1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhà nước Việt Nam thời cổ đại???

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Silent_knight, 24/11/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Bài này của Trương Thái Du rất hay.
    Bạn đã nhận ra một khuyết điểm dễ mắc phải là sách sử (TQ và
    VN) bịa đặt nhiều, không đồng ý với nhau, và người nghiên cứu
    chỉ lượm nhặt và giải thích chúng theo ý thích của mình. Dù
    nhào nặn thế nào, không một giả thuyết nào thoả mãn được tất cả
    những sách sử TQ và VN. Các sách sử (xưa) và các giả thuyết (nay)
    chỉ tung khói mù vào sự thật lịch sử mà thôi. Chỉ trông cậy vào
    các sách mà đối chiếu chúng là một công việc không có hy vọng.
    Vì thế, lịch sử theo sách chắc chắn là sai, phải nghiên cứu lại,
    và không thể lấy tư liệu của nó mà nghiên cứu được.
  2. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    Thời An Dương Vương trong quan hệ với thời Hùng Vương
    Kết quả công tác của các nhóm nghiên cứu về thời kỳ lịch sử Hùng Vương đã cho biết tương đối rõ ràng-ít nhất là ở giai đoạn cuối-tình hình nhiều mặt của nước Văn Lang xưa.
    Chúng ta cỏ thề ước đoán số dân nước Văn Lang có khoảng trên dưới 1.000.000 người, bao gồm nhiều thành phần dân tộc sống trên miền đất suốt từ phía nam Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc, cho tới miền Bắc Bộ và bắc Trung Bộ mà trung tâm là vùng giáp ranh giữa trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
    Chúng ta đã nhận thức được vai trò chủ đạo của nghề trồng lúa nước trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Người thời đó có thể đã biết dùng cày. Nghề luyện đồng đã đạt tới đỉnh cao. Những chiếc trống đồng nổi tiếng đã làm kinh ngạc cả những người thợ đúc giỏi đời nay. Những công cụ sản xuất bằng đồng như lưỡi cày, lưỡi rìu, lười câu, giáo đã nhiều hơn các công cụ đá. Dấu vết đồ sắt đã được tìm thấy ở một số di chỉ, hiện tượng này cho phép giải thích nền tảng hiện thực của hình tượng roi sắt và ngựa sắt trong câu chuyện người anh hùng làng Dóng ở thời Hùng Vương.
    Cái xã hội tổ chức còn giản dị với những thành viên thuần phác đời đời cần cù lao động này cũng đã nảy sinh mâu thuẫn. Quân đội đã ra đời, nhưng có quân đội thường trực hay chưa là điều cần tiếp tục nghiên cứu. Dù người chiến binh đồng thời là người sản xuất, vũ khí đồng thời cũng có thể là công cụ sản xuất (rìu, giáo, lao, mũi tên), thì ta cũng đã thấy được ràng xã hội thời này đã nhiều phen biến động.
    Mọi mặt của xã hội cuối thời Hùng Vương được tiếp tục bảo tồn và phát triển trong thời kỳ lịch sử An Dương Vương ngắn ngủi và cả về sau này nữa.
    Việc giao lưu văn hóa với nước ngoài, đặc biệt là với phương bắc, tuy đã có lừ lâu nhưng có lẽ chưa vượt khỏi phạm vi khối Bách Việt ở Hoa Nam để tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa Hán tộc miền Trung Nguyên xa xôi.
    Ở Trung Quốc vào cuối thời Xuân Thu, nông cụ và công cụ thủ công đã bắt đầu làm bằng sắt. Tới thời Chiến Quốc, chế độ phong kiến đã hình thành. Việc giao lưu kinh tế, văn hóa và kèm theo là những cuộc xung đột quân sự (như việc vua Sở sai Ngô Khởi ?obình Bách Việt?) cũng tăng cường hơn trước. Nhưng hơn 5 thế kỷ chiến tranh và xáo trộn vẫn hạn thế sự bành trướng của ảnh hưởng Hán tộc xuống phía nam. Tới khi Tần thống nhất Trung Quốc, tình hình trong nước tạm yên, chủ nghĩa bành trướng phát triến, vua Tần mới tính tới việc đánh chiếm phía nam. Và cuộc đụng độ lớn đầu liên của người Âu Lạc với quân Tần đã xảy ra.
    Vào nửa cuối thế kỷ 3 trước Công nguyên, trong khoảng thời gian thành lập nước Âu Lạc, quân Tần đã đánh xuống phía nam. ?oNgười Việt cùng nhau đặt người tuấn kiệt lên làm tướng, ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá Tần và giết được Đồ Thư? (1 Hoài Nam Tử). Cuộc kháng chiến chống Tần thắng lợi là một sự thật lịch sử đã được ghi chép vào sử sách. ?oNgười tuấn kiệt? chỉ huy cuộc kháng chiến đã được một số người nghiên cứu thừa nhận đó là Thục Phán, người cầm đầu bộ tộc Tây Âu, một bộ tộc láng giềng của Văn Lang. Cuộc xâm lược của nhà Tần không chỉ đe dọa một mình Tây Âu hay Lạc Việt mà cả hai. Chính vì vậy Thục Phán có thể đã được cả người Tây Âu lẫn Lạc Việt ?ocùng nhau? đặt làm tướng chỉ huy cuộc kháng chiến và cuộc kháng chiến đó đã rèn đúc sự đoàn kết của hai bộ tộc Tây Âu và Lạc Việt.
    Vào nửa sau thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, nước Âu Lạc ra đời (2). Về năm mở đầu của nước Âu Lạc còn có những ý kiến khác như: Năm 257 trước Công nguyên (theo Đại Việt sử ký toàn thư); Năm 210 trước Công nguyên (theo L.Ô-rút-xô); Năm 208 trước Công nguyên (theo Đào Duy Anh) khoảng trước sau thằng lợi của cuộc kháng chiến chống Tần. Nước Âu Lạc là sự sát nhập của hai thành phần Âu và Lạc (3) Xem thêm Nguyễn Duy Hinh: Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương.-Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969, tr.145-150. Tác giả cho rằng chỉ có người Lạc Việt nói chung, Tây Âu, Tây Âu Lạc hay Âu Lạc chỉ là tên của một nước của người Lạc Việt). Cuộc ?oChiến tranh? Thục-Hùng thực chất chỉ là sự xung đột nội bộ trong tiến trình hình thành dân tộc, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Căn cứ vào sự ghi chép của sử cũ, không thấy nêu rõ sự tình một cuộc chinh phục. Truyền thuyết cũng không coi An Dương Vương như kẻ thống trị ngoại tộc, và căn cứ cả vào nhưng phát hiện khảo cổ học, không thấy có một văn hóa vật chất riêng biệt của thời kỳ An Dương Vương, ta có thể thừa nhận An Dương Vương vốn cũng là ?oHùng gia chi phái? (4 Xem Thục An Dương Vương tiên đế ngọc phả cổ lục, và Trưng nữ Vương triều âm phủ nhất vị công chúa ngọc phả cổ lục) đã tiếp nhận cơ đồ Hùng Vương, kế tục còng việc dựng nước và giữ nước buổi đầu lịch sử. Âu Lạc chỉ là sự tiếp nối của Văn Lang trên một mức phát triển cao hơn. Về mặt tình cảm dân tộc cũng vậy, nhân dân ta bao đời nay đều trân trọng kính thờ cả Vua Hùng lẫn Vua Thục. Vua chúa của các triều đại về sau đều gia phong mỹ tự, coi cả Vua Hùng và Vua Thục là những vị ?ohộ quốc tý dân?. Hàng năm đền Hùng mở hội lớn, thì hàng năm đền An Dương Vương cũng mở hội không kém phần long trọng. Nhiều năm tìm kiếm, khai quật trên địa bàn nước văn Lang và Âu Lạc cũ, người cán bộ khảo cổ học chỉ thấy rõ nét một nền văn hóa chung, liên tục phát triển từ thời vua Hùng cho mãi tới thời khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ nảy sinh từ thời các vua Hùng cho tới mãi thời thuộc Đông Hán mới có thể tạm gọi là ngừng phát triển như một nền văn hóa độc lập.
    Ngay trên mảnh đất Cổ Loa, khu kinh đô của vua Thục, khảo cổ học đã phát hiện một trung tâm sinh hoạt liên tục của con người suốt từ thời đại đồng sớm (văn hóa Phùng Nguyên) cho tới ngày nay trong đó bao gồm thời kỳ An Dương Vương, mà đại diện cho văn hóa vật chất thời này là di tích thành Cổ Loa và di chỉ khảo cổ học Đường Mây.
    Di chỉ Đường Mây được xếp vào nhóm di chỉ Đường Cồ, đã bước sang thời đại sắt sớm (1 Nhóm di chỉ Đường Cồ gồm khá nhiều di chỉ như Đường Cồ (Phú Xuyên), Vinh Quang, Chiều Vậy (Hoài Đức), Đại Áng (Thường Tín), Nam Chinh (Ứng Hoà) thuộc tỉnh Hà Tây; Đình Chàng, Đường Mây (Đông Anh), Gò Chua Thông (Thanh Trì) thuộc Hà Nội). Những di vật đá, đồng, sắt, gốm dù có mang đặc điểm riêng nhưng thể hiện rõ ràng tính bản địa, kế thừa đặc điểm của giai đoạn Gò Mun và rất gần gũi với hiện vật Đông Sơn. Có người đã gọi nhóm Đường Cồ là loại hình Bắc Bộ của nền văn hóa Đông Sơn. Vậy từ Đường Mây của đất thành Cổ Loa, nhóm Đường Cồ và cả một phần văn hóa Đông Sơn rực rỡ có thể được coi như văn hóa vật chất của thời kỳ lịch sử An Dương Vương đậm đà tính dân tộc tuy một số ảnh hưởng của văn hóa Chiến Quốc-Hán đối với văn hóa Việt Nam giai đoạn này là sự thực hiển nhiên.
    Nhà Tây Hán kế tiếp nhà Tần duy trì quốc gia thống nhất và ra sức bành trướng thế lực, nhưng buổi đầu chủ yếu vẫn là phát triển về hướng bắc và hướng tây. Còn ở phía nam, ảnh hưởng Hán vẫn chưa đậm nét. Cho tới thời thịnh đạt nhất-đời Hán Vũ Đế-phong, kiến Hán mới chinh phục được Nam Việt (Triệu Đà) và tràn xuống địa phận Văn Lang-Âu Lạc. Tuy nhiên văn hóa Tây Hán vẫn chưa chiếm được địa vị đáng kể. Cho tới nay, tình hình khai quật và điều tra khảo cổ học vẫn chưa cung cấp thêm tư liệu gì để có thể thay đổi nhận định trên. Dấu vết văn hóa Tây Hán khá mờ nhạt trên khắp vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ Việt Nam. Ngược lại, bước sang thời Đông Hán tình hình thay đổi hẳn. Số lượng lớn những ngôi mộ gạch Hán cùng những vật tùy táng đồng thời với rất nhiều di vật tìm thấy ở những di chỉ lớn, các trung tâm hành chính, kinh tế đương thời như Luỵ Lâu (Hà Bắc) khiến ta đoán nhận được ngày một sự thay đổi đột ngột, mạnh mẽ, tựa hồ như một bước ngoặt gấp khúc của những đặc điểm văn hóa vật chất trên đất Việt Nam.
    Hiện tượng này giúp ta xác định rõ đặc điểm bản địa vẫn chiếm địa vị chủ đạo trong bộ mặt văn hóa vật chất của những thời kỳ lịch sử ngắn ngủi tiếp sau hời kỳ Hùng Vương: từ thời Thục An Dương Vương, qua thời thuộc Triệu cho tới cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổi tiếng, chấn động cả triều đình Đông Hán.
    Từ những di vật khảo cổ học, có thể sơ lược suy ra một số nét của xã hội thời kỳ An Dương Vương như sau: người Âu Lạc vẫn tiếp tục xây dựng nơi ở bằng những ngôi nhà sàn kể những cánh đồng lúa, vẫn mặc theo kiểu đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy, những ngày hội vẫn đội mũ cắm lông chim hay bông lau cao vút trên đầu, vẫn tiếp tục đúc những trống đồng, thạp đồng nổi tiếng, vẫn dùng những vũ khí giáo, lao, rìu lưỡi xéo, rìu gót vuông các loại bằng đồng có trang trí hoa văn hình thuyền, người hoá trang lông chim và động vật hươu nai sinh động và đẹp, v.v...
    Công cụ bằng kim loại đã thay thế những công cụ sản xuất bằng đá. Những lưỡi cày đồng hình lá tìm thấy tại xóm Nhồi (Cổ Loa) khỏe hơn, dày hơn, kích thước lớn hơn tất cả những lưỡi cày đã tìm thấy chứng minh một sức kéo lớn hơn, một năng suất cao hơn, một kỹ thuật tiến bộ hơn trong nông nghiệp. Điều đáng chú ý là sự xuất hiện của đồ sắt. Phàn lớn dấu vết sát tìm thấy trong các di chỉ khảo co học không còn rõ hình dáng công cụ vì sắt chóng gỉ và đã gỉ thì rất mau mất nguyên dáng-một mặt là bằng chứng cho một bước tiến lớn trong sức sản xuất, mặt khấc là bằng chứng để cải chinh nhận thức có phần phổ biến từ lâu là Việt Nam mới có sắt từ thời thuộc Hán và do người Hán truyền bá sang. Sắt bước vào đời sống con người thời đó đã cắm một cái mốc quan trọng trong lịch sử. Sức sản xuất tăng lên, kéo theo một loạt những biến đổi lớn trong xã hội Âu Lạc, mà hiện vật khảo cổ đã là minh chứng hùng hòn. Nếu ở cuối thời Hùng Vương sự cách biệt giàu nghèo đã có (1 Sự khác biệt về số lượng những vật chôn theo trong các ngôi mộ ở Đông Sơn trong lần khai quật năm 1970 đã phản ánh rõ ràng điều này), thì ở thời An Dương Vương sự phân hóa giai cấp càng rõ nét.
    Điều này không chỉ là suy luận. Những chứng cớ về một quân đội thường trực lớn mạnh, những dấu tích của một công trình quân sự-thành Cổ Loa-độc đáo, to lớn đã chứng minh cho điều nòi trên. Kho tên đồng hàng vạn chiếc tìm thấy ở Cầu Vực (Cổ Loa) là một phát hiện khảo cổ học hiếm thầy không những trong nước mà cả trên thế giới. Những đầu mũi tên đồng 3 cạnh tương đối lớn về kích thước và khá đặc biệt về kiểu dáng này là cơ sở tốt để giải thích câu chuyện truyền thuyết về nỏ thần. Hầu như mọi người đều chấp thuận ý kiến cho rằng chuyện nỏ thần phản ánh sự xuất hiện một loại vũ khí mới rất lợi hại có thể bắn một lúc nhiều mũi tên, hoặc ít nhất là cải tiến một thứ vũ khí có tác dụng sát thương cao. Việc sản xuất vũ khí cũng có tổ chức quy mô, đội quân thường trực được trang bị chính quy hơn hẳn thời trước. Kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu cũng có một bước tiến mới đồng thời với việc xây thành phòng ngự. Việc xây dựng thành quách và sự xuất hiện chiến thuật chiến đấu phòng ngự trong thành rất phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới: bên trong thì mâu thuẫn giai cấp đã nảy sinh mạnh mẽ, bên ngoài thì sức ép bành trướng của xâm lược nước ngoài tăng lên.
    Thành Cổ Loa với dấu tích hiện còn là một tòa thành vào loại lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Cho tới nay, chúng ta chưa phân tách bạch được đoạn nào, phần nào được đắp thời Vua Thục, đoạn nào, phần nào do các đời sau tu bổ hay làm thêm. Nhưng những lát cắt thành đã cung cấp chứng cớ để có thể thừa nhận: về cơ bản những lũy thành quanh co hiểm trở vốn là cấu trúc của tòa thành xưa. Từ đấy có thể nhận thấy một tổ chức quân đội khá mạnh ?ogiỏi cung nỏ, thạo thủy chiến?. Quân đội này đã chặn đứng được những cuộc tiến công quân sự của Triệu Đà, buộc họ Triệu phải viện tới những âm mưu xảo quyệt mới chiếm được cơ đồ Âu Lạc (1 Truyền thuyết nỏ thần kể nguyên nhân việc mất nước Âu Lạc là do hoạt động gián điệp của Trọng Thủy lấy cắp được lẫy nỏ thần của vua Thục. Sử kỷ chép: ?oCao Hậu chết tức bãi binh, Triệu Đà nhân lúc đó uy hiếp biên cảnh và lấy của cải đút lót khiến Âu Lạc thần phục?. Như vậy cả truyền thuyết lẫn sử sách đều thống nhất việc Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc là không phải do một thắng lợi quân sự).
    Trong mấy chục năm tồn tại của nước Âu Lạc (2 Chúng tôi lấy năm kết thúc của nước âu Lạc là 180 (hoặc 179) trước Công nguyên bằng vào Sử ký: ?oCao Hậu chết tức bãi binh, Triệu Đà nhân lúc đó uy hiếp biên cảnh và lấy của cải đút lót khiến Âu Lạc thần phục) kề vai sát cánh bên nhau, người Âu và người Lạc đã xây dựng một nước giàu mạnh, phát triển trên cơ sở bền vững của hàng nghìn năm thời kỳ Hùng Vương. Nước Âu Lạc đã bước hẳn vào thời đại sắt, tình hình phân hóa giai cấp đã rõ nét hơn, đã xuất hiện nhà nước thực sự, đã có quân đội thường trực mạnh, gồm bộ binh, thủy binh, đã biết xây dựng thành quách vững chắc.
    1.Tóm lại, mấy năm nghiên cứu đã có thể cho phép chúng ta sơ bộ chấp thuận một số kết luận cơ bản về thời kỳ lịch sử An Dương Vương và quan hệ giữa thời kỳ này với thời kỳ lịch sử Hùng Vương như sau:
    -Quan hệ Hùng-Thục là quan hệ nội bộ của người Việt. Không thể coi việc mất ngôi thủ lĩnh của Hùng Vương như kết quả của một sự mất nước của Hùng Vương. Cả hai thời kỳ lịch sử Hùng Vương và An Dương Vương đều có thể đặt chung trong thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước.
    -Nền văn minh sông Hồng đã phát triển cao hơn một bước trong thời kỳ Thục An Dương Vương. Sự xuất hiện đồ sắt, sự phân hóa giai cấp đã sâu hơn trong xã hội, sự xuất hiện một quân đội thường trực chính quy với một kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu có công sự, sự ra đời một nhà nước thật sự là nhưng mối quan hệ nhân quả chằng chéo, nhưng dù sao những yếu tố mới đâm chồi nảy lộc trong thời kỳ lịch sử An Dương Vương này đều đã được ươm từ thời kỳ lịch sử Hùng Vương trước nó.
    -Di tích thành Cổ Loa và kho mũi tên đồng Cầu Vực là chứng tích của một bước nhảy vọt về kỹ thuật quốc phòng. Thời kỳ lịch sử An Dương Vương ngắn ngủi đã có thể được coi như bước chuyển mình của hàng nghìn năm lượng biến của thời Hùng Vương.
    -Sự giao lưu văn hóa với bên ngoài đã có và có từ lâu trước thời Âu Lạc nhưng ảnh hưởng của các văn hóa khác chưa đậm nét và chưa hề làm thay đổi bộ mặt văn hóa bản địa đẫ sâu rễ bền gốc.
  3. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    2.Một báo cáo tổng kết 3 năm nghiên cứu chưa phải là những kết luận đầy đủ về thời kỳ lịch sử An Dương Vương tuy ngắn ngủi nhưng rất phức tạp. Trên cơ sở những kết luận đã tạm thời rút ra được, chúng ta lại thấy phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu một số vấn đề:
    -Nguồn gốc tộc Thục còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Phải tiến tới có kết luận nào đó về yếu tố Âu trong văn hóa Âu Lạc. Những kết luận đó sẽ củng cố vững chắc hơn những điều chúng ta đã chấp thuận cho tới nay, rằng quan hệ Thục-Hùng là quan hệ láng giềng, văn hóa Tây Âu và Lạc Việt vốn có nhiều điểm tương đồng và nước Âu Lạc chính là sự sáp nhập của hai bộ tộc Tây Âu và Lạc Việt.
    -Văn hóa Đông Sơn cần được nghiên cứu kỹ về thời gian tồn tại, địa bàn phân bố và những nét khác biệt của các loại hình địa phương. Hiểu biết cặn kẽ về những điểm này sẽ kiểm tra giả thuyết ?ođặt cả hai thời kỳ Hùng Vương và An Dương Vương vào chung một thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước?.
    Văn hóa Đông Sơn không những là văn hóa của thời Hùng Vương, thời An Dương Vương mà còn là văn hóa của người Việt cho tới cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
    -Sự kiện Vua Thục thay thế Vua Hùng trị dân lập nước Âu Lạc là một biến động xã hội lớn. Nhà Triệu xâm chiếm và nô dịch nước Âu Lạc cũng là một cuộc thay đổi triều đại quan trọng. Nhưng về mặt văn hóa vật chất, hầu như không có mấy đổi thay. Sức sống mãnh liệt của nền văn hóa Đông Sơn phải chăng là phản ánh sức sống mãnh liệt của dân tộc? Chính điều đó đòi hỏi phải giải thich tính chất của sự thay đổi trên lĩnh vực thượng tầng kiến trúc, đặc biệt là ở thời Triệu Đà, nghĩa là phải giải thich rô hơn nguyên nhân sự sụp đổ của cơ đồ nhà Thục.
    Ở góc độ khảo cổ học bằng vào những di tích văn hóa vật chất thì thời đại đầu tiên của lịch sử Việt Nam rõ ràng phải được cắm mốc cuối ở ngày thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Cho nên để giải quyết tốt những vấn đề về thời kỳ lịch sử Hùng Vương-An Dương Vương, người nghiên cứu không thể không phóng tầm mắt tới những năm đầu của thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên. Chỉ có thế mới mong rằng trong những năm sắp tới, công cuộc nghiên cửu lịch sử và khảo cổ thời Bà Trưng-Bà Triệu sẽ được đẩy mạnh hơn trước.
    --------------------------------------------
    Tài liệu viết năm 1969-1970 nên còn những hạn chế nhất định. Các bác đọc tham khảo thôi nhé.
  4. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Tài liệu này phải gọi những ý kiến mới của Trương Thái Du bằng *****.
    Tôi đã từng đọc bài của TTD và phê phán nhiều những điểm có trong bài
    vừa trích dẫn trên . Các Mod ở đây cũng chán ngấy tận cổ những luận
    điệu lặp đi lặp lại này . TTD cũng thôi không nói đến chúng nữa .
    Có lẽ chúng ta nên mời TTD trình bày những ý kiến mới về lịch sử VN
    quãng thời gian này thì mới hơn, và có lý hơn chăng?
  5. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Hôm nay có lẽ là một ngày đáng nhớ với tôi chăng? Ở diễn đàn này thì được bác Codep ủng hộ lần đầu tiên. Báo Nhân Dân, vừa đăng lại phiên bản mới của bài phản biện ông Lê Mạnh Thát:
    http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=43&sub=78&article=117325
    Dù sao cũng cảm ơn mọi người tại ttvnol.com , mấy năm qua tôi đã gắn bó tại đây, buồn vui và cần mẫn chờ ngày công luận nhìn nhận các tìm hiểu cổ sử của mình.
  6. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Theo link bạn đã dẫn, thì báo Nhân Dân đã đăng bài của bạn
    trích ở trên .
    Trong bài có một chỗ (có thể nhiều nữa mà tôi chưa đọc kỹ)
    như sau

    Khi làm một bài văn, bạn không nên trích những câu đóan thế này, vì
    nó làm giảm tính khoa học bài của bạn.
  7. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    luận về cổ sử ,khảo cứu mà ko dựa vào di chỉ-di tích thì chỉ là giả thuyết.
    Tác giả của những ý kiến này không "đoán" hoặc "cho rằng" thì còn làm gì nữa.
  8. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    Chúc mừng bác, dù lý thuyết của bác vẫn còn đôi chỗ lởm khởm như xưa nhưng ít ra thì cũng đã có chút danh phận trong giới yêu sử. Công tâm ra, tôi khâm phục bác vì những gì bác đã làm. Dù không thành công nhưng cũng thành nhân, bác DU hỉ
    Đọc lại bài trên lick bác đưa, tôi vẫn thấy chỗ sai sót cố hữu của bác, xin góp ý để bác sửa:
    xin bác lưu ý cho, trước cuốn Đông Kinh hoa mộng lục đã có những cuốn sách khác nhắc tới Loa thành tại VN rồi bác ạ. Kính bác chịu khó đọc lại.
    Trân trọng.
  9. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Thành Cổ Loa là một di tích lịch sử, được dân gian truyền tụng và được ghi chép lại trong sách sử, và di chỉ còn ở Phong Khê (nay là Hà Nội), gắn liền với An Dương Vương nước Âu Lạc và cuộc chiến tranh với Triệu Đà nước Nam Việt.
    Nhưng khi sách sử nói Triệu Đà không đánh đến Việt Nam thì thành Cổ Loa vẫn là một toà thành thời cổ gắn liền với những sự tích xây dựng của An Dương Vương ở Phong Khê và ý nghĩa của việc xây thành...
    Đây là một cách lý giải khác: http://www.vanhoahoc.edu.vn/site/index.php?option=com_content&task=view&id=249&Itemid=79
    Khởi nghĩa Hai Bà Trưng là một hiện tượng lịch sử, được dân gian truyền tụng và sử sách ghi lại.
    Dân gian truyền tụng ở Bắc Việt Nam và lập đền thờ Hai Bà Trưng ở nhiều nơi, khi mà người Việt ở Việt Nam ca ngợi xem Hai Bà Trưng là vị anh hùng và là vua của mình. Một khi đã ca ngợi thì có thể làm đền thờ ở nhiều nơi.
    Nói tóm lại sự việc khởi nghĩa Hai Bà Trưng được sách sử Trung Hoa ghi chép lại, cần phải xem lại. Đường link tôi dẫn lên vì thấy nội dung khác lạ nên mạo muội dẫn lên các xem sao, nhân đó thử bàn xem.
    Cái hay là có những ghi chép mà nhiều nhà nghiên cứu không nói tới như là có 2 Phong Châu (một Phong Châu ở Vân Nam, Quý Châu - Nam Trung Hoa và một Phong Châu như ta đã thuộc lòng là ở Phú Thọ - Bắc Việt Nam).
    Hay như đoạn ghi chép về 2 thái thú Giao Chỉ, Cửu Chân là Tích Quang, Nhâm Diên mà ít người ghi chú trọn vẹn toàn bộ ý của nội dung sách sử có liên quan đến nước Dạ Lang (Quý Châu) nữa chứ.
    Còn việc Tây Vu Vương chống Hán cũng không ai dẫn toàn bộ nội dung có liên quan đến sự việc ấy như là quân Hán đến Đông Việt (Mân Việt, Đông Âu) nữa. Có phải Tây Vu Vương là thủ lĩnh người Việt ở Bắc Việt Nam không?
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 19:42 ngày 11/03/2008
  10. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Bác thử tính xem cách đây mấy nghìn năm, đồng bằng Bắc bộ Việt Nam có rộng như bây giờ không, lại còn nhiều đất trũng, bãi lầy, hoang hoá... Song ngòi lầy lội, phân tán không như đế chế Inca ở Nam Mĩ đất đai tương đối khô ráo. Ở Nam Mĩ có nhiều núi đá có thể khai thác đá xây nhà ở, lâu đài, thành trì... kiên cố có thể lâu dài không phải tốn công xây lại như ở Việt Nam.
    Các bác xem các nền văn minh trên thế giới thời cổ đại, đều ít nhiều để lại di tích được xây bằng đá. Ở những vùng lầy lội ẩm thấp như Bắc Việt Nam hay một số vùng khác lại không có.
    Để quản lý một đế chế, quốc gia không phải là dễ dàng. Một đế chế lỏng lẻo rất dễ bị tan rã, lại trở về các nước nhỏ, phân tán, dễ bị thôn tính.
    Như đế chế Inca như vậy bị tan rã bởi một nhúm nhỏ quân Tây Ban Nha bên kia đại dương

Chia sẻ trang này