1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nguyễn Huy Thiệp-Trò chuyện với hoa thủy tiên

Chủ đề trong 'Văn học' bởi hoangvan09, 07/04/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Zdreamer

    Zdreamer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2003
    Bài viết:
    2.582
    Đã được thích:
    1
    Lê Minh
    Có tật (thì cứ việc) giật mình
    Thêm một góp ý nhân đọc Trò chuyện với hoa thủy tiên? của Nguyễn Huy Thiệp
    Sự thoá mạ tầm thường, trẻ con và thiếu văn hóa trong lối viết "theo đơn đặt hàng" của nhà thơ Trần Mạnh Hảo nhằm vào nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sau bài viết nói trên đã rõ ràng đến mức chúng ta không cần bàn thêm ở đây. Dưới đây tôi chỉ xin góp thêm vài lời của một độc giả hết sức quan tâm đến văn thơ Việt Nam, nhằm vào một hai điểm gây tranh cãi trong bài của Thiệp cùng những suy nghĩ liên quan khác.
    Trước hết là từ "vô học". Ông Nguyễn Huy Thiệp dùng từ này theo cung cách rất trào lộng và thật đắt. Người đọc nào am hiểu thì chắc chắn sẽ "nắm" được ý ông muốn nói là đa số các nhà văn và nhà thơ cùng giới phê bình Việt Nam đã không được đào tạo theo bài bản trường lớp - khẳng định thẳng thắn một sự thật rằng ở Việt Nam xưa nay chưa thực sự xác lập và phát triển đựơc một trường phái riêng mang tính học thuật cho công tác đào tạo văn, thơ và phê bình. Nhiều nhà văn lớn quả đã phàn nàn rằng trường viết văn Nguyễn Du đựơc biết đến như một thứ lò võ gia truyền, có lớp người đi trước truyền ngón nghề cho người đi sau, ít thấy những kinh nghiệm và ngón nghề được lý thuyết hoá theo lối bài bản, rồi nhân đại trà cho lớp văn sĩ mới vào nghề sau này. Tôi chắc rằng ông Thiệp nói như vậy khiến nhiều người giật mình, dù là người "có tật" hay không "có tật", vì nó phản ảnh đúng thực tế.
    Và thực tế đó đúng đến mức ta phải tự hỏi xem có nên nặng nề trách ông Thiệp về cái chuyện phần trăm 80 hay 50. Hay quí vị chỉ nên cười, vỗ vai Nguyễn Huy Thiệp và nói vui: "Ông làm nhà văn mà cũng ra vẻ kế toán chủ nghĩa gớm, những là phần trăm?? Vả lại ông đã già lắm đâu mà có vẻ "vơ đũa cả nắm" đến thế?". Nói rồi, nên bỏ qua.
    Tôi cũng hoàn toàn thấu hiểu tính thiết yếu của cảm hứng cho nghề viết văn và thơ. Cảm hứng là điều gì đó luôn nằm ngoài, nằm trên, nằm cao hơn các luật, lệ, "định hướng" hay "chỉ đạo"? Ngoại ngữ, vi tính, ghi âm, thư viện chỉ là phương tiện cho nhà văn và nhà thơ. Thực ra không có những thứ đó thì họ vẫn hoàn toàn có thể sáng tác, thậm chí trong nhiều trường hợp, họ sáng tác rất hay vì chính độc giả sẽ là người uốn nắn cho họ, nếu họ có thể tạo dựng được độc giả của chính họ.
    Tôi nghĩ những tác phẩm hay thường làm người đọc rung động, thấy được trong đó bản thân, cuộc sống, xã hội quanh họ, bè bạn và những người gần gũi. Những hứa hẹn hoa mỹ, những bồng lai tiên cảnh, những điều phóng đại, viển vông và phù phiếm, hay những lối viết một chiều khác? rồi sẽ không còn chỗ đứng trong văn học và thi ca của Việt Nam. Chúng có sân chơi mới: trong các quảng cáo thương mại và trong các vận động tranh cử chính trị.
    Tôi cũng tin rằng đã là nhà văn và nhà thơ ắt là phải là người thật thà, trung thực và nói điều trung thực, dù có nói theo cách nào chăng nữa - đó chính là nền tảng cho cảm hứng sáng tác. Một người nói dối thì sẽ tiếp tục nói dối và trước hay sau đều sẽ bị phát hiện. Một nhà văn hay nhà thơ nói dối thì càng dễ bị phát hiện vì chính họ sẽ rơi vào cái vòng luẩn quẩn: để kiếm sống, họ cần bộc lộ bản thân trước độc giả và chính độc giả trước hay sau cũng sẽ phát hiện ra rằng họ dối trá. Những loại "quan" trong văn học và thơ phú đang nhanh chóng bị độc giả Việt Nam lãng quên.
    Còn đoạn "đám giặc già lăng nhăng thơ phú" thì khiến cho ta phải bật cười. Không những thế tôi tin rằng đa số các vị nhà văn và nhà thơ lão thành, những "cây đa, cây đề" (cách gọi của Nguyễn Khải), cũng sẽ bật cười: đương nhiên (tôi tưởng tượng) họ sẽ nói hoặc nghĩ: Thiệp nói đúng đấy! Chúng ta hãy chung sức, giúp cho giới trẻ ít nhất cũng được thành đạt như chúng ta ngày xưa. Hơn nữa chúng nó giờ đây giỏi hơn nhiều, tiếp cận nhiều thông tin lắm, lắm ngoại ngữ hơn ta, có khi chúng nó sẽ viết đựơc ra điều gì thật mới và hay. Còn điều gì qua thời gian mà chúng nó thấy lố quá, thì chính chúng nó sẽ dẹp đi thôi. Trẻ thường chóng thích chóng chán mà!
    Tôi đã có may mắn gặp và trò chuyện với các nhà văn và nhà thơ của Việt Nam như bản thân ông Nguyễn Huy Thiệp (thời gian ông còn rất mệt mỏi về mặt tinh thần), Hoàng Cầm, Tô Hoài, Lê Đạt, Dương Thu Hương? và nhà thơ Vi Thùy Linh. Nói chuyện với họ khiến tôi phần nào hiểu đựơc cốt cách cá nhân cũng như văn phong của những con người đó. Và tôi hoàn toàn không nghĩ rằng những con người như vậy sẽ căm tức ông Thiệp đến mức đào đất đổ đi, chỉ vì những nhận xét đánh giá "trắng phớ" như vậy.
    Sau cùng, tôi xin trình bày một cách nhìn vào Hội thảo về Lý luận và Phê bình văn học tại thành phố Hồ Chí Minh gần đây. Theo dõi tin tức về hội thảo này trên báo Văn nghệ, tôi thấy lo quá, vì có hai khả năng: Một là báo vẫn viết không hết hoặc vẫn không được phép viết hết những điều diễn ra trong hội thảo; hai là tham gia hội thảo toàn là các "quan", ai cũng ca cẩm rồi "hô khẩu hiệu" để mong tự nâng cao mình lên, nhưng không dám đưa ra bất cứ giải pháp khả thi nào.
    Để kết thúc, xin đựơc mạn phép kể hầu quý vị câu chuyện vui nước ngoài có bốn nhân vật mang tên: Mọi Người, Ai Đó, Ai và Không Ai. Chuyện thế này:
    "Có một việc cần làm ngay. Mọi Người chắc mẩm rằng Ai Đó ắt sẽ làm. Ai cũng làm được, nhưng Không Ai bắt tay vào. Ai Đó rất bực vì đó là việc lớn vì Mọi Người. Mọi Người nghĩ Ai làm cũng được. Nhưng Không Ai nhận thấy, rằng chẳng có Ai làm cả. Rốt cuộc Mọi Người quay ra đổ lỗi cho Ai Đó trong khi Không Ai làm cái việc mà nhẽ ra Ai cũng làm được."
    Sydney, tháng 4/2004
    (Bài trên talawas)
  2. Zdreamer

    Zdreamer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2003
    Bài viết:
    2.582
    Đã được thích:
    1
    Đoàn Thị Tê
    Nhà thơ, nhà văn - ai nói, ai nghe?
    Sau khi đọc bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp Trò chuyện cùng hoa thuỷ tiên và những nhầm lẫn của nhà văn, tiếp sau đó bài viết Có thật các nhà văn Việt Nam đều vô học, các nhà thơ đều lưu manh - hay là "hội chứng chửi có thưởng" thời nay? của nhà thơ Trần Mạnh Hảo, tôi phân vân mãi, không hiểu như thế nào mới có thể gọi là văn học, văn hoá? Có thể có văn hoá không khi chửi nhau? (dù "chửi có thưởng" đi nữa!).
    Nhà văn - "Bụt chùa nhà không thiêng"
    Những gì còn lại trong tôi khi đọc bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp:
    1. Văn học trên tinh thần "xã hội hoá".
    Xây dựng công nghệ đào tạo nhà văn mới. Cụ thể: xây dựng một vài khoa viết văn ở các trường đại học.
    Viết văn phải trở thành một nghề chuyên nghiệp.
    Nhà văn phải biết ngoại ngữ, vi tính (đặc biệt là internet để đối thoại với thế giới bên ngoài).
    2. Đối tượng của văn học là những người trẻ tuổi.
    3. Văn học tác động đến xã hội bằng con đường ngầm và trực tiếp. Vì vậy, văn học giá trị bao giờ cũng đề cao nhân tính, văn học không còn nữa những cuộc thể nghiệm.
    Không chỉ văn học mà các ngành khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta hiện nay đều nên dựa trên tinh thần "xã hội hoá" - "xã hội hoá cao độ". Nếu không sẽ hình thành một "lỗ hổng" khá lớn: "Tre già măng lụi" hay "Măng chưa lụi thì măng cũng bị ăn"!
    Sách giáo khoa văn học phổ thông hay chương trình giảng dạy văn học trong các trường đại học đều có chung một điểm. Đó là những "Lược khảo lịch sử văn học" hơn là những cái có thể gọi tên? rằng thì là? "văn học hiện đại". "Lược khảo văn học" không phải là thừa, nó rất quan trọng, nó như một cái nền để người học đứng lên. Tuy vậy, khi sinh viên "đứng" được rồi, sinh viên muốn nghiên cứu, tìm tòi một đề tài mới cũng không có giáo viên hướng dẫn, cho dù có người hướng dẫn rốt cuộc cũng không có người phản biện. Thương thay cái sự "nghiên cứu văn học"!
    "80% nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào cảm hứng để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng". Tôi nghĩ cũng có cái lý, cái thật của nó. Thơ xuất bản ra để tặng nhau là chủ yếu, mà đôi khi nhận tập thơ cũng chỉ vì "cái tình" mà thôi, người nhận chưa chắc đã đọc. Xin kể đây một chuyện tôi gặp: vào một ngày đẹp trời, tôi đi nhà sách chơi, thấy nhiều nhất là sách dạy nấu ăn, tiếp theo là một số sách tin học đã lỗi thời và thứ ba là các tập thơ. Hằng hà sa số thơ là thơ, có một tập thơ mới xuất bản năm 2002 của một nhà thơ nọ, giá bìa cứng là 20.000đ. "Sale off cái vèo" còn 2.000đ. Tôi định mua "ủng hộ" nhưng ngó lại thấy còn gần cả chục quyển. Thôi thì để dành cho nhà sách!
    "Đối tượng của văn học là những người trẻ tuổi". Tại sao lại như vậy? Tôi nghĩ đơn giản chỉ vì những người trẻ có thể thực hiện văn học "xã hội hoá" tốt nhất. Chí ít người trẻ thì không "lụ khụ".
    "Văn học không còn nữa những cuộc thí nghiệm? Để biết văn học đổi mới, chỉ cần dịch sách Trung Hoa xem là đủ". Theo tôi: còn tìm tòi, sáng tạo, thể nghiệm mới còn là văn học. Sách Trung Hoa, văn học Trung Hoa, văn hoá Trung Hoa? rất đáng cho chúng ta trân trọng, học hỏi âu cũng là lẽ thường tình. Trung Hoa có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Dĩ nhiên! Bởi đó là một nền văn hóa, một nôi văn minh lớn, nó có sức ảnh hưởng mạnh và trên diện rộng. Nhưng cũng nên xét lại, chúng ta không chỉ ảnh hưởng Trung Hoa mà còn nhiều nữa: Ấn Độ, văn hoá phương Tây, vùng văn hoá văn minh Đông Nam Á? Tất cả chúng góp phần hình thành nên diện mạo văn hóa của Việt Nam. Trên kệ sách chúng ta đã thấy những Cao Hành Kiện, Giả Bình Ao? nhưng tìm "đỏ mắt" vẫn không thấy những George Orwell, James Joyce, Lyotard, Donald Barthelme? (cũng có lý do khách quan của nó ở đây: dịch giả không có thì làm sao?)
    Nhưng, liệu sách Trung Hoa không thôi là đủ?
    Cuối cùng, thay cho lời chào nhà văn tôi xin mến yêu được gọi nhà văn là "Con nhện già xấu số" [1] , ngoảnh đi ngoảnh lại tôi chỉ thấy có vậy mà thôi!
    Nhà thơ - "Mẹ hát con khen hay"
    Nhà thơ không thèm chú ý đến những lập luận của nhà văn mà lại để ý câu chữ để rồi chửi rất hàn lâm, rất khoa học. Ví dụ nhà thơ "lục dò trong từ điển", cố công tìm ý nghĩ của những từ: vô học, lưu manh để cho sự chửi có căn cứ, có hệ thống. Đó cũng là một điều đáng học hỏi.
    Nhà thơ có nghĩ rằng tôi đang biện minh cho nhà văn, cho những "lý luận hai xu của mình"(?) khi tôi cho rằng: Ngôn ngữ một phần nào đó chứa đựng cá tính của mỗi người, thông qua ngôn ngữ mà cá nhân trả lời được "Tôi là ai?".
    Nếu nhà thơ chân thành góp ý cho một bài viết thiết nghĩ nên nắm được những luận điểm chính người viết muốn đề cập, đừng nên quá chú ý đến câu chữ. Xin đừng vin vào câu này, chữ nọ mà "chửi bới", "chụp mũ" cho nhà văn. Đừng lấy những giận hờn cá nhân để rồi lật nhào tất cả những gì người ta muốn nói, để rồi "đá" nội dung bài viết sang một hướng khác mà chính người viết chưa chắc đã nghĩ đến. Nhà thơ muốn chửi cá nhân nhà văn nhưng đừng đem theo cái thói đời "chửi cá nhân mang danh tổ chức" vào đây! Lúc đầu thì hoàn toàn chỉ có "tôi", sau cùng lại là "chúng tôi". Ban đầu chỉ là chửi một bài viết, cuối cùng lại "lôi" luôn cả "nghiệp văn mười lăm năm" của người ta mà chửi.
    Nhà thơ ạ! Có chửi thì cũng phải nhìn quanh xem có ai nhìn mình không? Đừng có vừa chửi vừa "kéo đồng minh", vừa chửi vừa mong cả làng văn ủng hộ, còn đem luôn cả lịch sử dân tộc, đất nước [2] ra hù doạ "dân đen" như vậy thì than ôi? hổ thẹn! Thật không dễ chấp nhận cái lối tư duy "mẹ hát con khen hay" mãi được!
    Nếu nhà thơ "đá" thành công? thì nhà thơ ơi, xin phục người sát đất.
    TP. Hồ Chí Minh, 28.03.2004
    © 2004 talawas
    --------------------------------------------------------------------------------
    [1]Từ của Nguyễn Ngọc Thuần trong Một thiên nằm mộng, Nxb Kim Ðồng , 2004: "Nó là một con nhện già xấu số mà. Cuộc đời của nó đã bị em cắt không biết bao nhiêu sợi tơ. Nhìn cái mặt nó vẻ chừng cau có kinh khủng. Con mắt lồi ra. Con mắt lồi ra là con mắt khó chịu. Chẳng biết với con mắt đó, nó có thấy thủ phạm là em không? Em hay ghẹo nó bằng bài hát như vầy. [...] Buồn buồn là buồn con nhện/ Ðu dây cho quên nỗi buồn/ Ðu dây cho quên nỗi sầu/ Nỗi sầu cái đầu lăng nhăng/ Sợi tơ đã rối mà chăng nỗi gì./ Buồn cái mà tuổi già/ Ði cong hết rồi nằm co/ Con ruồi đi qua không thèm/ Con mối không ăn/ Cái mà chê cứng/ Chê cứng cái mà thanh phiền/ Than phiền, phiền than."
    [2]Nhà thơ Trần Mạnh Hảo trong bài viết có nêu: "Anh Thiệp nỡ lòng nào mắng cả HNVVN là đổ vô giáo dục ... nhà văn, nhà thơ nước ta hiện nay còn lành hơn cả đất" và "Việt Nam là một dân tộc, một đất nước Thơ. Dân tộc ta vốn có 2 truyền thống chính để tự hào: một là ÐÁNH GIẶC, hai là LÀM THƠ. ... ông trời đi chăng nữa" (Ðoạn 4 và 7, mục 2 của bài viết).
  3. Zdreamer

    Zdreamer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2003
    Bài viết:
    2.582
    Đã được thích:
    1
    Đoàn Thị Tê
    Nhà thơ, nhà văn - ai nói, ai nghe?
    Sau khi đọc bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp Trò chuyện cùng hoa thuỷ tiên và những nhầm lẫn của nhà văn, tiếp sau đó bài viết Có thật các nhà văn Việt Nam đều vô học, các nhà thơ đều lưu manh - hay là "hội chứng chửi có thưởng" thời nay? của nhà thơ Trần Mạnh Hảo, tôi phân vân mãi, không hiểu như thế nào mới có thể gọi là văn học, văn hoá? Có thể có văn hoá không khi chửi nhau? (dù "chửi có thưởng" đi nữa!).
    Nhà văn - "Bụt chùa nhà không thiêng"
    Những gì còn lại trong tôi khi đọc bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp:
    1. Văn học trên tinh thần "xã hội hoá".
    Xây dựng công nghệ đào tạo nhà văn mới. Cụ thể: xây dựng một vài khoa viết văn ở các trường đại học.
    Viết văn phải trở thành một nghề chuyên nghiệp.
    Nhà văn phải biết ngoại ngữ, vi tính (đặc biệt là internet để đối thoại với thế giới bên ngoài).
    2. Đối tượng của văn học là những người trẻ tuổi.
    3. Văn học tác động đến xã hội bằng con đường ngầm và trực tiếp. Vì vậy, văn học giá trị bao giờ cũng đề cao nhân tính, văn học không còn nữa những cuộc thể nghiệm.
    Không chỉ văn học mà các ngành khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta hiện nay đều nên dựa trên tinh thần "xã hội hoá" - "xã hội hoá cao độ". Nếu không sẽ hình thành một "lỗ hổng" khá lớn: "Tre già măng lụi" hay "Măng chưa lụi thì măng cũng bị ăn"!
    Sách giáo khoa văn học phổ thông hay chương trình giảng dạy văn học trong các trường đại học đều có chung một điểm. Đó là những "Lược khảo lịch sử văn học" hơn là những cái có thể gọi tên? rằng thì là? "văn học hiện đại". "Lược khảo văn học" không phải là thừa, nó rất quan trọng, nó như một cái nền để người học đứng lên. Tuy vậy, khi sinh viên "đứng" được rồi, sinh viên muốn nghiên cứu, tìm tòi một đề tài mới cũng không có giáo viên hướng dẫn, cho dù có người hướng dẫn rốt cuộc cũng không có người phản biện. Thương thay cái sự "nghiên cứu văn học"!
    "80% nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào cảm hứng để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng". Tôi nghĩ cũng có cái lý, cái thật của nó. Thơ xuất bản ra để tặng nhau là chủ yếu, mà đôi khi nhận tập thơ cũng chỉ vì "cái tình" mà thôi, người nhận chưa chắc đã đọc. Xin kể đây một chuyện tôi gặp: vào một ngày đẹp trời, tôi đi nhà sách chơi, thấy nhiều nhất là sách dạy nấu ăn, tiếp theo là một số sách tin học đã lỗi thời và thứ ba là các tập thơ. Hằng hà sa số thơ là thơ, có một tập thơ mới xuất bản năm 2002 của một nhà thơ nọ, giá bìa cứng là 20.000đ. "Sale off cái vèo" còn 2.000đ. Tôi định mua "ủng hộ" nhưng ngó lại thấy còn gần cả chục quyển. Thôi thì để dành cho nhà sách!
    "Đối tượng của văn học là những người trẻ tuổi". Tại sao lại như vậy? Tôi nghĩ đơn giản chỉ vì những người trẻ có thể thực hiện văn học "xã hội hoá" tốt nhất. Chí ít người trẻ thì không "lụ khụ".
    "Văn học không còn nữa những cuộc thí nghiệm? Để biết văn học đổi mới, chỉ cần dịch sách Trung Hoa xem là đủ". Theo tôi: còn tìm tòi, sáng tạo, thể nghiệm mới còn là văn học. Sách Trung Hoa, văn học Trung Hoa, văn hoá Trung Hoa? rất đáng cho chúng ta trân trọng, học hỏi âu cũng là lẽ thường tình. Trung Hoa có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Dĩ nhiên! Bởi đó là một nền văn hóa, một nôi văn minh lớn, nó có sức ảnh hưởng mạnh và trên diện rộng. Nhưng cũng nên xét lại, chúng ta không chỉ ảnh hưởng Trung Hoa mà còn nhiều nữa: Ấn Độ, văn hoá phương Tây, vùng văn hoá văn minh Đông Nam Á? Tất cả chúng góp phần hình thành nên diện mạo văn hóa của Việt Nam. Trên kệ sách chúng ta đã thấy những Cao Hành Kiện, Giả Bình Ao? nhưng tìm "đỏ mắt" vẫn không thấy những George Orwell, James Joyce, Lyotard, Donald Barthelme? (cũng có lý do khách quan của nó ở đây: dịch giả không có thì làm sao?)
    Nhưng, liệu sách Trung Hoa không thôi là đủ?
    Cuối cùng, thay cho lời chào nhà văn tôi xin mến yêu được gọi nhà văn là "Con nhện già xấu số" [1] , ngoảnh đi ngoảnh lại tôi chỉ thấy có vậy mà thôi!
    Nhà thơ - "Mẹ hát con khen hay"
    Nhà thơ không thèm chú ý đến những lập luận của nhà văn mà lại để ý câu chữ để rồi chửi rất hàn lâm, rất khoa học. Ví dụ nhà thơ "lục dò trong từ điển", cố công tìm ý nghĩ của những từ: vô học, lưu manh để cho sự chửi có căn cứ, có hệ thống. Đó cũng là một điều đáng học hỏi.
    Nhà thơ có nghĩ rằng tôi đang biện minh cho nhà văn, cho những "lý luận hai xu của mình"(?) khi tôi cho rằng: Ngôn ngữ một phần nào đó chứa đựng cá tính của mỗi người, thông qua ngôn ngữ mà cá nhân trả lời được "Tôi là ai?".
    Nếu nhà thơ chân thành góp ý cho một bài viết thiết nghĩ nên nắm được những luận điểm chính người viết muốn đề cập, đừng nên quá chú ý đến câu chữ. Xin đừng vin vào câu này, chữ nọ mà "chửi bới", "chụp mũ" cho nhà văn. Đừng lấy những giận hờn cá nhân để rồi lật nhào tất cả những gì người ta muốn nói, để rồi "đá" nội dung bài viết sang một hướng khác mà chính người viết chưa chắc đã nghĩ đến. Nhà thơ muốn chửi cá nhân nhà văn nhưng đừng đem theo cái thói đời "chửi cá nhân mang danh tổ chức" vào đây! Lúc đầu thì hoàn toàn chỉ có "tôi", sau cùng lại là "chúng tôi". Ban đầu chỉ là chửi một bài viết, cuối cùng lại "lôi" luôn cả "nghiệp văn mười lăm năm" của người ta mà chửi.
    Nhà thơ ạ! Có chửi thì cũng phải nhìn quanh xem có ai nhìn mình không? Đừng có vừa chửi vừa "kéo đồng minh", vừa chửi vừa mong cả làng văn ủng hộ, còn đem luôn cả lịch sử dân tộc, đất nước [2] ra hù doạ "dân đen" như vậy thì than ôi? hổ thẹn! Thật không dễ chấp nhận cái lối tư duy "mẹ hát con khen hay" mãi được!
    Nếu nhà thơ "đá" thành công? thì nhà thơ ơi, xin phục người sát đất.
    TP. Hồ Chí Minh, 28.03.2004
    © 2004 talawas
    --------------------------------------------------------------------------------
    [1]Từ của Nguyễn Ngọc Thuần trong Một thiên nằm mộng, Nxb Kim Ðồng , 2004: "Nó là một con nhện già xấu số mà. Cuộc đời của nó đã bị em cắt không biết bao nhiêu sợi tơ. Nhìn cái mặt nó vẻ chừng cau có kinh khủng. Con mắt lồi ra. Con mắt lồi ra là con mắt khó chịu. Chẳng biết với con mắt đó, nó có thấy thủ phạm là em không? Em hay ghẹo nó bằng bài hát như vầy. [...] Buồn buồn là buồn con nhện/ Ðu dây cho quên nỗi buồn/ Ðu dây cho quên nỗi sầu/ Nỗi sầu cái đầu lăng nhăng/ Sợi tơ đã rối mà chăng nỗi gì./ Buồn cái mà tuổi già/ Ði cong hết rồi nằm co/ Con ruồi đi qua không thèm/ Con mối không ăn/ Cái mà chê cứng/ Chê cứng cái mà thanh phiền/ Than phiền, phiền than."
    [2]Nhà thơ Trần Mạnh Hảo trong bài viết có nêu: "Anh Thiệp nỡ lòng nào mắng cả HNVVN là đổ vô giáo dục ... nhà văn, nhà thơ nước ta hiện nay còn lành hơn cả đất" và "Việt Nam là một dân tộc, một đất nước Thơ. Dân tộc ta vốn có 2 truyền thống chính để tự hào: một là ÐÁNH GIẶC, hai là LÀM THƠ. ... ông trời đi chăng nữa" (Ðoạn 4 và 7, mục 2 của bài viết).
  4. Zdreamer

    Zdreamer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2003
    Bài viết:
    2.582
    Đã được thích:
    1

    Bùi Quang Lộc
    Trần Mạnh Hảo, con người của nền văn học cách mạng
    Sau khi đọc bài Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn của Nguyễn Huy Thiệp, tôi cũng ít nhiều hình dung ra được những bài phản biện, và thật thú vị khi đó lại là của nhà thơ Trần Mạnh Hảo.
    Bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (NHT) khá hay, nói lên được cái mà từ trước đến nay những người "ngoại đạo" như chúng tôi muốn nói, đặc biệt là về thơ ca... Khi nói về Hội Nhà Văn Việt Nam, ông viết: "Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự." Thế nhưng nhà thơ Trần Mạnh Hảo (TMH) lại "tự ái dân tộc" nổi lên, lấy cả dân tộc ra để đối lại: "Việt Nam là một dân tộc, một đất nước Thơ. Dân tộc ta vốn có 2 truyền thống chính để tự hào một là ĐÁNH GIẶC, hai là LÀM THƠ. Nếu ta chỉ có những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa mà thiếu Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương thì coi như dân tộc chỉ biết có cơ bắp, biết có thanh gươm mà thiếu tâm hồn, thiếu vẻ đẹp tinh thần, thiếu lãng mạn, thiếu thẩm mỹ."
    Xin thưa với ông TMH rằng: Những bài học cũ kỹ đó vừa không nên dạy trong các trường phổ thông mà tội cho lớp trẻ, vừa không nên đem ra văn đàn. Có thể công nhận rằng Việt Nam là một đất nước thơ ca, đi đâu cũng thấy thơ ca, người Việt nào cũng có thể làm thơ, thơ ca có mặt ở mọi tờ báo... Còn ở nước Đức nơi tôi đang sống thì thơ ca là của rất hiếm.Trên hầu hết tất cả mọi tờ báo và tạp chí, không thể tìm được một bài thơ, còn làm thơ đối với dân chúng là chuyện khó hơn... lên sao Hỏa. Có thể nói, cái khoản làm thơ thì dân Đức thua xa dân Việt mình. Thế nhưng họ lại có một Goethe,một Hugo Ball..., mà đi đến góc nào trên thế giới mọi người đều biết, còn chúng ta có ai? Trên thế giới chẳng ai biết tên tuổi một nhà thơ Việt nào cả...! (Tôi có hỏi chuyện khá nhiều trí thức người Đức về Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại của chúng ta. Họ lắc đầu: không biết, chỉ biết Hồ Chí Minh thôi à.) Tôi khuyên ông TMH hãy đừng vuốt ve niềm tự hào bằng những bài học "cách mạng" cổ lỗ đó nữa, mà hãy thử một lần đi ra nước ngoài vài năm (chứ không phải mấy tháng) để xem niềm tự hào dân tộc trong ông có đứng vững không! Cũng dễ hiểu khi có lần nhà văn Sơn Nam phát biểu trên đài BBC rằng "chúng ta nên bớt làm thơ đi..."
    Một ngạc nhiên nữa là cách giải thích của nhà thơ TMH về hai từ trong ngoặc kép của NHT, "vô học" và "lưu manh". TMH viết: "vô học". Dù anh có để trong nháy nháy đi nữa thì nội hàm của từ này vẫn không có gì thay đổi, vẫn tuân thủ định nghĩa của từ điển: "vô học": (Người) không có học thức, không được giáo dục: Đám trẻ vô học. Đồ vô học. (tr.1826, Đại từ điển Tiếng Việt- Bộ GD&ĐT- Trung tâm Ngôn ngữ & Văn hóa Việt Nam xuất bản 1998). Ông giải nghĩa những từ trên theo nghĩa nó không nằm trong ngoặc kép. Vậy thì thưa nhà thơ TMH, tiếng Việt của chúng ta nên bỏ cái dấu ngoặc kép này đi cho xong... (vì có nó hay không có nó thì ông chỉ hiểu những từ trên theo cùng một nghĩa mà thôi!) Đến đây tôi nhận diện ra thêm một loại "văn học chụp mũ" của nền văn học chính thống.
    Nhà phê bình TMH còn viết: "Chúng tôi từng theo dõi hầu như tất cả các buổi trả lời phỏng vấn các đài nước ngoài phát tiếng Việt của NHT, ít nhất trong vòng 15 năm qua, thì mới thấy "HỘI CHỨNG CHỬI" của anh là có hệ thống..." Ở đây tôi có một nhận định nhỏ, là hình như trong nền văn học chính thống, bất cứ những lời nói, tư tưởng nào khác với chính thống đều được gọi là "CHỬI". Thiết nghĩ, trong bất cứ cuộc tranh luận nào đều phải có nhưng tư tưởng đối lập, phản biện nhau. Ta nên gọi nó là tranh luận thay vì "CHỬI " như ông TMH dùng. Tôi rất thích những cuộc tranh luận nảy lửa trên văn đàn. Mà tại sao hầu như không có những cuộc tranh luận trên các đài phát thanh hay truyền hình Việt Nam? Phải chăng các "nhà chửi" của chúng ta chỉ có khả năng tranh luận (hay "chửi") sau lưng, khi giáp mặt nhau thì một là... đánh nhau, hai là ...chạy? Nghĩ cho rộng ra thì ông TMH cũng chỉ thừa hưởng và làm theo nếp của cái gọi là "văn hóa cách mạng" một thời. Nghe ông phát biểu mà cứ như nghe ban theo dõi tội phạm, khiến nổi da gà!
    Đã đến lúc chúng ta nên nói thật với nhau tất cả thì hơn. Hãy đừng mụ mị vuốt ve những niềm tự hào hão, vì đó thực chất là những đồ hàng mã mà chỉ một số rất nhỏ trong 80 triệu dân Việt nam có lợi khi đánh bóng nó.
    Tất nhiên trong bài viết của nhà văn NHT cũng có những điểm không đúng. Nhưng thiết nghĩ chỉ có thượng đế mới hoàn hảo. Còn người phàm tục chúng ta (tất nhiên cả nhà văn NHT và nhà thơ TMH ) cũng đều có những sai lầm... Sự phân biệt giữa các "nhà" với đám bình dân chúng tôi là cái sai ở họ ít hơn, hay chí ít họ còn biết con cừu cái không cần con cừu đực để sinh con, mà điều này những người bình dân như chúng tôi ít ai biết... Nói như thế có nghĩa là: Hỡi những người được gọi là "nhà"! Hãy uốn lưỡi 70 lần (thay vì chúng tôi, đám bình dân chỉ cần 7 lần thôi) trước khi phát biểu điều gì. Đám bình dân nói sai thì cùng lắm bị "phạt vi cảnh". Chứ các "nhà" thì có khi bị tử hình đấy!
    Nói tóm lại, cách suy nghĩ của nhà thơ TMH về bài viết của nhà văn NHT có phần hơi quá "*****************". Nhà thơ chỉ hiểu những cái gọi là "hiện thực xã hội chủ nghĩa" (đã có thời ông chê những bài thơ mà ông gọi là vô nghĩa của Lê Đạt, hay của Bùi Giáng.) Ở đây có thể rút ra một nhận định: Cái gì ông không hiểu thì đều là những đồ vất đi cả (chắc ngay cả Picasso,hay Van Gogh ông cũng cho đi "cải tạo" tất.)
    Chúng tôi đã từng mê những vần thơ của Trần Mạnh Hảo, hay cũng từng phục những bài viết về các giáo sư của nhà thơ này. Thế nhưng cái "hiện thực xã hội chủ nghĩa" của ông chắc chắn sẽ làm ông mất đi rất nhiều người hâm mộ.
    Munich, 28.3.2004
    (Bài trên talawas)
  5. Zdreamer

    Zdreamer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2003
    Bài viết:
    2.582
    Đã được thích:
    1

    Bùi Quang Lộc
    Trần Mạnh Hảo, con người của nền văn học cách mạng
    Sau khi đọc bài Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn của Nguyễn Huy Thiệp, tôi cũng ít nhiều hình dung ra được những bài phản biện, và thật thú vị khi đó lại là của nhà thơ Trần Mạnh Hảo.
    Bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (NHT) khá hay, nói lên được cái mà từ trước đến nay những người "ngoại đạo" như chúng tôi muốn nói, đặc biệt là về thơ ca... Khi nói về Hội Nhà Văn Việt Nam, ông viết: "Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự." Thế nhưng nhà thơ Trần Mạnh Hảo (TMH) lại "tự ái dân tộc" nổi lên, lấy cả dân tộc ra để đối lại: "Việt Nam là một dân tộc, một đất nước Thơ. Dân tộc ta vốn có 2 truyền thống chính để tự hào một là ĐÁNH GIẶC, hai là LÀM THƠ. Nếu ta chỉ có những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa mà thiếu Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương thì coi như dân tộc chỉ biết có cơ bắp, biết có thanh gươm mà thiếu tâm hồn, thiếu vẻ đẹp tinh thần, thiếu lãng mạn, thiếu thẩm mỹ."
    Xin thưa với ông TMH rằng: Những bài học cũ kỹ đó vừa không nên dạy trong các trường phổ thông mà tội cho lớp trẻ, vừa không nên đem ra văn đàn. Có thể công nhận rằng Việt Nam là một đất nước thơ ca, đi đâu cũng thấy thơ ca, người Việt nào cũng có thể làm thơ, thơ ca có mặt ở mọi tờ báo... Còn ở nước Đức nơi tôi đang sống thì thơ ca là của rất hiếm.Trên hầu hết tất cả mọi tờ báo và tạp chí, không thể tìm được một bài thơ, còn làm thơ đối với dân chúng là chuyện khó hơn... lên sao Hỏa. Có thể nói, cái khoản làm thơ thì dân Đức thua xa dân Việt mình. Thế nhưng họ lại có một Goethe,một Hugo Ball..., mà đi đến góc nào trên thế giới mọi người đều biết, còn chúng ta có ai? Trên thế giới chẳng ai biết tên tuổi một nhà thơ Việt nào cả...! (Tôi có hỏi chuyện khá nhiều trí thức người Đức về Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại của chúng ta. Họ lắc đầu: không biết, chỉ biết Hồ Chí Minh thôi à.) Tôi khuyên ông TMH hãy đừng vuốt ve niềm tự hào bằng những bài học "cách mạng" cổ lỗ đó nữa, mà hãy thử một lần đi ra nước ngoài vài năm (chứ không phải mấy tháng) để xem niềm tự hào dân tộc trong ông có đứng vững không! Cũng dễ hiểu khi có lần nhà văn Sơn Nam phát biểu trên đài BBC rằng "chúng ta nên bớt làm thơ đi..."
    Một ngạc nhiên nữa là cách giải thích của nhà thơ TMH về hai từ trong ngoặc kép của NHT, "vô học" và "lưu manh". TMH viết: "vô học". Dù anh có để trong nháy nháy đi nữa thì nội hàm của từ này vẫn không có gì thay đổi, vẫn tuân thủ định nghĩa của từ điển: "vô học": (Người) không có học thức, không được giáo dục: Đám trẻ vô học. Đồ vô học. (tr.1826, Đại từ điển Tiếng Việt- Bộ GD&ĐT- Trung tâm Ngôn ngữ & Văn hóa Việt Nam xuất bản 1998). Ông giải nghĩa những từ trên theo nghĩa nó không nằm trong ngoặc kép. Vậy thì thưa nhà thơ TMH, tiếng Việt của chúng ta nên bỏ cái dấu ngoặc kép này đi cho xong... (vì có nó hay không có nó thì ông chỉ hiểu những từ trên theo cùng một nghĩa mà thôi!) Đến đây tôi nhận diện ra thêm một loại "văn học chụp mũ" của nền văn học chính thống.
    Nhà phê bình TMH còn viết: "Chúng tôi từng theo dõi hầu như tất cả các buổi trả lời phỏng vấn các đài nước ngoài phát tiếng Việt của NHT, ít nhất trong vòng 15 năm qua, thì mới thấy "HỘI CHỨNG CHỬI" của anh là có hệ thống..." Ở đây tôi có một nhận định nhỏ, là hình như trong nền văn học chính thống, bất cứ những lời nói, tư tưởng nào khác với chính thống đều được gọi là "CHỬI". Thiết nghĩ, trong bất cứ cuộc tranh luận nào đều phải có nhưng tư tưởng đối lập, phản biện nhau. Ta nên gọi nó là tranh luận thay vì "CHỬI " như ông TMH dùng. Tôi rất thích những cuộc tranh luận nảy lửa trên văn đàn. Mà tại sao hầu như không có những cuộc tranh luận trên các đài phát thanh hay truyền hình Việt Nam? Phải chăng các "nhà chửi" của chúng ta chỉ có khả năng tranh luận (hay "chửi") sau lưng, khi giáp mặt nhau thì một là... đánh nhau, hai là ...chạy? Nghĩ cho rộng ra thì ông TMH cũng chỉ thừa hưởng và làm theo nếp của cái gọi là "văn hóa cách mạng" một thời. Nghe ông phát biểu mà cứ như nghe ban theo dõi tội phạm, khiến nổi da gà!
    Đã đến lúc chúng ta nên nói thật với nhau tất cả thì hơn. Hãy đừng mụ mị vuốt ve những niềm tự hào hão, vì đó thực chất là những đồ hàng mã mà chỉ một số rất nhỏ trong 80 triệu dân Việt nam có lợi khi đánh bóng nó.
    Tất nhiên trong bài viết của nhà văn NHT cũng có những điểm không đúng. Nhưng thiết nghĩ chỉ có thượng đế mới hoàn hảo. Còn người phàm tục chúng ta (tất nhiên cả nhà văn NHT và nhà thơ TMH ) cũng đều có những sai lầm... Sự phân biệt giữa các "nhà" với đám bình dân chúng tôi là cái sai ở họ ít hơn, hay chí ít họ còn biết con cừu cái không cần con cừu đực để sinh con, mà điều này những người bình dân như chúng tôi ít ai biết... Nói như thế có nghĩa là: Hỡi những người được gọi là "nhà"! Hãy uốn lưỡi 70 lần (thay vì chúng tôi, đám bình dân chỉ cần 7 lần thôi) trước khi phát biểu điều gì. Đám bình dân nói sai thì cùng lắm bị "phạt vi cảnh". Chứ các "nhà" thì có khi bị tử hình đấy!
    Nói tóm lại, cách suy nghĩ của nhà thơ TMH về bài viết của nhà văn NHT có phần hơi quá "*****************". Nhà thơ chỉ hiểu những cái gọi là "hiện thực xã hội chủ nghĩa" (đã có thời ông chê những bài thơ mà ông gọi là vô nghĩa của Lê Đạt, hay của Bùi Giáng.) Ở đây có thể rút ra một nhận định: Cái gì ông không hiểu thì đều là những đồ vất đi cả (chắc ngay cả Picasso,hay Van Gogh ông cũng cho đi "cải tạo" tất.)
    Chúng tôi đã từng mê những vần thơ của Trần Mạnh Hảo, hay cũng từng phục những bài viết về các giáo sư của nhà thơ này. Thế nhưng cái "hiện thực xã hội chủ nghĩa" của ông chắc chắn sẽ làm ông mất đi rất nhiều người hâm mộ.
    Munich, 28.3.2004
    (Bài trên talawas)
  6. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    Cám ơn Zdreamer. Tớ thích 2 bài của Ng Hoàng Sơn và Chu Lai và đã vote cho bạn.
  7. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    Cám ơn Zdreamer. Tớ thích 2 bài của Ng Hoàng Sơn và Chu Lai và đã vote cho bạn.
  8. Zdreamer

    Zdreamer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2003
    Bài viết:
    2.582
    Đã được thích:
    1
    Trần Kiêm Đoàn
    Một cái nhìn từ xa về văn học Việt Nam hiện tại
    Tâm lý xa quê và tiếng Việt
    Khi sự cố đã thành cố sự, chuyện xẩy ra đã qua đi nhưng vẫn còn dấu vết, người ta quen xếp nó vào một trong hai ngăn: Ngăn kinh nghiệm hay ngăn kỷ niệm. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp xếp vào ngăn nào cũng không vừa. Không vừa chẳng phải vì nó quá lớn hay quá nhỏ mà chỉ vì nó không đủ tác động dằn vặt, chua xót, cay đắng, vinh quang, sung sướng hay tủi nhục để thành kinh nghiệm. Nhưng cũng chẳng đủ êm đềm, cảm khái, xúc động hay đam mê để trở thành kỷ niệm. Xếp vào đâu? Xếp vào ngăn hoài niệm: Ðó cái ngăn tình cảm không có khóa nên thường dễ nhớ khi tưởng như đã quên và lại quên khi tưởng rằng đang nhớ. Với cuộc sống nóng bỏng ở Mỹ, chỉ có những suy tư và "sự cố văn chương" là có vẻ vừa vặn để xếp vào ngăn hoài niệm đó, vì trên xứ sở quá thực dụng nầy, văn chương không phải là một nhu cầu mà chỉ là một thú tiêu khiển.
    Hơn hai chục năm sống xa quê hương trên đất Mỹ, hàng ngày nói tiếng Việt để thương và nói tiếng Anh để sống, tôi cứ ngỡ cái ngăn hoài niệm văn chương đó chỉ còn là quá khứ! Nhưng thực tế lại khác hơn điều suy nghĩ vì càng ngày, trong những năm về sau, tôi lại càng mở thường xuyên hơn cái ngăn hoài niệm đó.
    Những năm đầu chân ướt chân ráo đến Mỹ, cũng giống như bao người cùng trang lứa và đồng cảnh ngộ, tôi "tập quên" tiếng Việt để căng mắt, rướn người, uốn lưỡi, kiếm đà... nhảy cho qua bức tường lửa của ngôn ngữ. Cái ngăn hoài niệm bị thực tế và nhu cầu cuộc sống trước mắt phong tỏa. Năm năm đầu tôi không dám mở ra. Tôi "sợ" tiếng Việt cũng như sợ phim chưởng Hồng Kông. Quên đi thì chớ, chứ mở ra thì mê. Ðêm mê đọc tiếng Việt hay đêm mê thức trắng để xem phim bộ Hồng Kông, ngày mai dật dờ trong môi trường tiếng Mỹ, cầm chắc trong tay bị đuổi việc làm thì lấy gì để sống. Tôi có thể uống nước lạnh nằm nhà vài hôm... ngâm thơ, nhưng các cháu mà uống nước lạnh thì chỉ còn "ngậm thở"!
    Khi "bức tường lửa" của ngôn ngữ càng lụi dần thì ngăn hoài niệm từ từ mở ra như một sự kêu gọi vô hình mãnh liệt mà bố già phân tâm học nổi tiếng thế giới, Eric Erikson, gọi là một sự "quân bình về bản lai [1] " (equilibrium of identity).
    Trong văn học, người ta có thể giấu một đại lục dưới đáy biển, nhưng lại khó lòng mà giấu cái "bản lai Việt Nam" giữa những suy tư và trong từng con chữ. Cũng thế, có những tác giả đã thành danh, văn họ viết ra dù ký dưới bất cứ bút hiệu nào thì người đọc vẫn cảm thấy sự quen thuộc và gần gũi rất "cố tri"!
    Nhìn về cuộc tranh luận văn chương
    Từ phía bên nầy, tôi vừa được đọc 3 bài nhận định về tình hình nhà văn Việt Nam đương đại của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nhan đề: Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn. Tuy đã quen với văn phong và văn tứ của anh trong những chuyện ngắn thời danh như Tướng Về Hưu, Con Gái Thủy Thần, Như Những Ngọn Gió... tôi vẫn cảm nhận được chất lửa hừng hực của Nguyễn Huy Thiệp toát ra từ cả ba bài viết. Phản ứng tâm lý tức thời của một người có chút ít duyên nợ còm với văn chương, sống xa quê hương như tôi là thật sự xúc động. Xúc động không phải vì khả năng có thể đồng ý hay không với cách nhìn và nội dung của bài viết, nhưng là vì tác giả đã bất chấp búa rìu dư luận của giới nhà văn sẽ phản ứng mạnh khi bị động chạm, để viết ra một cách thẳng thừng những suy nghĩ của mình. Auraleo Perez, một nhà văn trẻ và cũng là một bác sĩ y khoa thuộc phái cách tân Nam Mỹ nói về ngôn ngữ văn chương: "Nội dung như nồi xúp, văn phong như ngọn lửa. Ðun lửa quá nhiều xúp sẽ bị cháy, khó nuốt và mất ngon; bật lửa ít biết xúp nấu bao giờ cho chín!" Như thế, có vẻ như người cầm bút cũng giống như người điều khiển vặn nút lò ga. Sự chọn lựa nào cũng ít nhiều kéo theo những hệ lụy tất yếu của nó. Tôi nghĩ là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã canh nút lò ga của anh để nấu món xúp văn chương theo tốc độ mà anh cần.
    Sau đó không lâu, tôi lại được đọc bài: Có thật đa số các nhà văn Việt Nam đều vô học, các nhà thơ đều lưu manh hay là ''hội chứng chửi có thưởng'' thời nay? của nhà thơ/nhà văn Trần Mạnh Hảo. Tôi đọc bài nầy cùng một đêm với những trang cuối của tác phẩm phê bình văn học Văn Học - Phê bình, Nhận diện của anh do Văn Học xuất bản năm 1999. Nhắc đến Trần Mạnh Hảo tôi thường nhớ đến những câu thơ tài hoa của anh nhiều hơn là các bài viết văn xuôi của anh. Có lẽ tại vì tôi cứ lẩn thẩn nghĩ rằng anh có "căn cơ" của một thiền sư "Ðổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn" khi đọc Giao Thừa Nhớ Rét với hai câu thơ đẹp như mây khói thảo am của anh:
    Rét quánh lại thành rêu trời xanh ngái
    Nhớ thịt đông mây trắng ngủ trong nồi
    Nguyễn Huy Thiệp và Trần Mạnh Hảo, cả hai đều là những khuôn mặt nổi tiếng trong văn giới nước nhà và hải ngoại hiện nay.
    Cũng giống như nhiều người Việt sống ở nước ngoài, nhưng vẫn còn quan tâm đến sinh hoạt văn học nghệ thuật ở quê nhà, chúng tôi vẫn cố giữ cho ngọn đèn tiếng Việt tiếp tục cháy trong lòng mình và trong lòng thế hệ trẻ Việt Nam giữa một xã hội đa chủng tộc và lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chính như Mỹ. Tuy ít có cơ hội tiếp cận thường xuyên với tác phẩm và sinh hoạt văn học nghệ thuật tại quê nhà, nhưng chúng tôi vẫn cố gắng bằng mọi phương tiện có được để không biến mình thành người "ngoại quốc" của văn học nghệ thuật Việt truyền thống và đương đại. Bởi vậy, chúng tôi không ngây thơ để cả tin vội vàng vào một nhận định bất cứ từ phía nào tới. Văn học nghệ thuật là một phần gia tài tinh thần quan trọng của văn hóa. Cho nên sự xây dựng, phê phán nghiêm khắc và nếu cần phá đổ... đều là một quá trình tổng hợp lâu dài. Quá trình đó là một chuỗi diễn biến và tác động qua lại nhiều hướng và nhiều chiều của sự kiện (facts) chứ không phải của ý kiến hay quan niệm cá nhân (opinions) đơn thuần. Khi xưa nhà thơ Cao Bá Quát có bịt mũi, nhăn mặt kêu lên: "Ngán thay cái mũi vô duyên/ Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An" thì khách yêu thơ có thể thích thú vỗ tay reo cười, nhưng Mặc Vân Thi Xã không vì thế mà thịnh đạt hay suy đồi vì hội thơ đó là một thực thể sinh động của thi ca chứ không phải chỉ là nhãn hiệu phù phiếm của khẩu hiệu và thần chú để người đời bái phục hay trêu chọc.
    Cũng thế, Hội Nhà Văn Việt Nam như thế nào thì đã có những tác phẩm của các thành viên trong hội tự nó nói lên tư chất của họ. Từ một góc độ tích cực nhất, tôi nghĩ rằng, một tổ chức văn học và gia tài tác phẩm văn học của tổ chức đó... nếu ngày nào vẫn được còn chú ý, vẫn được khen ngợi nhiệt tình hay bị chê trách gay gắt thì ngày đó vẫn còn xác định được thế đứng và tác dụng của mình trong lòng người đọc. Ðiều đáng sợ nhất cho một nhà văn hay một tác phẩm văn chương là hiện tượng ra đời và biến mất trong im lặng. Paul Eszlinger nói lên điều nầy một cách thấm thía trong tác phẩm Phê Bình Đương Đại (Contemporary Criticism), rằng: "Nhà văn và tác phẩm được coi như đã chết khi không còn ai biết hay nhớ để khen chê." Và, ông cũng nói tiếp: "Tất cả mọi sự khen và chê dù chủ quan hay khách quan; dù nhẹ nhàng hay thô bạo đều là tiếng kèn sống động thôi thúc nhà văn nên tự biết mình để tiếp tục cầm bút vươn lên hay ném nó đi và chọn một nghề khác thích hợp hơn."
    Cũng có khi những khuynh hướng luận bàn văn học Việt Nam không phát xuất từ phía người Việt mà lại phát xuất từ phía người Mỹ. Ðấy là trường hợp nhà thơ Mỹ John Balaban dịch thơ Hồ Xuân Hương và ca dao Việt Nam ra tiếng Anh quá sai lạc với nguyên bản tiếng Việt hay Nôm cũng đã gây ra nhiều tranh luận giữa chúng tôi và Art Times Journal về đề tài "To Translate is to Betray?" (Dịch là Phản?)
    Nói gọn lại thì các cuộc tranh luận văn chương, từ căn bản, mang bản tính lành mạnh của một thực thể văn chương chưa bị lụi tàn và quên lãng.
    Không lâu trước ngày ba bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận định về giới văn bút Việt Nam đăng trên báo Ngày Nay, tôi cũng đã có dịp nêu những ý kiến khiêm tốn của mình trong bài nhận định: Viễn ảnh một giải Nobel văn chương cho giới văn bút Việt Nam đăng trên các báo Xuân Việt ngữ tại Mỹ, Canada và Úc. Bài nầy cũng được các trang talawas và eVăn đăng lại. Qua bài nầy, sau khi điểm qua tác giả và tác phẩm tiêu biểu của giải Nobel thời cận đại, tôi đã nêu lên câu hỏi là tại sao đã ba mươi năm sau cuộc chiến Việt Nam, một cuộc chiến trường kỳ và có tác động rất lớn trên cả toàn thế giới như vậy, đến nay chúng ta vẫn chưa có những tác phẩm văn học xứng đáng với lịch sử và thời đại, mang tầm cỡ quốc tế? Tôi không phủ nhận tài năng của đa số nhà văn Việt Nam. Nhưng sự thắc mắc vẫn chưa giải tỏa được khi nhìn lại khoảng cách quá xa giữa nhà văn và tác phẩm, giữa văn tài và văn phẩm, giữa đội ngũ khá hùng hậu của nhà văn Việt Nam và sự vắng bóng của những tác phẩm văn chương có tầm cỡ lớn lẽ ra đã có.
    Ðến khi đọc phần nhận diện và phân tích các nhà văn, nhà thơ của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tôi hơi bị chững lại. Vốn đã quen với thủ pháp diễn đạt tài hoa nhưng cũng cực kỳ bạo liệt trong một số truyện ngắn đã xuất bản của anh, tôi vẫn cảm thấy quá nhiều chất lửa khi anh nói về nhà văn, nhà thơ Việt Nam bằng ngôn ngữ gay gắt, không khoan nhượng. Rất có thể vì quá say sưa trong lý luận và phân tích về tư chất và phẩm cách của giới nhà văn Việt Nam đương đại, nên anh chưa có những dẫn chứng cụ thể mang tính thuyết phục cần thiết để làm căn bản cho nhận định của anh, và đồng thời cũng làm giảm bớt sự phê bình phản bác gay gắt, nếu có. Theo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thì đương đại hầu như đồng nghĩa với "suy đồi" (?). Tác giả viết: "Các nghệ sĩ sống trong thời hiện tại không thể tránh được sự dung tục, nhảm nhí, không thể tránh được bọn tiểu nhân, bọn phàm phu tục tử, lưu manh, philillistanh, ngụy quân tử v.v..." Như thế có nghĩa là hoàn cảnh sáng tác suy đồi hay chính bản thân lớp nhà văn Việt Nam hiện đại suy đồi? Và, nếu sự suy đồi nầy có thật, dù ở phía bên nào, thì đấy là một khái niệm mang tính triết lý, tâm lý, xã hội hay là một hiện thực có thể kiểm nghiệm được trong sự đối thoại với giò hoa thủy tiên của anh?
    Phản ứng trực tiếp và nhanh chóng đối với bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là bài nhận định của nhà thơ/nhà văn Trần Mạnh Hảo. Là một nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo có nhiều tác phẩm thi ca và công trình biên khảo đã xuất bản, lần nầy, bài nhận định của nhà phê bình văn học Trần Mạnh Hảo xuất hiện có vẻ như không cùng một tần số với bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Thay vì cùng nhồi bóng trên sân chơi với cầu thủ Nguyễn Huy Thiệp để tranh tài cao thấp, làm bàn tung lưới đẹp mắt, thì trọng tài Trần Mạnh Hảo nghiêm khắc thổi còi phạt cầu thủ vượt quá lằn ranh giới hạn. Việc đánh giá sự tỉnh táo và suy diễn mục đích của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi viết bài nhận định nêu trên không quan trọng bằng sự phân tích và nhận định chân dung giới nhà văn Việt Nam hiện nay "như thế nào". Nhất là khi Trần Mạnh Hảo muốn xác lập một hướng nhìn hầu như ngược lại với Nguyễn Huy Thiệp. Tinh hoa của nhà văn, nhà thơ là tác phẩm sáng tạo của chính họ chứ không phải những phụ dung quanh con người và lối sống của họ. Giai điệu của Requiem có làm nhân loại đời sau xúc động hay không chứ có ai thắc mắc Mozart sáng tác khi còn thanh xuân hay trong cơn chết của ông; hoặc băn khoăn vì sao mà ông viết một điệu ca bi ai đến thế đâu.
    Sự phân tích và lý luận của nhà văn Trần Mạnh Hảo về bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tăng cường độ đến mức cao điểm quanh vấn đề "học" khi anh trích lại lời của NHT nói rằng, những nhà văn Việt Nam trong hội nhà văn là "vô học".
    Tôi không có ý diễn dịch xa hơn và vẫn chưa hiểu cụm từ "vô học" đặt trong nháy nháy của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có cùng một khái niệm như từ "vô học" của nhà văn Trần Mạnh Hảo trích ra từ Ðại Từ Ðiển Tiếng Việt hay không. Ðối với một nhà văn, cái phẩm chất "học" thật khác xa với cái học quy ước của trường ốc. Không ai có thể phủ nhận được rằng kiến thức và kinh nghiệm là vũ khí cần thiết của nhà văn. Vốn tri thức là phương tiện tĩnh mà học vấn là phương tiện động của nhà văn. Chất liệu sáng tác của những nhà văn điển hình là đọc, đi và sống. Cuốn sách nhỏ trong trường học và thư viện cần phải có cuốn sách lớn ngoài đời làm bảo chứng. Nhà văn chỉ đọc mà không sống thực là làm "văn nói suông"; ngược lại, chỉ sống lăn lộn ngoài đời để tìm chất liệu sáng tác mà không chịu đọc và tham khảo sách vở là viết "văn nói đại". Văn nói suông và văn nói đại là mớ chữ nghĩa qua ngày chứ không phải văn chương đích thực.
    Rõ ràng là "cái học" của nhà văn không có cùng một khái niệm, một quy ước với sự học vấn thông thường trong hệ thống trường học chính quy. Mục tiêu của trường học là cung cấp kiến thức mà sự biểu hiện hữu hình và cụ thể là bằng cấp, học vị. Nhưng mục tiêu của nghệ thuật là nắm bắt sự rung động và diễn đạt sự rung động đó bằng phương tiện nghệ thuật mà sự biểu hiện cụ thể là tác phẩm. Một nhà văn không có tác phẩm xứng đáng cũng giống như chú học trò, người sinh viên không có văn bằng tốt nghiệp tương xứng với cấp học của mình. Học là một quá trình thu thập và vận dụng. Như thế "cái học" của nhà văn là gì? Theo tôi thì cái học của nhà văn là một sự tham dự trực tiếp vào hiện thực cuộc sống. Tham dự với trí óc và tâm hồn mở rộng để tiếp thu thế giới đối tượng vào trong tâm hồn và sự suy tư độc lập của chính mình. Từ đó sử dụng một cách năng động trong âm thầm và cô đơn qua trực giác, cảm nhận, kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh nội tại của chính mình để tái tạo cho mình một thế giới "không giống ai". Ðấy chính là sự độc sáng (uniqueness, personal creation) của nghệ thuật. Và, đấy cũng chính là cái mới của nghệ thuật. Sáng tạo là một tiến trình tìm ra cái mới từ trong cái cũ. Văn, thơ, nhạc, họa... cũng phải sử dụng phương tiện đã cũ, đã có sẵn hàng bao thế kỷ như ngôn ngữ, ký hiệu (chữ viết), âm thanh, màu sắc... để sáng tạo ra tác phẩm. Bởi vậy, "cái học" của nhà văn là cái học dấn thân (integration) và khám phá (discovery) để sáng tạo, chứ hoàn toàn không phải là cái học thu nhận thụ động, nhớ nằm lòng và tích lũy chờ cho đến ngày trả bài để được giám khảo đánh giá đậu hay hỏng, được hay thua. Những mảnh văn bằng cử nhân, thạc sĩ hay tiến sĩ chẳng phải là "điều kiện ắt có" để tạo ra văn chương và ngược lại.
    (tiếp)
  9. Zdreamer

    Zdreamer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2003
    Bài viết:
    2.582
    Đã được thích:
    1
    Trần Kiêm Đoàn
    Một cái nhìn từ xa về văn học Việt Nam hiện tại
    Tâm lý xa quê và tiếng Việt
    Khi sự cố đã thành cố sự, chuyện xẩy ra đã qua đi nhưng vẫn còn dấu vết, người ta quen xếp nó vào một trong hai ngăn: Ngăn kinh nghiệm hay ngăn kỷ niệm. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp xếp vào ngăn nào cũng không vừa. Không vừa chẳng phải vì nó quá lớn hay quá nhỏ mà chỉ vì nó không đủ tác động dằn vặt, chua xót, cay đắng, vinh quang, sung sướng hay tủi nhục để thành kinh nghiệm. Nhưng cũng chẳng đủ êm đềm, cảm khái, xúc động hay đam mê để trở thành kỷ niệm. Xếp vào đâu? Xếp vào ngăn hoài niệm: Ðó cái ngăn tình cảm không có khóa nên thường dễ nhớ khi tưởng như đã quên và lại quên khi tưởng rằng đang nhớ. Với cuộc sống nóng bỏng ở Mỹ, chỉ có những suy tư và "sự cố văn chương" là có vẻ vừa vặn để xếp vào ngăn hoài niệm đó, vì trên xứ sở quá thực dụng nầy, văn chương không phải là một nhu cầu mà chỉ là một thú tiêu khiển.
    Hơn hai chục năm sống xa quê hương trên đất Mỹ, hàng ngày nói tiếng Việt để thương và nói tiếng Anh để sống, tôi cứ ngỡ cái ngăn hoài niệm văn chương đó chỉ còn là quá khứ! Nhưng thực tế lại khác hơn điều suy nghĩ vì càng ngày, trong những năm về sau, tôi lại càng mở thường xuyên hơn cái ngăn hoài niệm đó.
    Những năm đầu chân ướt chân ráo đến Mỹ, cũng giống như bao người cùng trang lứa và đồng cảnh ngộ, tôi "tập quên" tiếng Việt để căng mắt, rướn người, uốn lưỡi, kiếm đà... nhảy cho qua bức tường lửa của ngôn ngữ. Cái ngăn hoài niệm bị thực tế và nhu cầu cuộc sống trước mắt phong tỏa. Năm năm đầu tôi không dám mở ra. Tôi "sợ" tiếng Việt cũng như sợ phim chưởng Hồng Kông. Quên đi thì chớ, chứ mở ra thì mê. Ðêm mê đọc tiếng Việt hay đêm mê thức trắng để xem phim bộ Hồng Kông, ngày mai dật dờ trong môi trường tiếng Mỹ, cầm chắc trong tay bị đuổi việc làm thì lấy gì để sống. Tôi có thể uống nước lạnh nằm nhà vài hôm... ngâm thơ, nhưng các cháu mà uống nước lạnh thì chỉ còn "ngậm thở"!
    Khi "bức tường lửa" của ngôn ngữ càng lụi dần thì ngăn hoài niệm từ từ mở ra như một sự kêu gọi vô hình mãnh liệt mà bố già phân tâm học nổi tiếng thế giới, Eric Erikson, gọi là một sự "quân bình về bản lai [1] " (equilibrium of identity).
    Trong văn học, người ta có thể giấu một đại lục dưới đáy biển, nhưng lại khó lòng mà giấu cái "bản lai Việt Nam" giữa những suy tư và trong từng con chữ. Cũng thế, có những tác giả đã thành danh, văn họ viết ra dù ký dưới bất cứ bút hiệu nào thì người đọc vẫn cảm thấy sự quen thuộc và gần gũi rất "cố tri"!
    Nhìn về cuộc tranh luận văn chương
    Từ phía bên nầy, tôi vừa được đọc 3 bài nhận định về tình hình nhà văn Việt Nam đương đại của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nhan đề: Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn. Tuy đã quen với văn phong và văn tứ của anh trong những chuyện ngắn thời danh như Tướng Về Hưu, Con Gái Thủy Thần, Như Những Ngọn Gió... tôi vẫn cảm nhận được chất lửa hừng hực của Nguyễn Huy Thiệp toát ra từ cả ba bài viết. Phản ứng tâm lý tức thời của một người có chút ít duyên nợ còm với văn chương, sống xa quê hương như tôi là thật sự xúc động. Xúc động không phải vì khả năng có thể đồng ý hay không với cách nhìn và nội dung của bài viết, nhưng là vì tác giả đã bất chấp búa rìu dư luận của giới nhà văn sẽ phản ứng mạnh khi bị động chạm, để viết ra một cách thẳng thừng những suy nghĩ của mình. Auraleo Perez, một nhà văn trẻ và cũng là một bác sĩ y khoa thuộc phái cách tân Nam Mỹ nói về ngôn ngữ văn chương: "Nội dung như nồi xúp, văn phong như ngọn lửa. Ðun lửa quá nhiều xúp sẽ bị cháy, khó nuốt và mất ngon; bật lửa ít biết xúp nấu bao giờ cho chín!" Như thế, có vẻ như người cầm bút cũng giống như người điều khiển vặn nút lò ga. Sự chọn lựa nào cũng ít nhiều kéo theo những hệ lụy tất yếu của nó. Tôi nghĩ là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã canh nút lò ga của anh để nấu món xúp văn chương theo tốc độ mà anh cần.
    Sau đó không lâu, tôi lại được đọc bài: Có thật đa số các nhà văn Việt Nam đều vô học, các nhà thơ đều lưu manh hay là ''hội chứng chửi có thưởng'' thời nay? của nhà thơ/nhà văn Trần Mạnh Hảo. Tôi đọc bài nầy cùng một đêm với những trang cuối của tác phẩm phê bình văn học Văn Học - Phê bình, Nhận diện của anh do Văn Học xuất bản năm 1999. Nhắc đến Trần Mạnh Hảo tôi thường nhớ đến những câu thơ tài hoa của anh nhiều hơn là các bài viết văn xuôi của anh. Có lẽ tại vì tôi cứ lẩn thẩn nghĩ rằng anh có "căn cơ" của một thiền sư "Ðổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn" khi đọc Giao Thừa Nhớ Rét với hai câu thơ đẹp như mây khói thảo am của anh:
    Rét quánh lại thành rêu trời xanh ngái
    Nhớ thịt đông mây trắng ngủ trong nồi
    Nguyễn Huy Thiệp và Trần Mạnh Hảo, cả hai đều là những khuôn mặt nổi tiếng trong văn giới nước nhà và hải ngoại hiện nay.
    Cũng giống như nhiều người Việt sống ở nước ngoài, nhưng vẫn còn quan tâm đến sinh hoạt văn học nghệ thuật ở quê nhà, chúng tôi vẫn cố giữ cho ngọn đèn tiếng Việt tiếp tục cháy trong lòng mình và trong lòng thế hệ trẻ Việt Nam giữa một xã hội đa chủng tộc và lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chính như Mỹ. Tuy ít có cơ hội tiếp cận thường xuyên với tác phẩm và sinh hoạt văn học nghệ thuật tại quê nhà, nhưng chúng tôi vẫn cố gắng bằng mọi phương tiện có được để không biến mình thành người "ngoại quốc" của văn học nghệ thuật Việt truyền thống và đương đại. Bởi vậy, chúng tôi không ngây thơ để cả tin vội vàng vào một nhận định bất cứ từ phía nào tới. Văn học nghệ thuật là một phần gia tài tinh thần quan trọng của văn hóa. Cho nên sự xây dựng, phê phán nghiêm khắc và nếu cần phá đổ... đều là một quá trình tổng hợp lâu dài. Quá trình đó là một chuỗi diễn biến và tác động qua lại nhiều hướng và nhiều chiều của sự kiện (facts) chứ không phải của ý kiến hay quan niệm cá nhân (opinions) đơn thuần. Khi xưa nhà thơ Cao Bá Quát có bịt mũi, nhăn mặt kêu lên: "Ngán thay cái mũi vô duyên/ Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An" thì khách yêu thơ có thể thích thú vỗ tay reo cười, nhưng Mặc Vân Thi Xã không vì thế mà thịnh đạt hay suy đồi vì hội thơ đó là một thực thể sinh động của thi ca chứ không phải chỉ là nhãn hiệu phù phiếm của khẩu hiệu và thần chú để người đời bái phục hay trêu chọc.
    Cũng thế, Hội Nhà Văn Việt Nam như thế nào thì đã có những tác phẩm của các thành viên trong hội tự nó nói lên tư chất của họ. Từ một góc độ tích cực nhất, tôi nghĩ rằng, một tổ chức văn học và gia tài tác phẩm văn học của tổ chức đó... nếu ngày nào vẫn được còn chú ý, vẫn được khen ngợi nhiệt tình hay bị chê trách gay gắt thì ngày đó vẫn còn xác định được thế đứng và tác dụng của mình trong lòng người đọc. Ðiều đáng sợ nhất cho một nhà văn hay một tác phẩm văn chương là hiện tượng ra đời và biến mất trong im lặng. Paul Eszlinger nói lên điều nầy một cách thấm thía trong tác phẩm Phê Bình Đương Đại (Contemporary Criticism), rằng: "Nhà văn và tác phẩm được coi như đã chết khi không còn ai biết hay nhớ để khen chê." Và, ông cũng nói tiếp: "Tất cả mọi sự khen và chê dù chủ quan hay khách quan; dù nhẹ nhàng hay thô bạo đều là tiếng kèn sống động thôi thúc nhà văn nên tự biết mình để tiếp tục cầm bút vươn lên hay ném nó đi và chọn một nghề khác thích hợp hơn."
    Cũng có khi những khuynh hướng luận bàn văn học Việt Nam không phát xuất từ phía người Việt mà lại phát xuất từ phía người Mỹ. Ðấy là trường hợp nhà thơ Mỹ John Balaban dịch thơ Hồ Xuân Hương và ca dao Việt Nam ra tiếng Anh quá sai lạc với nguyên bản tiếng Việt hay Nôm cũng đã gây ra nhiều tranh luận giữa chúng tôi và Art Times Journal về đề tài "To Translate is to Betray?" (Dịch là Phản?)
    Nói gọn lại thì các cuộc tranh luận văn chương, từ căn bản, mang bản tính lành mạnh của một thực thể văn chương chưa bị lụi tàn và quên lãng.
    Không lâu trước ngày ba bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận định về giới văn bút Việt Nam đăng trên báo Ngày Nay, tôi cũng đã có dịp nêu những ý kiến khiêm tốn của mình trong bài nhận định: Viễn ảnh một giải Nobel văn chương cho giới văn bút Việt Nam đăng trên các báo Xuân Việt ngữ tại Mỹ, Canada và Úc. Bài nầy cũng được các trang talawas và eVăn đăng lại. Qua bài nầy, sau khi điểm qua tác giả và tác phẩm tiêu biểu của giải Nobel thời cận đại, tôi đã nêu lên câu hỏi là tại sao đã ba mươi năm sau cuộc chiến Việt Nam, một cuộc chiến trường kỳ và có tác động rất lớn trên cả toàn thế giới như vậy, đến nay chúng ta vẫn chưa có những tác phẩm văn học xứng đáng với lịch sử và thời đại, mang tầm cỡ quốc tế? Tôi không phủ nhận tài năng của đa số nhà văn Việt Nam. Nhưng sự thắc mắc vẫn chưa giải tỏa được khi nhìn lại khoảng cách quá xa giữa nhà văn và tác phẩm, giữa văn tài và văn phẩm, giữa đội ngũ khá hùng hậu của nhà văn Việt Nam và sự vắng bóng của những tác phẩm văn chương có tầm cỡ lớn lẽ ra đã có.
    Ðến khi đọc phần nhận diện và phân tích các nhà văn, nhà thơ của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tôi hơi bị chững lại. Vốn đã quen với thủ pháp diễn đạt tài hoa nhưng cũng cực kỳ bạo liệt trong một số truyện ngắn đã xuất bản của anh, tôi vẫn cảm thấy quá nhiều chất lửa khi anh nói về nhà văn, nhà thơ Việt Nam bằng ngôn ngữ gay gắt, không khoan nhượng. Rất có thể vì quá say sưa trong lý luận và phân tích về tư chất và phẩm cách của giới nhà văn Việt Nam đương đại, nên anh chưa có những dẫn chứng cụ thể mang tính thuyết phục cần thiết để làm căn bản cho nhận định của anh, và đồng thời cũng làm giảm bớt sự phê bình phản bác gay gắt, nếu có. Theo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thì đương đại hầu như đồng nghĩa với "suy đồi" (?). Tác giả viết: "Các nghệ sĩ sống trong thời hiện tại không thể tránh được sự dung tục, nhảm nhí, không thể tránh được bọn tiểu nhân, bọn phàm phu tục tử, lưu manh, philillistanh, ngụy quân tử v.v..." Như thế có nghĩa là hoàn cảnh sáng tác suy đồi hay chính bản thân lớp nhà văn Việt Nam hiện đại suy đồi? Và, nếu sự suy đồi nầy có thật, dù ở phía bên nào, thì đấy là một khái niệm mang tính triết lý, tâm lý, xã hội hay là một hiện thực có thể kiểm nghiệm được trong sự đối thoại với giò hoa thủy tiên của anh?
    Phản ứng trực tiếp và nhanh chóng đối với bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là bài nhận định của nhà thơ/nhà văn Trần Mạnh Hảo. Là một nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo có nhiều tác phẩm thi ca và công trình biên khảo đã xuất bản, lần nầy, bài nhận định của nhà phê bình văn học Trần Mạnh Hảo xuất hiện có vẻ như không cùng một tần số với bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Thay vì cùng nhồi bóng trên sân chơi với cầu thủ Nguyễn Huy Thiệp để tranh tài cao thấp, làm bàn tung lưới đẹp mắt, thì trọng tài Trần Mạnh Hảo nghiêm khắc thổi còi phạt cầu thủ vượt quá lằn ranh giới hạn. Việc đánh giá sự tỉnh táo và suy diễn mục đích của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi viết bài nhận định nêu trên không quan trọng bằng sự phân tích và nhận định chân dung giới nhà văn Việt Nam hiện nay "như thế nào". Nhất là khi Trần Mạnh Hảo muốn xác lập một hướng nhìn hầu như ngược lại với Nguyễn Huy Thiệp. Tinh hoa của nhà văn, nhà thơ là tác phẩm sáng tạo của chính họ chứ không phải những phụ dung quanh con người và lối sống của họ. Giai điệu của Requiem có làm nhân loại đời sau xúc động hay không chứ có ai thắc mắc Mozart sáng tác khi còn thanh xuân hay trong cơn chết của ông; hoặc băn khoăn vì sao mà ông viết một điệu ca bi ai đến thế đâu.
    Sự phân tích và lý luận của nhà văn Trần Mạnh Hảo về bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tăng cường độ đến mức cao điểm quanh vấn đề "học" khi anh trích lại lời của NHT nói rằng, những nhà văn Việt Nam trong hội nhà văn là "vô học".
    Tôi không có ý diễn dịch xa hơn và vẫn chưa hiểu cụm từ "vô học" đặt trong nháy nháy của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có cùng một khái niệm như từ "vô học" của nhà văn Trần Mạnh Hảo trích ra từ Ðại Từ Ðiển Tiếng Việt hay không. Ðối với một nhà văn, cái phẩm chất "học" thật khác xa với cái học quy ước của trường ốc. Không ai có thể phủ nhận được rằng kiến thức và kinh nghiệm là vũ khí cần thiết của nhà văn. Vốn tri thức là phương tiện tĩnh mà học vấn là phương tiện động của nhà văn. Chất liệu sáng tác của những nhà văn điển hình là đọc, đi và sống. Cuốn sách nhỏ trong trường học và thư viện cần phải có cuốn sách lớn ngoài đời làm bảo chứng. Nhà văn chỉ đọc mà không sống thực là làm "văn nói suông"; ngược lại, chỉ sống lăn lộn ngoài đời để tìm chất liệu sáng tác mà không chịu đọc và tham khảo sách vở là viết "văn nói đại". Văn nói suông và văn nói đại là mớ chữ nghĩa qua ngày chứ không phải văn chương đích thực.
    Rõ ràng là "cái học" của nhà văn không có cùng một khái niệm, một quy ước với sự học vấn thông thường trong hệ thống trường học chính quy. Mục tiêu của trường học là cung cấp kiến thức mà sự biểu hiện hữu hình và cụ thể là bằng cấp, học vị. Nhưng mục tiêu của nghệ thuật là nắm bắt sự rung động và diễn đạt sự rung động đó bằng phương tiện nghệ thuật mà sự biểu hiện cụ thể là tác phẩm. Một nhà văn không có tác phẩm xứng đáng cũng giống như chú học trò, người sinh viên không có văn bằng tốt nghiệp tương xứng với cấp học của mình. Học là một quá trình thu thập và vận dụng. Như thế "cái học" của nhà văn là gì? Theo tôi thì cái học của nhà văn là một sự tham dự trực tiếp vào hiện thực cuộc sống. Tham dự với trí óc và tâm hồn mở rộng để tiếp thu thế giới đối tượng vào trong tâm hồn và sự suy tư độc lập của chính mình. Từ đó sử dụng một cách năng động trong âm thầm và cô đơn qua trực giác, cảm nhận, kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh nội tại của chính mình để tái tạo cho mình một thế giới "không giống ai". Ðấy chính là sự độc sáng (uniqueness, personal creation) của nghệ thuật. Và, đấy cũng chính là cái mới của nghệ thuật. Sáng tạo là một tiến trình tìm ra cái mới từ trong cái cũ. Văn, thơ, nhạc, họa... cũng phải sử dụng phương tiện đã cũ, đã có sẵn hàng bao thế kỷ như ngôn ngữ, ký hiệu (chữ viết), âm thanh, màu sắc... để sáng tạo ra tác phẩm. Bởi vậy, "cái học" của nhà văn là cái học dấn thân (integration) và khám phá (discovery) để sáng tạo, chứ hoàn toàn không phải là cái học thu nhận thụ động, nhớ nằm lòng và tích lũy chờ cho đến ngày trả bài để được giám khảo đánh giá đậu hay hỏng, được hay thua. Những mảnh văn bằng cử nhân, thạc sĩ hay tiến sĩ chẳng phải là "điều kiện ắt có" để tạo ra văn chương và ngược lại.
    (tiếp)
  10. Zdreamer

    Zdreamer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2003
    Bài viết:
    2.582
    Đã được thích:
    1
    (tiếp)
    Cái "học" của những nhà văn lớn là sự dấn thân vào môi trường mà họ muốn viết. Họ học bằng cách sống thật, bằng sự quan sát, phân tích và suy tư đến tận cùng sâu thẳm thế giới riêng tư, trần trụi, cũ mèm và mới tinh nguyên trong chính họ, xung quanh họ, thiết thân đối với họï. Thế giới nội tâm đó bao la và vĩ đại quá đối với một nhà văn, nhưng dường như "chẳng có gì đáng nói" đối với cuộc đời thường. John Steinbeck trong tác phẩm Chùm Nho Uất Hận (The Grapes of Wrath) đã chọn cuộc sống của gia đình Joad, một gia đình di dân xuất thân lang thang làm thuê ở nông trại. Những "biến cố" trong toàn bộ câu chuyện đều là những sự việc bình thường trong cuộc đời thường. Ernest Hemingway trong Ngư Ông và Biển Cả (The Old Man and the Sea) cũng chỉ quanh quẩn với ông già Santiago và con cá mập để độc thọai với biển khơi. Toni Morrison trong Bài Ca Solomon (Song of Solomon) cũng giới hạn trong thế giới của Milkman Dead một người đàn ông trung lưu, bình thường đi tìm lại gốc gác của mình. Cao Hành Kiện với Linh Sơn (Soul Mountain), chẳng cần những củ sâm 1000 năm của tiểu thuyết Kim Dung mới xây dựng được thế giới diệu kỳ cho tác phẩm. Thế nhưng họ đã xây dựng được những tác phẩm lẫy lừng trên văn đàn thế giới bằng những chất liệu "bình thường" như thế. Nếu tìm hiểu sâu hơn lịch sử đời tư của họ, chúng ta sẽ thấy được những nhà văn lớn đó đã dấn thân và "học" như thế nào.
    Phải chăng đấy là cái "học" cần thiết cho người cầm bút mà nhà văn Nguyễn Huy Thiệp muốn nói đến?
    Nếu có một "hội nghị văn học" nào đó cho những người cầm bút Việt Nam, tại quê nhà cũng như ở nước ngoài, có lẽ những ưu tiên cần nói với nhau trong lúc nầy là sự định hình lại giá trị đích thực của nội dung và sinh hoạt văn chương. Ðiều gì nhà văn cần nói với nhau trước nhất? Ðâu là tiêu chí của sự định hình đó? Có thể là (1) sự dấn thân của nhà văn, (2) bản lĩnh và phẩm cách của nhà văn, (3) cái mới trong văn chương, và (4) cái "học" của nhà văn... chăng?
    Hội văn chương xưa nay là giàn phóng của nhà văn chứ không thể là pháo đài núp bóng của nhà văn. Hội nhà văn bất cứ ở đâu là chiếc thuyền ra khơi của nhà văn chứ không phải là phương tiện để trở về bến đậu của nhà văn. Ða phần các Hội Nhà Văn ở Âu châu và Mỹ châu là một môi trường thi thố và thử thách tài năng chứ không phải là những câu lạc bộ để trải chiếu hoa cạp điều mời nhau nhập cuộc mà đấu đá, ca nhau hay cùng nhau "dấn thân"... vào ngõ cụt! Sau một thời gian nhập hội, những nhà văn nào cảm thấy mình không còn sáng tác được nữa thì tự động xin ra khỏi hội để giữ danh tiếng cho hội và khí tiết của nhà văn chứ không thể ngồi lỳ dưới bóng râm của hội để tính chuyện lão làng. Những hội nhà văn như L''Association Professionelle des Écrivains de France, Academie des Écrivains Publics de France (Pháp) hay National Writers Association, National Association of Women Writers, Southeastern Writers Association (Mỹ)... định nghĩa giá trị hội viên của họ bằng tác phẩm trình làng cụ thể và rất chật chỗ lẫn hà tiện cho sự phát triển khuynh hướng "sống lâu ra lão làng".
    Theo tôi nghĩ thì cuộc bút luận về nhà văn trong nước hiện nay mới chỉ là sự cựa mình của con rồng nghệ thuật Việt Nam. Con rồng đó cần phải có sự chuyển mình mạnh mẽ để bay cao, đuổi kịp những bước đi đầy khai phóng của thế kỷ mới.
    Thay lời kết luận
    Tôi viết những dòng nầy từ một nơi mà thời gian đến sau Quê Mẹ của tôi đến 18 giờ. Sau một ngày làm việc, tôi mang cái máy vi tính xách tay vào trong quán cà phê Starbucks [2] , kêu một ly cà phê và mở máy ngồi gõ lóc cóc một mình. Thế giới xung quanh là một thế giới Mỹ. Có chăng một chút Việt Nam còn lại là những dòng chữ La Tinh có dấu nầy và một tấm lòng thương nhớ quê hương. Tôi viết những dòng nầy như những cảm nghĩ xuôi dòng nhưng cũng đầy xúc cảm. Xúc cảm khi nghĩ về những khuôn mặt thân thương của những người anh em trong trường văn trận bút ở quê nhà. Tôi rất chủ quan để nghĩ rằng, từ trong sâu thẳm của tâm thức, tất cả chúng ta đều ước mong những điều tốt đẹp nhất đến với quê hương mình. Riêng trong lĩnh vực văn chương, chúng ta đã và đang có cơ hội từng bước góp mặt với những trào lưu văn nghệ thế giới mà cụ thể là sự ra đời và góp mặt của những tác phẩm văn chương mang tầm cỡ quốc tế trong những năm sắp tới. Vốn đã hơi quen với cuộc sống đầy cạnh tranh gay gắt ở Mỹ và cách đặt vấn đề đầy tính chất đương đầu và sáng tạo, tôi không nghĩ sự trưởng thành và bản lĩnh của giới văn bút thuộc thế hệ chiến tranh Việt Nam là đang bằng lòng và bảo thủ với những gì mình đang có. Nghề viết văn là một nghề "nghiệp chướng". Một phút nhà văn không suy nghĩ đến những điều mình phải viết và sắp viết là một phút phi sáng tạo. Cần phải có sự truy tìm sâu và xa hơn trong sáng tạo. Những mũi nhọn chích vào bức tường cũ để hé ra những tia sáng mới trong văn chương bao giờ cũng nhức nhối và đầy trăn trở. Khi một chân trời đã hiện ra thì hẳn nhiên những mũi nhọn đó sẽ thành những song cửa ngắm trăng. Nếu nhìn theo một khía cạnh tích cực như thế thì những mũi nhọn Nguyễn Huy Thiệp không phải là một sự tấn công mà là một sự đánh thức. Mong sao trong những cuộc luận đàm văn chương, chúng ta ghi nhận hình ảnh mộc mạc "Nồi xúp và ngọn lửa" của Perez mà tôi đã trình bày ở phần trước. Chắc sẽ không ai mong chỉ có "lửa non" để sưởi ấm nằm ngủ quên hay bồi "lửa già" cho nóng mặt, bỏng tay rồi quên đi món xúp văn chương mà các nhà văn đang đặt nấu ở trên lò. Tôi chỉ xin phát biểu những suy nghĩ rất chân tình phát khởi tự đáy lòng mình. Nếu không có ai nghe thì cầm bằng như chiều nay tôi đang say mê nói tiếng Việt mẹ đẻ trong quán cà phê Starbucks toàn Mỹ là Mỹ nầy. Bên ly cà phê nhạt thếch kiểu Mỹ ở phía sau mặt trời đang đứng bóng ở quê hương, tôi say sưa độc thoại?!
    California, Mùa Xuân 2004
    © 2004 talawas
    --------------------------------------------------------------------------------
    [1]Identity: Có người dịch là lai lịch; người khác dịch là bản sắc. Nhưng trong khái niệm của phân tâm học hiện đại thì "Identity" vừa có nghĩa là lai lịch mà cũng vừa có nghĩa là bản sắc. Người Viết bài nầy xin tạm dịch là "bản lai".
    [2]Starbucks: Một hệ thống quán cà phê nổi tiếng trên toàn nước Mỹ. Khách hàng có thể vào quán gọi một ly cà phê và ngồi đó suy nghĩ, chuyện trò hay viết lách cho đến 10 giờ đêm mà không lo bị ai quấy nhiễu.

Chia sẻ trang này