1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nguyễn Huy Thiệp-Trò chuyện với hoa thủy tiên

Chủ đề trong 'Văn học' bởi hoangvan09, 07/04/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Hoàng Ðức-Bàn về thực chất văn phẩm của Nguyễn Huy Thiệp
    Khi tôi bước vào văn học thì tiếng tăm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã như tiếng sét nối tiếp rền vang. Cả một chuỗi sét rền vang, nhưng tựu chung chỉ tụ quang một tiếng "Nguyễn Huy Thiệp - tác giả của Tướng về hưu". Càng ngày tôi càng thực chứng tiếng sét này. Lần nào cũng vậy, mỗi lần đến thăm nhà anh, nếu có một "độc giả - nghiên cứu" nào từ phương Tây đến, thì đều hỏi anh hai câu chính:
    1. "Tướng về hưu" anh viết có dựa trên cốt chuyện thật nào không?
    2. Anh đã từng viết tiểu thuyết chưa ?
    (Câu trả lời luôn luôn là "chưa từng", mới đây tôi biết anh Thiệp có ra mắt cuốn tiểu thuyết "Tuổi hai mươi yêu dấu" - 200 trang).
    Văn của Nguyễn Huy Thiệp, điểm mấu chốt nhất theo tôi: Tướng về hưu vừa là vé vào cửa vừa là vương miện.
    Bàn về Nguyễn Huy Thiệp nói riêng và văn học Việt Nam nói chung thật khó. Như chúng ta đã biết, ngay các giải thưởng của Hội Nhà Văn hẳn hoi, trao giải rồi nhưng khép lại tranh luận không để cho các cây bút khác cùng độc giả có thể nhận ra giá trị của giải thưởng, mong học hỏi cũng như tôn vinh. Ðúng là kiểu "ấp úng như ngậm hột thị". Không rõ có phải các tác phẩm được giải như quả thị kia "chỉ ngửi không ăn được", mà người ta vẫn ăn, nên đành ngậm hột, ấp úng không nói lên lời? Với bản thân tôi, chưa kịp nhận xét về Nguyễn Huy Thiệp hay các tác giả khác vài câu đã bị người đối thoại cố tình chụp cho chiếc mũ "không đủ tài văn chương thì đố kị". Ngược lại, hơn mười năm qua, dường như tôi chưa gặp nổi một khuôn mặt đưa ra nhận xét về tác giả này hay tác phẩm kia một cách có chứng lý đàng hoàng. Tất cả chỉ nói "tôi đọc thấy thích".
    Trước khi đi sâu vào nghiên cứu tài năng của tác giả Nguyễn Huy Thiệp, tôi xin đưa hai nhận xét đã ủ kỹ. Từ lâu tôi đã thẳng thắn thừa nhận: Nguyễn Huy Thiệp là tác giả vượt trội hơn hẳn các cây bút cùng thời mình bởi hai lý do tự thân chính sau:
    1. Anh viết bằng một mặc cảm người bị điều lên công tác miền núi, xứ khỉ ho cò gáy, sau là mặc cảm quê mùa, sau nữa là mặc cảm tiểu thị dân ở ven đô.
    2. Anh viết bằng một sự mẫn cảm, một cẩn trọng, một run rẩy hiếm có. Mỗi truyện ngắn có thể viết trong vài tháng. Truyện "Sang sông", theo anh nói, viết khá nhanh đã phải mất hàng tuần.
    Khi tôi nói Nguyễn Huy Thiệp viết văn bằng mặc cảm miền núi và quê mùa, không phải cách dè bỉu, mà chữ "mặc cảm" ở đây được dùng theo lối trọng thị, như việc Napoléon mặc cảm là người đảo Corse. Chính bởi mặc cảm này Nguyễn Huy Thiệp đã run rẩy, cẩn trọng nhích từng bước thao thức vào văn chương. Và tạo ra một hiệu quả - một thành quả hơn hẳn các cây bút cùng thế hệ với mình.Có thể nói, sự kiện Nguyễn Huy Thiệp là sự kiện rạn nứt - làm rách ra bức tranh của văn học đương thời. Một bên là những cây bút vẫn còn chầu rìa ăn tem phiếu bao cấp, xếp hàng viết sản xuất ra những tác phẩm mậu dịch quốc doanh nhất loạt. Còn bên kia Nguyễn Huy Thiệp đã nhảy vọt qua thời mở cửa kinh tế thị trường.
    Sự kiện Nguyễn Huy Thiệp bứt phá từ văn bao cấp mậu dịch sang văn thời thị trường đúng cả về nghĩa bóng và nghĩa đen. Hoạ sĩ Hồng Hưng, một người không xa lạ gì với Nguyễn Huy Thiệp cả về con người và bút pháp vẫn thường nói: "Thiệp là cây bút cập thời vũ". Nghĩa là người được gặp thời. Ðúng lúc nhà nước thực hiện mở cửa thị trường còn chưa kịp kiểm soát, thì "Tướng về hưu" nhanh chóng chui lọt vào cửa báo Văn Nghệ. Sau đó nhà nước thực thi "mở cửa có kiểm soát" thì chẳng có tác giả nào có thể trình làng một văn phẩm "hiện thực" như Tướng về hưu.
    Nguyễn Huy Thiệp tài hơn hẳn các nhà văn cùng thế hệ, nhưng tài hơn đến đâu? Liệu anh có ra khỏi nhận xét chung của Hội Nhà Văn: Nước ta chỉ có tác phẩm bé và vừa? Liệu cái hay, cái tài, cái khéo, cái nhiệt huyết, cái miệt mài, cái cô đúc các xúc cảm mặc cảm của "Những bài học nông thôn", "Chảy đi sông ơi" "Thương nhớ đồng quê"... có chắp nổi đôi cánh tư tưởng để bay vượt qua vòm cung thời đại hay vẫn chỉ là thứ cò - dù đẹp - dù mẫu mã thị trường bay lả bay la trên cánh đồng quê lam lũ? Muốn trở thành tác giả lớn, mới chỉ có miệt mài lớn thì chưa đủ, mà phải có tư tưởng lớn, tri thức lớn! Từ bé đến giờ, đọc đã khá nhiều sách, tôi chưa gặp một tác giả nào vĩ đại trên thế giới mà chỉ cầu may vào cái gọi là tài năng, trong khi đó tri thức thấp, tư tưởng thấp, nhân cách thấp.
    Tất cả cái gọi là lương tri, tư tưởng, nhân cách lớn, đều phải bắt nguồn từ tri thức. Từ tri thức mới có lương tri, rồi mới sinh tư tưởng. Tri thức của Nguyễn Huy Thiệp ở cỡ nào? Tất nhiên anh đã tốt nghiệp Ðại học Sư phạm, khoa sử. Nhưng nước ta ngày nay có cả triệu sinh viên, và đến vài triệu sinh viên đã tốt nghiệp. Các nhà giáo qua họp mặt mới đây nói rằng, trình độ đại học ở ta đang ở mức học sinh cấp bốn. Tóm lại trình độ đại học với số cả triệu - triệu người, mới chỉ là mức văn hoá phổ thông nâng cao. Ðể kiếm một nơi ấm chỗ có công ăn việc làm thì "đủ", nhưng để trở thành nhà văn tầm vóc vĩ đại thì trời ơi còn thiếu nhiều lắm. Kể ra thì trình độ học vấn của Nguyễn Huy Thiệp cũng được đào tạo chính quy hơn hẳn các cây bút đào tạo cấp tốc thời chiến, học dở cấp ba, vừa lao động sản xuất, vừa phục vụ chiến đấu, vừa cầm bút. Nhưng mà "trông lên vẫn chẳng bằng ai".
    Dẫu vậy, tại sao không chỉ bạn đọc mà có rất nhiều cây bút ảo tưởng rằng dù học vấn có hạn, nhưng trời phú cho ta, một tài năng bẩm sinh hơn người, như con sáo không cần tập hót vẫn hót hay, ta không cần cố gắng có nhiều đầu vào vẫn nhả tơ may mắn ở đầu ra, và được hơn người. Ðây là tâm lý cầu may tiểu nông, như nạn chơi lô, chơi đề tràn lan hiện nay. Không muốn trồng cây lại muốn hái quả. Cầu may, mong được may mắn hơn người, trúng tài năng như trúng số độc đắc, bỗng ngày nào tay trắng nổi cơ đồ. Theo các nhà mỹ học, đây là cách nghĩ thụ động của hạng nô tài, mà đã cầu may kiểu nô tài, thì không thể nào thành tài lớn được. Triết gia Nietzsche nói: "Chúng ta không nên đón nhận mà phải sáng tạo. Chúng ta không hèn đến mức ngửa tay xin sự bố thí của thần thánh". Cách tu dưỡng tri thức, chữ nghĩa, nhân cách ít ỏi của nhiều người, sau đó nằm cầu may ta có thiên phú hơn người, hoàn toàn là lối "ăn mày thần thánh". Ðể khỏi rơi vào võ đoán, chúng ta hãy nghe chính Nguyễn Huy Thiệp thừa nhận. Trong báo An Ninh Thế Giới cuối tháng số 20 tháng 4 năm 2003 vừa ra (talawas, 07/5/2003), Nguyễn Huy Thiệp trả lời phỏng vấn.
    Về việc cầu may: "Cũng có người nói như thế, thiên tài 99% là kiên nhẫn, còn 1% còn lại là thiên phú. Cũng có người nói ngược lại, 99% là trời mang đến. Theo tôi thì nó có cả hai yếu tố đấy 50 - 50".
    Một nhà văn đòi lớn mà lại đòi cầu may đến 50% thì thật hết chỗ để lùi. Một cách không thể nào cãi được, triết gia Aristote cho rằng: Dù con người học bất cứ ngành nào, thời gian học chữ cũng là công phu nhất. Chữ nghĩa như vậy, theo ông, đó là con đường giáo hoá bản năng, nó càng mang sứ mệnh "nhân tạo" mới càng vĩ đại, vì khi đó nó chứng tỏ tác phẩm sáng tạo là của con người chứ không phải của thiên nhiên. Một cách chính thống, xưa nay chưa một nhà mỹ học dù cách tân đến đâu có thể vượt qua nguyên lý: Nghệ thuật - văn chương là Nhân tạo! Vậy mà Nguyễn Huy Thiệp lại đòi cầu may trời phú đến 50%, có khác nào một hang đá tự nhiên chẳng tài cán gì, được gió thổi qua, bỗng có tiếng hú như là tiếng sáo.
    Có một điều hệ trọng cốt tử là, xưa nay, từ cổ chí kim, từ đông chí tây, từ đạo chí đời, chưa một ai thoát khỏi nguyên lý "Nhân - Quả", trồng cây nào hái trái ấy. Vậy Nguyễn Huy Thiệp có cầu may được đầu vào ít, đầu ra thì vĩ đại không? Và những cây bút cùng các bạn đọc thiếu lý trí thẩm định chỉ biết a dua liệu cũng có thể mong chờ vào cơ may trúng số để nhảy vọt khỏi vòng nhân - quả?
    Về tri thức cũng như nhân cách, Nguyễn Huy Thiệp trả lời như sau: "Ðương nhiên. Thế nhưng trong cái nọ lại có cái kia. Trong thiện có ác, trong ác có thiện. Trong cái thị có cái phi, trong cái phi có cái thị. Trong cái phải có cái quấy, trong cái quấy nó cũng có cái phải của nó".
    Các nhà triết học và đạo đức học gặp nhau ở chỗ: Lương tâm con người cốt ở sự hiểu. Vì không biết cái tốt để làm, cái xấu để tránh thì làm sao có thể đạt tới đạo đức. Vì thế người ta mới gọi là "Lương tri". Vậy thì cái lối trong ác có thiện của Nguyễn Huy Thiệp nêu trên, đã được các học giả Trung Quốc gọi là ba phải, trung dung, tuỳ tiện. Còn người Việt thì gọi đó là "nôm na mách qué", "dở ông dở thằng", "nửa nạc nửa mỡ", và là bạc nhạc, bầy nhầy. Nhẹ thì như khí có thể bay, nặng như nước có thể chảy, đằng này lại chỉ là thứ nửa nước - nửa khí hoá sương mù "bạc nhạc". Chính thế, mà Nguyễn Huy Thiệp đã thú nhận:
    "Nhiều chứ! Tôi cũng là một con người dao động, là một con người cũng thiếu tự tin? ừ! Hay tôi là một cái thằng có thể nói là hèn, ít chịu hy sinh mà cũng không dám mất nhiều".
  2. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Hoàng Ðức-Bàn về thực chất văn phẩm của Nguyễn Huy Thiệp (2)
    Nhận mình là hèn, đúng là binh pháp của Hàn Tín sẵn sàng luồn chôn để tồn tại. Thử hỏi làm sao văn học Việt còn chưa chạm đến nổi các hàng rào của danh dự, lương tri, cũng như tư tưởng?
    Người đời luôn biết, cái gì không hợp qui luật thì không thể tồn tại. Các tác phẩm nghệ thuật cũng vậy, muốn có được giá trị chung thuộc về công lý phải ra công truyền để mọi người cùng bàn đi xét lại. Xưa nay, nhân loại chưa gặp một giá trị nào dù khó đến đâu đem ra công truyền lại thất bại. Ngược lại chỉ những thứ bí truyền mới là thứ vừa ích kỷ, vừa gây tội lỗi. Vậy để tìm đến giá trị thực của Nguyễn Huy Thiệp, tôi xin đi sâu vào mấy điểm. Trước hết là:
    1. Nguyễn Huy Thiệp nổi tiếng trên mặt bằng bạn đọc nào?
    Triết gia Nietzsche có nói: "Một dân tộc có thiên tài không quan trọng bằng cách chấp nhận thiên tài của dân tộc đó". Ðây là một sự thật hiển nhiên đến mức, dân tộc nào trước hết cũng lo đào tạo Dân trí rồi mới lo đến có thiên tài. Bởi lẽ, một dân tộc không biết trồng nho làm sao đòi uống rượu vang ngon; một dân tộc không có kỹ nghệ luyện kim thì làm sao có thể làm tầu vũ trụ?
    Vậy, cách tiếp xử văn học ở ta đang ở mức nào? Một lần trong một ngày lễ lớn, tôi có ngồi ăn cạnh một mâm gồm nhiều người trên trung lưu của xã hội - từ tiền của, địa vị, đến học vấn đều ở mức khá hơn người. Rượu được vài tuần, họ bắt đầu phun châu nhả ngọc những lời văn học, nào là":
    ?" "Trẻ con không biết ăn thịt chó!" ám chỉ truyện ngắn của Nam Cao. Rồi:
    ?" "Tắt đèn nhà ngói như nhà tranh", ám chỉ truyện "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố. Và thoả mãn khi mời nhau:
    ?" "Mỗi các cụ chim to lên mâm trên", ám chỉ một câu trong một truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
    Vậy đấy, hầu hết bạn đọc Việt Nam mới chỉ ở mức lấy thơ, lấy văn ra đùa nghịch. Chưa nói bạn đọc, ngay các nhà thơ, tết Nguyên Tiêu Quí Mùi vừa qua còn mở lễ hội thơ, đánh trống rước cờ, như chơi hội làng, đúng là còn mang nặng tư duy vui chơi làng xã của nền văn minh lúa nước. Chỉ với vài câu trên, mấy chàng trí thức nửa mùa đã hí hửng nghĩ rằng ta đã băng tắt qua cả "lịch sử văn học đương đại".
    Còn cách đọc thì sao? Ðọc ai, khen ai, chê ai, xổ toẹt, họ chỉ cần nói "Tôi thấy thích!" "Tôi thấy xúc động!" "Tôi thấy vào lắm!"? Ðây là cách trực cảm bản năng, mà hai triết gia Platon và Aristote đã chỉ rõ: Trực cảm bao giờ cũng là thụ động và mang tính nô tài, bởi lẽ trực giác luôn luôn cần đối tượng để mà cảm. Chẳng hạn, xúc giác cần chạm vào vỏ cây để thấy xù xì, thính giác cần nghe tiếng xột soạt của vải vóc để thấy mê mẩn, thị giác cần nhìn ngũ sắc để thấy hay? Mà đã phụ thuộc vào đối tượng cũng như các trực giác của mình thì không thể nào trở thành: người sáng tạo được! Làm sao có thể coi một người là sáng tạo khi anh ta là nô lệ cho chính trực giác của mình? Vì thế, nền văn học của chúng ta đầy rẫy những cây bút bắt chước, Nguyễn Huy Thiệp cũng không vượt ra khỏi thông lệ đó, khi bút pháp của anh gần 99% là bắt chước lối "dã sử kiểu Tầu". Còn bạn đọc, thì than ôi trong vài năm tôi chưa gặp nổi một khuôn mặt coi thưởng thức văn chương là việc nghiêm túc, trái lại chủ yếu là số a dua, ăn theo nói leo, tồi tệ hơn, có nhiều người khen người này chê người kia, chẳng qua lấy chính tác giả và tác phẩm làm lá chắn che đỡ cho đời sống dục vọng ích kỷ, chỉ muốn thúc thủ vinh thân phì gia. Hầu hết muốn sáp vô chơi với văn chương theo kiểu lễ hội làng, "vui đâu chầu đấy". Khi tôi nói vậy, xin quý độc giả chớ vội tự ái, mà ngay đây tôi sẽ xin nêu ra những nhà văn có danh tiếng hẳn hoi bàn về Nguyễn Huy Thiệp ấm ớ thế nào.
    Nhiều nhà văn khá có tiếng nói về văn của Nguyễn Huy Thiệp thế này: "Văn Thiệp hay lắm!", "Thiệp viết ma lắm!" Tóm lại họ muốn diễn tả: Nguyễn Huy Thiệp viết văn, có khả năng lung lạc tâm hồn người si mê như quỉ thần. Thật buồn cười, "viết ma lắm", chẳng nằm trong bất cứ tiêu chí mỹ học nào, và người nói vậy đã muốn chứng tỏ: không thể nào phân tích được đâu. Có nhiều người khác, khi nghe vậy liền phản đối, họ nói: "Phật một tấc, ma ba trượng". Nghĩa là làm phật, làm thần thánh, thì tiến lên một tấc cũng khó, trong khi đó làm ma cao ba trượng dễ như trở bàn tay.
    Có một nhà văn trẻ khác, còn suýt xoa tán tụng rằng: "Thiệp đưa *** vào văn học hay thật, không dung tục, mà rất thanh cao". Tôi liền hỏi "*** thanh cao thế nào?" Anh ta liền trả lời: "***, Thiệp viết không giống người, khác lắm!" Cũng về chuyện này, mấy lần hoạ sĩ Hồng Hưng có nói với vài người trong đó có tôi là: "Tôi nhiều lần đã nói với Nguyễn Huy Thiệp, ông là người có công đưa *** tươi vào văn học".
    Gần đây, có anh bạn hoạ sĩ khá nổi tiếng ca tụng hết lời rằng: "Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn thiên tài vĩ đại". Tôi hỏi, anh chứng minh đi, anh ta bảo: "Ðọc văn Thiệp tôi thấy thích lắm!" Tôi nói: "Thích mới là tiêu chí thấp nhất của mỹ học" Sau đó, tôi hỏi anh ta: "Anh tự nhận là bạn đọc mỹ học hay bạn đọc bình thường?" Sau một lúc ấp úng anh ta nói: "Tôi chỉ là bạn đọc bình thường yêu thích văn của Nguyễn Huy Thiệp thôi". Tôi liền bảo: "Anh không có tư cách pháp nhân cũng như đại biểu để bàn về văn học, vì trước ca mổ, y bác sĩ hội chẩn không thể nào cho phép mấy ông bà vu vơ vào hội chẩn. Nếu anh là bạn đọc bình thường, thì khác gì trăm, vạn, nghìn người khác, anh xe thồ, cô bán rau ở ngoài kia, sao có thể xét đoán tầm vóc của một nhà văn?"
    Phần lớn các bạn đọc xứ ta đều quan niệm nghệ thuật là cái gì để vui, để thích. Vậy "văn dĩ tải đạo" mệt lắm rồi! Kết thúc phải có hậu cổ điển lắm rồi! Ðạo đức giáo huấn theo kiểu người tốt việc tốt mệt lắm rồi! Và văn của Nguyễn Huy Thiệp cho người ta được yên chí về dục vọng của mình "vì trong cái tốt có cái xấu, trong cái xấu có cái tốt lo gì!" Ðây là quan niệm lệch lạc vô cùng ấu trĩ và khuyết tật. Xưa nay chưa có nhà văn nào trở nên vĩ đại mà từ bỏ con đường đạo lý. Ðạo lý là qui luật lớn nhất của con người. Hơn cả thế, đó là luật trời nổi xuống luật người. Từ I-liat và Ô-đi-xê của Homer, cho đến Vua Lia của Shakespeare, đến "Chiến tranh và hoà bình" của L. Tolstoi, đến Dịch hạnh của Camus, Vụ án của Kafka? Chưa ai có thể đi ra khỏi đạo lý - cũng là qui luật sống còn của loài người, mà trở thành danh tiếng cả. Cũng chính vì thế, văn phẩm cao quí nhất của loài người đều nhắm đến danh dự, tình yêu dâng hiến, tư tưởng công chính, lý tưởng toàn thiện. Trái lại, không thể có nhà văn đáp ứng sự yêu thích tuỳ tiện của dân chúng mà trở nên vĩ đại. Nếu con bạn có nói, một chiếc kẹo cao su thích hơn một bài giảng trên lớp, thì không có nghĩa: chiếc kẹo đó giá trị hơn tinh thần của một bài học.
    2. Bút pháp hình thức - nhà văn của những mệnh đề đơn giản
    Văn của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết đều là câu đơn giản. Ðể khách quan, tôi xin dẫn nguyên một đoạn:
    "Chị Ngữ là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tình Túc Cao bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quỳ. Ông giáo Quỳ có nhiều sách. Mọi người bảo ông là "đồ gàn", lại bảo ông là "lão dê già", "Quỳ dê". Ông giáo Quỳ có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị dâu tôi. Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng ông giáo Quỳ lấy về làm vợ nên uy tín chẳng còn gì" (Thương nhớ đồng quê).
    Thật là đoạn văn tả theo lối trích ngang, lối "tả - khoán gọn - cho xong". Câu đơn giản hoặc mệnh đề đơn giản là gì? Nêu lên các bạn chớ có cười. Kỳ thực trong đội ngũ viết văn, làm thơ của ta, có đến hơn 90% không biết đến khái niệm này. Câu đơn giản - gồm một mệnh đề, không có đại từ quan hệ, tiếng Pháp gọi là "Pronom relatif". Chưa nói đến việc trở thành nhà văn - là bậc thầy của ngôn ngữ, dù bạn học bất cứ thứ ngoại ngữ theo dòng châu Âu nào, Anh, Ðức, Pháp, Nga, La-tinh ? thì chỉ sau vài tuần, người ra đã bắt các bạn phải học về "đại từ quan hệ" để có thể nói được câu phức hợp.
    Người Trung Hoa nói "Y phục xứng kỳ đức", và cũng nói "tư duy của người ta thế nào thì bước chân đi thế ấy", người trí lớn bước sẽ dài và khoan thai, người hẹp hòi tủn mủn bước chân sẽ lặt nhặt? Văn của Nguyễn Huy Thiệp chủ yếu thiên về kể chuyện con cà con kê nhà quê, nên chẳng thể có nội dung tư tưởng phức hợp để diễn tả bằng những mệnh đề phức hợp. Người có ý tưởng đơn giản thì dùng mệnh đề đơn giản để thể hiện là chuyện không thể nào khác được. Và một nền văn học còn quá nhiều độc giả dân trí thấp, ngại tư duy, thích đọc những mệnh đề đơn giản để đỡ mệt óc, cũng là chuyện không thể nào tránh được.
    3. Bút pháp nội dung - cũng là tính tư tưởng
    Trong các loại hình nghệ thuật, văn học là cao nhất. Và trong văn học, đối thoại là phẩm chất cao nhất của bút pháp. Bởi vì, mâu thuẫn đối đầu là hình thức cao nhất của sinh tồn, một mất - một còn; và đối thoại là hình thức cao nhất của ngôn ngữ.
    Văn của Nguyễn Huy Thiệp có hai dạng chính: 1) Viết về lịch sử. 2) Viết về nông thôn, rừng núi.
    Theo các nhà mỹ học, viết về lịch sử là dễ nổi tiếng nhất vì lịch sử bao gồm các nhân vật đã nổi tiếng, các cốt truyện đã được tinh lọc và cất cánh. Viết về hiện tại là khó nhất, vì là sứ mệnh chính của nhà văn, vì nhà văn vừa là nhân chứng vừa là thông điệp của thời đại. Vậy đề tài nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp đã đủ trưởng thành vóc dáng của tư tưởng chưa? Từ xưa đến nay, người Hy Lạp thì coi khinh nông dân, người Trung Quốc thì gọi là "lũ quê mùa cục súc", cho đến thời đại xã hội chủ nghĩa là chìa cánh tay hữu ái nhất cho tầng lớp nông dân mà cũng nhất khoát rằng: "Giai cấp nông dân không thể làm được cách mạng vì tâm lý tiểu nông, tủn mủn, manh mún, hẹp hòi - giỏ nhà ai quai nhà nấy... " Vậy thì nông dân có đạt đến tầm tư tưởng không ? Chắc chắn không, họ mới chỉ đạt đến tâm sinh lý và khí thế. Không có tư tưởng nhất khoát không có đối thoại. Trong hơn bẩy trăm năm trang tuyển tập truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, hầu như chẳng có đối thoại thực sự bật ra từ mâu thuẫn cần giải quyết, mà chủ yếu là ngôn ngữ kể lể thông tin.
    4. Ấu trĩ về bút pháp đến mức hầu như chẳng hiểu gì cả
    Văn chương xưa nay có hai loại hình chính: Bi kịch và Hài kịch. Trong cả hai loại hình, thì tác giả nghĩa người sáng tạo đều phải biết làm chủ các nhân vật của mình, vì thế người ta mới gọi là "sáng tạo".
    Vậy mà các truyện của Nguyễn Huy Thiệp đầy rẫy các tai nạn chết ngẫu nhiên: "Chảy đi sông ơi" , Thắm chết; "Tướng về hưu", cha mẹ đều chết; "Cún", cha chết; "Không có vua", lão Kiền chết; "Ðời thế mà vui", ông khách ngoẻo; "Tội ác và trừng phạt", vài người chết, "Những bài học nông thôn", anh Triệu ngẫu nhiên bị trâu húc chết; "Thương nhớ đồng quê": "Cái Minh em tôi và cái Mi con dì Lưu đèo nhau đi học về, qua ngã ba thì bị chiếc ô tô chở cột điện cán chết". Cả hai cái chết đó chỉ phục vụ cho tác giả đọc một bài thơ đám ma.
    Bi kịch là gì? Là tác giả phải dựng lên quá trình, dù cho nhân vật không phải bằng xương bằng thịt nhưng phải "được chết" trong nguyên lý, không thể có cái chết tuỳ tiện dành cho nhân vật ! Vậy Nguyễn Huy Thiệp bắt các nhân vật phải chết ngẫu nhiên để làm gì? Vì theo tâm lý làng xã, mọi người xem cải lương hay chèo về thường nói với nhau: "Vở kịch hay quá, tôi khóc từ đầu chí cuối". Thêm nữa, cái chết bao giờ cũng ru người ta vào sự vừa thương tiếc vừa hệ trọng. Thế là truyện của Nguyễn Huy Thiệp được đưa vào khung cảnh lâm li ? Ðiều này là không thể chối cãi được, vì tác giả của bi kịch phải là tác giả của tư tưởng, mà Nguyễn Huy Thiệp với trình độ chưa có nổi tư tưởng thì buộc phải tạo ra cái chết ngẫu nhiên. Trông giống bi kịch, mà không phải! Riêng điểm này cũng đủ nói lên trình độ bút pháp của Nguyễn Huy Thiệp hết sức ấu trĩ và tuỳ tiện.
    Ðể kết luận, tôi xin nhắc lại, Nguyễn Huy Thiệp viết văn hay hơn hẳn những cây bút cùng thời vì mặc cảm hơn và kỹ lưỡng hơn. Nhưng hơn ở mức nào? Tôi xin nói để chia sẻ cùng mọi người rằng: chưa nói đến tài năng, cây bút nào chưa đạt đến tầm chuyên nghiệp thì đừng mơ ước thành tài. Ðầu vào của anh còn quá ít nên không thể nhả tơ để thành văn phẩm ở đầu ra. Dăm cân cái đồng, mấy cân cốm dù có thơm tho ở đầu vào sao có thể hoá thịt cá voi ở đầu ra? Và ngựa thiên lý không thể là thứ ngựa chỉ phi vài dặm, bắt chấp việc mấy chục truyện ngắn, chục vở kịch, hay cuốn tiểu thuyết có hay đi nữa, nhưng đã đủ để cho một cây bút xây dựng lên con đường vạn dặm sáng tạo của mình chưa? Nhưng có một số người đã biện hộ rằng: hay không cốt lớn, không cốt dài.
    Làm sao một đống đá nhỏ dù là đá quí có thể dựng thành lâu đài? Và các nhà mỹ học cho biết điều kiện đầu tiên bất thành văn của mọi tác phẩm, mọi nhà văn để trở nên vĩ đại: trước hết phải tràn đầy sinh khí sống (cái người ta gọi là hoành tráng). Nói "hay không cốt lớn, hay không cốt dài" là cách biện hộ của những kẻ vừa nhược thiểu vừa yếu đuối, vừa lười nhác. Những kẻ chỉ thả lưới mấy vần thơ đòi vớt cả cuộc đời.
    Không thể muộn hơn, đã đến lúc chúng ta phải "ngửa bài" Nguyễn Huy Thiệp. Sự ngửa bài đó giành cho tác giả thì ít mà chính là nó phơi ra cả đời sống văn học còn đang trì trệ ấu trĩ của chúng ta: vừa "cả vú lấp miệng em", vừa "ấp úng như ngậm hột thị", vừa "ngậm miệng ăn tiền" của một cơ chế văn học bao cấp vẫn quen ngửa cổ để chính phủ và nhân dân rót đường sữa, tem phiếu vào những cơ thể vừa còi cọc, vừa thiếu tài năng.
    23/4/2003
  3. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Hoàng Ðức-Bàn về thực chất văn phẩm của Nguyễn Huy Thiệp (2)
    Nhận mình là hèn, đúng là binh pháp của Hàn Tín sẵn sàng luồn chôn để tồn tại. Thử hỏi làm sao văn học Việt còn chưa chạm đến nổi các hàng rào của danh dự, lương tri, cũng như tư tưởng?
    Người đời luôn biết, cái gì không hợp qui luật thì không thể tồn tại. Các tác phẩm nghệ thuật cũng vậy, muốn có được giá trị chung thuộc về công lý phải ra công truyền để mọi người cùng bàn đi xét lại. Xưa nay, nhân loại chưa gặp một giá trị nào dù khó đến đâu đem ra công truyền lại thất bại. Ngược lại chỉ những thứ bí truyền mới là thứ vừa ích kỷ, vừa gây tội lỗi. Vậy để tìm đến giá trị thực của Nguyễn Huy Thiệp, tôi xin đi sâu vào mấy điểm. Trước hết là:
    1. Nguyễn Huy Thiệp nổi tiếng trên mặt bằng bạn đọc nào?
    Triết gia Nietzsche có nói: "Một dân tộc có thiên tài không quan trọng bằng cách chấp nhận thiên tài của dân tộc đó". Ðây là một sự thật hiển nhiên đến mức, dân tộc nào trước hết cũng lo đào tạo Dân trí rồi mới lo đến có thiên tài. Bởi lẽ, một dân tộc không biết trồng nho làm sao đòi uống rượu vang ngon; một dân tộc không có kỹ nghệ luyện kim thì làm sao có thể làm tầu vũ trụ?
    Vậy, cách tiếp xử văn học ở ta đang ở mức nào? Một lần trong một ngày lễ lớn, tôi có ngồi ăn cạnh một mâm gồm nhiều người trên trung lưu của xã hội - từ tiền của, địa vị, đến học vấn đều ở mức khá hơn người. Rượu được vài tuần, họ bắt đầu phun châu nhả ngọc những lời văn học, nào là":
    ?" "Trẻ con không biết ăn thịt chó!" ám chỉ truyện ngắn của Nam Cao. Rồi:
    ?" "Tắt đèn nhà ngói như nhà tranh", ám chỉ truyện "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố. Và thoả mãn khi mời nhau:
    ?" "Mỗi các cụ chim to lên mâm trên", ám chỉ một câu trong một truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
    Vậy đấy, hầu hết bạn đọc Việt Nam mới chỉ ở mức lấy thơ, lấy văn ra đùa nghịch. Chưa nói bạn đọc, ngay các nhà thơ, tết Nguyên Tiêu Quí Mùi vừa qua còn mở lễ hội thơ, đánh trống rước cờ, như chơi hội làng, đúng là còn mang nặng tư duy vui chơi làng xã của nền văn minh lúa nước. Chỉ với vài câu trên, mấy chàng trí thức nửa mùa đã hí hửng nghĩ rằng ta đã băng tắt qua cả "lịch sử văn học đương đại".
    Còn cách đọc thì sao? Ðọc ai, khen ai, chê ai, xổ toẹt, họ chỉ cần nói "Tôi thấy thích!" "Tôi thấy xúc động!" "Tôi thấy vào lắm!"? Ðây là cách trực cảm bản năng, mà hai triết gia Platon và Aristote đã chỉ rõ: Trực cảm bao giờ cũng là thụ động và mang tính nô tài, bởi lẽ trực giác luôn luôn cần đối tượng để mà cảm. Chẳng hạn, xúc giác cần chạm vào vỏ cây để thấy xù xì, thính giác cần nghe tiếng xột soạt của vải vóc để thấy mê mẩn, thị giác cần nhìn ngũ sắc để thấy hay? Mà đã phụ thuộc vào đối tượng cũng như các trực giác của mình thì không thể nào trở thành: người sáng tạo được! Làm sao có thể coi một người là sáng tạo khi anh ta là nô lệ cho chính trực giác của mình? Vì thế, nền văn học của chúng ta đầy rẫy những cây bút bắt chước, Nguyễn Huy Thiệp cũng không vượt ra khỏi thông lệ đó, khi bút pháp của anh gần 99% là bắt chước lối "dã sử kiểu Tầu". Còn bạn đọc, thì than ôi trong vài năm tôi chưa gặp nổi một khuôn mặt coi thưởng thức văn chương là việc nghiêm túc, trái lại chủ yếu là số a dua, ăn theo nói leo, tồi tệ hơn, có nhiều người khen người này chê người kia, chẳng qua lấy chính tác giả và tác phẩm làm lá chắn che đỡ cho đời sống dục vọng ích kỷ, chỉ muốn thúc thủ vinh thân phì gia. Hầu hết muốn sáp vô chơi với văn chương theo kiểu lễ hội làng, "vui đâu chầu đấy". Khi tôi nói vậy, xin quý độc giả chớ vội tự ái, mà ngay đây tôi sẽ xin nêu ra những nhà văn có danh tiếng hẳn hoi bàn về Nguyễn Huy Thiệp ấm ớ thế nào.
    Nhiều nhà văn khá có tiếng nói về văn của Nguyễn Huy Thiệp thế này: "Văn Thiệp hay lắm!", "Thiệp viết ma lắm!" Tóm lại họ muốn diễn tả: Nguyễn Huy Thiệp viết văn, có khả năng lung lạc tâm hồn người si mê như quỉ thần. Thật buồn cười, "viết ma lắm", chẳng nằm trong bất cứ tiêu chí mỹ học nào, và người nói vậy đã muốn chứng tỏ: không thể nào phân tích được đâu. Có nhiều người khác, khi nghe vậy liền phản đối, họ nói: "Phật một tấc, ma ba trượng". Nghĩa là làm phật, làm thần thánh, thì tiến lên một tấc cũng khó, trong khi đó làm ma cao ba trượng dễ như trở bàn tay.
    Có một nhà văn trẻ khác, còn suýt xoa tán tụng rằng: "Thiệp đưa *** vào văn học hay thật, không dung tục, mà rất thanh cao". Tôi liền hỏi "*** thanh cao thế nào?" Anh ta liền trả lời: "***, Thiệp viết không giống người, khác lắm!" Cũng về chuyện này, mấy lần hoạ sĩ Hồng Hưng có nói với vài người trong đó có tôi là: "Tôi nhiều lần đã nói với Nguyễn Huy Thiệp, ông là người có công đưa *** tươi vào văn học".
    Gần đây, có anh bạn hoạ sĩ khá nổi tiếng ca tụng hết lời rằng: "Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn thiên tài vĩ đại". Tôi hỏi, anh chứng minh đi, anh ta bảo: "Ðọc văn Thiệp tôi thấy thích lắm!" Tôi nói: "Thích mới là tiêu chí thấp nhất của mỹ học" Sau đó, tôi hỏi anh ta: "Anh tự nhận là bạn đọc mỹ học hay bạn đọc bình thường?" Sau một lúc ấp úng anh ta nói: "Tôi chỉ là bạn đọc bình thường yêu thích văn của Nguyễn Huy Thiệp thôi". Tôi liền bảo: "Anh không có tư cách pháp nhân cũng như đại biểu để bàn về văn học, vì trước ca mổ, y bác sĩ hội chẩn không thể nào cho phép mấy ông bà vu vơ vào hội chẩn. Nếu anh là bạn đọc bình thường, thì khác gì trăm, vạn, nghìn người khác, anh xe thồ, cô bán rau ở ngoài kia, sao có thể xét đoán tầm vóc của một nhà văn?"
    Phần lớn các bạn đọc xứ ta đều quan niệm nghệ thuật là cái gì để vui, để thích. Vậy "văn dĩ tải đạo" mệt lắm rồi! Kết thúc phải có hậu cổ điển lắm rồi! Ðạo đức giáo huấn theo kiểu người tốt việc tốt mệt lắm rồi! Và văn của Nguyễn Huy Thiệp cho người ta được yên chí về dục vọng của mình "vì trong cái tốt có cái xấu, trong cái xấu có cái tốt lo gì!" Ðây là quan niệm lệch lạc vô cùng ấu trĩ và khuyết tật. Xưa nay chưa có nhà văn nào trở nên vĩ đại mà từ bỏ con đường đạo lý. Ðạo lý là qui luật lớn nhất của con người. Hơn cả thế, đó là luật trời nổi xuống luật người. Từ I-liat và Ô-đi-xê của Homer, cho đến Vua Lia của Shakespeare, đến "Chiến tranh và hoà bình" của L. Tolstoi, đến Dịch hạnh của Camus, Vụ án của Kafka? Chưa ai có thể đi ra khỏi đạo lý - cũng là qui luật sống còn của loài người, mà trở thành danh tiếng cả. Cũng chính vì thế, văn phẩm cao quí nhất của loài người đều nhắm đến danh dự, tình yêu dâng hiến, tư tưởng công chính, lý tưởng toàn thiện. Trái lại, không thể có nhà văn đáp ứng sự yêu thích tuỳ tiện của dân chúng mà trở nên vĩ đại. Nếu con bạn có nói, một chiếc kẹo cao su thích hơn một bài giảng trên lớp, thì không có nghĩa: chiếc kẹo đó giá trị hơn tinh thần của một bài học.
    2. Bút pháp hình thức - nhà văn của những mệnh đề đơn giản
    Văn của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết đều là câu đơn giản. Ðể khách quan, tôi xin dẫn nguyên một đoạn:
    "Chị Ngữ là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tình Túc Cao bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quỳ. Ông giáo Quỳ có nhiều sách. Mọi người bảo ông là "đồ gàn", lại bảo ông là "lão dê già", "Quỳ dê". Ông giáo Quỳ có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị dâu tôi. Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng ông giáo Quỳ lấy về làm vợ nên uy tín chẳng còn gì" (Thương nhớ đồng quê).
    Thật là đoạn văn tả theo lối trích ngang, lối "tả - khoán gọn - cho xong". Câu đơn giản hoặc mệnh đề đơn giản là gì? Nêu lên các bạn chớ có cười. Kỳ thực trong đội ngũ viết văn, làm thơ của ta, có đến hơn 90% không biết đến khái niệm này. Câu đơn giản - gồm một mệnh đề, không có đại từ quan hệ, tiếng Pháp gọi là "Pronom relatif". Chưa nói đến việc trở thành nhà văn - là bậc thầy của ngôn ngữ, dù bạn học bất cứ thứ ngoại ngữ theo dòng châu Âu nào, Anh, Ðức, Pháp, Nga, La-tinh ? thì chỉ sau vài tuần, người ra đã bắt các bạn phải học về "đại từ quan hệ" để có thể nói được câu phức hợp.
    Người Trung Hoa nói "Y phục xứng kỳ đức", và cũng nói "tư duy của người ta thế nào thì bước chân đi thế ấy", người trí lớn bước sẽ dài và khoan thai, người hẹp hòi tủn mủn bước chân sẽ lặt nhặt? Văn của Nguyễn Huy Thiệp chủ yếu thiên về kể chuyện con cà con kê nhà quê, nên chẳng thể có nội dung tư tưởng phức hợp để diễn tả bằng những mệnh đề phức hợp. Người có ý tưởng đơn giản thì dùng mệnh đề đơn giản để thể hiện là chuyện không thể nào khác được. Và một nền văn học còn quá nhiều độc giả dân trí thấp, ngại tư duy, thích đọc những mệnh đề đơn giản để đỡ mệt óc, cũng là chuyện không thể nào tránh được.
    3. Bút pháp nội dung - cũng là tính tư tưởng
    Trong các loại hình nghệ thuật, văn học là cao nhất. Và trong văn học, đối thoại là phẩm chất cao nhất của bút pháp. Bởi vì, mâu thuẫn đối đầu là hình thức cao nhất của sinh tồn, một mất - một còn; và đối thoại là hình thức cao nhất của ngôn ngữ.
    Văn của Nguyễn Huy Thiệp có hai dạng chính: 1) Viết về lịch sử. 2) Viết về nông thôn, rừng núi.
    Theo các nhà mỹ học, viết về lịch sử là dễ nổi tiếng nhất vì lịch sử bao gồm các nhân vật đã nổi tiếng, các cốt truyện đã được tinh lọc và cất cánh. Viết về hiện tại là khó nhất, vì là sứ mệnh chính của nhà văn, vì nhà văn vừa là nhân chứng vừa là thông điệp của thời đại. Vậy đề tài nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp đã đủ trưởng thành vóc dáng của tư tưởng chưa? Từ xưa đến nay, người Hy Lạp thì coi khinh nông dân, người Trung Quốc thì gọi là "lũ quê mùa cục súc", cho đến thời đại xã hội chủ nghĩa là chìa cánh tay hữu ái nhất cho tầng lớp nông dân mà cũng nhất khoát rằng: "Giai cấp nông dân không thể làm được cách mạng vì tâm lý tiểu nông, tủn mủn, manh mún, hẹp hòi - giỏ nhà ai quai nhà nấy... " Vậy thì nông dân có đạt đến tầm tư tưởng không ? Chắc chắn không, họ mới chỉ đạt đến tâm sinh lý và khí thế. Không có tư tưởng nhất khoát không có đối thoại. Trong hơn bẩy trăm năm trang tuyển tập truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, hầu như chẳng có đối thoại thực sự bật ra từ mâu thuẫn cần giải quyết, mà chủ yếu là ngôn ngữ kể lể thông tin.
    4. Ấu trĩ về bút pháp đến mức hầu như chẳng hiểu gì cả
    Văn chương xưa nay có hai loại hình chính: Bi kịch và Hài kịch. Trong cả hai loại hình, thì tác giả nghĩa người sáng tạo đều phải biết làm chủ các nhân vật của mình, vì thế người ta mới gọi là "sáng tạo".
    Vậy mà các truyện của Nguyễn Huy Thiệp đầy rẫy các tai nạn chết ngẫu nhiên: "Chảy đi sông ơi" , Thắm chết; "Tướng về hưu", cha mẹ đều chết; "Cún", cha chết; "Không có vua", lão Kiền chết; "Ðời thế mà vui", ông khách ngoẻo; "Tội ác và trừng phạt", vài người chết, "Những bài học nông thôn", anh Triệu ngẫu nhiên bị trâu húc chết; "Thương nhớ đồng quê": "Cái Minh em tôi và cái Mi con dì Lưu đèo nhau đi học về, qua ngã ba thì bị chiếc ô tô chở cột điện cán chết". Cả hai cái chết đó chỉ phục vụ cho tác giả đọc một bài thơ đám ma.
    Bi kịch là gì? Là tác giả phải dựng lên quá trình, dù cho nhân vật không phải bằng xương bằng thịt nhưng phải "được chết" trong nguyên lý, không thể có cái chết tuỳ tiện dành cho nhân vật ! Vậy Nguyễn Huy Thiệp bắt các nhân vật phải chết ngẫu nhiên để làm gì? Vì theo tâm lý làng xã, mọi người xem cải lương hay chèo về thường nói với nhau: "Vở kịch hay quá, tôi khóc từ đầu chí cuối". Thêm nữa, cái chết bao giờ cũng ru người ta vào sự vừa thương tiếc vừa hệ trọng. Thế là truyện của Nguyễn Huy Thiệp được đưa vào khung cảnh lâm li ? Ðiều này là không thể chối cãi được, vì tác giả của bi kịch phải là tác giả của tư tưởng, mà Nguyễn Huy Thiệp với trình độ chưa có nổi tư tưởng thì buộc phải tạo ra cái chết ngẫu nhiên. Trông giống bi kịch, mà không phải! Riêng điểm này cũng đủ nói lên trình độ bút pháp của Nguyễn Huy Thiệp hết sức ấu trĩ và tuỳ tiện.
    Ðể kết luận, tôi xin nhắc lại, Nguyễn Huy Thiệp viết văn hay hơn hẳn những cây bút cùng thời vì mặc cảm hơn và kỹ lưỡng hơn. Nhưng hơn ở mức nào? Tôi xin nói để chia sẻ cùng mọi người rằng: chưa nói đến tài năng, cây bút nào chưa đạt đến tầm chuyên nghiệp thì đừng mơ ước thành tài. Ðầu vào của anh còn quá ít nên không thể nhả tơ để thành văn phẩm ở đầu ra. Dăm cân cái đồng, mấy cân cốm dù có thơm tho ở đầu vào sao có thể hoá thịt cá voi ở đầu ra? Và ngựa thiên lý không thể là thứ ngựa chỉ phi vài dặm, bắt chấp việc mấy chục truyện ngắn, chục vở kịch, hay cuốn tiểu thuyết có hay đi nữa, nhưng đã đủ để cho một cây bút xây dựng lên con đường vạn dặm sáng tạo của mình chưa? Nhưng có một số người đã biện hộ rằng: hay không cốt lớn, không cốt dài.
    Làm sao một đống đá nhỏ dù là đá quí có thể dựng thành lâu đài? Và các nhà mỹ học cho biết điều kiện đầu tiên bất thành văn của mọi tác phẩm, mọi nhà văn để trở nên vĩ đại: trước hết phải tràn đầy sinh khí sống (cái người ta gọi là hoành tráng). Nói "hay không cốt lớn, hay không cốt dài" là cách biện hộ của những kẻ vừa nhược thiểu vừa yếu đuối, vừa lười nhác. Những kẻ chỉ thả lưới mấy vần thơ đòi vớt cả cuộc đời.
    Không thể muộn hơn, đã đến lúc chúng ta phải "ngửa bài" Nguyễn Huy Thiệp. Sự ngửa bài đó giành cho tác giả thì ít mà chính là nó phơi ra cả đời sống văn học còn đang trì trệ ấu trĩ của chúng ta: vừa "cả vú lấp miệng em", vừa "ấp úng như ngậm hột thị", vừa "ngậm miệng ăn tiền" của một cơ chế văn học bao cấp vẫn quen ngửa cổ để chính phủ và nhân dân rót đường sữa, tem phiếu vào những cơ thể vừa còi cọc, vừa thiếu tài năng.
    23/4/2003
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    hoangvan09 có vẻ tích cực về hội chứng NHT quá. Mình thì quá chán nản rùi. Vì đọc nhiều bài viết về ông ấy cảm thấy chán ghét ông ấy bao nhiêu.
    hôm nay lôi: không có vua ra đọc, lại nhớ về những gì người ta viết về NHT . Thời vàng son nay còn đâu. Home đã rất thích Không có vua của ông, Coi đó là một tuyệt tác văn nghệ Vn,điều này rất ít khi Home nói về Truyện Vn.và Tướng về hiu, nhưng......Chán quá.
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    hoangvan09 có vẻ tích cực về hội chứng NHT quá. Mình thì quá chán nản rùi. Vì đọc nhiều bài viết về ông ấy cảm thấy chán ghét ông ấy bao nhiêu.
    hôm nay lôi: không có vua ra đọc, lại nhớ về những gì người ta viết về NHT . Thời vàng son nay còn đâu. Home đã rất thích Không có vua của ông, Coi đó là một tuyệt tác văn nghệ Vn,điều này rất ít khi Home nói về Truyện Vn.và Tướng về hiu, nhưng......Chán quá.
  6. Voldo

    Voldo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.057
    Đã được thích:
    1
    Tôi rất ghét kiểu phê bình của Trần Mạnh Hảo và một số ông khác khi hay cắt xén để làm hỏng mất ý chính của bài viết!!! Theo tôi bài viết của Nguyẽn Huy Thiệp đã đề ra được nhiều điều mà trong giới làng văn hay nể nang mà không nói thẳng ra!!!
    Bản thân người viết bài này vốn từng rất quý trọng văn tài của nhà văn NHT. Nhà văn này đã góp cho nền văn học nước nhà ngót 10 cái truyện ngắn thật hay. Văn của anh Thiệp tuy là lối văn cũ nhất thế giới kiểu Truyện Tàu xưa, nhưng cái quý là chỗ anh đã biết dồn nén dung lượng đời sống vào nhân vật, vào ngôn ngữ như nén thuốc pháo, lại theo một góc nhìn lật mặt trái tấm huân chương... nên phần nào có thể làm mới được lối văn rất cũ này.
    TMH rất hay có kiểu khen lấy lệ vài phát cho có vẻ ta đây là người rất trung lập và khách quan. Bao giờ đâu fbài viết cũng là khen lấy lệ vài phát rồi sau đó dìm!!!
    muốn chứng tỏ mình đã trở thành nhà văn hóa như thế nào, bằng cách nào, nên anh đã gọi ngót 800 người đang là hội viên HNVVN ra mà nặng lời trên báo Ngày Nay số 6-2004, bài đã dẫn, tr.15, cột 2, dòng thứ 3 kể từ trên xuống: "Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều... "vô học", tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả".Tự dưng đa số hội viên HNVVN bị anh Thiệp gán cho là vô học, lại cẩn thận để chữ vô học trong nháy nháy: "vô học". Dù anh có để trong nháy nháy đi nữa thì nội hàm của từ này vẫn không có gì thay đổi, vẫn tuân thủ định nghĩa của từ điển: "vô học": (Người) không có học thức, không được giáo dục: Đám trẻ vô học. Đồ vô học. (tr.1826, Đại từ điển Tiếng Việt- Bộ GD&ĐT- Trung tâm Ngôn ngữ & Văn hóa Việt Nam xuất bản 1998).
    Anh Thiệp nỡ lòng nào mắng cả HNVVN là đồ vô giáo dục, mắng các nhà thơ là phù phiếm, vô nghĩa, lăng nhăng, lưu manh, vứt đi cả...? Nên nhớ là trong số các hội viên HNVVN bị anh Thiệp nặng lời kia, chí ít cũng phải có đến 1/3 số người bị đụng chạm có cảm tình với các truyện ngắn NHT. Cả làng văn vốn lành tính không ai chòng ghẹo gì anh, không ai bắt trộm gà qué của anh, sao anh lại giãy lên đành đạch như đỉa phải vôi mà đứng chống nạnh xỉa xói làng nước thế? Chúng ta thử hình dung trong một làng có ngót 800 hộ dân vẫn hằng sống tử tế với nhau, bỗng sáng sớm có một ông hàng xóm cha căng chú kiết không hề mắc bệnh tâm thần, đường đột đến từng nhà, rồi mắng như tát nước vào mặt những người cùng làng vốn không hề gây thù chuốc oán với mình rằng: các anh là đồ vô học, đồ vô giáo dục, đồ lăng nhăng, phù phiếm vô nghĩa, lưu manh, đồ vứt đi... thì cái ông vua chửi này chưa chắc đã còn đường trở về nhà mình! Xem ra, mới biết nhà văn, nhà thơ nước ta hiện nay còn lành hơn cả đất!

    Cái kiểu trích dẫn cắt xén này đã nbị nhiều người vạch mặt rồi nhưng TMH vẫn cứ thích giở ra để bịp kẻ khác, bịp những người không có bản gốc trong tay. Nếu đọc cả bài viết của Thiệp và xem xét giọng văn trên tổng thể bài viết đó thì thấy ông không nói theo kiểu dù có nháy nháy thi fcũng không như Hảo quy chụp
    NHT tiếp tục nâng cấp "bài ca" trên lên hàng thượng thừa, dám "dí" cả con chuột vi tính vào các thần linh thơ, kể từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương trở xuống, như sau:
    Ghét hơn nữa là kiểu Hảo rất hay phóng đại rồi dựng các vị tiền nhân dậy xua các cụ về phe với mình. Đồ ti tiện trong tri thức.
    Ở chỗ này, chúng tôi xin vỗ tay tán thưởng sự dũng cảm lên án kẻ "viết văn điêu, văn ma, phò nịnh" của Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng nếu anh Thiệp dũng cảm thêm một milimét nữa mà lên án nốt vài ba kẻ đang căng tai ra nghe ngóng, đánh tiếng hắng giọng... đặng viết văn có "bà ngoại", "ông ngoại" thưởng (mà anh Thiệp gọi là "nhà văn thức thời"), thì chúng tôi đây còn bái phục anh bội phần! Giờ cho phép chúng tôi khảo sát tí ti về ngón nghề "văn điêu" ngay trong bài báo vừa dẫn của anh Thiệp. Anh Thiệp luận về tính trung thực thì phải nói không chê vào đâu được, nhưng khi cần phải biểu diễn sự trung thực thì xin lỗi, anh Thiệp lại "điêu" đến mức cũng không chê vào đâu được.
    Vôcùng ghét Hảo ở cái kiểu nhân danh chúng tôi. Biểu hện của kẻ thiếu tự tin và kéo đàn ke0ó lũ trong khi tranh luận nên có ý kiến riêng. Sao không là ý kiến của tôi là cứ phải là chúng tôi??? Hèn!!!
  7. Voldo

    Voldo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.057
    Đã được thích:
    1
    Tôi rất ghét kiểu phê bình của Trần Mạnh Hảo và một số ông khác khi hay cắt xén để làm hỏng mất ý chính của bài viết!!! Theo tôi bài viết của Nguyẽn Huy Thiệp đã đề ra được nhiều điều mà trong giới làng văn hay nể nang mà không nói thẳng ra!!!
    Bản thân người viết bài này vốn từng rất quý trọng văn tài của nhà văn NHT. Nhà văn này đã góp cho nền văn học nước nhà ngót 10 cái truyện ngắn thật hay. Văn của anh Thiệp tuy là lối văn cũ nhất thế giới kiểu Truyện Tàu xưa, nhưng cái quý là chỗ anh đã biết dồn nén dung lượng đời sống vào nhân vật, vào ngôn ngữ như nén thuốc pháo, lại theo một góc nhìn lật mặt trái tấm huân chương... nên phần nào có thể làm mới được lối văn rất cũ này.
    TMH rất hay có kiểu khen lấy lệ vài phát cho có vẻ ta đây là người rất trung lập và khách quan. Bao giờ đâu fbài viết cũng là khen lấy lệ vài phát rồi sau đó dìm!!!
    muốn chứng tỏ mình đã trở thành nhà văn hóa như thế nào, bằng cách nào, nên anh đã gọi ngót 800 người đang là hội viên HNVVN ra mà nặng lời trên báo Ngày Nay số 6-2004, bài đã dẫn, tr.15, cột 2, dòng thứ 3 kể từ trên xuống: "Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều... "vô học", tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả".Tự dưng đa số hội viên HNVVN bị anh Thiệp gán cho là vô học, lại cẩn thận để chữ vô học trong nháy nháy: "vô học". Dù anh có để trong nháy nháy đi nữa thì nội hàm của từ này vẫn không có gì thay đổi, vẫn tuân thủ định nghĩa của từ điển: "vô học": (Người) không có học thức, không được giáo dục: Đám trẻ vô học. Đồ vô học. (tr.1826, Đại từ điển Tiếng Việt- Bộ GD&ĐT- Trung tâm Ngôn ngữ & Văn hóa Việt Nam xuất bản 1998).
    Anh Thiệp nỡ lòng nào mắng cả HNVVN là đồ vô giáo dục, mắng các nhà thơ là phù phiếm, vô nghĩa, lăng nhăng, lưu manh, vứt đi cả...? Nên nhớ là trong số các hội viên HNVVN bị anh Thiệp nặng lời kia, chí ít cũng phải có đến 1/3 số người bị đụng chạm có cảm tình với các truyện ngắn NHT. Cả làng văn vốn lành tính không ai chòng ghẹo gì anh, không ai bắt trộm gà qué của anh, sao anh lại giãy lên đành đạch như đỉa phải vôi mà đứng chống nạnh xỉa xói làng nước thế? Chúng ta thử hình dung trong một làng có ngót 800 hộ dân vẫn hằng sống tử tế với nhau, bỗng sáng sớm có một ông hàng xóm cha căng chú kiết không hề mắc bệnh tâm thần, đường đột đến từng nhà, rồi mắng như tát nước vào mặt những người cùng làng vốn không hề gây thù chuốc oán với mình rằng: các anh là đồ vô học, đồ vô giáo dục, đồ lăng nhăng, phù phiếm vô nghĩa, lưu manh, đồ vứt đi... thì cái ông vua chửi này chưa chắc đã còn đường trở về nhà mình! Xem ra, mới biết nhà văn, nhà thơ nước ta hiện nay còn lành hơn cả đất!

    Cái kiểu trích dẫn cắt xén này đã nbị nhiều người vạch mặt rồi nhưng TMH vẫn cứ thích giở ra để bịp kẻ khác, bịp những người không có bản gốc trong tay. Nếu đọc cả bài viết của Thiệp và xem xét giọng văn trên tổng thể bài viết đó thì thấy ông không nói theo kiểu dù có nháy nháy thi fcũng không như Hảo quy chụp
    NHT tiếp tục nâng cấp "bài ca" trên lên hàng thượng thừa, dám "dí" cả con chuột vi tính vào các thần linh thơ, kể từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương trở xuống, như sau:
    Ghét hơn nữa là kiểu Hảo rất hay phóng đại rồi dựng các vị tiền nhân dậy xua các cụ về phe với mình. Đồ ti tiện trong tri thức.
    Ở chỗ này, chúng tôi xin vỗ tay tán thưởng sự dũng cảm lên án kẻ "viết văn điêu, văn ma, phò nịnh" của Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng nếu anh Thiệp dũng cảm thêm một milimét nữa mà lên án nốt vài ba kẻ đang căng tai ra nghe ngóng, đánh tiếng hắng giọng... đặng viết văn có "bà ngoại", "ông ngoại" thưởng (mà anh Thiệp gọi là "nhà văn thức thời"), thì chúng tôi đây còn bái phục anh bội phần! Giờ cho phép chúng tôi khảo sát tí ti về ngón nghề "văn điêu" ngay trong bài báo vừa dẫn của anh Thiệp. Anh Thiệp luận về tính trung thực thì phải nói không chê vào đâu được, nhưng khi cần phải biểu diễn sự trung thực thì xin lỗi, anh Thiệp lại "điêu" đến mức cũng không chê vào đâu được.
    Vôcùng ghét Hảo ở cái kiểu nhân danh chúng tôi. Biểu hện của kẻ thiếu tự tin và kéo đàn ke0ó lũ trong khi tranh luận nên có ý kiến riêng. Sao không là ý kiến của tôi là cứ phải là chúng tôi??? Hèn!!!
  8. msno99

    msno99 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    58
    Đã được thích:
    0
    MỜI QUÝ VỊ CÙNG ĐỌC THỬ:
    Ngẫu hứng qua mây gió
    Nhà thơ Trần Đăng Khoa trò truyện cùng nhà văn Nguyễn văn Thọ
    LTS: Trong thời gian gần đây, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp lại ?onổi tiếng? không phải bằng tác phẩm mà bằng những lời tuyên bố, đặc biệt là bài báo ?Trò chuyện với hoa thuỷ tiên và những nhầm lẫn của nhà văn? in liên tiếp trên ba số tạp chí ?oNgày nay?, cơ quan của Câu lạc bộ Unesco Việt Nam (Số 4 ngày 15/2, số 5 ngày 30/2 và số 6 ngày 15/3/2004). Bài báo đã gây bất bình trong giới cầm bút và cả bạn đọc. Nhiều bài báo đã lên tiếng về sự không lành mạnh ấy. Nhân dịp này, trong số chuyên đề cuối tháng, chúng tôi giới thiệu cuộc trao đổi của nhà thơ Trần Đăng Khoa với nhà văn Nguyễn Văn Thọ, một cây bút đã nhiều năm chiến đấu ở chiến trường, hiện đang làm việc tại Cộng hoà Liên bang Đức. Đây là một góc nhìn có tính tổng quan về toàn bộ sự nghiệp văn chương và ?ohiện tượng? Nguyễn Huy Thiệp để chúng ta cùng tham khảo.
    Tạp chí VNQĐ

    Trần Đăng Khoa -Nguyễn Văn Thọ:
    Gọi " Ngẫu hứng qua mây gió", nghe õng ẹo quá, làm duyên làm dáng quá. Nhưng không. Đó lại là sự thực. Vì đây là cuộc trò chuyện qua không gian. Chúng tôi ở cách nhau gần nửa vòng trái đất. Dùng ngôn ngữ âm thanh thì không thể tới được. Chúng tôi đành nói chuyện với nhau theo cách của người câm. Nghĩa là nói bằng tay, bằng những cú nhấn phím. Cám ơn thời đại công nghệ. Với những phát triển của khoa học kỹ thuật, trái đất bỗng trở nên bé nhỏ, chỉ nằm gọn trong lòng bàn tay...
    Cuộc trò chuyện ngẫu hứng này, chúng tôi bàn về một con người cụ thể: Đó là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Cả hai chúng tôi đều rất yêu mến anh, một hiện tượng của văn học đương đại. Xin bạn đọc đừng nghĩ là chúng tôi tự mâu thuẫn, vì câu trước khen, câu sau có thể lại chê. Đời văn ai chả có khúc hay, khúc dở. Không nên vì cái dở mà xoá đi cái hay. Cũng không nên vì cái hay mà lờ đi những cái dở. Hay thì khen và dở thì chê. Đấy là cái nhìn khách quan, cũng chỉ vì yêu mến Nguyễn Huy Thiệp....

    Nguyễn Văn Thọ:
    Ông Khoa ơi! Bây giờ là ba giờ sáng. Tôi vẫn biết từ bên kia trái đất, ông thức dậy và làm việc lúc bốn giờ. Múi giờ mùa hè. Chúng ta lệch nhau 5 tiếng đồng hồ, có nghĩa là ông thức dậy, làm việc trước tôi bốn giờ.
    Bây giờ ông về rồi. Gian phòng chỉ có mình tôi thôi. Nơi ông vẫn thường nghỉ, cái đi văng mầu mận còn kia, bàn trà, hai cái cốc uống chè của chúng ta vẫn nguyên chỗ cũ. Tôi vẫn muốn để chúng nguyên chỗ cũ... Và, những câu chuyện liên miên của ông, của tôi, suốt những ngày ông ở đây, tưởng như chưa khi nào dứt. Bây giờ, tôi cũng muốn trò chuyện với ông, mà ông thì đã "muôn trùng xa cách". Thôi tôi đành phải ?ogọi hồn?T?T ông bằng một cú nhấn phím. Thế là người về, kẻ ở, ta lại dốc bầu tâm sự. Đôi lúc, nói chuyện với ông, tôi lại chợt nhớ tới những cánh đồng lúa ven đô, nhớ tới con đường với hàng sấu Lý Nam Đế, ở đó có toà soạn Văn nghệ Quân đội, những cái lá rớt xuống, cong lên, như có biết bao con thuyền nhỏ bồng bềnh trôi theo nước mưa mùa hạ. Ta bỗng tươi xanh như thời thơ ấu. Những chiếc lá đã chết ấy, vẫn còn đủ sức ban cho chúng ta giấc mơ cải lão hoàn đồng...Và tôi lại nhớ ông, người bạn đã cùng tôi lang thang trên nước Đức với anh em, bà con người Việt của chúng ta nơi đất khách, quê người...
    Người đầu tiên tôi muốn trao đổi với ông là Nguyễn Huy Thiệp. Khoa ạ. Cứ ngẫm lại mà xem, văn học nước ta, giai đoạn từ 1985 tới 1996 có ai hơn ông ấy về thể tài truyện ngắn? Ông ấy xuất hiện như vệt sét đầu thời đổi mới. Có thể nói, Nguyễn Huy Thiệp đã gặp thời. Dù khi ấy nhiều ý kiến khác nhau nhưng chung lại, Nguyễn Huy Thiệp lúc bấy giờ đã đẻ ra được một loạt tác phẩm giá trị. Tiếng sấm đầu là Tướng về hưu, kế đó là một loạt truyện ngắn đặc sắc. Tôi đặc biệt thích lối kể lạnh lùng của ông Thiệp ở bốn tác phẩm này, thế rồi tiếp đến là dòng chảy những tác phẩm có tính ảo, tính huyền thoại mà mở đầu là Những ngọn gió Hua Tat, Chảy đi sông ơi rồi Con gái thuỷ thần... Đời người cầm bút với từng ấy tác phẩm cũng đủ dựng chân dung một nhà văn có cỡ rồi. Và chỉ thế cũng đã tốn biết bao giấy mực của thiên hạ. Còn nói như cái ông Nguyễn Hoàng Đức thì cũng là nói lấy được, làm gì mà ông Thiệp trước sau chỉ có Tướng về hưu- Vừa là vé vào cửa vừa là vương miện. Tướng về hưu ?orằng hay thì thật là hay?, nhưng nó cũng chỉ là một tác phẩm theo dòng hiện thực mà trước đó, nhiều nhà văn đã viết nhưng bị cấm kị. Những tác phẩm sau Tướng về hưu của Thiệp mới thực sự mang dấu ấn riêng, làm mới mẻ bộ mặt văn chương nước nhà. Một mâm cỗ thịnh soạn đấy chứ, vì cho tới hôm nay, có ăn lại vẫn ngào ngạt hương vị. Văn chương cũng giống như món ăn. Thứ tưởng sơn hào hải vị, hôm sau thấy nhạt hoét, ấy là thứ sơn hào hải vị rởm. Tôi nghĩ, có người kính nể ông Thiệp, vì bản thân ông ấy tự làm ra một thương hiệu văn chương của thời kì đầu Đổi mới, giống như ở làng quê ta, ai có công gì cho dân làng, người ta làm bài vị để thờ. Nhưng chỉ làng đó thờ thôi, đằng này suốt hơn chục năm, hàng ngàn người hâm mộ Thiệp, bao nhiêu kẻ bắt chước Thiệp, tôn thờ Nguyễn Huy Thiệp. Ngay giới phê bình, cả kẻ yêu và người ghét, khối anh sau này nhìn đâu cũng thấy Nguyễn Huy Thiệp, kể cả những tác phẩm chả liên quan gì tới nhãn quan, giọng điệu Nguyễn Huy Thiệp. Thế là nhất rồi còn gì.
    Trần Đăng Khoa:
    Tôi đồng ý với ông là từ năm 1985 đến 1996, ở mảng truyện ngắn, không ai viết hay hơn Nguyễn Huy Thiệp. Nét đặc sắc nhất của Nguyễn Huy Thiệp là ông ta đã tạo được cho mình một giọng điệu riêng, riêng đến không thể trộn lẫn. Cắt tên đi, đọc văn, chỉ mươi dòng, người ta cũng nhận ra ngay Nguyễn Huy Thiệp. Điều ấy là vô hạn quan trọng. Không có giọng riêng thì không phải nhà văn. Mặc dù nghe giọng Nguyễn Huy Thiệp, người ta cứ mang máng nhớ những ông Tầu thời cổ đại, thuở Tam Quốc và Đông Chu Liệt Quốc... Đó là một lối kể lạnh và sắc, không vòng vo, không dông dài. Vì có giọng như thế, lại có cái nhìn rất khác người, nên văn Nguyễn Huy Thiệp rất hấp dẫn. Đã cầm lên là phải đọc bằng hết. Mặc dù, có cái đọc xong, thấy cũng chẳng có quái gì cả. Chẳng có gì, nhưng vẫn cứ phải đọc cho bằng hết. Nguyễn Huy Thiệp có khả năng bắt vít người đọc vào những trang giấy như có ma ám của mình. Đó thực sự là một thứ văn không phải của người thường. Nó chỉ có thể là văn của thánh thần, hoặc ma quỷ. Nhưng tôi thấy nó sục lên mùi ma quỷ nhiều hơn. Chính vì có hơi ma quỷ nên nó mới ám được người đọc. Từ khi có Nguyễn Huy Thiệp, quả là chúng ta không thể viết như trước, đọc như trước. Cái lão phù thuỷ quái quỷ này quả đã cho ta một liều thuốc quỷ, khiến ta thấy "kinh", thấy dị ứng trước những món tẻ nhạt, mà trước đây ta vẫn quen xơi và cứ tưởng là sơn hào hải vị. Tôi quý Nguyễn Huy Thiệp, như quý Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Tô Hoài, Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Lê Minh Khuê, Lê Lựu, Chu Lai, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Ngọc Tư, Thu Huệ, Đỗ Bích Thuý, Y Ban, Trung Trung Đỉnh.... Đấy là những người không tẻ nhạt. Không tẻ nhạt, nhưng không phải thánh.
    Nguyễn Văn Thọ:
    Một trong cách tạo ấn tượng của Nguyễn Huy Thiệp là lối nói tung tẩy mà ta hay gặp trong truyện của ông ta. ´y là trong mỗi truyện Nguyễn Huy Thiệp bao giờ cũng đưa đẩy những chiêm nghiệm lửng lơ kiểu như: Tình yêu đấy là một hung thần , hoặc: Người ta luôn lầm lẫn, hay: Đàn bà đứng về phía trật tự...đàn bà rất thích những ngôi nhà có cửa sổ rộng để chuồn ra ngoài... Không tin, ông cứ mở sách ra đi, bất cứ truyện nào của Nguyễn Huy Thiệp ta cũng nhặt được dăm câu đại loại như vậy. Cái đó cũng là đặc điểm Nguyễn Huy Thiệp, nhưng cũng có người cho đấy như những lời thánh phán...
    Tôi thấy ban đầu Nguyễn Huy Thiệp phán thiêng lắm. Sự ẩn dụ nhiều chiều trong văn chương, lại ở trong một văn cảnh hợp lí nào đó, giúp Nguyễn Huy Thiệp buộc bạn đọc phải suy nghĩ trăn trở để tìm giải đáp cho mấy câu buông sõng ấy. Mặc dù nó nguy hiểm ở chỗ, những lời tương tự lửng lơ nếu đặt đúng chỗ có thể ám ảnh và mụ muội bàn dân thiên hạ, còn không, một là nó giả tạo cho nhân vật, hai là nhiều câu phán ấy, khi buông sõng, mơ hồ sẽ được hiểu theo nhiều chiều, hoặc những chiêm nghiệm có tính cá biệt đẩy con người tới sự hoang mang với cuộc sống thực tại. Và thật giả, đen trắng thành một khối mù mờ. Chính vì thế, đọc xong, người ta hoặc là ong ong cái đầu, hoặc là thấy lơ mơ đâu đó như có tiếng thì thào vào tai, nhiều lời có tính triết lí, nửa như tiên tri, nửa như lời ma quỷ đưa lối và tạo thành một thứ ?oma từ?. Ai yếu bóng vía thì thấy sợ. Lửng lơ lúc nào cũng thấy một Nguyễn Huy Thiệp trên đầu. Nhà văn Lê Minh Hà tận Tây Đức từng vẽ ?oChân dung Nguyễn Huy Thiệp từ một thế nhìn?: Ông buông bắt người đọc bằng khả năng viết không thay được một chữ; hoặc thậm chí: tôi bị khuất lụy vô điều kiện bởi Nguyễn Huy Thiệp, tới mức: thuộc lòng từng đoạn từng truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Sao lại phải tới nỗi thế?. Theo tôi, đấy chỉ là một trong nhiều thủ pháp tiểu xảo của nhà văn biết cách lạ hóa. Khác lạ là ăn tiền. Tôi thấy Thiệp có chỗ khác và lạ. Đúng như ông nói, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo được cho mình một giọng điệu riêng, gửi gấm được nhiều quan niệm để trình làng một mâm cỗ kiến tạo với quan niệm thẩm mỹ của Thiệp. Theo tôi đấy là khác. Còn lối viết như tôi dẫn chứng trên, đấy là lạ. Nhưng cái lạ sẽ hỏng và thực buồn cười nếu không đúng chỗ. Cũng dần chẳng còn lạ nếu cứ lặp đi lặp lại. Ông có nhớ Thương nhớ đồng quê không? Đấy là một truyện hay sau này của Nguyễn Huy Thiệp? Ông ta ở thủ đô, đi xe máy Uớc mơ, chủ tiệm ăn Hoa Ban mơ mộng mà viết được về đồng quê Việt Nam cả một giai đoạn dài tới như vậy. Bao nhiêu người, bao nhiêu suy nghĩ và bao nhiêu chi tiết rất sinh động của làng quê một thời, được Nguyễn Huy Thiệp cô đọng, dựng nên truyện. Vẫn cái gịong khác ấy, lạnh lùng ấy, Tướng về hưu làm người ta bàng hoàng đau đớn, nhưng tới Thương nhớ đồng quê người ta bùi ngùi, vì những việc, chi tiết quen thuộc, thậm chí lẩm cẩm, vớ vẩn mà ông Thiệp nhặt nhạnh, lắp ghép, tái dựng trong trí tưởng tượng của một bàn tay tài hoa. Chỉ thế thì tài, vì nó đã mang gần như đầy đủ cái Khác! Nhưng cũng trong Thương nhớ đồng quê, Nguyễn Huy Thiệp đã sai lầm, khi ông ta chấm mầu, làm đậm lên nhiều cái lạ. Cái lạ ở đây khi đã đậm đặc, lại thành những hạt sạn, làm người đọc gặp phải muốn nhè ngay ra miếng cơm dẻo đang bùi. Tôi đồ rằng, ông Thiệp viết truyện này và nhiều truyện dở khác nữa ở quán Hoa Ban?
    Được msno99 sửa chữa / chuyển vào 19:52 ngày 17/04/2004
  9. msno99

    msno99 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    58
    Đã được thích:
    0
    MỜI QUÝ VỊ CÙNG ĐỌC THỬ:
    Ngẫu hứng qua mây gió
    Nhà thơ Trần Đăng Khoa trò truyện cùng nhà văn Nguyễn văn Thọ
    LTS: Trong thời gian gần đây, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp lại ?onổi tiếng? không phải bằng tác phẩm mà bằng những lời tuyên bố, đặc biệt là bài báo ?Trò chuyện với hoa thuỷ tiên và những nhầm lẫn của nhà văn? in liên tiếp trên ba số tạp chí ?oNgày nay?, cơ quan của Câu lạc bộ Unesco Việt Nam (Số 4 ngày 15/2, số 5 ngày 30/2 và số 6 ngày 15/3/2004). Bài báo đã gây bất bình trong giới cầm bút và cả bạn đọc. Nhiều bài báo đã lên tiếng về sự không lành mạnh ấy. Nhân dịp này, trong số chuyên đề cuối tháng, chúng tôi giới thiệu cuộc trao đổi của nhà thơ Trần Đăng Khoa với nhà văn Nguyễn Văn Thọ, một cây bút đã nhiều năm chiến đấu ở chiến trường, hiện đang làm việc tại Cộng hoà Liên bang Đức. Đây là một góc nhìn có tính tổng quan về toàn bộ sự nghiệp văn chương và ?ohiện tượng? Nguyễn Huy Thiệp để chúng ta cùng tham khảo.
    Tạp chí VNQĐ

    Trần Đăng Khoa -Nguyễn Văn Thọ:
    Gọi " Ngẫu hứng qua mây gió", nghe õng ẹo quá, làm duyên làm dáng quá. Nhưng không. Đó lại là sự thực. Vì đây là cuộc trò chuyện qua không gian. Chúng tôi ở cách nhau gần nửa vòng trái đất. Dùng ngôn ngữ âm thanh thì không thể tới được. Chúng tôi đành nói chuyện với nhau theo cách của người câm. Nghĩa là nói bằng tay, bằng những cú nhấn phím. Cám ơn thời đại công nghệ. Với những phát triển của khoa học kỹ thuật, trái đất bỗng trở nên bé nhỏ, chỉ nằm gọn trong lòng bàn tay...
    Cuộc trò chuyện ngẫu hứng này, chúng tôi bàn về một con người cụ thể: Đó là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Cả hai chúng tôi đều rất yêu mến anh, một hiện tượng của văn học đương đại. Xin bạn đọc đừng nghĩ là chúng tôi tự mâu thuẫn, vì câu trước khen, câu sau có thể lại chê. Đời văn ai chả có khúc hay, khúc dở. Không nên vì cái dở mà xoá đi cái hay. Cũng không nên vì cái hay mà lờ đi những cái dở. Hay thì khen và dở thì chê. Đấy là cái nhìn khách quan, cũng chỉ vì yêu mến Nguyễn Huy Thiệp....

    Nguyễn Văn Thọ:
    Ông Khoa ơi! Bây giờ là ba giờ sáng. Tôi vẫn biết từ bên kia trái đất, ông thức dậy và làm việc lúc bốn giờ. Múi giờ mùa hè. Chúng ta lệch nhau 5 tiếng đồng hồ, có nghĩa là ông thức dậy, làm việc trước tôi bốn giờ.
    Bây giờ ông về rồi. Gian phòng chỉ có mình tôi thôi. Nơi ông vẫn thường nghỉ, cái đi văng mầu mận còn kia, bàn trà, hai cái cốc uống chè của chúng ta vẫn nguyên chỗ cũ. Tôi vẫn muốn để chúng nguyên chỗ cũ... Và, những câu chuyện liên miên của ông, của tôi, suốt những ngày ông ở đây, tưởng như chưa khi nào dứt. Bây giờ, tôi cũng muốn trò chuyện với ông, mà ông thì đã "muôn trùng xa cách". Thôi tôi đành phải ?ogọi hồn?T?T ông bằng một cú nhấn phím. Thế là người về, kẻ ở, ta lại dốc bầu tâm sự. Đôi lúc, nói chuyện với ông, tôi lại chợt nhớ tới những cánh đồng lúa ven đô, nhớ tới con đường với hàng sấu Lý Nam Đế, ở đó có toà soạn Văn nghệ Quân đội, những cái lá rớt xuống, cong lên, như có biết bao con thuyền nhỏ bồng bềnh trôi theo nước mưa mùa hạ. Ta bỗng tươi xanh như thời thơ ấu. Những chiếc lá đã chết ấy, vẫn còn đủ sức ban cho chúng ta giấc mơ cải lão hoàn đồng...Và tôi lại nhớ ông, người bạn đã cùng tôi lang thang trên nước Đức với anh em, bà con người Việt của chúng ta nơi đất khách, quê người...
    Người đầu tiên tôi muốn trao đổi với ông là Nguyễn Huy Thiệp. Khoa ạ. Cứ ngẫm lại mà xem, văn học nước ta, giai đoạn từ 1985 tới 1996 có ai hơn ông ấy về thể tài truyện ngắn? Ông ấy xuất hiện như vệt sét đầu thời đổi mới. Có thể nói, Nguyễn Huy Thiệp đã gặp thời. Dù khi ấy nhiều ý kiến khác nhau nhưng chung lại, Nguyễn Huy Thiệp lúc bấy giờ đã đẻ ra được một loạt tác phẩm giá trị. Tiếng sấm đầu là Tướng về hưu, kế đó là một loạt truyện ngắn đặc sắc. Tôi đặc biệt thích lối kể lạnh lùng của ông Thiệp ở bốn tác phẩm này, thế rồi tiếp đến là dòng chảy những tác phẩm có tính ảo, tính huyền thoại mà mở đầu là Những ngọn gió Hua Tat, Chảy đi sông ơi rồi Con gái thuỷ thần... Đời người cầm bút với từng ấy tác phẩm cũng đủ dựng chân dung một nhà văn có cỡ rồi. Và chỉ thế cũng đã tốn biết bao giấy mực của thiên hạ. Còn nói như cái ông Nguyễn Hoàng Đức thì cũng là nói lấy được, làm gì mà ông Thiệp trước sau chỉ có Tướng về hưu- Vừa là vé vào cửa vừa là vương miện. Tướng về hưu ?orằng hay thì thật là hay?, nhưng nó cũng chỉ là một tác phẩm theo dòng hiện thực mà trước đó, nhiều nhà văn đã viết nhưng bị cấm kị. Những tác phẩm sau Tướng về hưu của Thiệp mới thực sự mang dấu ấn riêng, làm mới mẻ bộ mặt văn chương nước nhà. Một mâm cỗ thịnh soạn đấy chứ, vì cho tới hôm nay, có ăn lại vẫn ngào ngạt hương vị. Văn chương cũng giống như món ăn. Thứ tưởng sơn hào hải vị, hôm sau thấy nhạt hoét, ấy là thứ sơn hào hải vị rởm. Tôi nghĩ, có người kính nể ông Thiệp, vì bản thân ông ấy tự làm ra một thương hiệu văn chương của thời kì đầu Đổi mới, giống như ở làng quê ta, ai có công gì cho dân làng, người ta làm bài vị để thờ. Nhưng chỉ làng đó thờ thôi, đằng này suốt hơn chục năm, hàng ngàn người hâm mộ Thiệp, bao nhiêu kẻ bắt chước Thiệp, tôn thờ Nguyễn Huy Thiệp. Ngay giới phê bình, cả kẻ yêu và người ghét, khối anh sau này nhìn đâu cũng thấy Nguyễn Huy Thiệp, kể cả những tác phẩm chả liên quan gì tới nhãn quan, giọng điệu Nguyễn Huy Thiệp. Thế là nhất rồi còn gì.
    Trần Đăng Khoa:
    Tôi đồng ý với ông là từ năm 1985 đến 1996, ở mảng truyện ngắn, không ai viết hay hơn Nguyễn Huy Thiệp. Nét đặc sắc nhất của Nguyễn Huy Thiệp là ông ta đã tạo được cho mình một giọng điệu riêng, riêng đến không thể trộn lẫn. Cắt tên đi, đọc văn, chỉ mươi dòng, người ta cũng nhận ra ngay Nguyễn Huy Thiệp. Điều ấy là vô hạn quan trọng. Không có giọng riêng thì không phải nhà văn. Mặc dù nghe giọng Nguyễn Huy Thiệp, người ta cứ mang máng nhớ những ông Tầu thời cổ đại, thuở Tam Quốc và Đông Chu Liệt Quốc... Đó là một lối kể lạnh và sắc, không vòng vo, không dông dài. Vì có giọng như thế, lại có cái nhìn rất khác người, nên văn Nguyễn Huy Thiệp rất hấp dẫn. Đã cầm lên là phải đọc bằng hết. Mặc dù, có cái đọc xong, thấy cũng chẳng có quái gì cả. Chẳng có gì, nhưng vẫn cứ phải đọc cho bằng hết. Nguyễn Huy Thiệp có khả năng bắt vít người đọc vào những trang giấy như có ma ám của mình. Đó thực sự là một thứ văn không phải của người thường. Nó chỉ có thể là văn của thánh thần, hoặc ma quỷ. Nhưng tôi thấy nó sục lên mùi ma quỷ nhiều hơn. Chính vì có hơi ma quỷ nên nó mới ám được người đọc. Từ khi có Nguyễn Huy Thiệp, quả là chúng ta không thể viết như trước, đọc như trước. Cái lão phù thuỷ quái quỷ này quả đã cho ta một liều thuốc quỷ, khiến ta thấy "kinh", thấy dị ứng trước những món tẻ nhạt, mà trước đây ta vẫn quen xơi và cứ tưởng là sơn hào hải vị. Tôi quý Nguyễn Huy Thiệp, như quý Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Tô Hoài, Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Lê Minh Khuê, Lê Lựu, Chu Lai, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Ngọc Tư, Thu Huệ, Đỗ Bích Thuý, Y Ban, Trung Trung Đỉnh.... Đấy là những người không tẻ nhạt. Không tẻ nhạt, nhưng không phải thánh.
    Nguyễn Văn Thọ:
    Một trong cách tạo ấn tượng của Nguyễn Huy Thiệp là lối nói tung tẩy mà ta hay gặp trong truyện của ông ta. ´y là trong mỗi truyện Nguyễn Huy Thiệp bao giờ cũng đưa đẩy những chiêm nghiệm lửng lơ kiểu như: Tình yêu đấy là một hung thần , hoặc: Người ta luôn lầm lẫn, hay: Đàn bà đứng về phía trật tự...đàn bà rất thích những ngôi nhà có cửa sổ rộng để chuồn ra ngoài... Không tin, ông cứ mở sách ra đi, bất cứ truyện nào của Nguyễn Huy Thiệp ta cũng nhặt được dăm câu đại loại như vậy. Cái đó cũng là đặc điểm Nguyễn Huy Thiệp, nhưng cũng có người cho đấy như những lời thánh phán...
    Tôi thấy ban đầu Nguyễn Huy Thiệp phán thiêng lắm. Sự ẩn dụ nhiều chiều trong văn chương, lại ở trong một văn cảnh hợp lí nào đó, giúp Nguyễn Huy Thiệp buộc bạn đọc phải suy nghĩ trăn trở để tìm giải đáp cho mấy câu buông sõng ấy. Mặc dù nó nguy hiểm ở chỗ, những lời tương tự lửng lơ nếu đặt đúng chỗ có thể ám ảnh và mụ muội bàn dân thiên hạ, còn không, một là nó giả tạo cho nhân vật, hai là nhiều câu phán ấy, khi buông sõng, mơ hồ sẽ được hiểu theo nhiều chiều, hoặc những chiêm nghiệm có tính cá biệt đẩy con người tới sự hoang mang với cuộc sống thực tại. Và thật giả, đen trắng thành một khối mù mờ. Chính vì thế, đọc xong, người ta hoặc là ong ong cái đầu, hoặc là thấy lơ mơ đâu đó như có tiếng thì thào vào tai, nhiều lời có tính triết lí, nửa như tiên tri, nửa như lời ma quỷ đưa lối và tạo thành một thứ ?oma từ?. Ai yếu bóng vía thì thấy sợ. Lửng lơ lúc nào cũng thấy một Nguyễn Huy Thiệp trên đầu. Nhà văn Lê Minh Hà tận Tây Đức từng vẽ ?oChân dung Nguyễn Huy Thiệp từ một thế nhìn?: Ông buông bắt người đọc bằng khả năng viết không thay được một chữ; hoặc thậm chí: tôi bị khuất lụy vô điều kiện bởi Nguyễn Huy Thiệp, tới mức: thuộc lòng từng đoạn từng truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Sao lại phải tới nỗi thế?. Theo tôi, đấy chỉ là một trong nhiều thủ pháp tiểu xảo của nhà văn biết cách lạ hóa. Khác lạ là ăn tiền. Tôi thấy Thiệp có chỗ khác và lạ. Đúng như ông nói, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo được cho mình một giọng điệu riêng, gửi gấm được nhiều quan niệm để trình làng một mâm cỗ kiến tạo với quan niệm thẩm mỹ của Thiệp. Theo tôi đấy là khác. Còn lối viết như tôi dẫn chứng trên, đấy là lạ. Nhưng cái lạ sẽ hỏng và thực buồn cười nếu không đúng chỗ. Cũng dần chẳng còn lạ nếu cứ lặp đi lặp lại. Ông có nhớ Thương nhớ đồng quê không? Đấy là một truyện hay sau này của Nguyễn Huy Thiệp? Ông ta ở thủ đô, đi xe máy Uớc mơ, chủ tiệm ăn Hoa Ban mơ mộng mà viết được về đồng quê Việt Nam cả một giai đoạn dài tới như vậy. Bao nhiêu người, bao nhiêu suy nghĩ và bao nhiêu chi tiết rất sinh động của làng quê một thời, được Nguyễn Huy Thiệp cô đọng, dựng nên truyện. Vẫn cái gịong khác ấy, lạnh lùng ấy, Tướng về hưu làm người ta bàng hoàng đau đớn, nhưng tới Thương nhớ đồng quê người ta bùi ngùi, vì những việc, chi tiết quen thuộc, thậm chí lẩm cẩm, vớ vẩn mà ông Thiệp nhặt nhạnh, lắp ghép, tái dựng trong trí tưởng tượng của một bàn tay tài hoa. Chỉ thế thì tài, vì nó đã mang gần như đầy đủ cái Khác! Nhưng cũng trong Thương nhớ đồng quê, Nguyễn Huy Thiệp đã sai lầm, khi ông ta chấm mầu, làm đậm lên nhiều cái lạ. Cái lạ ở đây khi đã đậm đặc, lại thành những hạt sạn, làm người đọc gặp phải muốn nhè ngay ra miếng cơm dẻo đang bùi. Tôi đồ rằng, ông Thiệp viết truyện này và nhiều truyện dở khác nữa ở quán Hoa Ban?
    Được msno99 sửa chữa / chuyển vào 19:52 ngày 17/04/2004
  10. msno99

    msno99 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    58
    Đã được thích:
    0
    2.
    Trần Đăng Khoa:
    Truyện đã dở thì viết ở đâu cũng chẳng quan trọng. Địa điểm viết nào có ý nghĩa gì, khi cái truyện không có sức sống. Ông là người trọng lý luận, nên ông nâng thành lý luận hai đặc điểm trong những sáng tác thành công của ông Thiệp là lạ và khác. Lạ và khác thì cũng chỉ là một mà thôi, tuy ở hai cấp độ, có khác nhau tí chút. Tôi trọng thực tiễn. Tôi thấy ông Thiệp chỉ có mỗi một mẹo, và ông ta cũng chỉ sử dụng có mỗi một mẹo để làm nên sức hấp dẫn của mình. Đó là phép nói ngược. Tất cả chỉ có thế. Người đời dựng Trương Chi là một anh chàng lãng mạn, ông Thiệp đưa ra một Trương Chi bất đắc chí, cục súc và thích văng tục. Ngay khi vừa xuất hiện, Trương Chi đã tung "***" ra rồi. Rồi chàng vung "***" ra khắp các trang sách. Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp chẳng khác gì một tên du thủ du thực. Người ta luôn nghĩ các vị Thánh thường rất cao vợi và linh thiêng, ông Thiệp qua các sáng tác, đã chỉ ra rằng, Thánh cũng chỉ là người trần mắt thịt ở trong cõi vô minh ở chốn phàm trần. Thánh cũng ve gái, cũng uất ức vì không chinh phục được một cô gái ở hạng thứ cấp, mà người đời vẫn coi là mạt hạng, là xướng ca vô loài...Hầu hết các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đều mang âm hưởng như thế. Và ở ngoài đời, ông Thiệp cũng sống như vậy. Nghĩa là vẫn gây ấn tượng bằng những cú nói ngược. Tôi kể ông nghe về cuộc Hội thảo của đoàn nhà văn ta với độc giả Thụy Điển chiều 28 tháng 9 năm vừa rồi giữa Hội chợ sách Bắc Âu. Cuộc hội thảo do nhà văn lớn Thụy Điển Sara Lidman điều khiển và đề dẫn. Sara Lidman rất yêu Việt Nam, từng ủng hộ cuộc chiến tranh của chúng ta những năm trước đây. Bà nói lại những ấn tượng tốt đẹp của bà về những năm tháng rất đáng ghi nhớ ấy. Nhưng đến Nguyễn Huy Thiệp thì anh xổ toẹt: ?oĐối với thế hệ chúng tôi, cuộc chiến tranh ấy thật đáng lộn mửa?T?T Bà Sara Lidman không hiểu ra làm sao cả. Bà lại nghĩ rằng, hình như ở Việt Nam đang có mối mâu thuẫn giữa các nhà văn đã qua chiến tranh và những thế hệ cầm bút sau chiến tranh. Thực ra, Nguyễn Huy Thiệp đâu phải thế hệ sinh ra sau chiến tranh. Ông cùng thời với hàng triệu người chết trận, hàng triệu người đang sống còn mang bao nhiêu vết thương nhức nhối. Nhà văn Phan Thị Vàng Anh đúng là thế hệ sau chiến tranh lại phải điều chỉnh: Nếu có chút gì gọi là mâu thuẫn, có chăng chỉ thế này thôi, là các nhà văn đã qua chiến tranh viết về chiến tranh cũng chưa được thật hay. Thế thôi. Còn cuộc chiến tranh của chúng tôi là cuộc chiến tranh giữ nhà. Tôi rất tự hào về cuộc chiến tranh ấy. Nhiều khi tôi cứ muốn xoay ngược kim đồng hồ, để được làm người tham dự cuộc chiến tranh, muốn biết thực chất cuộc chiến tranh ấy thế nào, mà hôm nay, có người tự hào vì đã đổ máu cho nó, có người lại cho việc đổ máu ấy là ngu ngốc. Cũng lối nói ngược ấy, ông Thiệp bảo, đến Hội chợ sách, tôi thấy lo sợ cho Thụy Điển, vì Thụy Điển in quá nhiều sách. Đó là một việc làm rất nguy hiểm. Mà in như thế để làm gì. Bây giờ có ai đọc sách đâu. Người ta chỉ đọc sách trước tuổi 30 thôi. Điều này có thể đúng với ông Thiệp, nhưng không đúng với các độc giả, ngay cả các độc giả Việt Nam, chứ đừng nói đến các độc giả Thụy Điển. Bây giờ ở Việt nam cũng trên giời dưới sách. Sách được in rất nhiều và in rất đẹp. Nếu không ai đọc thì người ta in sách ra để làm gì? Và Hội chợ sách tổ chức linh đình ở Thụy Điển cũng chỉ để nhằm tôn vinh các nhà văn, các học giả và bạn đọc khả kính. Nếu không đọc, không muốn tìm sách hay thì làm sao có hàng triệu lượt người đến hội chợ sách hôm ấy. Vé cả đợt vào cửa là 352 USD mỗi người. Số tiền ấy đâu có rẻ đối với ngay cả đồng lương của người Thụy Điển. Vậy mà Nguyễn Huy Thiệp lại bảo người ta không đọc. Bà Sara Lidman kinh ngạc: ?oLần đầu tiên tôi được nghe ý kiến như thế. Tại sao anh lại nói vậy? Anh căn cứ vào đâu mà nói thế? ở nước tôi, ngay cả những vùng quê hẻo lánh, người ta đọc cũng rất nhiều...?T?T. ?oKhông ai đọc sách đâu. Đấy là một sự thật. - Ông Thiệp bảo. - Nếu có đọc sách thì người ta cũng chỉ đọc giả vờ. Ngay cả sách của bà, người ta cũng không đọc. Bản chất của con người là nhầm lẫn...?T?T. Nói thế là liều lĩnh lắm. Suy cho cùng, Nguyễn Huy Thiệp chỉ tạo dựng sự độc đáo của mình bằng phép nói ngược mà thôi. Ông cứ bình tĩnh đọc lại toàn bộ tác phẩm của ông Thiệp thì rõ. Lối nói ngược bao giờ cũng ấn tượng, hấp dẫn. Nhưng để xử dụng được cái mẹo này, phải có vốn văn hoá sâu rộng và lại phải rất cao tay, như một vị phù thuỷ có bùa mê thuốc lú. Chỉ như thế mới mê hoặc được công chúng. Nếu không sẽ ăn đòn ngay, vì bị cho là kẻ phá đám, là thằng nghịch tặc. Nguyễn Huy Thiệp từng chịu nhiều cú đòn. Hầu hết những trận đòn ấy cũng đều bắt đầu từ chuyện nói ngược đó thôi.
    Nguyễn Văn Thọ:
    Việc ông Thiệp phát biểu như thế, theo tôi đấy cũng là một dạng ?omơ hồ Nguyễn Huy Thiệp?, để ai hiểu thế nào cũng được về hai mặt của chiến tranh. Đấy là điều nguy hiểm cho bạn đọc. Với cuộc sống thực, Nguyễn Huy Thiệp hay né tránh trách nhiệm khi phát biểu ở nước ngoài, né tránh trách nhiệm với đồng bào và bè bạn của ông. Điều đáng buồn là Nguyễn Huy Thiệp đã rất vô trách nhiệm khi phát biểu trên đất nước xét giải Nobel? Tôi tin bè bạn Thuỵ Điển đủ thông minh để thận trọng nhận biết khi nghe Nguyễn Huy Thiệp. Vả lại, một nhà văn ra nước ngoài, không cá nhân nào có quyền thay thế cho chúng tôi, ít ra là tôi là bè bạn tôi, phỉ báng nốt vào phần máu cuối cùng mà chúng ta đã đổ trong cuộc chiến tranh đã qua. Tôi hy vọng, nhà văn nữ Thụy Điển kia, người đã từng đứng về phía Việt Nam trong chiến tranh, tỉnh táo nhận ra điều ấy. Nhận ra, ông Nguyễn Huy Thiệp chỉ là một cá thể.
    Vấn đề này, phải nói là rất đau lòng. Có lẽ tôi với ông phải mở hẳn một chuyên đề hai ta thảo luận, nhìn nhận hiện tượng này cho rõ. Bởi vì vừa qua, cũng không ít nhà văn học cách nói điêu, nói dối. Họ đã đẻ ra nhiều dị dạng quái thai. Họ có trực tiếp nhìn thấy máu đâu mà biết về máu, phỉ báng máu! Sự nghe hơi nồi chõ, cưỡi ngựa xem hoa, khi rơi vào văn chương minh họa, hoặc phản tỉnh cũng đều hạn chế như thế. Nhất là lại tái hiện cuộc chiến hoặc những vấn đề của thời thế khi ngửi thấy làn gió của thời thế mới. Tôi gọi, đó là sự vô luân có thể hiểu được của vài người cầm bút. Thế hệ sau có thể không trực tiếp tham gia chiến tranh, sẽ viết hay về cuộc chiến, nếu như họ có niềm thức tỉnh minh triết và nghiên cứu thận trọng, trong câu hỏi vì sao chúng ta đã làm nên chiến thắng. Cả tuổi xanh của tôi đã chôn vùi trong chiến tranh, bây giờ nhìn lại, tôi thấy rõ chiến tranh, ở mặt trái của nó khốc liệt như thế nào mà cả dân tộc ta đã phải chịu đựng, nhưng bóp méo những gì đã xảy ra trong lịch sử chiến tranh của đồng đội tôi, những gì nhân dân và bộ đội đã một thời vì lòng tự tôn dân tộc, thực sự tin và sống chết với niềm tin của nhân dân khi ấy, tôi coi đấy là một sai lạc khó mà tha thứ. Tôi không tô hồng chiến tranh, luôn nhớ tới những mất mát không bao giờ bù đắp nổi của biết bao người, song chúng tôi khi ấy, nếu như không có sự hy vọng về ngày chiến thắng của một dân tộc, hỏi làm gì có ngày cuối cùng mà biết bao người đã đi qua cái chết tới thành phố Sài Gòn? Với lối nhìn ra vẻ phản đối chiến tranh, bịa tạc hay quá nhấn vào mặt bản năng người, bôi xóa mặt hoành tráng có thực trong đại đa số tâm hồn của người lính thời đại ấy, là lối nói nhăng cuội! Nhà văn phải dũng cảm và trung thực. Trung thực ngay với cả bản thân mình, không để bất cứ hoàn cảnh ngoại quan và điều vụ lợi lấn lướt, chi phối. Điều mà Nguyễn Huy Thiệp phát biểu trên, một lần bộc lộ tâm can hiện tại của ông ấy. Nguyễn Huy Thiệp, nếu trung thành với những lòng đau có thực trước nhân dân, đẻ ra nhiều truyện ngắn hay trước đây làm tôi tâm phục khẩu phục, thì hôm nay ông ấy sẽ phải thận trọng hơn, nhất là khi ra nước ngoài, trả lời một câu hỏi của một nhà văn từng sát cánh cùng chúng ta. Vậy là ông Thiệp mông lung, mập mờ với nhiều quan niệm của mình. Hay đó là sự mông lung của một con người nhiều ham hố. Nhà văn như vậy, dù có tư tưởng, cũng không thể lớn được.
    Trần đăng Khoa:
    Tôi nghĩ đó cũng chỉ là trò ?onói ngược? để tạo ra những cú sốc của ông Thiệp. Ngay gần đây nhất là bài ?oTrò chuyện với hoa thuỷ tiên và những nhầm lẫn của nhà văn? ông Thiệp cho in liên tiếp trên ba số tạp chí ?oNgày nay?. Tôi thực sự ngạc nhiên, không biết ông Thiệp ?omoi? ở đâu ra mà lắm nhà thơ nhà văn thế? Hiện nay, danh sách toàn bộ Hội viên Hội nhà văn mới chỉ có 798 người, trong đó chỉ có gần 300 nhà thơ, thế mà ông Thiệp bảo ?oTrong số hơn ngàn Hội viên hội nhà văn?, có 80% là các nhà thơ. Ông gọi họ là ?ođám giặc già lăng nhăng thơ phú?. Ông muốn Hội nhà văn chỉ nên là sân chơi của những người trẻ tuổi. Yêu mến, nâng đỡ thế hệ trẻ là điều rất tốt, nhưng không phải vì quý lớp trẻ mà lại khinh miệt, phỉ báng lớp già, lại đuổi những người già ra khỏi cái sân chơi rất đỗi quen thuộc và vui vẻ có tên là Hội Nhà Văn. Chúng ta rồi ai cũng đến lúc thành người già. Cả ông Thiệp cũng thế. Các cây bút cao tuổi mà còn cặm cụi lao động, còn chạy đua với lớp trẻ, vẫn kẽo kẹt kéo cày trên cánh đồng chữ đầy bẩ chắc và giông gió thì tốt quá chứ. Họ đáng kính trọng gấp hai lần. Vậy hà cớ gì mà lại tảy chay những người đáng thương ở cái kiếp cầm bút chúng ta. Không nên tạo ra mối mâu thuẫn giữa các thế hệ. Các cây bút chống Mỹ, thời còn rất trẻ, họ cũng đâu có phân biệt thế hệ, khinh miệt các bậc đàn anh như thế? Và các nhà văn cao tuổi cũng vậy, họ đâu có ghét bỏ, vùi dập lớp trẻ. Việc khen chê nếu có cũng chỉ là sự thẩm định trên từng tác phẩm cụ thể. Đó là quyền của bất kỳ người đọc nào, cũng là chuyện bình thường trong sinh hoạt văn chương lành mạnh, không phải sự xung đột thế hệ. Vậy thì tại sao lại cứ phải tạo ra những hố ngăn cách giả giữa các thế hệ nhà văn như thế để làm cái gì?
    Nguyễn Văn Thọ:
    Trở lại tác phẩm cụ thể của Nguyễn Huy Thiệp, thời ông ấy còn vang bóng, tôi tiếc cho Thương nhớ đồng quê. Giá ông Thiệp không bắt thằng trẻ trâu, cái cậu Nhâm đáng thương ấy, nhìn và cảm như một người quá từng trải. Cái chuyện bị nhoè đi, vì tác giả đưa vào những bài thơ phụ đồng bắt ếch lơ ngơ, mang tính bùa chú. Nhưng có người lại bảo, văn Nguyễn Huy Thiệp mà ông đòi tước đi mấy thứ đó thì có khác gì giết chết ông ấy! Nói như vậy, nhưng về mặt thành công, bao gồm những truyện ngắn hay của Nguyễn Huy Thiệp đọng lại, tựa như tiếng sấm báo hiệu một thời kì mới của văn chương quê mình. Này, ông Khoa ơi, sau tiếng sấm ấy, chớp và mưa! Ông thánh Nguyễn Khải còn nói là sẽ bẻ bút(!). Nhưng đấy là sự xấu hổ có thực dẫu là bên bàn trà tiệc rượu, lề đường, nhất là khi mấy bố hứng lên.

Chia sẻ trang này