1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhà nước Việt Nam thời cổ đại???

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Silent_knight, 24/11/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ak47hnvn

    ak47hnvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2007
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0

    nên mới bị chữ Hán và chữ Nôm lấn át. Cũng vì vậy, tôi tin rằng các
    vua Hùng chưa có chữ viết này, hoặc chữ viết này đã có mà các vua Hùng
    không biết mà xài. Cũng có thể lúc ấy chưa có vua Hùng để phổ cập chữ
    viết cho các quan của mình. Theo suy nghĩ của tôi, một khi hệ thống
    chữ viết Việtnam ghép chữ cái theo kiểu đánh vần đã hoàn thiện đến mức
    viết ra được các âm ViệtNam, thì nó vĩnh viễn đè bẹp chữ Hán, và dân
    nghèo không có giấy cũng có thể vạch chữ trên mai rùa, đồ gốm, đất
    nung để làm văn tự quan trọng, hay viết thư cho nhau trên đất sét dẻo
    được. Học bộ chữ này, người biết tiếng Việt chỉ cần 1 tuần là thuộc,
    và 1 tháng là đọc viết được thông thạo.
    [/quote] Bác COdep nói thế thì bác có suy nghĩ gì khi nhận xét lý lẽ này. Năm 111 TCN Hán Vũ Đế diệt nước Nam Việt . Năm 43 SCN tức là sau 153 năm khởi nghĩa HBT bị Mã viện đè bẹp. Chung bình mỗi đời thái thú là 10 năm, thì ta sẽ thấy it nhất 15 thái thú ở VN ( thú thực với Bác cách đây 2 nghìn năm làm quan mà được 10 năm là thọ lắm rồi đấy ạ). Chúng ta đều biết quan cai trị là phải giữ gìn trật tự, thu thuế, cống nộp , để có đuợc những điều này phải có luật pháp rõ và mạnh, tại sao sau 15 đời Thái thú mà Việt luật vẫn còn maf , Để mã viện Điều tấu, Điều này chỉ có thể khẳng định rằng VN độc lập liên tục từ thời HV cho đến khi Hai bà Trung Khởi nghĩa, Cho các bác cái link em hay vào rồi các bác nhận xét nhé http://www.thuvienhoasen.org/vanhocpgvn-1-00.htm
  2. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    bạn đưa link dc rồi, ko cần phải pót lại
    Được macay3 sửa chữa / chuyển vào 11:30 ngày 07/03/2008
  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Cái link đó dẫn đến một bảng mục lục và lời nói đầu về công trình
    nghiên cứu Lục độ tập kinh, chứ không nói gì về Luật Việt thời cổ
    cả.
    Lời bạn nói cũng khó hiểu. Xin gắng dịch lại để bạn xem có đúng ý
    bạn muốn nói không nhé:
    Từ khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị Hán Vũ Đế tiêu diệt đến khi
    Mã Viện đàn áp xong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là hơn 1 trăm
    rưởi năm. Suốt cả hơn 150 năm đó mà Luật Việt vẫn còn để Mã Viện
    điều tấu thì chứng tỏ quãng thời gian đó nước Việt cổ vẫn độc lập.
    Tôi không hiểu từ "Thái Thú" nghĩa là gì nên lược bỏ đi.
    Theo lý luận trên đây, việc nước Nam Việt của Triệu Đà bị Hán Vũ Đế
    tiêu diệt chẳng biết có liên quan gì đến nước Việt cùng thời hay không?
    Điểm thứ hai, bạn đã khẳng định có một bản Luật Việt viết bằng chữ
    Việt, không phải chữ Hán, mà điều đó vẫn đang chỉ là đoán mò.
    Điểm thứ ba, bạn cho rằng trước thời Hai Bà Trưng thì đã có một nước
    Việt nam độc lập, nhưng điều này cũng đang còn trong tranh cãi kia mà.
    Như tôi nhìn vào lịch sử nước Mỹ trước khi người da trắng đến thì
    nước Mỹ lúc đó đã có hàng nghìn năm không bị xâm chiếm và cai trị,
    có tiếng nói, có luật lệ của các bộ tộc da đỏ để chung sống và bảo vệ
    thiên nhiên, nhưng không có nghìa ở đó đã có một nước độc lập và có
    một bản Luật pháp viết bằng chữ.
    Giáo sư Lê Mạnh Thát (LMT) đã khẳng định đất Việtnam lúc đó chưa từng
    bị bắc thuộc, và tôi tin điều đó. LMT khẳng định đất ViệtNam lúc đó có
    nhà nước, có vua, và có luật pháp viết bằng chữ Việt đã thất truyền.
    Nhừng điều này, tôi thấy có thể có, có thể không, và tóm lại, những
    điều này LMT đưa ra vẫn chỉ là giả thuyết chưa đủ sức thuyết phục.
    Còn link bạn đưa ra đó, chúng ta còn nhiều thời gian để tìm ra những
    đoạn trích để tìm hiểu giả thuyết của gs LMT. Rất cám ơn bạn đã cho
    cái link có ích này. Chúng ta cần vài tháng vài năm để tìm những ly
    luận về Lịch sử Việt nam thời cổ trước thời lịch sử trong cái link đó.
  4. cadic94

    cadic94 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    66
    Đã được thích:
    11
    - Nói về chữ viết: Đế quốc Inca của Châu Mỹ to lớn và hoành tráng như vầy cũng đâu có chữ viết đâu!!!! - Nhỡ các triều đại Việt cổ dùng cách thắt nút ghi số liệu như Inca thì sao nhỉ! Người Tây Ban Nha còn ngỡ ngàng với cách quản lý đất nước to lớn ấy của người Inca mừ.
    - Đến các di chỉ thời Trần, thời Lý còn chẳng còn, nhà Minh đã tận diệt Văn hoá Việt 1 cách tuyệt đối - thế nên theo tớ các di chỉ thời truớc trước nữa thì
    - Từ bé tý tớ đã ngạc nhiên truớc cách xây dựng chính sử của các cụ nhà ta, với năm này thì là Lập Tục, năm kia là Kinh Dương Vương, năm kìa là Lạc Long Quân vv... với những số liệu chính xác ở mức ...ko tin được - Nguồn sử liệu ấy khiến tớ thấy nó hài hước, vậy mà sao cả hệ thống chính sử của mình đều bị chi phối với độc cái nguồn ấy! Thế nên câu chuyện lịch sử bây giờ đang được nghiêm túc xem lại tớ thấy là quá đúng!
    - 1000 năm Bắc thuộc! Trời đất ạ - tớ chưa bao giờ tin là có 1000 năm Bắc thuộc mà chúng ta ko bị đồng hoá! Nếu tính từ hời Xuân Thu thì lịch sử đến giờ mới được cỡ 2500 năm, vậy mà mất toi 1000 năm , nói vậy cũng chỉ là Lê Quý Đôn nghe các bác Tungcủa nói vậy, rồi thì chúng ta lại nghe Lê Quý Đôn nói vậy........
    - Dấu vết VH vật thể thì các bác đời Minh phá sạch roài - vậy tìm ở dấu vết VH phi vật thể vậy, nhỉ! ---> Ngôn ngữ học! cái này mời các bác tham khảo các nhà Ngôn ngữ học
    Kết luận:
    . Tớ thấy cái chuyện1000 nămBắc thuộc là chuyện bá láp của các bác Tung của, tương tự như chuyện dải Vạn lý trường thành có thể nhìn thấy từ Mặt trăng!
    . Theo tớ, chính quyền Việt Nam, VH Việt nam có từ sớm - dẫu chưa mạnh và chưa hoàn thiện, có thể so sánh với mô hình Đế quốc Inca ở châu Mỹ.
  5. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Các quận mới lập ở phương nam (Tây Nam Di, Nam Việt) nhà Hán theo tục cũ của họ mà cai trị, không bắt nộp các thứ thuế. Việc cai trị này giống như là dùng người Việt trị người Việt. Các thủ lĩnh địa phương được cai trị dân bản xứ, các thủ lĩnh này lại được quan thái thú bảo kê, duy trì cho quyền lực. Các quan thái thú lập trị sở ở vùng trung tâm của quận với một số quân lính đủ để giữ gìn trật tự an ninh (và tuyên dương uy vũ của nhà Hán). Bên cạnh đó, nhà Hán duy trì quân trưởng một số nước cũ làm chư hầu như vua nước Điền, vua nước Dạ Lang. Nước Văn Lang tồn tại với 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam cũng không ngoại lệ nằm trong chính sách trên.
    Chính sách trên nhà Hán được lợi là có thể thăm dò từng bước một kiềm chế sự lớn mạnh của các nước, bộ lạc bản địa, dần dần từng bước bành trướng thế lực của nhà Hán, thu thuế, cống nộp sản vật, trao đổi mua bán với dân bản địa.
    Các vua nước Điền, Dạ Lang dần mất tích như sao băng vụt tan trên bầu trời, khi nào chẳng rõ nữa!
  6. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Nhìn lại lịch sử: HAI BÀ TRƯNG

    Link: http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=518&Itemid=31

  7. V_Kid

    V_Kid Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/12/2006
    Bài viết:
    554
    Đã được thích:
    0
    Nói như vậy thì bạn giải thích sao về dấu vết của tể tướng Lữ Gia, thành Ốc ? Hay đây chỉ là những công trình tương tự công viên nước Đầm Sen do Hùng Vương lập ra để thu hút khách du lịch ?
    Được V_Kid sửa chữa / chuyển vào 15:01 ngày 08/03/2008
  8. dohoia

    dohoia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2005
    Bài viết:
    79
    Đã được thích:
    0
    Đọc thấy cũng có rất nhiều điểm hợp lý nhưng để giải quyết triệt để vấn đề này mong có thêm nhiều chứng cứ khảo cổ hơn nữa ví dụ như thành ốc của An Dương Vương theo cách tiếp cận trên sẽ nằm trên lãnh thổ Trung Quốc ngày nay. Đa số các luận điểm cho rằng Triệu Đà không hề đặt chân lên đất Việt Nam và truyền thuyết An Dương Vương của chúng ta có thể là sao chép từ dân tộc Choang (hoặc giả cuộc di tản sau sau chiến tranh đã mang theo những câu chuyện và cả những địa danh lịch sử xuống đồng bằng sông Hồng). Hai Bà Trưng hoạt động hoàn toàn trên đất Trung Quốc ngày nay. Vậy di tích thành Cổ Loa với các vòng thành và vũ khí.. không biết giải thích ra sao vì như trên thì Mã Viện cũng không hề đặt chân đến Việt Nam. Còn những địa danh trong truyền thuyết với các đền thờ vẫn tồn tại trên đất Việt Nam ngày nay cũng khó có thể lý giải bằng cách nhân dân đặt tên theo những địa danh trên đất Tàu rồi xây dựng đền thờ tại đó.
  9. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Theo link của chauphiwangza đưa trên, thì đất nước Hai Bà Trưng
    là ở trong đất Trung Quốc bây giờ, từ hồ Động Đình trở xuống,
    có nghĩa là chủ yếu tính Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay.
    Nó còn cho biết trống đồng bị Mã Viện thu hết. Vậy chúng ta có thể
    luận ra trống đồng tìm được ở ViệtNam và Vân Nam chỉ là những thứ lẻ
    tẻ phân tán lúc đó mà còn thôi.
    Theo lý thuyết này, thì dân ở vùng đất Việtnam lúc đó không đáng kể
    đến, vì tổ tiên chúng ta vốn ở Lĩnh Nam kia mà. Nó hoàn toàn phớt lờ
    những nền văn hóa trên đất Việt ngày xưa. Kể từ Hai Bà Trưng là người
    Hoa Nam trên đất TQ, lịch sử ViệtNam bắt đầu từ đây.
    Cái hay ở bài này là biết phê phán các sách sử cổ, chỉ gạn chắt những
    gì "thật" theo ý tác giả mà thôi. Tác giả cũng tận dụng được các lý
    thuyết của các nhà tư tưởng lớn mơi có trên Internet như Trần Đại Sỹ
    và Lê Mạnh Thát, vì 2 người này cùng có giả thuyết như tác giả .
    Đọc lướt qua bài này, tôi không khỏi ngạc nhiên trên đời có người bỏ
    công ra suy nghĩ và viết nên nhiều trang giấy XXX như vậy. NÓ đã mượn
    tiếng ca ngợi Hai Bà, để mà gột bỏ Hai Bà ra khỏi lịch sử ViệtNam.
  10. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Bài này vừa đăng trên báo Thể Thao & Văn Hóa 9.3.2008. Hai đoạn tô màu đỏ đã được lược đi. Đơn giản vì nó cho thấy một điều gì đó không ổn, có thể đánh vào tư tưởng "tính bản địa" của lịch sử Việt Nam.
    Đôi lời với những
    phát hiện lịch sử chấn động

    Trương Thái Du
    Từ ngày 27.2.2008 đến 6.3.2008 báo Thanh Niên liên tiếp đăng loạt bài ?oThiền sư Lê mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động? của tác giả Hoàng Hải Vân. Vì yêu thích cổ sử và ít nhiều đã có những biên khảo nhỏ ở góc độ nghiệp dư, tôi đặc biệt chú ý và theo dõi rất kỹ vấn đề ông Thát theo đuổi. Từ gợi ý của Thanh Niên, tôi đã vừa đọc báo, vừa tìm hiểu quyển ?oLục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta? của tác giả Lê Mạnh Thát, NXB Tổng hợp TP HCM ?" 2006 (LĐTK).
    Một số điểm nổi bật
    Xuyên suốt loạt bài báo và quyển LĐTK, có thể nhận ra ngay mấy vấn đề rất mới ông Thát đưa ra là:
    1. Truyện mẹ Âu Cơ đẻ trăm trứng nở trăm con có nguồn gốc từ nước Phật.
    2. Truyền thuyết An Dương Vương không có thật, nó là phiên bản của một câu chuyện Ấn Độ.
    3. Triệu Đà chưa từng xâm lược nước Việt cổ.
    4. Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam trước thời Hai Bà Trưng là những quận mà triều đình Hán ?ođoạt khống?, tức đặt tên trên bản đồ nhưng không chiếm đóng trực tiếp.
    Kết hợp với việc giải mã lịch sử ẩn trong kinh Phật, ông Thát chứng minh từ Vua Hùng đến Hai Bà Trưng nước ta hoàn toàn độc lập, có đầy đủ chữ viết, luật tục, thi thơ lễ nhạc.
    Quan điểm của ông Lê Mạnh Thát thiên về tính bản địa của văn minh Việt Nam, nó tương đồng với các nghiên cứu của nhiều sử gia lớn như Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn... Đúng là không thể phủ nhận truyền thuyết An Dương Vương có cái vỏ Mahãbhãrata. Tuy vậy ông Thát đã bỏ qua vài chi tiết rất quan trọng góp phần tạo dựng truyền thuyết An Dương Vương: Tích Trương Nghi theo đường rùa bò xây thành tại nước Thục (TK 4 TCN). Theo sách ?oĐông Kinh hoa mộng lục?, thời Hậu Chu (951-959) tại Trung Quốc có xây dựng Loa thành hình xoáy trôn ốc, có ba vòng là Thành ngoại, Thành nội và Hoàng thành. Thành này hiện vẫn còn di tích tại thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Đó là chưa kể truyện dân gian ?oThần cung bảo kiếm? của người Choang ở Quảng Tây có motip rất ?oAn Dương Vương?.
    Bằng việc rút mắt xích An Dương Vương và Triệu Đà khỏi chuỗi Vua Hùng ?" An Dương Vương ?" Triệu Đà ?" Hai Bà Trưng, ông Thát bắt buộc phải bẻ cong sử liệu để nối Vua Hùng trực tiếp với Hai Bà Trưng. Phương pháp luận này lập tức tạo ra một lỗ hổng lớn như sau:
    Thời Hùng Vương qua truyền thuyết nước ta chỉ có thể đang ở chế độ Phụ hệ hoặc Mẫu hệ với lãnh tụ là nam giới. Trong khi đó thời Hai Bà Trưng thì chắc chắn nước ta ở chế độ Mẫu quyền. Nội hàm mẫu quyền bao gồm mẫu hệ và lãnh tụ là nữ giới.
    Chuỗi Hùng Vương ?" Hai Bà Trưng của ông Thát sẽ phô ra sự thụt lùi phi thực tế của văn minh Việt cổ, đi ngược lại hình thái phát triển chung của nhân loại là Mẫu quyền đến Mẫu hệ rồi mới đến Phụ quyền. Hơn nữa, dù tham khảo thêm khái niệm ?oMô hình xã hội lưỡng hệ? của GS sử học Hàn Quốc In Sun Yu trong quyển "Việt Nam học, kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội 15-17.7.1998 tập 4 (NXB thế giới 2001), ta vẫn thấy sự bất cập của chuỗi Hùng Vương ?" Hai Bà Trưng.
    Nhằm cởi bỏ mâu thuẫn này, không ít học giả xưa nay nghi ngờ đã có những cuộc di cư lớn của người Lạc Việt từ miền nam Trung Hoa đến đồng bằng sông Hồng, dưới sức ép bành trướng lãnh thổ cũng như xâm lăng văn hóa của văn minh Hoa Hạ. Hệ lụy của cuộc di tản bất đắc dĩ đã khiến xã hội Lạc Việt đi giật lùi, trở ngược về hình thái xã hội Mẫu quyền. Tiếc là hướng nghiên cứu ấy sẽ phủ nhận thuyết bản địa của văn minh Việt Nam, điều mà toàn bộ quyển sách LĐTK nói riêng và nền sử học Việt Nam không đồng tình.
    Vì cố gắng khỏa lấp lỗ hổng này, Lê Mạnh Thát đã mạnh dạn ?oXác định Việt Thường là Cửu Chân? và ?oNói thẳng ra, nước ta gồm 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam cho đến năm 43 sdl vẫn là một nước độc lập, các vua Hùng vẫn cai trị và nước có tên là Việt thường hay Việt thường thị? (LĐTK trang 318, 319). Nghĩa là ông Lê Mạnh Thát chia cho vua Hùng quận Cửu Chân, Hai Bà Trưng quận Giao Chỉ (!?). Xin các bạn tự kết luận sau khi cùng tôi tham khảo Đào Duy Anh, Lịch sử cổ đại Việt Nam, NXB VHTT 2005, trang 218, 219: ?oSách Điền Hệ của Súy Phạm viết về các dân tộc thiểu số ở miền Vân Nam cho biết rằng một dân tộc thiểu số tên là Sản Lý hay Xa Ly, có truyền thuyết nói rằng đời Chu Thành vương họ sai xứ giả đến triều cống, khi về được Chu công cho xe chỉ nam, vì thế họ lấy tên là Xa Lý. Lại có một dân tộc khác là Lão Qua có truyền thuyết rằng ở thời nhà Chu, tổ tiên của họ là nước Việt Thường. Sách Điền nam tạp chí thì nói Diến Điện là nước Việt Thường xưa. Những dân tộc kể trên nhận Việt Thường là tổ tiên xa của mình đều có thể là di duệ của người Di Việt, tức của người Việt tộc xưa cả. Do đó chúng ta có thể đoán rằng nước Việt Thường xưa, một nước của Việt tộc ở miền nam Dương Tử, có thể tồn tại thực, cho nên một số dân tộc di duệ của Việt tộc ngày nay, trong ấy có Việt Nam, vẫn còn ghi nhớ mà xem như nước tổ của mình?.

    Nghi ngờ trên phương diện văn bản học khái niệm ?oĐoạt khống?
    Gút mắc lớn nhất và chấn động lớn nhất theo tôi, là việc ông Lê Mạnh Thát khẳng định ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là ?o?"đoạt khống" đất đai nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước bành trướng của nhà Hán mà thôi?. Lập luận của bài báo là: Tượng Quận nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam hiện đại. Trích báo ?oMột số tài liệu Trung Quốc có chép một cách lầm lạc rằng nó là Nhật Nam (nước ta) sau này, nhưng đối chiếu với những tài liệu tin cậy cũng của chính Trung Quốc, từ rất sớm người ta đã biết Tượng Quận nằm giữa hai quận Uất Lâm và Tường Kha của Trung Quốc chứ không phải nước ta?. Quan điểm này đã có hàng trăm năm nay với những cái tên quen thuộc như Maspero, hoặc hoàn toàn xa lạ như Guime Saeki (Tạp chí Nam Phong, số 133, năm 1928). Thực ra Nguyễn Văn Tố đã bác bỏ Maspero một cách thuyết phục như sau: Hán Thư chép năm 76 TCN bỏ Tượng Quận, lấy đất ấy nhập vào Uất Lâm và Tường Kha. Đây là Tượng Quận của đời Hán chứ không phải của đời Tần. Quyển Lĩnh Ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi có đoạn nói Hán Vũ Đế chiếm Nam Hải đã tách Tượng Quận của Tần làm ba Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, lại cắt một ít Nam Hải và Tượng Quận để thành Hợp Phố. Nguyễn Văn tố đã đi xa hơn khi khẳng định ?o? người Tần bấy giờ mới đi đến Quế Lâm, còn từ Quế Lâm trở vào chẳng biết rộng hẹp thế nào, cứ đặt một quận để gọi là có tên?? .
    Trước tháng 10 năm 2004, trước khi sách của ông Thát ra đời gần 2 năm, trong nhiều bài khảo cứu đăng trên mạng tôi đã chứng minh bằng thiên văn một cách có hệ thống tính khái niệm của ba từ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Nó tương đồng hoàn toàn với định nghĩa ?ođoạt khống? của ông Thát. Về phần tôi, khó ai có thể qui kết tôi đã tham khảo ông Thát khi dùng thuật toán thiên văn rất riêng của một người đi biển yêu cổ sử. Trên giấy trắng mực đen của văn bản học, người nêu ra vấn đề trước (2004) có quyền nghi ngờ người in sách sau (2006). Nếu độc giả tin tưởng ông Thát, xin vui lòng giúp ông Thát chứng minh giữa sách in và bản thảo có khoảng cách ?oan toàn?, giúp hai hướng nghiên cứu này cùng góp phần làm sáng tỏ lịch sử Việt Nam.
    Về sử liệu ông Lê Mạnh Thát sử dụng
    Sử liệu về cổ sử Việt Nam thật ít ỏi, phần lớn là sách Trung Quốc và truyền thuyết dân gian. Đến thời đại văn minh mạng máy tính hôm nay, chúng ta không những có nhiều công trình biên khảo của người Việt xuất bản liên tục, mà còn có thể truy đến nguyên văn Hoa ngữ khá đầy đủ, hệ thống và khoa học trên các trang web Trung Quốc cũng như Đài Loan. Tiếc là phần lớn LĐTK của ông Thát viết cách đây đã 40 năm, sử liệu Trung Hoa ông dùng thiếu độ liền lạc, đầy đủ cũng như không được cập nhật. Hơn nữa ông chỉ dịch cắt khúc từ những nguồn rất cũ như Tiền Hán thơ 44 7al-11a13, hoặc Sử Ký 112 tờ 7b10-8a3.v.v.. mà không hề có bản tiếng Hoa kèm theo. Phần dịch sử liệu chiếm hơn một phần ba của LĐTK dày 365 trang. Điều này gây khó khăn cho người khảo cứu và các sinh viên khoa sử muốn xem sách của ông như một tài liệu tham khảo hữu dụng, và lại càng đánh đố những ai muốn ?otra tận gốc? sử liệu của ông Thát như gợi ý của báo Thanh Niên.
    Ngoài ra có thể nói ông Lê Mạnh Thát đã khai thác một chiều sử liệu Trung Hoa: Suốt LĐTK, ông sử dụng khá nhiều văn bản Trung Hoa, nhưng đáng tiếc phương pháp của ông rất cảm tính. Thứ gì có lợi cho thuyết của ông thì ông xem như chân lý và không nhìn nhận nó dưới nhiều góc độ. Việc ?ophân đất? Cửu Chân cho vua Hùng ở trên là ví dụ thứ nhất. Ví dụ thứ hai: Trong mục ?oVề vấn đề chín quận? trang 319 đến 327, ông Thát dẫn từ Tiền Hán Thư các con số thống kê dân số năm thứ 2 sau công nguyên. Ông xem nó đúng một cách tuyệt đối và dông dài phân tích các con số. Ở đây tôi muốn trích lời Stephen O?THarrow, trong quyển Những vấn đề lịch sử Việt Nam, NXB Trẻ 2001, trang 30, bình luận trên cùng những con số này: ?oVào đầu thế kỷ I sau công nguyên, người Trung Hoa nói chung cũng không thật giỏi giang và chính xác lắm, chưa kể họ còn sử dụng tri thức vì lợi ích của họ?.
    Một dẫn chứng nữa: Ngày nay, dưới nhãn quan thiên văn hiện đại, người ta phát hiện rất nhiều ghi chép thiên văn cổ Trung Hoa có những sai lệch khá ngờ ngệch. Chẳng hạn các sao hung cát đã không ít lần được các sử quan cho chiếu xuống Trung Quốc không theo chu kỳ mà đa số sử quan đã rất am tường. Giả thiết là, đây hẳn nhiên mang dấu ấn chính trị nhằm tác động đến nhóm người mê tín nào đó có quyền đưa ra các quyết sách quan trọng.
    Nếu lật ngược con số nhân khẩu Giao Chỉ rất lớn ở Tiền Hán Thư, ta hoàn toàn có thể đưa ra giả thiết: Nhóm mang dã tâm bành trướng trong triều đình Hán muốn kê dân số Giao Chỉ lên cao để chứng minh nơi này đất rộng người đông, sản vật phong phú, nếu chiếm đóng sẽ mang nhiều lợi ích cho Hán tộc. Đọc truyện Giả Quyên Chi trong Hán thư ta sẽ thấy triều Hán lúc nào cũng có hai nhóm ủng hộ và phản bác việc mở rộng và trực trị cương giới phía nam.
    Tạm kết luận
    Trong khuôn khổ một bài báo ngắn mà tôi muốn viết, chỉ ra bất cập trong các nghiên cứu ?ochấn động? của ông Lê Mạnh Thát, không thể quá dài dòng và truy đủ cước chú. Mặc dù còn khá nhiều lỗ hổng, nhưng tôi tin công trình của ông Thát cũng như công trình khảo sử của bất cứ ai đều đáng trân trọng và cần được đưa ra công luận một cách bình đẳng. Càng nhiều cày xới, càng nhiều suy biện thì người đọc càng có cơ hội tiếp cận gần nhất sự thật lịch sử.
    Thảo điền
    6.3.2008

Chia sẻ trang này