1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhà Hồ - Một cái nhìn khách quan về lịch sử?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi linhthuydanhbo, 02/07/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. linhthuydanhbo

    linhthuydanhbo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/07/2006
    Bài viết:
    2.045
    Đã được thích:
    4
    Triều Hồ - vương triều chợt lóe sáng rồi vụt tắt trong bóng đêm lịch sử. Công hay tội?

    Từ những nguồn tư liệu vô cùng ít ỏi mà tôi có được tôi đang cố gắng có được cái nhìn đa chiều về một triều đại quá ngắn ngủi nhưng đã đem lại cho dân tộc những thay đổi đáng kinh ngạc. Nhưng thay đổi đó quá lớn và quá nhanh khiến những người có hoài bão thì ngậm ngùi đau xót còn nhưng kẻ ngu trung đớn hèn thì phỉ báng, thậm chí đã làm trầm trọng thêm những khó khăn chồng chất mà người đứng đầu đất nước bắt buộc phải gánh vác.
    Hồ Quý Ly lên làm vua đâu phải chỉ vì ngôi vị chí tôn ấy. Hoàn cảnh của ông cũng tương tự như những gì xảy ra vào thời kì sau cách mạng tháng Tám 1945.

    Vào những năm cuối của thế kỉ 14 nhà Trần mục nát, quân đội không còn cái hào khí Đông A xưa nữa. Vì thế, nên vua Chiêm liên tục cướp phá biên giới Hóa châu của Đại Việt vào các năm: 1361, 1362, 1365, 1366. Dù các tướng biên giới nhà Trần đẩy lui được quân Chiêm nhưng các cuộc cướp phá không chấm dứt.
    Năm 1367, Trần Dụ Tông cử Trần Thế Hưng làm Thống quân hành khiển đồng tri, Đỗ Tử Bình làm phó, mang quân đi đánh Chiêm Thành.
    Tháng 4 âm lịch năm 1368, quân Trần tiến vào Chiêm Động (Quảng Nam). Quân Chiêm đặt phục binh, quân Trần rơi vào chỗ phục kích, bị thua trận. Trần Thế Hưng bị bắt, Đỗ Tử Bình chạy thoát, mang tàn quân chạy về nước.
    Chiêm Thành thấy binh lực nhà Trần ngày càng sút kém, bèn sai Mục Bà Ma đi sứ sang đòi đất Hóa châu nhưng không thành.
    Qua năm sau, Đại Việt có biến cố. Trần Dụ Tông mất, con là Nhật Lễ lên ngôi. Mẹ Nhật Lễ là vợ cũ của kép hát Dương Khương; Nhật Lễ giết mẹ Dụ Tông và muốn đổi sang họ Dương. Được hơn 1 năm (1370), Nhật Lễ bị hoàng tử Trần Phủ lật đổ giành ngôi, tức là vua Trần Nghệ Tông.
    Mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xin Chế Bồng Nga đánh Đại Việt trả thù.
    Tháng 3 nhuận năm 1371, Chế Bồng Nga mang quân ra đánh. Quân Chiêm vượt biển đánh vào cửa Đại An, tiến thẳng vào kinh thành Thăng Long. Quân Chiêm vào đến Thái Tô, huyện Thọ Xương. Quân Trần chống cự không nổi. Trần Nghệ Tông phải đi thuyền qua sông chạy sang Đông Ngàn để tránh ở Cổ Pháp, làng Đình Bảng.
    Ngày 27 tháng 3 nhuận, quân Chiêm tiến vào Thăng Long, cướp phá cung diện, bắt phụ nữ, lấy của cải ngọc lụa mang về. Kinh thành bị cướp sạch trơn.
    Quân Chiêm rút về nước. Trần Nghệ Tông trở lại kinh đô, cho xây dựng sửa sang lại, dùng người tông thất đứng ra làm chứ không dùng sức dân.
    Trần Nghệ Tông lập em là Trần Kính làm thái tử và sang năm 1372 thì truyền ngôi vua lên làm thượng hoàng. Trần Kính trở thành vua Trần Duệ Tông.
    Để trả thù việc Chiêm Thành đánh cướp kinh thành, Trần Duệ Tông ra sức xây dựng quân đội. Tháng tám năm 1374, ông cho dân đinh xung vào quân ngũ: hạng nhất xung vào Lan Đô, rồi đến hạng nhì, hạng ba. Năm 1375, Duệ Tông xuống chiếu chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyện tập nghề võ, thông hiểu thao lược, thì không cứ là tông thất đều làm tướng coi quân, đồng thời cho ra khỏi quân ngũ những người lính già cả, ốm yếu, bệnh tật.
    Năm 1376, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại mang quân xâm lấn. Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đi đánh. Chế Bồng Nga sợ hãi, xin dâng 10 mâm vàng tạ tội. Nhưng Tử Bình giấu vàng đi, lại tâu về triều rằng vua Chiêm kiêu ngạo không thần phục. Duệ Tông nổi giận, quyết định thân chinh đi đánh. Các quan đại thần Lê Tích, Trương Đỗ can ngăn không nên thân chinh nhưng Duệ Tông không nghe, sai quân dân Thanh Hóa, Nghệ An, Diễn Châu tải 5 vạn thạch lương đến tích trữ ở Hóa châu và rước thượng hoàng Nghệ Tông đi duyệt binh ở sông Bạch Hạc.
    Tháng 12 âm lịch (đầu năm 1377), Trần Duệ Tông cầm 12 vạn quân tiến vào đất Chiêm Thành. Vua Trần sai Lê Quý Ly (tức Hồ Quý Ly) đốc vận lương thảo đến cửa biển Di Luân (Quảng Bình) rồi dừng quân 1 tháng để luyện sĩ tốt. Người Tân BìnhThuận Hóa bắt được nhiều người Chiêm mang nộp.
    Tháng giêng năm 1377, quân Trần tiến đến Cầu Đá ở cửa Thi Nại (Quy Nhơn), đánh lấy đồn Thạch Kiều rồi tiến tới kinh thành Đồ Bàn nước Chiêm. Chế Bồng Nga lập đồn giữ ngoài thành, rồi cho người đến trá hàng, nói với Trần Duệ Tông rằng Chế Bồng Nga đã bỏ thành trốn.
    Duệ Tông thúc quân tiến vào thành. Quân Chiêm tứ phía phục binh đổ ra đánh, chia cắt quân Trần ra từng đoạn. Quân Đại Việt thua to, mười phần chết đến 7, 8 phần. Duệ Tông bị hãm trong vòng vây, bị trúng tên tử trận. Các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Lạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh cũng tử trận. Ngự Câu vương Trần Húc bị bắt đã đầu hàng Chế Bồng Nga, được gả con gái.
    Đỗ Tử Bình trước đã vu cáo vua Chiêm, lúc đó lĩnh hậu quân không tới cứu ứng cho Duệ Tông. Lê Quý Ly cũng sợ hãi bỏ chạy. Tuy nhiên khi về kinh, Quý Ly không hề bị thượng hoàng Nghệ Tông trách cứ, còn Tử Bình chỉ bị đồ làm lính 1 năm, sau đó lại được cất nhắc lên chức vụ cao hơn trước.
    Trận Đồ Bàn 1377 là thất bại lớn nhất của quân Trần trong các cuộc giao tranh với quân Chiêm. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông thấy vua em vì việc nước bỏ mình, nên lập con trưởng của Duệ Tông là Trần Hiện lên ngôi, tức là Trần Phế Đế.
    Sau thất bại của đại quân Trần năm 1377, Chế Bồng Nga biết binh lực nhà Trần đã rất suy nhược nên liên tục phát binh Bắc tiến. Quân Trần bị thất thế trước sức tấn công từ phương Nam trong nhiều năm.
    Đầu tháng 11 năm 1377, vua Chiêm lại theo đường biển tiến đánh Đại Việt. Thượng hoàng Nghệ Tông sai Trấn quốc tướng quân Sư Hiền ra giữ biển Đại An. Chế Bồng Nga thấy Đại An có phòng bị, bèn tiến vào cửa Thần Phù. và tiến vào Thăng Long lần thứ 2. Quân Trần không ngăn cản nổi. Quân Chiêm cướp phá kinh thành, đến ngày 12 tháng 11 thì rút lui qua cửa Đại An, bị gió bão chết đuối rất nhiều.
    Tháng 5 năm 1378, Chế Bồng Nga đưa hàng vương Trần Húc về nước, đánh cướp Nghệ An. Tháng 6, quân Chiêm tiến vào cửa Đại Hoàng. Thượng hoàng Nghệ Tông phục chức cho Đỗ Tử Bình, sai ra chống giữ. Tử Bình đánh không lại, quân bị tan vỡ. Chế Bồng Nga tiến vào Thăng Long lần thứ 3, bắt người cướp của rồi rút về.
    Năm 1380, vua Chiêm lại dụ dân Tân Bình và Thuận Hóa đi cướp phá Nghệ An và tiến lên Thanh Hóa. Thượng hoàng Nghệ Tông lại sai Lê Quý Ly lĩnh quân thủy và Đỗ Tử Bình dẫn quân bộ ra chống. Tới tháng 5, quân Chiêm không đánh được phải rút lui.
    Tháng 2 năm 1382, quân Chiêm lại tiến đánh Thanh Hóa. Lê Quý Ly đóng đồn ở núi Long Đạisai Nguyễn Đa Phương đóng cọc giữ cửa biển Thần Đầu. Quân Chiêm hai đường tiến đánh. Khi thủy quân Chiêm lại gần, Đa Phương không đợi lệnh Quý Ly, cho mở cọc cắm cừ, tiến ra giao chiến. Quân Chiêm trở tay không kịp, quân Trần dùng hỏa khí ném vào làm thuyền Chiêm bị cháy đắm gần hết. Quân Chiêm thua to, phải bỏ chạy vào rừng núi. Quân Trần vây núi 3 ngày, quân Chiêm nhiều người bị chết đói. Thủy quân Chiêm còn lại bỏ chạy về nước. Quân Trần đuổi theo đánh đến Nghệ An. sai Nguyễn Đa Phương đóng cọc giữ cửa biển Thần Đầu. Quân Chiêm hai đường tiến đánh. Khi thủy quân Chiêm lại gần, Đa Phương không đợi lệnh Quý Ly, cho mở cọc cắm cừ, tiến ra giao chiến. Quân Chiêm trở tay không kịp, quân Trần dùng hỏa khí ném vào làm thuyền Chiêm bị cháy đắm gần hết. Quân Chiêm thua to, phải bỏ chạy vào rừng núi. Quân Trần vây núi 3 ngày, quân Chiêm nhiều người bị chết đói. Thủy quân Chiêm còn lại bỏ chạy về nước. Quân Trần đuổi theo đánh đến Nghệ An.
    Sau hai lần đẩy lui được quân Chiêm, tháng 1 năm 1383, nhà Trần quyết định đi đánh Chiêm. Lê Quý Ly được giao lĩnh quân thủy Nam tiến, nhưng đến huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) gặp gió bão, thuyền bị vỡ, toàn quân phải rút về.
    Tháng 6 năm 1383, Chế Bồng Nga lại dẫn quân đánh Đại Việt. Thăng Long kinh động. Thượng hoàng sai Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ. Mật Ôn bị quân Chiêm bắt sống. Thượng hoàng Nghệ Tông chạy qua sông Đông Ngàn để lánh giặc. Có người học trò là Nguyễn Mộng Hoa để cả áo mũ lội xuống nước kéo thuyền ngự lại, xin Nghệ Tông ở lại đánh giặc, nhưng thượng hoàng không nghe. Lòng quân nản, không chống được địch. Chế Bồng Nga tiến vào Thăng Long lần thứ 4 và cướp phá một trận nữa.
    Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga lại đánh lên Thanh Hóa, tiến vào hương Cổ Vô. Nghệ Tông lại sai Quý Ly đi chống cự. Quân Chiêm đắp ngăn sông Bản Nha ở thượng lưu, quân Trần đóng cọc đối địch, giữ nhau 20 ngày. Quân Chiêm đặt phục binh, giả cách rút lui. Lê Quý Ly chọn những quân khỏe cho đuổi theo. Quân Trần nhổ cọc ra đánh, quân Chiêm phá đập nước. Quân bộ khỏe mạnh đã đi xa, quân thủy bị ngược dòng không tiến lên được. Kết quả quân Trần bị thua to, hàng trăm tướng tử trận Quý Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về Thăng Long.
    Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương chống giữ ở Ngu Giang, biết mình thế yếu, bèn dùng kế giương nhiều cờ xí để nghi binh mà rút lui. Quân Chiêm không dám đuổi theo. Quân Trần rút lui trọn vẹn không bị tổn thất.
    Trở về kinh thành, Nguyễn Đa Phương công khai chê Quý Ly là bất tài. Quý Ly căm tức, nói với Nghệ Tông rằng trận thua này là do nghe lời Đa Phương. Nghệ Tông bèn cách chức Phương. Quý Ly lại bảo Nghệ Tông nên giết Phương vì sợ Phương đi hàng Chiêm. Nghệ Tông bèn ép Phương tự vẫn.
    Sau khi Nguyễn Đa Phương và Phạm Khả Vĩnh rút về Thăng Long, tháng 11 năm 1389, Chế Bồng Nga thừa thắng tiến theo cửa Hoàng Giang thuộc Nam Xang (Hà Nam).
    Trần Nghệ Tông sai đô tướng Trần Khát Chân ra chống giữ. Khát Chân khóc lạy lên đường, Nghệ Tông cũng khóc đưa tiễn. Điều này được các sử gia đánh giá rằng nhà Trần đã quá khiếp nhược trước sự uy hiếp của Chiêm Thành[13][14].
    Trần Phế Đế bị thượng hoàng Nghệ Tông nghe lời gièm của Lê Quý Ly mà giết hại năm 1388. Nghệ Tông lập con nhỏ là Ngung lên ngôi, tức là Trần Thuận Tông. Em Phế Đế là Trần Nguyên Diệu mang các thủ hạ đi đầu hàng Chế Bồng Nga.
    Trần Khát Chân đến Hoàng Giang xem xét địa thế, thấy không có chỗ nào đóng quân thuận lợi, bèn rút về đóng ở Hải Triều, tức sông Luộc[15].
    Đầu năm 1390, Chế Bồng Nga và Trần Nguyên Diệu mang hơn 100 chiến thuyền đến Hải Triều đối đầu với Trần Khát Chân. Các thuyền khác của Chiêm Thành chưa kịp đến hội.
    Có viên tướng Chiêm là Ba Lậu Kê bị tội với Chế Bồng Nga, sợ bị giết, bèn chạy trốn sang phía quân Trần, đầu hàng Trần Khát Chân. Ba Lậu Kê chỉ cho Khát Chân biết chiếc thuyền nào là chiến thuyền của Chế Bồng Nga. Trần Khát Chân sai các hỏa pháo tập trung chĩa vào chiến thuyền vua Chiêm mà bắn. Chế Bồng Nga bị trúng đạn tử trận. Người trong thuyền kêu khóc ầm ĩ.
    Trần Nguyên Diệu thấy vua Chiêm chết, bèn cắt lấy đầu định trở về Đại Việt; hai tướng Đại Việt là Phạm Nhữ Lặc và Dương Ngang giết chết Nguyên Diệu, cướp lấy thủ cấp của Chế Bồng Nga nộp cho Trần Khát Chân. Khát Chân sai Lê Khắc Khiêm bỏ đầu vua Chiêm vào hòm, mang về dâng Trần Nghệ Tông ở Bình Than.
    Quân Chiêm tan chạy. Tướng Chiêm là La Ngai thu thập tàn quân, hỏa táng xác Chế Bồng Nga, rồi men theo chân núi rút về. Quân Trần đuổi theo đánh, La Ngai dừng voi lại, tung ra nhiều tiền của để nhân lúc quân Trần mải nhặt đồ mà chạy thoát.
    Về cơ bản, sau cái chết của Chế Bồng Nga, giữa Đại Việt và Chiêm Thành không còn những cuộc chiến quy mô.
    Sang năm 1391, Lê Quý Ly và Hoàng Phụng Thế lại mang quân đến Hóa châu, tuần tiễu biên giới Chiêm Thành. Quân Chiêm đặt phục binh đánh tan quân Trần. Phụng Thế bị bắt, sau trốn được về. Lê Quý Ly sai chém 30 viên đại đội phó dưới quyền của Phụng Thế.
    Năm 1396, Quý Ly đã hoàn toàn khống chế triều Trần, sai Trần Tùng đi đánh Chiêm Thành, giành được thắng lợi nhỏ, bắt được tướng Chiêm là Bố Đông và lui binh. Đây là cuộc giao tranh cuối cùng giữa quân Trần và quân Chiêm.
    Lê Quý Ly nhiều lần chống Chiêm bại trận vẫn được trọng dụng. Trần Phế Đế (Đế Hiện) thấy quyền bính của Quý Ly ngày một lớn, mưu trừ bỏ Quý Ly. Quý Ly bèn gièm với Nghệ Tông rằng không nên bỏ con mà lập cháu. Vì vậy, năm 1388, Nghệ Tông phế truất và giết Đế Hiện, lập con nhỏ của mình là Ngung lên ngôi, tức là Trần Thuận Tông. Một người con lớn của Nghệ Tông là Trang Định vương Trần Ngạc làm chức Thái úy cũng cùng các tướng dưới quyền mưu trừ Quý Ly nhưng bị lộ và bị Nghệ Tông giết chết.
    Năm 1389, Quý Ly đi đánh Chiêm lại bị thua, giao quân cho tỳ tướng là Phạm Khả Vĩnh, Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về. Sau trận đó Nguyễn Đa Phương trở về, công khai chê Quý Ly là bất tài. Quý Ly căm tức, nói với Nghệ Tông rằng trận thua này là do nghe lời Đa Phương. Nghệ Tông bèn cách chức Phương. Quý Ly lại bảo Nghệ Tông nên giết Phương vì sợ Phương đi hàng giặc. Nghệ Tông bèn ép Phương tự vẫn.
    Tháng 2 năm 1392, tôn thất Trần Nhật Chương mưu giết Quý Ly, nhưng Thượng hoàng Nghệ Tông cho là Nhật Chương có lòng khác, bèn giết Nhật Chương.
    Quyền hành của Quý Ly quá lớn, nhiều người lo lắng cho cơ nghiệp nhà Trần. Tháng 4 năm 1392, Bùi Mộng Hoa dâng thư lên Nghệ Tông, đại ý nói:

    Thần nghe trẻ con có câu hát rằng: "Thâm hiểm thay Thái sư họ Lê". Xem thế, Lê Quý Ly nhất định có ý dòm ngó ngôi báu.Nghệ Tông xem tờ tâu rồi, lại đưa cho Quý Ly xem. Sau này Quý Ly chuyên chính, Mộng Hoa phải ẩn lánh không ra nữa.
    Năm 1394, Nghệ Tông tuổi cao sức yếu, biết Quý Ly có ý lấy ngôi nhà Trần, mà ngăn lại thì không kịp, nên sai thợ vẽ tranh những đại thần nêu tấm gương phò vua nhỏ mà không mang lòng dạ cướp ngôi của đời trước, như Chu Công giúp Chu Thành Vương, Hoắc Quang giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hán Hậu chúa, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông, gọi là tranh "Tứ phụ", ban cho Quý Ly, để giúp vua Thuận Tông cũng nên như thế.
    Trong sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngô Sĩ Liên nhận định về Trần Nghệ Tông như sau:
    khiến xã tắc nhà Trần đi đến sụp đổ, thực là "đằng trước có kẻ siểm nịnh mà không thấy, đàng sau có giặc cướp mà không hay"



    Cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ là tại vua (Dụ Tông và) Nghệ Tông... Nghệ Tông thì không biết phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thế làm loạn, thành ra tự mình nối giáo cho giặc, tự mình làm hại nhà mình vậy.


    Nghệ Tông tính trời hòa nhã, giữ lòng kính cẩn, lo sợ. Nhưng uy vũ không đủ để đánh lui giặc ngoài, sáng suốt không đủ để phân biệt lời gièm, có một [Trần] Nguyên Đán mà không biết dùng, lại giao việc nước cho người họ ngoại


    "Trần Trọng Kim phê phán Nghệ Tông trong Việt Nam sử lược:
    Cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ là tại vua (Dụ Tông và) Nghệ Tông... Nghệ Tông thì không biết phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thế làm loạn, thành ra tự mình nối giáo cho giặc, tự mình làm hại nhà mình vậy.

    Nghệ Tông vốn tin tưởng và gửi gắm cơ nghiệp vào vua em Duệ Tông mạnh mẽ, vậy mà khi vua em chết, những kẻ có trách nhiệm trực tiếp, trong đó có Quy Ly, lại không hề hấn gì. Đáng ngạc nhiên hơn, chính Quý Ly bất tài chống giặc lại được thay thế vai trò "rường cột" của vua em Duệ Tông trong triều. Nghệ Tông từng thương Duệ Tông đến mức khi em chết bèn lập cháu lên thay; nhưng sau chỉ vì lời xui bẩy của Quý Ly mà giết cả cháu; hẳn khi đó trong lòng Nghệ Tông không còn tưởng nhớ vua em nữa.
    Những ông vua vì ham sắc đẹp, yêu vợ bé mà phế bỏ hoặc giết con lớn trong lịch sử không hiếm và hành động đó không có gì khó hiểu. Lê Quý Ly có thể gièm pha để giết tướng Nguyễn Đa Phương vì đố kỵ ganh ghét cũng không có gì là khó hiểu. Nhưng khi Nghệ Tông tin theo lời một đại thần họ ngoại mà giết tông thất, giết cháu ruột rồi giết cả con ruột thì lòng tin đã đến mức u mê.
    Nhiều việc làm của Nghệ Tông không khác gì dọn đường cho Quý Ly cướp ngôi con cháu mình. Nghệ Tông, vừa có công khôi phục nhà Trần từ tay Dương Nhật Lễ trên danh nghĩa, lại vừa có tội làm mất nhà Trần trên thực tế. Chỉ 13 năm sau khi ông mất, Việt Nam sau gần 500 năm độc lập lại bị rơi vào tay phương Bắc. Dù nhà Minh từng có bụng xâm lược từ trước (xem bài Trần Duệ Tông) nhưng biến cố mất nhà Trần thúc đẩy lý do cho hành động xâm lược thực hiện sớm hơn. Nghệ Tông chỉ là ông vua có nét điềm đạm, không xa xỉ, còn tài năng đức độ tầm thường, không biết dùng người. Có ý kiến cho rằng lúc nhà Trần suy yếu, nếu Nghệ Tông không quá nghe Lê Quý Ly mà giết Nguyễn Đa Phương, trái lại biết dùng quyền thuật mà cùng lúc trọng dụng cả Đa Phương và Quý Ly khiến hai người kìm chế, dè chừng lẫn nhau, thì cơ nghiệp nhà Trần chưa đến nỗi suy vong.


  2. linhthuydanhbo

    linhthuydanhbo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/07/2006
    Bài viết:
    2.045
    Đã được thích:
    4
    Năm 1395, thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất, ông được phong làm Phụ chính Thái sư nhiếp chính, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong nước. Vua Trần Thuận Tông là con rể ông, hoàn toàn bị ông thao túng.
    Tháng 4 năm 1396, Hồ Quý Ly phát hành tiền giấy (thông bảo hội sao). Đây là lần đầu trong chính sử Việt Nam, tiền giấy được lưu thông.
    Lê Quý Ly bức vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Tây Đô, việc này thúc đẩy một số quần thần trung thành với nhà Trần (như Trần Khát Chân, Trần Nhật Đôn, Trần Nguyên Hàng...) mưu tính làm chính biến lật đổ họ Hồ. Nhưng Lê Quý Ly đã ra tay trước, tiêu diệt hết phe này.
    Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Lê Quý Ly truất ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, tự lập làm vua, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, đổi niên hiệu là Thánh Nguyên. Ông đổi sang họ Hồ, lập nên nhà Hồ.
    Hồ Quý Ly lên ngôi, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên. Chưa được một năm, theo cách nhà Trần, ông nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm Thái Thượng hoàng nhưng vẫn tự mình quyết đoán mọi công việc.

    NHỮNG THÀNH TỰU:
    1. KINH TẾ:
    A. NÔNG NGHIỆP:
    Từ cuối triều Trần, khi nắm quyền điều hành triều chính, Hồ Quý Ly đã bước đầu đã có những tác động toàn diện tới kinh tế - xã hội Đại Việt.
    Đầu tiên, Hồ Quý Ly ra một loạt biện pháp nhằm tăng tăng cường quyền sở hữu của nhà nước về ruộng đất, tăng ngân sách của triều đình.
    Tháng 6 năm 1397 đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly nhân danh vua Trần xuống chiếu hạn chế danh điền (tức là ruộng tư có người đứng tên); theo đó các vị vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế; đến thứ dân thì số ruộng là 10 mẫu, người nào có nhiều nếu có tội, thì cho tùy ý được lấy ruộng để chuộc tội, bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. Số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước.
    Sang năm 1398, Hồ Quý Ly ra lệnh cho dân phải nêu rõ họ tên cắm ở trên ruộng; quan lộ, phủ châu, huyện cùng khám xét, đo đạc, lập thành sổ sách, 5 năm mới xong; ruộng nào không có giấy khai sinh báo hay cam kết thì lấy làm quan điền (ruộng công).
    Đến khi Hồ Hán Thương lên ngôi, năm 1402 đã ra lệnh định lại các lệ thuế và tô ruộng, theo đó:
    • 1 mẫu tăng thu từ 3 thăng thóc lên 5 thăng.
    • Bãi dây mỗi mẫu tăng thu từ 9 quan hoặc 7 quan tiền tăng lên theo hạng:
      • thu hạng thượng đẳng mỗi mẫu 5 quan tiền giấy
      • hạng trung đẳng mỗi mẫu 4 quan tiền giấy
      • hạng hạ đẳng 3 quan tiền giấy.
    • Tiền nộp hằng năm của đinh nam từ 3 quan, nay chiếu theo số ruộng để thu:
      • người nào chỉ có 5 sào ruộng thì thu 5 tiền giấy
      • Người nào từ 6 sào đến 1 mẫu thì thu 1 quan;
      • Từ 1 mẫu 1 sào đến 2 mẫu thu 2 quan
      • Từ 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào thu 2 quan 6 tiền
      • Từ 2 mẫu 6 sào trở lên thu 3 quan.
    Đinh nam không có ruộng và trẻ mồ côi, đàn bà góa, thì dẫu có ruộng cũng thôi không thu.
    Sau khi chiếm được đất Thăng Hoa và Tư Nghĩa của Chiêm Thành (1402), để khuyến khích dân cư đến định cư ở vùng đất mới, Hồ Hán Thương mộ dân nộp trâu để cấp cho dân mới dời đến ở vùng này, người nộp được ban tước.
    Thời gian tồn tại của nhà Hồ rất ngắn, không thấy sử sách chép lại về kết quả đạt được của hoạt động nông nghiệp trong thời kỳ này.


    B. THƯƠNG MẠI VÀ TÀI CHÍNH:
    Nhà Hồ có chính sách đánh thuế khá cao nhằm hạn chế buôn bán. Năm 1400, nhà Hồ chia các thuyền buôn làm ba hạng: thượng đẳng, trung đẳng và hạ đẳng: Thượng đẳng mỗi chân chèo nộp thuế 5 quan, trung đẳng 4 quan, hạ đẳng 3 quan. Điều này được lý giải trên 2 góc độ: để tăng thu ngân khố và vì lý do quốc phòng, sợ cuộc xâm lăng của nhà Minh.
    Khác với các triều đại trước ban hành tiền kim loại để tiêu dùng trong dân, nhà Hồ áp dụng tiền giấy “Thông Bảo hội sao”. Việc ban hành tiền giấy được Hồ Quý Ly thực hiện khi ông nắm thực quyền trong triều đình nhà Trần và đã cho ban hành ngay từ năm 1396 thời Trần Thuận Tông. Sang thời Hồ, chính sách tiền tệ này tiếp tục được Hồ Quý LyHồ Hán Thương thực hiện. Nếu người nào làm giả tiền giấy hoặc tàng trữ riêng hoặc tiêu dùng riêng thì phải tội tội tử hình.
    Hồ Hán Thương còn ra chính sách đặt tiêu chuẩn cho cân thước thưng đấu, định giá tiền giấy để trao đổi. Tuy nhiên, tiệc dùng tiền giấy không được sự ủng hộ của dân chúng và nhà Hồ đã thất bại trong cuộc cải cách tiền tệ này. Lý do quan trọng nhất là tiền Thông bảo hội sao của nhà Hồ không được đảm bảo bằng tiền đồng. Các thương gia không thích tiền giấy nên họ bán giá cao hoặc đóng cửa hàng. Hồ Hán Thương bèn lập điều luật để xử tội không tiêu tiền giấy, bán giá cao, đóng cửa hàng, bao che giúp nhau. Chính sách này càng làm hạn chế hoạt động kinh doanh buôn bán trong đời sống xã hội.
  3. cudzoom

    cudzoom Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2007
    Bài viết:
    111
    Đã được thích:
    0
    Một loạt biện pháp cải cách quản lý hành chánh, nông công thương được đề ra, chứng tỏ Quý Ly là 1 kẻ đi trước thời đại có tầm nhìn vĩ mô, nhưng nói gì thì nói ông chỉ có thể là ông vua giỏi trong thời bình, tiếc là người tài sinh nhầm thời.
  4. TrymCuBoGia

    TrymCuBoGia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2010
    Bài viết:
    2.038
    Đã được thích:
    1
    Cái quan trọng nhất là không được lòng dân.
  5. unvietnamien

    unvietnamien Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    948
    Đã được thích:
    300
    Uh, Dân Việt thích cái tên nước có chữ Việt, như Đại Việt, Đại Cồ Việt, Việt Nam hoặc ít ra nó cũng không liên quan gì đến dân Hán (như Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân chẳng hạn). Ai lại đổi tên nước thành Đại Ngu để vọng tưởng về cố quốc Trung Hoa nơi Hồ Qúy Ly phát tích, đánh vào lòng tự tôn của dân Việt. Lại dời đô về nơi đất chưa đủ linh khí giữ vững bền cho dân tộc. Sập. Tuy nhiên không thể phủ nhận những chính sách tiến bộ của nhà Hồ thời đó, nhưng áp dụng chưa đc bao nhiêu thì bị con cháu Chu Nguyên Chương cầm tù hết. Mở ra thời kỳ hơn 10 năm bị đô hộ, rồi anh hùng dân tộc Lê Lợi, Nguyễn Trãi...... xuất hiện lập ra triều đại mới.
  6. cudzoom

    cudzoom Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2007
    Bài viết:
    111
    Đã được thích:
    0
    Kể cũng lạ dân Việt là dân tộc có ảnh hưởng nặng nề văn hóa Hán tộc, thế mà luôn luôn có tinh thần tự tôn chống phương Bắc, một dân tộc "kỳ lạ".
    Quý Ly dời đô không phải k0 biết có nhiều ảnh hưởng xấu, mà vì biết triều đại mình không được lòng dân, cần 1 chỗ hiểm yếu dựa vào địa lợi mà chống thù trong giặc ngoài, lại còn cái nữa ở Thăng Long triều Trần còn quá nhiều ơn nghĩa với nhân dân, quý tộc Trần ở đó còn rất mạnh, thôi thì trước 2 cái xấu, nên chọn cái xấu ít hơn, bứt được những cái gai trong triều, lập lại cái mới để xóa dần cái cũ. Nhưng cuối cùng cũng không thành công. Thời nào cũng cần lòng dân.
  7. linhthuydanhbo

    linhthuydanhbo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/07/2006
    Bài viết:
    2.045
    Đã được thích:
    4
    Hồ Quý Ly và Nguyễn Huệ là những con người tôi tôn sùng nhất. Và tôi sẽ không ngừng tìm kiếm thông tin về họ, hi vọng họ không bị phai nhạt theo dòng lịch sử. Rất mong các bài đóng đóng góp để xây dựng một cái nhìn công bằng, khách quan về một triều đại tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại một ánh chớp sáng loà về tầm vóc người Việt. Chúng ta có quyền tự hào và vinh danh họ!
  8. cudzoom

    cudzoom Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2007
    Bài viết:
    111
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Huệ thì được nói rất nhiều rồi, những cái nhìn nhiều chiều về ông đầy rẫy, bác có thể tự tìm trên mạng còn về Hồ Quý Ly thì bác tìm cuốn tiểu thuyết ls "Hồ Quý Ly" Tác giả nguyễn xuân khánh. mà đọc, cũng tạm được.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Nguyễn Huệ thì được nói rất nhiều rồi, những cái nhìn nhiều chiều về ông đầy rẫy, bác có thể tự tìm trên mạng còn về Hồ Quý Ly thì bác tìm cuốn tiểu thuyết ls "Hồ Quý Ly" Tác giả nguyễn xuân khánh. mà đọc, cũng tạm được.
    Những chi tiết lịch sử ở bài viết đầu của bác đều dựa vào các sách sử của các triều đại sau, của những Nho giáo thâm căn cố đế, nên nhớ Hồ Quý Ly là kẻ thù của họ khi viết cuốn Minh Đạo, một cuốn sách có 1 khồng 2 trong lịch sử VN và cả toàn bộ những nước Châu Á có nền văn hóa Nho giáo Trung Hoa. Nó phản biện lại gần như hầu hết tinh thần Nho giáo phong kiến, hạ thấp Khổng Tử, đả kích lối học vẹt dựa vào điển tích xưa cũ văn chương thi phú, đề cao những tri thức áp dụng được vào đời sống.... Động vào thần tượng 1 đời của họ là Quý Ly đã động tới uy tín danh dự của Nho gia, nên qua ngòi bút của các sử gia này Quý Ly trở thành 1 kẻ thoán nghich vô đạo, bất tài vô tướng, gian thần hiểm ác... Bạn hãy hiểu rõ vấn đề này trước khi tìm hiểu những lịch sử của ông.
    Bạn có lối suy nghĩ rất giống mình. Trân trọng một người có tinh thần như bạn.
    Cudzoom
  9. linhthuydanhbo

    linhthuydanhbo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/07/2006
    Bài viết:
    2.045
    Đã được thích:
    4
    Năm 1392: Làm sách “Minh đạo” đề cao Chu công là tiên thánh, xếp Khổng tử là tiên sư, phê phán Nho gia, tấn công hệ tư tưởng Tống Nho.

    - Năm 1395: Dịch sách “Vô Dật" trong sách Thượng thư ra chữ nôm để giảng dạy

    - Năm 1396: Dịch Kinh Thư bằng hình thức Thi Nghĩa

    - Định lại việc thi cử

    - Phát hành tiền giấy “Hội sao”, bỏ việc lưu hành tiền đồng

    - Năm 1396: Sa thải tăng đạo. Ai muốn xuất gia đi tu phải qua một kỳ thi.

    - Mở thêm các trường học

    - Dời đô về Tây Giai (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá)

    - Ban hành lệnh hạn danh điền: quy định mức ruộng tối đa cho các đối tượng trong xã hội

    - Năm 1400 tổ chức thi Thái học sinh, lấy 20 người, trong đó có Nguyễn Trãi

    Ban hành thuế thuyền buôn

    - Năm 1402: Đặt ngạch thuế đinh

    - Năm 1404: Định lệ thi Hương

    - Năm 1405: Tổ chức kỳ thi ở Bộ Lễ, lấy 170 người, Hồ Ngạn Thần đỗ đầu.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    iệc học, việc thi đều được sửa đổi lại. Trong các khoa thi, đặt thêm ra kỳ thi toán pháp. Các thầy khóa đi thi, ngoài phần văn bài, còn phải biết dùng thước để đo, dùng bàn tính để làm tính. Thi độ được gọi là Thái học sinh.
    Hồ Quý Ly còn đặt ra sở Quảng tế thự (như là nhà thương bây giờ) để chữa bệnh cho quan và dân. Nguyễn Đại Năng được cử giữ chức Quảng tế thự thừa, để trông coi sở này. Hàng ngày, rất đông dân chúng đến Quảng tế thự để xin được bắt mạch, xem bệnh và kê đơn thuốc...
    Trong khi mọi sự cải cách vẫn tiến hành thì năm 1402, Quý Ly lại sai Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành lần thứ 2. Lần này, chiếm thêm được đất Chiêm Động (Quảng Nam) và Cổ Lụy (Quảng Ngãi) để đưa dân nghèo từ miền Bắc vào khai khẩn ruộng đất.
    Năm 1403, Quý Ly lại muốn lấy thêm đất nữa, nên sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mãn sang đánh Chiêm Thành lần thứ ba. Quân nhà Hồ vây thành Đồ Bàn được hơn một tháng thì lương thực cạn dần, nên phải rút quân về, mà không thu được kết quả gì.
    Sau khi được Quý Ly truyền ngôi, Hồ Hàn Thương cho sứ sang Tàu cầu phong với nhà Minh. Sứ giả nói dối rằng: con cháu nhà Trần không còn ai nữa, nên Hồ Hán Thương vốn là cháu ngoại nhà Trần, phải ra gánh vác việc nước.
  10. linhthuydanhbo

    linhthuydanhbo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/07/2006
    Bài viết:
    2.045
    Đã được thích:
    4
    Sau khi được Quý Ly truyền ngôi, Hồ Hàn Thương cho sứ sang Tàu cầu phong với nhà Minh. Sứ giả nói dối rằng: con cháu nhà Trần không còn ai nữa, nên Hồ Hán Thương vốn là cháu ngoại nhà Trần, phải ra gánh vác việc nước.
    Vua Thánh tổ nhà Minh vẫn có ý xâm lăng nước Việt, nay thấy sứ giả nhà Hồ tới, liền sai Dương Bột sang tận nơi, xem hư thực thế nào? Quý Ly bắt mọi người dân làm tờ khai, y như lời sứ giả. Vì thế, Minh Thánh tổ đành phải phong cho Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc Vương.
    Năm 1404, có Trần Thiêm Bình tự xưng là con Trần Nghệ Tông, sang tận Yên Kinh, vào tâu với Minh Thánh tổ là Hồ Quý Ly đã chiếm ngôi vua của nhà Trần. Sau đó, Thiêm Bình lại xin nhà Minh cho quân lính đưa Thiêm Bình về nước làm vua.ặp cơ hội tốt, vua nhà Minh sai hai tướng là Hàn Quan và Hoàng Trung dẫn 5 nghìn quân, đưa Thiêm Bình về nước, năm 1406. Được tin này, Quý Ly sai quân lên đón sẵn ở Chi Lăng, đánh tan quân Minh và bắt giết Thiêm Bình.
    Biết rằng thế nào nhà Minh cũng sẽ lại sang đánh báo thù, Quý Ly đốc thúc dân chúng đắp thành Đa Bang (Sơn Tây) để chống lại. Dòng sông Bạch Hạc được cắm đầy cọc nhọn, để chặn đường tiến của thủy quân nhà Minh.Về phía nam Nhị Hà (tức Hồng Hà) cọc nhọn đóng liên tiếp dài hơn 700 dặm. Dân ở Bắc Giang và Tam Đái được đưa sang làm nhà sẵn ở phía nam, để phòng khi giặc Minh tới, sẽ bỏ nhà từ phía Bắc mà dời tạm sang bên này.
    Quý Ly còn cho phép các quan võ nhà Hồ được quyền mộ thêm binh lính cho riêng mình, để khi cần đến, thì sẽ hợp với lính nhà vua mà đánh giặc. Trong khi ấy, Quý Ly lại sai sứ giả sang tạ tội với nhà Minh và xin vẫn theo lệ tiến cống như cũ.Bắt chước nhà Trần mở hội nghị Bình Than, Quý Ly cho họp tất cả các quan văn võ lại, để bàn việc nên đánh hay nên hòa. Người thì bàn phải đánh, người lại nói là nên hòa. Cuối cùng Quý Ly đã tuyên bố: "Nhất định phải đánh, giặc Minh sẽ không tha ta."
    ấy cớ là Hồ Hán Thương dám giết Thiêm Bình, vua Minh sai Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Húc chia binh làm hai đạo, sang đánh nhà Hồ. Khi quân kéo tới Long Châu thì Chu Năng bị bệnh chết. Trương Phụ lên thay.Trương Phụ đem bộ binh theo đường rừng núi, từ Quảng Tây sang đánh lấy Ba Luy (tức ải Nam Quan bây giờ). Sau đó đạo quân này lại tiến về phía tây bắc tức mé sông Cái (Hồng Hà).
    Thủy quân của Mộc Thạnh gồm nhiều chiến thuyền, từ Vân Nam tiến sang, đánh lấy Tuyên Quang rồi rẽ ra sông Thao (cũng là Hồng Hà). Đạo quân của Mộc Thạnh đã gặp đạo quân của Trương Phụ. Cả hai cùng đóng đồn ở phía bắc sông Bạch Hạc.Tuy nhà Hồ đã phòng bị từ trước, nhưng nhà Minh lại có lợi thế vì biết rằng dân chúng vẫn không phục nhà Hồ. Ngoài việc chiếm đoạt ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly lại còn đưa ra những cải cách mới mẻ, táo bạo, đã làm mất lòng nhiều người. Do đó, Trương Phụ liền viết hịch mà kể tội Hồ Quý Ly.Trương Phụ còn sai chép tờ hịch đó thành nhiều bản, vào những mảnh gỗ nhỏ. Y viết thêm rằng: "Quân Minh kéo sang kỳ này là để lập lại ngôi vua, cho con cháu nhà Trần và cứu giúp cho dân chúng khỏi bị khổ sở vì mọi sự đổi mới của Hồ Quý Ly. Những mảnh gỗ đó, thả xuống sông, đã trôi thẳng về miền xuôi.Dân chúng cũng như quân lính của nhà Hồ đã vớt được những mảnh gỗ đó. Sau khi đọc xong, họ bàn với nhau là không nên đánh nữa và hãy theo hàng quân Minh. Rồi một truyền trăm, trăm truyền nghìn, lời hịch của Trương Phụ đã lan tràn đi khắp mọi nơi.
    ách tuyên truyền giả dối nhưng thâm độc ấy, đã làm nản lòng và mất hết tinh thần chiến đấu của mọi người. Do đó mà quân nhà Minh, đánh tới đâu là được đấy. Có nơi quân lính nhà Hồ đã bắt trói chủ tướng rồi mở cửa thành ra đầu hàng quân nhà Minh.Những cánh quân còn lại, hết lòng trung thành với nhà Hồ, phải rút lui về giữ thành Đa Bang. Họ tích trữ lương thực để cầm cự lâu dài. Họ cố ý chờ cho quân Minh mệt mỏi, vì không quen với thời tiết, lúc bấy giờ mới ra đánh.Quân nhà Minh vây chặt thành Đa Bang. Trương Phụ ra lệnh, nếu ai leo được lên thành trước, sẽ được trọng thưởng. Quân Minh dùng thang đan bằng dây mây để leo lên thành. Cuộc chiến diễn ra rất ác liệt, ngay trên mặt thành.Đàn voi của nhà Hồ xông ra trận. Quân Minh liền vẽ hình sư tử và hổ, trùm lên đầu ngựa chiến, rồi tiến đánh. Súng nổ làm voi sợ, quay chạy trở lại. Quân minh theo sau, nhảy ùa vào chiếm thành. Thành Đa Bang bị vỡ. Quân nhà Hồ thua to, phải rút hết về Hoàng Giang (Hà Nam).

Chia sẻ trang này