng trong những trường hợp xác định: ở đầu chữ hoặc sau bán nguyên âm (kế thừa âm vị học Nam Âu) hoặc dùng để phân biệt "uy" với "ui". Nhà nước đang cố gắng chỉnh lí lại song chưa có mấy ảnh hưởng.
    Nói tóm lại, tại hạ chỉ ghét nhất cách dùng chữ D, ngoài ra chữ Quốc ngữ nói chung cũng không đến nỗi nào :D
  9. Liv

    Liv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2003
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    Nhân tiện có topic về tiếng Việt, tại hạ tranh thủ thắc mắc luôn, khỏi mở thêm topic khác kẻo phiền:
    Một số âm không gặp trong tiếng Việt (tại hạ chỉ tìm kiếm mà không thấy, nếu ai tìm ra từ nào có những âm này thì sửa chữa bổ sung cho cái kiến thức thủng lỗ chỗ của tại hạ).
    -ưm ("hừm" không biết có phải là từ đúng không nữa)
    -ưn
    -ưp (nhưng -ưt và -ưc thì có :D)
    Hiếm gặp:
    -uơ (như trong "thuở"). Thậm chí trong bộ gõ unikey của tại hạ mỗi lần viết "uở" là nó tự động sửa thành "ươ", ngoại trừ khi đi với Q.
    -ưi ("ngửi", "cửi", ?).
  10. lehongphu

    lehongphu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/02/2002
    Bài viết:
    1.581
    Đã được thích:
    0
    tiếng Việt làm gì có âm /p/ đâu ==&gt; các hạ có gì chứng minh điều này không? Có chữ cái P thì chữ cái đó không phát âm được à?
    Người Kinh còn dùng chữ quốc ngữ để ghi lại âm của những dân tộc khác (cũng là người Việt Nam) nữa đấy, thế những từ như "Pác bó", "Pleiku", "hoa Pơ-lang",.... thì các hạ đọc./phát âm như thế nào?
    Về chữ "D" của các hạ, cứ thử viết "Nguyễn Tấn LLũng" / "Nguyễn Tấn LHũng" rồi đưa cho một người Việt bất kỳ xem người ta đọc thành gì ?
    Về cái vần "ưi" mà các hạ cho là "hiếm gặp" thì xin giới thiệu 1 từ "thường gặp" (kể cả ngoài đời lẫn trên ttvnol này) là ...."chửi" (ngoài ví dụ ngửi, cửi của các hạ)
    Tiện đây cũng xin hỏi luôn, trong câu "chữ Quốc ngữ còn nhiều điều bất cập" thì "bất cập" nghĩa là gì vậy? Tôi không có từ điển tiếng Việt nên thử tra cả Từ điển Việt - Anh & Việt - Pháp đều không thấy có từ này.

Chia sẻ trang này