1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nguyên lý cấu tạo và hoạt động của động cơ tên lửa nhiên liệu rắn (DTR)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi 0123456, 11/12/2005.

  1. 2 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 2)
  1. 0123456

    0123456 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/03/2004
    Bài viết:
    167
    Đã được thích:
    0
    đừng làm rối mù lên thế Tuất, la lối và xỉ vả là bài cũ rồi, làm rõ nhé
    -9K14M là cái gì, có nhầm không?
    -thế cuối cùng thì Tuất bảo quả 9M14 và 9M14M có quay không cho tới khi chạm mục tiêu ? (quên cái xã luận về AT 1234565 đi), có hay không thôi?
    cậu bắt đàu bằng thừa nhận AT-3 có quay, sau lại kết thúc bàng AT gì đó không quay, không hiểu Tuất định lừa anh em hay tự lừa mình vậy
    -thực ra thì Tuất cũng có kiến thức đó, kiến giải của Tuất về cái bướu lúc khởi động và cái bướu lúc cháy gần hết thuốc phóng là chính xác
    -tuy nhiên chữ "khối lượng thông qua" mà Tuất sử dụng thì lại làm gợi nhớ đến từ "performance" trong các tài liệu search bằng google với các từ khoá "ballistic, propellant, rocket" . Không Soviet tẹo nào, nó hơi khác với sở học từ LX của Tuất !!!
    -cậu bảo áp suất trong buồng đốt của cái sơ đồ cháy mặt đầu ấy sai ư? áp suất tăng lên làm sao được khi diện tích cháy của thuốc phóng không thay đổi, xem lai cái mô hình buồng đốt đi nhe. Chưa bàn đến thuốc phóng ống lúc này đâu Tuất. Đừng cầm đèn chạy trước otô thế. Híc
    Được 0123456 sửa chữa / chuyển vào 22:04 ngày 16/12/2005
    Được 0123456 sửa chữa / chuyển vào 22:11 ngày 16/12/2005
    Được 0123456 sửa chữa / chuyển vào 22:14 ngày 16/12/2005
  2. 0123456

    0123456 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/03/2004
    Bài viết:
    167
    Đã được thích:
    0
    Được 0123456 sửa chữa / chuyển vào 22:32 ngày 16/12/2005
    Được 0123456 sửa chữa / chuyển vào 23:21 ngày 16/12/2005
  3. hairyscary

    hairyscary Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/10/2003
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    1
    Mệt chán buồn đau...: Mấy ku làm thế không đúng đâu, nổ đấy!
    0123456: Sao biết?
    Mệt chán buồn đau...: Ngày xưa teo bịa kết quả cho luận án như thế mà. Làm ông thầy tí nữa thì banh xác, vì cứ tưởng số liệu thật nên cứ thế đem vào thử nghiệm ke ke ke ke ke ke ke ke
    Giỡn tí chơi!
    Ducsniper đã bỏ ra đi sau vụ gì đó quên mất tiêu rồi. Ban đầu ku này được ku HP liệt vào dạng các bác tử tế. Sau rồi đụng với ku HP một hai vụ gì đó nên đã bị xuống hạng, thành bè lũ bịa đặt phá hoại không xây dựng thiếu hợp tác... gì đó. Chắc ku 0123456 đi vắng lâu nên không biết vụ này.
    Ku mig nông dân cũng thía. Trước đây đã cảnh báo một lần rồi mà, nhớ không?! Cũng rớt hạng từ các bác tử tế xuống các bác linh tinh.
    Nhân tiện cảnh báo luôn cho ku 98 gì đó.
    Nhân tiện đây, gửi lời chào tới submarine. Hello submarine. Hôm trước thấy ku xuất hiện ở một topic đang có tranh cãi. Tiện đang viết ở đây nên mượn đất chào nhau một tiếng.
    NÀM sao mà NẠI hạ mình xuống tham gia vào chỗ nũ ''''trẻ con hiếu thắng'''' đang cãi nhau mờ NÀM gì thía? Hết tự ái rồi à? Hay NÀ mới cưa sừng NÀM nghé?
    Được Hairyscary sửa chữa / chuyển vào 23:57 ngày 16/12/2005
  4. 0123456

    0123456 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/03/2004
    Bài viết:
    167
    Đã được thích:
    0
    -0123456:
    em hiểu rồi bác ạ, Áp suất tăng thì lực đẩy tăng, lực đẩy tăng thì vận tốc tăng, đúng nhẩy. Em cần lực đẩy đều, không đổi theo thời gian cơ bác ạ
    -MiG nông dân:
    ừa, khá đấy, sẽ cho chú đi uống rượu với T-80
    -0123456:
    ơ mà này, sao bác lại biết là em định làm động cơ cho tên lửa chống tăng
    -MiG nông dân:
    thôi, chú đừng có bịp anh, chú định làm 1 cái đ/cơ đẩy trong 30 giây, áp suất phải thật đều nhằm duy trì tốc độ đều của t/lửa, thế không phải lắp vào thành động cơ hành trình của tên lửa chống tăng là gì
    chú còn đang vướng không biết làm thế nào để đạt được tốc độ khoảng 115m/s (như lão Tuất nói) với cái động cơ thuốc phóng cháy mặt đầu của chú, gớm cứ phét anh, cái động cơ ấy lực đẩy yếu nhợt.
    thôi, nghĩ đến động cơ khởi động cho quả pháo thăng thiên của chú đi là vừa
    hê hê, anh đi uống rượu với lão T-80-U đây
    -0123456:
    hic, bác cho em xin, đi gặp cái con T-80-U ấy, mà nó biết em đang âm mưu làm tên lửa antitank thì có mà "thành kính phân ưu"
    nhưng mà dù sao em cũng phải cố nốt, làm xong cái động cơ đẩy
    [​IMG]
    thực ra làm chung vào một động cơ thì cũng tốt, động cơ hoạt động 2 phase, phase đầu cháy nhanh, cháy mạnh để tạo lực đẩy lớn, phase sau cháy túc tắc, lực đẩy nhỏ để duy trì tốc độ
    nhưng thê thì vỏ hợi nặng, thuốc phóng cũng khó thiết kế hình dạng, mừ tính toán khó bỏ mịe
    em là em cứ tách thành hai cái riêng
    -Động cơ xuất phát có lực đẩy đủ để đẩy 10 Kg, lên đến tốc độ 115m/s, tính luôn cả việc khởi động cái con quay của bác Tuất, gớm lớn rồi mà cứ thích nghịch quay, không đủ lực đảy làm đạn rơi xuống trước bệ phóng là đứt luôn mấy ku RPG-7 đứng trước mặt
    -động cơ hành trình chỉ cần lực đẩy nho nhỏ, duy trì việc tải dây điều khiển sau mông, thắng lực cản, thích thoảng lắc mông phát theo lệnh của chú điều khiển, à téo quên, hoạt động trong vòng 8000m chia cho 115m/s bằng ?????
    í, lấy computer ra tính phát cho nó khoa học
  5. Tuat_than_dau

    Tuat_than_dau Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/12/2005
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    40
    Bài toán lượng thông qua Tuất đã nói bên trong luận về đối không.
    Như thế này. Nếu lượng thông qua là m kg/s, tốc độ khí thoát là v m/s thì lực đẩy bằng lượng thông qua nhân với tốc độ thoát, bằng v * m. Đây là động cơ không dùng không khí, v ở đây là v so với cửa thoát. Ở động cơ dùng không khí, phải trừ đi lực cản do cửa hút tạo nên, vậy v phải là v so với không khí quanh động cơ.
    Có hai phương án tăng lực đẩy: một là tăng khối lượng dòng thoát,hai là tăng tốc dộ dòng thoát. Phương án một hiệu quả hơn do ví dụ sau, phuơng án hai tốn gấo 10 lần:
    1: Nếu 100kg/s thoát 1m/s lực đẩy là 100N, động năng do dòng khí lôi đi là 50J/s.
    2: Nếu 10kg/s thoát 10m/s lực đẩy là 100N, động năng do dòng khí lôi đi là 500J/s.
    Nhiệt độ của khí thải động cơ là năng lượng mang đi vô ích, nên càng giảm càng tốt.
    Vậy, để tăng lực đẩy hiệu quả cần tăng lượng thông qua, giảm nhiệt độ thoát.
    Ở động cơ không dùng không khí, nhiên liệu cháy ở áp cao tạo điều kiện giảm nhiệt độ thoát. Tỷ khối tiêu chuẩn của hỗn hợp thoát lớn và kết cấu tuye-buồng đốt thích hợp tạo thuận lợi chuyển nhiệt năng thành động năng.
    Không khí chứa 1/5 ôxy, karosen chứa 1/7 hyđrô và 6/7 carbon, nếu cháy vừa đúng tỷ lệ là 14kg karosen tạo ra 44kg CO2 và 18kg H2O, tiêu thụ 48kg O2 và 192 N2, đầu vào thêm 240kg không khí. Lượng thông qua đó đã rất lớn so với phản ứng tương đương năng lượng của karosen với N2O5 (hoặc karosen-HNO3, H2-O2) trong các động cơ không dùng không khí (hay nói cách khác khối lượng thông qua lớn do không khí có quá nhiều N2). Tức là động cơ chỉ cần mang đi 14kg nhưng có lượng thông qua 254kg.
    Đã thế, động cơ dùng không khí còn đốt thừa không khí. Khi quá ít nhiên liệu để cháy ổn định, cơ chế turbofan chỉ cho một phần không khí qua buồng đốt (bypass ratio), tạo điều kiện tỷ lệ công suất toả nhiệt nhiên liệu/lượng thông qua lớn, điều đó làm tăng hiệu quả ăn dầu. Như động cơ tiên tiến của SU và MIG có lực đẩy 20 tấn, lượng thông qua 180kg/s, ăn dầu chỉ 620kg/(1tấn lực đẩy * giờ làm việc). Phần không khí dùng để đốt cháy ở áp suất 25 atm, tạo điều kiện chuyển hoá thành động năng turbine tỷ lệ lớn, phần động năng này chuyển khoảng 1/2 cho phần không khí không đi qua buồng đốt. Khi cần lực đẩy lớn, đốt đít ở áp suất thấp sẽ giảm hiệu
    Việc đốt đít thực hiện phản ứng cháy ở áp suất thấp, là cho chuyển hoá nhiệt năng-động năng không tốt và không tăng lượng thông qua chỉ tăng tốc độ. Do đó, hiệu suất giảm đơn lại giảm kép. Nó chỉ được dùng do rất nhẹ, đơn giản, động cơ đốt đít là động cơ phản lực dùng không khí đầu tiên được sử dụng.
    Nói đơn giản thế này, ô tô khác tầu thuỷ máy bay ở chỗ lượng thông qua lớn vô cùng (chính là khối lượng quả đất), nên không phải lo lượng thông qua.
    Động cơ không dùng không khí có thể thay đổi lượng thông qua bằng cách đốt dư hay thiếu oxy. Nhiên liệu rắn cũng có thể thay đổi tỷ lệ cháy bằng phun thêm nhiên liệu hay oxy hoá lỏng vào buồng đốt. Lượng thông qua/năng lượng cũng thay đổi khi dùng nhiên liệu khác nhau. Nhưng nhiên liệu càng tốt thì có lượng thông qua càng giảm nhưng lại cho nhiều năng lượng, nên người ta thà tìm cách điều khiển được nhiên liệu tốt còn hơn dùng đồ rởm dễ trị.
    Còn đây là quá trình cháy của động cơ nhiên liệu rắn cháy từ dưới lên, tên lửa chạy về bên trái, khí thoát phản lực về phải:
    Do khí thoát sinh ra từ trái, chạy về phải, rồi thoát đi qua tuye nên áp suất P1 lớn hơn áp suất P2.
    Do áp suất ở điểm D1 lớn hơn áp suất ở điểm D2 nên tốc độ cháy ở điểm D2 thấp hơn tốc độ cháy ở điểm D1. Vậy là vết lõm càng ngày càng phát triển sâu hơn.( Cháy từ phải sang trái, ăn dần khối nhiên liệu).
    [​IMG]
    Do vết lõm càng ngày càng phát triển sâu nên diện tích tăng nhanh. Diện tích ở đây chỉ phát triển theo một vết lõm, nên cũng còn đủ thời gian cho 123456 chạy. Chứ nếu thanh nhiên liệu rỗ (có nhiều vết lõm), thì tốc độ phát nổ rất nhanh. Phát nổ do một vòng quẩn: diện tích tăng làm tăng tốc độ cháy, tốc độ cháy tăng làm áp suất tăng, áp suất tăng lại làm tăng tốc độ cháy. Kết cục của cái vòng luẩn quẩn ấy là sự phát nổ. Khi vết lõm sâu, áp cao trong đó đẩy vỡ khối thuốc, diện tích tăng đột ngột, 0123456 không kịp kêu ah. Bằng hữu MIG đến lượm cái trước đây là 0123456. Tuất vội chạy đi kiếm 1 lít tiền phúng điếu, vô cùng đau thương, vì đang hết vẹo.
    ke ke ke ke ke ke ke ke ke
    Với các động cơ đang bay trên M1, người ta dùng ramjet. Nó không cần turbine nén, không khí tự nén qua miệng, phun nhiên liệu vào đốt. Để duy trì áp suất đốt từ 3 đến trên 10 atm, cần M1 đến M2. Động cơ này có một cái phức tạp là phải có hệ năng lượng phụ để duy trì máy bơm nhiên liệu, phát điện, bơm thuỷ lực, ngay cả các bugi đánh lửa, do rất khó chế tạo máy phát điện, bởi bản thân rạmjet đơn giẩn đến không có trục. Nhưng so với động cơ không dùng không khí nhiên liệu lỏng cần thêm động cơ phụ để chạy thứ đó thì cũng không sao (loại này dùng buồng đốt phụ đẩy turbine, kéo máy móc. Trừ tất cả đi, ramjet rất dễ thực hiện (nhưng lại khó thử nghiệm).
    Với các động cơ bay dưới M1, người ta dùng động cơ turbo (máy nén turbine). Động cơ này vốn bản thân nó phức tạp đắt đỏ, nhưng có trục để chạy bơm dầu phát điện.v.v.v. Đã thế chẳng cần cái gì đẩy nó lên đến M1 để bắt đầu chạy được.
    Các động cơ tên lửa không dùng không khí có nhược điểm lượng thông qua thấp, nên thường chỉ thích hợp với động cơ có thời gian hoạt động ngắn, các đạn bay theo đạn đạo. Hoặc cũng có thể đẩy ramjet lên đến M1 để chạy.
    Nhưng chúng lại rất dễ làm, đang nói các động cơ nhiên liệu rắn. Đặc biệt, với các động cơ nhỏ, đường kính dưới 300mm, thì động cơ nhiên liệu rắn rất hiệu quả. Ở cỡ này, động cơ nhiên liệu lỏng và dùng không khí đều quá tốn cho cái bơm, tức là khối lượng và giá thành cái bơm ấy ta cho thêm nhiên liệu rắn. Động cơ nhiên liệu rắn là động cơ phản lực đầy tiên con người chế được. Động cơ cũng dễ chế nhất.
    Như vậy, đầu đạn cỡ nhỏ, bay đạn đạo, thì chọn lựa nhiên liệu rắn là dĩ nhiên.
    Nhưng có một thứ đầu đạn bay không đạn đạo, mà lại dưới 300mm. Thế mới rắc rối.
    Điều đó giải thích tại sao các tên lửa đạn đạo có điều khiển, pháo phản lực bắn giàn được dùng rất nhiều trong thế chiến. Nhưng tên lửa chống tăng và không chiến thì mới đang thử nghiệm chưa mấy thành công. Nhưng nắm được và đều khiển được định lý cơ bản về chất nổ nó mới đẩy được tên lửa chống tăng, vốn dưới 300mm và không đạn đạo, đã thế tốc độ chưa đến M1/10 như AT-3.
    Chúng ta xem lại cơ chế làm việc của động cơ qua các bài toán đơn giản nhất về tốc độ cháy ở bài dưới cho đỡ dài quá, nhẩy. May mắn vẫn cứu được bác 0123456 khỏi tay các thầy dùi thay đổi khối lượng để chịu G. Nếu không may, thì đem đốt mấy bài này phúng điếu, dù sao thì dưới kia 123456 có thể làm được pháo thăng thiên, bắn chơi đỡ hận MIG xui dại.
    Chúng ta quan sát xem người ta làm thế nào trị được các lỗ rỗ phát nổ. Ở đây, Tuất chú ý một điểm là rất khó dập tắt được khối nhiên liệu cho nó, vì nó không dùng không khí, nên trong và sau thế chiến, người ta không thể nào làm dài được các RATO (trợ lực cất cánh nhiên liệu rắn). Người ta đổ cho các lớp lót thành động cơ và nhiên liệu hở, lửa bắt trong đó. Đâu có phải thế, nếu dập được lửa lúc đó thì nhìn thấy lỗ rỗ ngay.
    Được tuat_than_dau sửa chữa / chuyển vào 21:11 ngày 18/12/2005
    LarvaNH thích bài này.
  6. Tuat_than_dau

    Tuat_than_dau Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/12/2005
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    40
    0123456:
    Huynh cho đệ biết, thuốc nổ cháy nhanh chậm do sao. Tại sao, có thể lấy thanh thuốc nổ trong mìn ra để đun nước mà nó không nổ bay ấm nước. Tại sao khi rải thuốc pháo ra nền nhà thì nó cháy từ đầu này đến đầu kia, còn cho vào một ống giấy mỏng thì thuốc pháo phát nổ.
    Tuất:
    Thuốc nổ là một hỗn hợp tự phản ứng. Thuốc nổ rắn là hỗn hợp đó trộn với chất kết dính, đúc lại thành thanh. Thông thường thuốc nổ rắn gồm chất kết dính là chất dẻo tổng hợp, chất đốt, chất tạo ôxy, cùng một số tạp chất và phụ gia. Khi bề mặt chất nổ nhiệu độ cao hơn nhiệt độ phân huỷ của chất tạo oxy thì thuốc nổ bắt đầu cháy. Thuốc nổ bị tan vỡ thành hỗn hợp cháy khi các phân tử khí cháy đập vào bề mặt nó. Như vậy, thuốc nổ rắn cháy nhanh khi có nhiều phân tử đập vào và tốc độ của các phân tử đập vào cao. Tức là nhiệt độ và áp suất cao. Đồ thị của tương quan này không hoàn toàn đẳng tuyến. Nhưng người ta pha thêm phụ gia và thay đổi chế độ gia công để trong một khoảng nhiệt độ và áp suất dài, đồ thị trên đẳng tuyến. Điều đó tạo thuận lợi cho việc điều khiển tốc độ cháy, trị được những con ngựa mạnh nhưng bất kham.
    Tốc độ cháy nói trên đoạn trên là tốc độ cháy tính theo m chiều sâu một giây. Hay là tốc độ cháy dài. Như vậy nếu nhân nó với tổng diện tích bề mặt chất nổ, ta được tốc độ cháy khối, tính bằng m3/s. Nhân nó với cái gì đó đệ tự hiểu, được tốc độ phân huỷ hỗn hợp theo kg/s.
    Hay, tốc độ cháy vào sâu viên thuốc tỷ lệ thuận với tích nhiệt độ tuyệt đối khí cháy và áp suất khí cháy.
    Tốc độ cháy khối lượng thuốc tỷ lệ thuận với nhiệt độ tuyệt đối, áp suất và diện tích bề mặt.

    Như vậy chất nổ bột như thuốc nổ đen, dynamic rất dễ phát nổ, do tổng diện tích bề mặt các hạt bột lớn. Người ta dùng chúng làm các kích nổ (khởi động). Chúng càng dễ cháy khi trong hỗn hợp có những thành phần tạo ôxy ở nhiệt độ thấp. Đó là các ngòi chạm nổ.
    Để giảm tốc độ cháy trong đạn AK, người ta trộn TNT hay TNX với dung môi thành keo, rồi ép đúc thành các hạt to hơn. Diện tích đồng đều các hạt, do quá trình gia công quyết định, tạo nên tốc độ cháy ổn định, bắt đầu trị được con ngựa bất kham.
    Nhưng các hạt càng cháy càng nhỏ, tốc độ cháy khối giảm đi. Điều này không thuận lợi khi làm súng. Nếu cho nhiều thuốc nổ thì áp suất ở buồng đạn cao, vỡ súng. Còn làm nòng dài ra thì đạn đi đoạn ngắn trong nòng đã giảm áp. Do tốc độ đạn càng ngày càng tăng, tốc độ tăng thể thích càng ngày càng tăng, mà tốc độ cháy lại giảm.
    Có thể ngâm các viên thuốc trong chất làm chậm, lớp ngoài thấm nhiều cháy chậm (trong đồ thị trên), làm buồng đạn khong phát nổ khi thể tích chưa tăng, nhưng không lợi được bao nhiêu.
    Đạn đại bác dùng thuốc nổ hình trụ rỗng, chính là thuốc nổ được 0123456 nghe lời xui dại, chế làm tên lửa. Viên thuốc vừa cháy trong ra vừa cháy ngoài vào. Mặt trong tăng diện tích mặt ngoài thì giảm, thế là diện tích không đổi. Điều đó giải thích tại sao chỉ đến đầu thế kỷ 20, đạn đại bác mới vượt qua tầm bắn 10km.
    Viên thuốc rời không thể làm thuốc cho tên lửa được, do viên thuốc bị thổi qua tuye đi mất. Nên phải dùng thuốc nổ thanh có khả năng chịu lực lớn. Khả năng chịu lực đó giữ thanh thuốc trong nhiệt độ và áp suất cao không vỡ vụn bay đi. Khả năng chịu lực đó do chất kết dính quyết định.
    Cấc lỗ rỗ xuất hiện, áp suất trong đó cao hơn bên ngoài, do khí cháy phải đi từ trong đó ra ngoài. Áp suất trong lỗ cao, nên theo định luật trên tppcs độ cháy sâu trong đó cao hơn ngoài, nên lỗ rỗ phát triển sâu vào to ra.
    Một số chất oxy hoá và kết dính (kết dính cũng là nhiên liệu) có độ tinh khiết thấp nên có nhiệt độ phân huỷ không kiểm soát được. Điều đó cũng gây nên cháy không đều, tạo rỗ và nổ động cơ. Vậy phải chi thêm tiền để tinh chế. NH3NO3 tuy có nhiệt độ phân huỷ thấp nhưng lại dễ chế tinh khiết. Nên vẫn cạnh tranh với các clorat có nhiệt độ phân huỷ cao.
    Bột nhôm vừa có nhiệt lượng lớn, vừa có độ tinh khiết cao (được chế tạo bằng điện phân), lại giá rẻ, nên là nhiên liệu tốt.
    Như vậy, độ dốc của đồ thị trên quyết định bởi nhiệt độ phân huỷ của chất oxy hoá, độ vững chắc của chất kết dính. Càng có nhiệt độ phấn huỷ cao và chắc càng cháy chậm. Nếu nhiệt lượng toả ra của hỗn hợp lớn kết hợp với các điều trên thì tốc độ cháy càng ổn định. Do nhiệt độ phân huỷ cao nên chỉ có lớp mỏng bề mặt thanh nhiên liệu là đủ điều kiện cháy.
    Một điểm nưã để khắc phục chênh áp điểm D1 và D2 là bịt kín một phần buồng đốt. Quá trình biến năng lượng nhiệt độ và áp lực (thế năng) thành tốc độ khí thoát (động năng) được thực hiện trên đoạn D2 đến D3 (tuye). Nên chênh áp và tốc độ trung bình D1 đến D2 thấp. (hay là, khí cháy đi chậm tromg áp ssuất nhiệt độ cao từ D1 đến D2, rồi tăng tốc, giảm áp, giảm nhiệt từ D2 đến D3. Tuye thoát là kết cấu loa để biến đổi thế năng thành động năng thuận lợi. Khí cháy đi từ điểm D2 đến D3 thì tiết diện tăng ->áp suất giảm. Mỗi phần tử khí bên trái áp cao bên phải áp thấp nên tăng tốc nhanh.
    Nhưng bịt kín như thế có thể gây áp cao quá tới hạn cái vòng luẩn quẩn, tức là tốc độ cháy khối lượng tăng nhanh hơn tốc độ thoát khí, hay là nổ động cơ. Vậy phải trộn các phụ gia làm chậm, thay đổi tương quan đồ thị như trên.
    Trong thời kỹ thuật non kém, người ta trộn hồ với thuốc nổ đen để duy trì tốc độ cháy chậm. Cũng được với các tên lửa đạn đạo, không thể dùng để làm ATGM.
    Như vậy, phấn đấu thiết kế dàn đều áp lực và nhiệt độ trong động cơ, sử dụng chất ôxy hoá có nhiệt độ phân huỷ cao và tinh khiết, chất kết dính có khả năng chịu lực lớn, nhiên liệu có khả năng toả nhiệt cao là các bí quyết để ổn định tốc độ cháy.
    0123456:
    Nhưng làm thế nào để phát triển lõm không tăng đến mức nổ.
    Tuất:
    dễ ợt
    0123456:
    ??????????
    Tuất:
    Nó đã phát triển lõm thì làm nó lõm hết cõ đi, nó sẽ không lõm nữa.
    0123456:
    ??????????
    Huynh càng ngày càng bí hiểm
    Tuất:
    Tuất đã nói về lý hoá rồi. Giờ đến giải pháp hình học để ổn định tốc độ cháy.
    Hết rượu rồi, để huynh nghỉ tí. Mới 0123456 và bác MIG ra quán đầu ngõ, làm chai lá chuối với thịt gà lậu (20 nghẽn một con luộc rồi).
    Được tuat_than_dau sửa chữa / chuyển vào 21:20 ngày 18/12/2005
    LarvaNH thích bài này.
  7. Tuat_than_dau

    Tuat_than_dau Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/12/2005
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    40
    Như vậy, khi xuất hiện một lỗ trên bề mặt chất nổ, nó phát triển sâu hơn do tốc độ cháy chỗ lõm nhanh hơn chỗ lồi. Thế là bùm. Bác MIG đi tiêu.
    Cái mách nhỏ của bác MIG nếu có điều kiện để thực hiện, tức cái bướu sau cùng ấy, thì cũng chỉ trong phòng thí nghiệm thôi. Còn chiến trường: nó xảy ra khi ATGM đã nổ từ lâu.
    ?????????????
    MIG19 nông dân:
    thế làm thế nào để chống phát triển lỗ sâu. Sao huynh lại bảo để cho nó sâu hết cỡ.
    Tuất:
    Ở đây. Phương áp của bác MIG càng ngày càng làm vết lõm sâu hơn. Tên lửa được thiết kế để tốc độ cháy thấp, không chịu được tốc độ cao, nổ. Để chống lại việc phát triển sâu vết lõm, người ta làm ra vết lõm lớn nhất luôn, thế là không thể phát triển được nữa. Có điều, bây giờ tên lửa gần như hoàn toàn cháy trong ra. Vì khí chuyển từ điểm D1 đến điểm D2 nên áp suất D1 cao hơn D2, vậy là tốc độ cháy D2 bé hơn D1. Vậy thì lỗ rỗng hình côn. Được chưa. Bác bác lật lại trang 3. Động cơ của tên lửa trợ lực Arial 5, một tên lửa mang nhiên liệu rắn điển hình. Vì lỗ rỗng hình côn nên điểm D1 cùng hết thuốc với điểm D2. Đúng chưa
    [​IMG]
    MIG:
    Nhưng tiết diện lỗ rỗng ngày càng to, vậy tốc độ cháy càng ngày càng tăng ???? Huynh lại xui dại đệ rồi.
    Tuất:
    im, ăn cơm mèo nói leo các cụ, láo quá.
    Tuất chưa nói hết đã bờm. Vấn đề không đơn giản như các đệ hình dung đâu, Để chống lại việc tăng diện tích do lỗ rỗng rộng ra, người ta sử dụng lỗ rỗng hình sao: màu đen là màu thuốc, trắng là lỗ rỗng. Càng cháy, tiết diện càng tròn, nên diện tích giảm. Ngay sau chiến tranh thế giới, người Mỹ đã thực hiện tên lửa rắn lỗ trống sao cháy trong ra vượt qua V2 Đức.
    [​IMG]
    0123456:
    Huynh vừa bảo, càng lõm càng cháy nhanh, đây các khe lõm của lỗ rỗng phát triển nhanh hơn, thì vào thành, chảy thành.
    ????
    Tuất:
    Đệ biết một mà chưa biết hai, thảo nào nghe cái gã MIG kia xui dại.
    Arial 5 chỉ có lớp ngoài 8mm thép. Động cơ tên lửa nhiên liệu rắn có thuận lợi là phải có kết dính bền, để cháy ổn định. Vậy thì thanh nhiên liệu bền, vậy thì chính nó làm vỏ cho nó. Chịu áp lực trong ra và lực đẩy dưới lên.
    MIG:
    Thì mày cứ giải thích đã, lươn lẹo lèo lá. Rõ ràng, vết lõm ngang của lỗ rỗng hình sao phát triển nhanh. Thế thì tên lưẻ cháy vỏ. Rõ ràng là cháy dưới lên.
    (chú thích của phóng viên, MIG vẫn hay dùng kiểu nói đó, không thể chứng minh khối lượng thay đổi được thì dùng "thanh bạo lực thần chưởng").
    Tuất:
    Im, láo quá.
    Huynh vừa nói với các đệ 0123456 và MIG (đồng thời viết lại để các bác nhà ta đọc). Tốc độ cháy do nhiệt độ và áp suất, hay tốc độ và mật độ của các hạt đập vào. Nhiệt độ và áp suất tĩnh trong tiết diện, tức lõm khế và cạnh mũi khế đồng đều. Nhưng bên trong (khe khế), tốc độ chuyển động của khối khí dọc trục nhanh hơn, nên tương đương nhiệt độ cao hơn, và mài mòn thuốc nhanh hơn. Điều này là điểm quyết định thuận lợi của phương pháp cháy trong ra. Các lõm khế được mài nhanh (các múi thuốc lồi vào bên trong, hay lõm của lỗ rỗng) làm cho diện tích ngày càng tròn, đường kính tăng mà tiết diện vẫn ổn định.
    So với cháy dưới lên, chiều dài cháy của trong ra rất nhỏ, nên khả năng xuất hiện và phát triển các không đồng đều rất ít. Và các tên lửa nhiên liệu rắn có thời gian hoạt động lâu và ổn định ngày nay đều sử dụng cháy trong ra.
    MIG:
    Nhưng AT-3 cháy dưới lên. Bố tao bảo thế.
    Tuất:
    láo. im.
    Đệ hỗn quá.
    Thứ nhất, đệ bảo nó sai toét khi nói thiết diện lỗ thoát nhân với áp lực là lực đẩy. Thật ra, lực đẩy xuất hiện chủ yếu trên tuye.
    MIG và kqndvn nên học đi để biết rằng khối lượng không đổi, sương không đọng trên khí khô, rồi mới tính lực được.
    Hình côn đó cũng như việc cháy. là cháy từ trong ra.
    Tuất làm chén đã
    Được tuat_than_dau sửa chữa / chuyển vào 21:24 ngày 18/12/2005
    LarvaNH thích bài này.
  8. Tuat_than_dau

    Tuat_than_dau Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/12/2005
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    40
    01234567890 nghe lời MIG, ngài MIG thì vốn từng có thành tích nhiệt tình đấu tranh cho không khí khô đọng sương và khối lượng thay đổi. MIG bảo là AT-8 cháy dưới lên, lực đẩy bằng diện tích lỗ thoát nhân với áp lực. Thế là 01234567890 nghe lời, ô hô ai tai.
    0123456 là em 01234567890 đến thọ giáo sư huynh Tuất, kéo MIG đi làm chứng. MIG bảo là, bố MIG dậy, AT-3 cháy dưới lên. Chuyện được Tuất ghi lại mời các bác thưởng lãm.
    Các bác bàn tiếp chuyện đạn côn hay đạn thẳng của bác Kiên chưa nhẩy. Đây toàm chuyện côn (cone, coor nhe).
    Như trên đã nói, nếu làm tiết diện to thì có chênh áp đầu cuối, dẫn đến tốc độ cháy mũi chóp nón cao, dẫn đến bệnh phát triển lỗ rỗng, dẫn đến nổ. Đây là tuye. Lực đẩy chủ yếu sinh ra ở thành Tuye. Nếu chỉ có lỗ thoát "tiết diện bé" thì phần lớn lực đẩy đẩy khí thoát đi các hướng xoè ra, chỉ phần nhỏ khí thoát đi đúng hướng từ trái sang phải. Người ta làm tuye để hướng khí đi từ tiết diện nhỏ sang tiết diện lớn. Phần lớn lực đẩy xuất hiện trên thành tuye, nên thiết bị này được chế tạo đặc biệt để chịu lực và lái (nếu cần). Tiết diện nhỏ của tuye chính các động cơ phản lực đều nhỏ, để điều áp như trên.
    Nghe lời MIG thì có mà.
    Nhưng vấn đề là hình côn, bố MIG dậy MIG là AT-3 cháy dưới lên, thế mà Tuất bảo cháy dưới lên nổ là cái chắc. Nổ do phát sinh lỗ rỗng.
    ???????????
    [​IMG]
    Được tuat_than_dau sửa chữa / chuyển vào 21:27 ngày 18/12/2005
    LarvaNH thích bài này.
  9. Tuat_than_dau

    Tuat_than_dau Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/12/2005
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    40
    Đây là nguyên lỹ hoạt động của động cơ một số tên lửa, có thời gian hoạt động lâu và đường kính nhỏ.
    Các bác có thể thấy, 3 hình 1 2 3 là phát triển của chóp nón nếu không có bí mật quiân sự của Tuất. Ban đầu, ở đó có áp cao nên có tốc độ cháy cao. Bác naò làm thợ điện tử chắc biết cái vết lõm này ở đầu mỏ hàn nung. Ở đây quá trình thiếc hàn hoà tan mỏ hàn tạo lỗ rỗng cũng vậy. Đến hình 2, chóp này sâu vào. Tồi cái thành giếng phát triển cùng với đáy giếng, vì trong đó có áp cao, đó là động cơ trong động cơ. Cái giếng vừa phát triển cả chiều sâu và thành này tạo thành gì thì các bác tự hiểu. Chỉ có MIG cố chứng minh điều đó làm thuốc cháy ổn định.
    Các bác cũng đã quá rõ cái bí mật quân sự của Tuất. Cái đó ngăn không cho cháy dưới lên hoạt động, chỉ còn cháy trong ra. Để Tuất nhậu chút, rồi Tuất bảo cho MIG và bố MIG, cái bí mật quân sự ấy là gì, tại sao MIG sa sả sang sảng hàng trang mà không biết.
    Định lý cơ bản:
    Thanh thuốc nổ rắn có tốc độ cháy dài tỷ lệ thuận với nhiệt độ và áp suất bề mặt.
    Do đó, MIG mới lải nhải hàng trang mà không chú ý đến mấu chốt bí mật.
    [​IMG]
    LarvaNH thích bài này.
  10. Tuat_than_dau

    Tuat_than_dau Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/12/2005
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    40
    To 1234567890
    AT-2 9K17M là hệ thống dẫn hiện đại hoá, tìm bám tự động bằmg mũ phi công Mi8.
    Tên lửa không quay.
    MIG:
    thế ra đó là cháy trong ra à, MIG cứ tưởng cháy dưới lên. Đại Huynh cho đệ biết cái bí mật quân sự của Huynh là gì đi.
    Tuất: (nói riêng, nó biết điều rồi nhưng phải dậy dỗ đến nới đến chốn).
    Im đi cho anh có thời gian nói, chú chỉ học được những cái láo lếu, chuyên cắt ngang lời anh, anh rất phật ý, nhưng đó cũng là bài học cho chú. Chú đừng nên học bố chú, chỗ anh em anh nói vậy, cứ nghe lời anh.
    Bí mật quân sự của Tuất chẳng là gì cả, chỉ là một khối thuốc cháy rất chậm hay là một thứ không cháy gì đó, thậm chí là cái ống khởi động hoặc ngòi nổ. Điều đó giải thích tại sao khởi động lại đi trước hành trình như của ARIAN 5. AT-4 và sau đó dùng cách phóng của B-41. Tiếp theo nữa dùng cách phóng Maniman. Thuốc khởi động được nhồi sau, tên lửa phỏng từ ống phóng không giật, đạt tốc độ 80m/s xuất phát, nên tầm tối thiểu rất nhỏ, AT-4 là 70mét so với 500 mét của AT-3.
    So với MIG bên dưới, có thấy ngược không. Ngược do dốt, dốt thì phải học.
    Nghe chửa. Nghe chửa. Nghe chửa. Nghe chửa.
    Nếu động cơ khởi động kết cấu như MIG thì rõ là hành trình rỗng ruột rồi, cháy trong ra rồi. Trong trường hợp đó, bí mật quân sự Tuất chính là cái lỗ rỗng của tên lửa cháy trong ra, dẫn khởi động dọc động cơ hành trình
    [​IMG]
    [​IMG]
    Cái bí mật ấy ngăn chặn những cháy dưới lên, để lại cháy trong ra. Góc loa của hình nón có cơ chế tự cân bằng như Arian-5. Tức là nếu góc đó nhọn đi, loa dài, vận tốc khí tăng, tốc độ mài chỗ loe tăng, loa ngắn lại. Điều đó duy trì góc nón hợp lý làm tên lửa cháy lâu dài, không sớm phát nổ.
    Thật ra bí mật quân sự đó là một giải pháp nào đó trong rất nhiều giải pháp không chế chóp nón phát sinh nổ. Các tên lửa dùng áp cao, nhiệt cao càng phải khỗng chế lõi khối thuốc. (nhiên liệu tốt và kết dính chắc, oxy hoá có nhiệt độ phân giải cao).
    Đó là cách tên lửa nhỏ nhưng có thời gian cháy lâu không nổ.
    Những tên lửa lớn thô thì dùng cách khởi động trước như Airan-5, không thể có tốc độ xuất phát mạnh mẽ như súng không giật của AT-4 và hậu duệ.
    Phương pháp lái quay thích hợp với lái tay ở chỗ tên lửa tốc độ chậm, thời gian xuất phát và tầm tối thiểu lớn. Nên khi điều khiển tự động thì người ta không quay nữa.
    Ngay từ AT-3 đời sau, tên lửa đã không quay. Trong khi đó các tên lửa AT-3 quay được cả thế giới copy sau VN và Trung Đông 1973 (cùng RPG, AT-3 diệt 800 xe mặt trận Ai Cập). AT-3 ban đầu tốc độ rất thấp để thoả mãn lái thủ công (115m/s), không thể vượt qua lưới chắn, đừng nói đến các hệ chống tên lửa. (lưới B-40 được dùng từ thế chiến). Vậy nên AT-3 sau đã trang bị bán tự động để tăng tốc độ đến mục tiêu.
    Do lái thủ công, yêu cầu tốc độ rất thấp (AT-3 đời đầu tốc độ thấp hơn AT-1 và AT-2), nên vẫn đề động cơ AT-3 thật nan giải. Nó có thời gian hoạt động 25-30 giây. Ngày nay, tên lửa có tốc độ hàng ngàn m/s, bắn vài viên một giây và thời gian bay vài giây.
    AT-3 115m/s
    AT-4 186 m./s.
    AT-6 450 m/s
    ...........
    Được tuat_than_dau sửa chữa / chuyển vào 21:38 ngày 18/12/2005
    LarvaNH thích bài này.

Chia sẻ trang này