1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhà nước Việt Nam thời cổ đại???

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Silent_knight, 24/11/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Cái khác nhau giữa Trương Thái Du (TTD) và Lê Mạnh Thát (LMT)
    là TTD tìm kiếm và chứng minh vua Hùng trên đất Trung Hoa, còn
    LMT tìm kiếm và chứng minh vua Hùng trên đất Việt Nam.
    Còn tin vào sách sử chỗ làm nhà quay mặt hướng bắc, thì đó là
    châu Úc, chứng tỏ ngày xưa đại đế quốc Hán chạy dài đến tận cực
    Nam trái đất, chỉ bị bọn rợ Hồ chèn ép phía bắc Trường thành thôi.
    Cũng tin vào Sử ký của Tư Mã Thiên, thì Triệu Đà không có đánh
    chiếm đến ViệtNam, vì 3 quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng đều ở trên
    đất Trung Hoa cả. Triệu Đà chỉ có lấy quà tặng để thu phục các tù
    trưởng (gọi là vua) các miền ở ViệtNam, Vân Nam mà thôi.
    TTD có công lớn khi thấy được truyện An Dương Vương, Nỏ Thần chỉ
    là bản sao của truyện truyền miệng của dân tộc Choang Trung Hoa
    rồi xào nấu lại. LMT hay hơn TTD ở chỗ không tin An Dương Vương,
    còn TTD thì mải tìm An Dương Vương trên đất Trung Hoa. Ngày xưa
    khi chưa có đế quốc Hán, thì người Choang, người Việt chung sống
    xen kẽ với nhau, cùng chia sẻ văn hoá truyện cổ và làm trống đồng,
    không phân biệt rõ ai học của ai. Thế rồi người Hán đến, thì người
    Choang người Việt mới cách xa nhau. Người Choang thành dân tộc ít
    người ở Trung Hoa, và thành người Tày, Nùng, Thổ ở Việtnam. Không vì
    biên giới Hoa Việt, thì có thể người Choang có nước ở Vân Nam, Quảng
    Tây, và Việt Bắc cúa ta rồi. Nếu có thể có An Dương Vương, thành Cổ
    Loa, và nỏ thần, thì phải tìm ở ViệtNam, Vân Nam và Quảng Tây, chứ
    đi tìm ở Quảng Đông, hay lên tận Ba Thục, Tứ Xuyên thì làm sao cho ra?
  2. ak47hnvn

    ak47hnvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2007
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0
    Bạn đọc lại cai này rồi hãy kết luận nhé (day là thứ tôi paste Đối chiếu với chính sử Trung Quốc ta đã thấy Triệu Đà chưa bao giờ chiếm Tây Âu lạc cả và Hán Vũ đế cũng chỉ chiếm Nam Việt của Triệu Đà. Rõ ràng là họ đã gom Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam vào đất Hán một cách vô căn cứ. Việc này không có gì lạ, sử Trung Quốc còn chép rằng năm 202 (trước CN) Hán Cao tổ Lưu Bang, ông cố của Hán Vũ đế lấy các đất Tượng Quận, Quế Lâm, Nam Hải của Triệu Đà phong cho Ngô Nhuế, nhưng ba nơi đó là của Triệu Đà. "Đà chưa hàng, xa đoạt khống, lấy phong cho Nhuế vậy". Đất chưa lấy được mà "đoạt khống" làm đất của mình, chuyện đó là bình thường, không chỉ Lưu Bang mà trở thành thói quen cho các triều đại về sau này nữa... Bởi vậy việc "đoạt khống" ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam của ta không có gì lạ. Việc "đoạt khống" này có ba chứng cứ:
    Thứ nhất, Tiền Hán thơ ghi rõ rằng Thứ sử Giao Chỉ "đóng ở Thương Ngô", nghĩa là quân Hán chưa bao giờ đặt chân tới Giao Chỉ.
    Thứ hai, sử liệu Trung Quốc cũng cho thấy, việc đưa những người phạm tội đi đày thời đó chỉ đưa tới Hợp Phố chứ không hề thấy đưa đi xa hơn, tuy chưa phải là chứng cứ quyết định, nhưng cũng biểu thị rằng biên cương cực nam của nhà Hán chưa qua khỏi Hợp Phố, là vùng giáp giới với nước ta.
    Chứng cứ thứ ba là việc sử liệu Trung Quốc ghi "Phiên Ngung là một đô hội", đây là chi tiết khá khác thường, bởi Tiền Hán thơ đưa ra con số thống kê nhân khẩu cho thấy quận Nam Hải có 6 huyện chỉ vỏn vẹn có 94.253 dân, bình quân mỗi huyện, trong đó có Phiên Ngung, có trên dưới 15 ngàn dân, trong khi số dân Giao Chỉ 10 huyện số dân lên tới 764.237 người, bình quân mỗi huyện trên 75 ngàn dân, gần bằng số dân của cả Nam Hải. Đó là chưa kể Cửu Chân và Nhật Nam, dân số cộng lại cũng có trên 200.000 người. Thế mà lại nói "Phiên Ngung là một đô hội".
    Điều không hợp lý này chỉ có thể được giải thích là 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam trong thực tế không thuộc đất Hán. Có thể hỏi tại sao ba quận này không phải của nhà Hán mà nhà Hán lại có số liệu về "hộ khẩu", câu trả lời cũng thật đơn giản: Đọc trong Tiền Hán thơ, ta có thể bắt gặp một loạt tên các quốc gia độc lập ở Trung Á, chưa bao giờ "thuộc Hán", nhưng vẫn có số liệu hộ khẩu như thường. Cho nên, nhà Hán có số liệu về hộ khẩu không nhất thiết nó thuộc nhà Hán.

    Dù là Âu Lạc, Tây Âu, Tây Âu Lạc, Tây Vu, Việt Thường Thị hay Giao Chỉ - Cửu Chân - Nhật Nam, cũng đều là những tên gọi khác nhau của nước ta. Cần biết, các triều đại phong kiến Trung Quốc không bao giờ muốn nước ta độc lập cả, ngay cả khi nước ta có quốc hiệu đàng hoàng như Vạn Xuân (Lý Nam Đế), Đại Cồ Việt (Đinh Tiên Hoàng) hay Đại Việt (Lý-Trần), sử sách Trung Quốc vẫn tiếp tục dùng những cái tên Giao Chỉ, An Nam để gọi một cách tùy tiện. Việc "đoạt khống" đất đai, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là "nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước bành trướng" của họ.

  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Tôi trích của bạn để bài được đăng cho mọi người đọc, không bị giấu đi.
    Mong rằng mỗi khi trích, bạn bỏ thêm công để cho biết link.
    Dưới đây, tôi có thêm một ý nghĩ nữa về chữ viết và nhà nước thời vua
    Hùng:
    Khi loài người mới thoát thai từ động vật, còn ăn lông ở lỗ, lúc đó
    đã có chữ viết sơ khai, có thể không được coi là chữ viết, vì chỉ một
    vài người viết ra bằng những ký hiệu chỉ tác giả mới hiểu được, hoặc
    thêm một vài người thân mới hiểu được. Ta đã thấy những dấu vết đó ở
    trên các đồ vật cổ bằng đá, gỗ, gốm, và các tranh vẽ trên vách đá.
    Dần dần, nhừng chữ viết đó nếu dễ học, dễ viết, và nhu cầu xã hội đòi
    hỏi thì chúng mới trở thành chữ viết ở một cộng đồng, một vùng đất đó.
    Lúc đó tuy có thể có chữ viết, nhưng chưa hẳn bắt buộc phải có một nhà
    nước. Ví như lịch sử chữ viết Hán, đã có rất lâu trước khi có những
    nước đầu tiên của người Hán. Những chữ Hán cổ tuy còn dấu vết, nhưng
    không còn xài trong hệ thống chữ Hán phát triển cho đến ngày nay. Vi
    như lịch sử chữ Do Thái, đã có rất lâu trước Công Nguyên, ghi chép
    lại lịch sử dân Do Thái trong các mảnh da cổ ghi chép Kinh Thánh, và
    trước khi có nước Do TháiIsrael.
    Theo tôi biết, công trình nghiên cứu chữ Việt cổ của thày giáo Xuyên
    cho biết Việtnam đã có chữ viết theo nguyên tắc ghép âm như hệ thống
    chữ cái bây giờ. Tôi không rõ hệ thống chữ Việt cổ bắt đầu và phổ biến
    ở ViệtNam vào lúc nào. Tuy thế, có thể nó chưa được phổ câp rộng rãi,
    nên mới bị chữ Hán và chữ Nôm lấn át. Cũng vì vậy, tôi tin rằng các
    vua Hùng chưa có chữ viết này, hoặc chữ viết này đã có mà các vua Hùng
    không biết mà xài. Cũng có thể lúc ấy chưa có vua Hùng để phổ cập chữ
    viết cho các quan của mình. Theo suy nghĩ của tôi, một khi hệ thống
    chữ viết Việtnam ghép chữ cái theo kiểu đánh vần đã hoàn thiện đến mức
    viết ra được các âm ViệtNam, thì nó vĩnh viễn đè bẹp chữ Hán, và dân
    nghèo không có giấy cũng có thể vạch chữ trên mai rùa, đồ gốm, đất
    nung để làm văn tự quan trọng, hay viết thư cho nhau trên đất sét dẻo
    được. Học bộ chữ này, người biết tiếng Việt chỉ cần 1 tuần là thuộc,
    và 1 tháng là đọc viết được thông thạo.
  4. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    về chữ của dân Việt cổ thì lần đầu tiêm macay dc nghe nói đến
    bàn về nước Việt thì phải nói về dân Việt :
    - người Việt có gốc Nam Á ko phải gốc Hán.
    - Lãnh thổ sinh sống có thể nhập nhằng từ Nam Trung Hoa đến đồng bằng sông Hồng.
    - Nếu tính từ đời các Vua Hùng , dẫu là một dạng tù trưởng của liên kết các bộ lạc Việt-Mường thì người Việt lập quốc từ khoảng 2600 năm TCN.
    - Người Việt có văn hoá ,bản sắc riêng từ rất sớm, có nền văn minh xuyên suốt ko bị ngắt quãng từ các nêin đại Đồ Đá -Đồ Đồng- Đồ Sắt.
    - Dẫu bị đồng hoá đô hộ liên tục người Việt vẫn duy trì dc bản sắc và nên văn hoá riêng phát triển đến ngày hôm nay.
  5. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    Chữ giun của dân Campuchia cũng là các ký tự ghép vần lại. Cho nên chữ Việt cổ giống thế thì không có gì lạ. Chữ tượng hình có lẽ chỉ thích hợp với nơi có những siêu giáo sư thôi như Trung Quốc, Ai Cập thôi, chứ dân tộc "chậm tiến" như Việt, Âu.. thì khó.
    Còn lý do chữ Việt cổ bị mất, đơn giản chỉ vì độ phổ biến của nó chưa rộng (chắc lúc ấy cả nước chỉ có vài chục hay vài trăm người biết) chứ không phải vì nó chưa phát triển. Chữ cái latin ở châu Âu dễ học hơn mà nông dân Âu mới học được trong vòng 1 thế kỷ nay thôi. Bác đừng hy vọng anh nông dân thời Hán biết chữ. Còn giới quý tộc Việt, may lắm là bây giờ họ không nói chữ Hán như là ngôn ngữ mẹ đẻ như các nước châu Phi nói tiếng Pháp, hay giới quý tộc Anh và Nga nói tiếng Pháp mấy thế kỷ trước.
  6. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Cám ơn bạn đã cho biết chữ của người Campuchia cũng là ghép vần
    chứ không ghép nghĩa như chữ Hán.
    Bạn đã hiểu lầm tôi về người dân nghèo biết chữ. Ý tôi muốn nói
    là chữ ghép vần dễ học, nên dân nghèo có thể biết chữ. Trái lại,
    chữ ghép nghĩa khó học hơn, nên người giàu cũng khó biết chữ.
    Tôi còn nói, nếu VN thời có chữ mà có vua, mà vua biết chữ, thì
    chữ đó vĩnh viễn còn đến nay, không thể xoá hết được. Chữ đó còn
    có khả năng vượt ngược biên giới lên tận Trường Thành nữa kia.
  7. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Chữ viết có tác dụng gì người ta mới dùng. Thời cổ đại, chữ viết không được phổ biến rộng rãi vì không có nhiều giấy để viết hay các phương tiện truyền hình, internet...
    Người biết chữ rất ít có thể chỉ là những người giàu có, quý tộc, quan lại, tù trưởng, trí thức (thày mo, thầy lang, thầy dạy chữ...), người đi buôn đóng vai trò quản lý thống trị xã hội...
    Chữ viết thường đi cùng với một nhà nước có luật pháp, những cộng đồng có xã hội phát triển, thương nghiệp phát triển thường phải giao kèo, khế ước... có nhu cầu dùng chữ viết để lưu trữ, ghi chép, tính toán sổ sách, giấy tờ hành chính... Ví dụ chữ tượng hình của nhà nước Ai Cập, Trung Hoa... cổ đại, chữ La tinh của các cộng đồng các thành bang ở Địa Trung Hải. Tất cả các chữ viết ấy đều được phát triển đến ngày nay và qua phát hiện các di chỉ khảo cổ.
    Các bác thử hình dung các cộng đồng dân tộc, bộ lạc ở Việt Nam thời cổ đại có thể có những nhu cầu sử dụng chữ viết chưa? Nếu có thường là ở một vùng nào đó có dân cư đông đúc. Đó là vùng Phú Thọ, Vĩnh Phúc ở Việt Nam thời cổ đại. Nếu có chữ viết phải tìm qua các di chỉ khảo cổ ở vùng này và dân gian lưu truyền xung quanh vùng này.
    Thời cổ đại, họ Việt Thường (Việt Thường thị) đến kinh đô của vua Nghiêu (Trung Hoa) tặng rùa ngàn năm, trên lưng rùa có ghi chữ khoa đẩu. Thời vua Nghiêu họ Việt Thường đã có chữ viết và chữ viết này ít ra được sử dụng trong cộng đồng họ (thị hoặc thị tộc) Việt Thường. Họ Việt Thường có liên hệ gì với các cộng đồng các dân tộc bộ lạc Việt Nam thời cổ đại?
  8. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, nhà Tần chiếm được đất Lục Lương và đặt ra 3 quận không gồm Bắc Việt Nam trong đó. Đường bộ lớn để đi vào Việt Nam phải qua Lạng Sơn, Quảng Ninh là thuận tiện nhất, nhưng thời đó chưa có làm, mà có thể là có các con đường mòn thổ dân thường đi qua biên giới ngày nay, còn muốn vào đường khác phải đi bằng thuyền vượt biển, từ Vân Nam đi bằng đường sông (sông Thao, sông Đà).
    Tôi xem lại vĩ tuyến 23, 5 độ bắc (chí tuyến bắc chạy qua vĩ tuyến 23,5 độ bắc) và thấy một phần phía nam Quảng Tây, Quảng Đông ở dưới vĩ tuyến 23,5 độ bắc, phải chăng đất đai 3 quận nhà Tần chiếm đất Lục Lương đã đến đó, đến tận bán đảo Lôi Châu và có thể cả đảo Hải Nam? Theo lời của thái thú Hợp Phố thời Đông Ngô là Tiết Tổng là Triệu Đà có vỗ về thần phục được "vua Bách Việt" ở phía nam Hợp Phố (thời Đông Ngô đổi tên là Châu Quan). Mà phía nam Hợp Phố là đảo Hải Nam (2 quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ lập thời Hán).
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 14:58 ngày 06/03/2008
  9. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Đi thuyền bè từ Trung Quốc vào Việtnam thì lính phải ít nhất biết bơi
    lặn giỏi, biết chèo thuyền độc mộc, để lỡ khi lật thuyền, còn xuôi
    giòng mà giạt vào bờ cho khỏi chết đuối, kể cả phải có mũ bảo hiểm
    để đầu khỏi đập vào đá nữa. Tìm cho ra cả vạn chiếc thuyền độc mộc và
    huấn luyện cho lính đến vậy, thì thà đi bộ qua Lạng Sơn chắc thắng hơn.
    Ngay bây giờ, chưa có nước nào tuyển đủ 1 vạn lính chèo thuyền từ TQ
    xuống VN được. Chỉ đội tuyển thi thuyền độc mộc Ôlympic mới đủ tài.
    Lại nói về đường, thì từ khi có động vật thì đã có đường. Người đi
    đường cũng phải lần theo nhừng con đường mòn đó. Những đường nào nối
    giữa những làng mạc to, trù phú thì mới phát triển, tạo thành mạng
    lưới giao thông . Đường mà nhà nước làm thì rất lâu sau này mới có,
    nhưng để đi xâm lược nước khác, thì phải đi trên đường mòn mà dân địa
    phương vẫn đi. Không phải quân xâm lược chờ nhà nước làm xong đường
    mới đưa quân xuống xâm lăng. Ngay bây giờ, nhiều làng bản VN chưa có
    đường đi, vẫn đi theo đường mòn hàng vạn năm trước. Cái hay ở chỗ là
    trước kia chỉ có ngựa thồ, nhưng bây giờ đã có xe máy. Xe hơi thì chịu
    chết không thể đi được. Nhiều chỗ phải xuống xe mà dắt. Những đường
    nào mà có quãng này, thì không bao giờ lo có quân xâm lược . Bọn nào
    mò vào, đi đến đâu sẽ chết đến đấy, không có đường ra.
    Đây là kiến thức những người đã từng ở miền rừng núi Việt Bắc và
    Hoàng Liên Sơn tự biết, chẳng cần ai dạy, nhưng người miền xuôi, dù
    có học hết các cấp đại học cũng chưa hiểu được. Bạn dù có coi phim
    chưởng HongKong cũng không biết đường núi Việtnam đâu. Các hiệp sĩ
    trong các phim đó khi đi thì cài đao kiếm trong vỏ, nhưng người đi
    rừng Việtnam bao giờ cũng cầm dao trong tay, và luôn luôn phát cành
    lá mới đi được trong rừng.
  10. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    À quên chưa kể ngày Pháp tấn công vào Việt Bắc, có đưa cả tàu chiến
    (nhỏ xíu) lên đoạn dưới sông Thao (sông Hồng) sông Lô, và xua quân
    đi bộ theo những đường xe hơi đã làm sẵn. Kế hoạch đó thật ngu ngốc,
    vì ngay bây giờ bạn theo những quãng đường quân Pháp đã đi, thì nhìn
    thấy ngay những bụi rậm tảng đá bên đường có thể phục kích bắn xuống
    mặt đường dễ dàng. Huống chi ngày xưa thì lín đi vào đó chỉ có chỗ
    chết. Cũng may cho Pháp, quân ta ít, và thiếu vũ khí, nên lính Pháp
    không bị chết, mà bị đói và khát, chỉ mong chờ ta bắt thì mới khỏi bị
    chết khát chết đói. Ta bắt xong, cũng vội vã trả lại cho Pháp vì đào
    đâu ra khoai sắn cho chúng ăn? Nhiều lính Pháp lần đi trong rừng để
    tìm chỗ hàng, đến khi được hàng, thì đứng không vững nữa.
    Nói thế để có thể thấy được đánh vào ViệtNam không phải dễ. Lính thiện
    chiến ngày xưa không cần giỏi võ, mà cần giỏi thồ đồ ăn thức uống theo
    mình. Tôi đã 2 lần đi bộ từ Cao Bằng về qua Hà nội. Mỗi lần đi mất 1
    tuần lễ, trung bình mỗi ngày đi bộ 40 kilômét. Về đến nhà tôi phải nghỉ
    một tuần lễ mới lại sức. Người ViệtNam khoẻ cũng ít khi đi nổi chặng
    đường đó với thời gian như vậy. Người TQ to lớn hơn, còn khó hơn nữa.

Chia sẻ trang này