1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

NHÀ THƠ TÔI YÊU

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi taicuc, 24/07/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. taicuc

    taicuc Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/11/2002
    Bài viết:
    480
    Đã được thích:
    3
    NHÀ THƠ TÔI YÊU

    OLGA BERGGOLTZ VÀ NHỮNG VẦN THƠ MANG TÍNH XÃ HỘI
    [01.03.2007 17:15 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]
    (NCTG) Olga Berggoltz (1910-1975) là một tên tuổi rất quen biết đối với độc giả Việt Nam cùng những vần thơ tình say đắm. Rất nhiều người còn nhớ ?oKhông đề? của bà, qua bản dịch của Bằng Việt, như một hoài niệm của thời son trẻ:

    KHÔNG ĐỀ

    Em nhớ lại chuyện ngày quá khứ.
    Khúc hát ngây thơ một thời thiếu nữ.
    ?oNgôi sao cháy bùng trên sông Neva
    Tiếng chim kêu trong bóng chiều tà?.

    Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọt ngào hơn.
    Em mới hiểu bây giờ anh có lý.
    Dù chuyện xong rồi bây giờ xa cách thế
    Em hát khác xưa, khóc cũng khác xưa

    Lớp trẻ lớn lên, cũng giống như ta
    Nhắp lại vị ngọt ngào thuở trước
    Vẫn sông Neva bóng chiều non nước
    Nhưng nghĩ cho cùng họ có lỗi đâu anh?

    Nhưng có lẽ ít người biết rằng ở Nga, tổ quốc của Berggoltz, nói chung nữ thi sĩ không mấy được biết đến như một nhà thơ của tình yêu. Và, trong cuộc đời mình, bà đã trải qua không ít gian nan và đau khổ, điều không hề thể hiện qua những bài thơ tình đã được dịch ra tiếng Việt.



    Olga Berggolz sinh năm 1910, đúng vào những năm tháng loạn lạc của nước Nga, sau khi cuộc cách mạng 1905 bị đàn áp và nền kinh tế nước này lâm vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Tuy nhiên, thời thanh niên của nữ thi sĩ lại trùng vào những năm tháng cực thịnh của thể chế Stalin, khi nửa nước Nga chìm đắm trong đau thương, của nỗi kinh hoàng, và nửa kia lại tràn đầy sự phấn khích ngây thơ về một ?othời đại hoàng kim? của chủ nghĩa cộng sản. Berggoltz thuộc nửa thứ hai: sau một vài tác phẩm viết cho thiếu nhi và các tập phóng sự, trong hai năm 1934-1935, nữ thi sĩ cho ấn hành hai tập thơ ?oThi phẩm? và ?oSách thơ?, ngợi ca đất nước ?otươi đẹp? và ?ocon người mới XHCN?.

    Tuy nhiên, sự phấn khích của Berggoltz không kéo dài. Ít lâu sau, người chồng thứ nhất của nữ thi sĩ bị bắt giam và năm 1937, vào đỉnh cao của những vụ đàn áp, thăng trừng ở qui mô lớn, bản thân nhà thơ cũng bị bỏ tù. Năm 1939, bà được phóng thích và mấy năm sau, trong thời kỳ Leningrad bị phát-xít Đức bao vây, Berggolz sáng tác nhiều bài thơ ái quốc; về căn bản, bà nổi tiếng và được biết đến từ dạo đó.

    Sau Thế chiến thứ hai, người chồng thứ hai của Berggoltz cũng trở thành nạn nhân của tệ bạo hành Stalin. Dạo đó, nữ thi sĩ đã làm nhiều bài thơ đầy dư vị cay đắng, chỉ để cất trong ngắn kéo chứ không nhằm đăng tải. Bốn thập niên sau, năm 1987, tờ tạp chí ?oZnamya? (Ngọn cờ) đã cho in những bài thơ đó, khiến lớp độc giả trẻ của nước Nga phải bỡ ngỡ trước ngôn từ ưu phiền, cay nghiệt, thậm chí dữ dằn, hoàn toàn không thích hợp với hình ảnh một Olga Berggoltz hiền hòa mà họ được học, được đọc, trong nhiều thập kỷ đã qua.

    Tuy nhiên, những người đứng tuổi còn nhớ: sau khi Stalin chết và nhất là Đại hội XX của đảng Cộng sản Liên Xô, khi Khrushchev đọc bản báo cáo mật vạch trần những tội ác của Stalin và tệ sùng bái cá nhân, Berggoltz là một trong những người khởi xướng dòng văn học chống chủ nghĩa Stalin, khởi đầu với cuốn hồi ký ?oNhững ngôi sao ban ngày? (1954). Biết được điều này, chúng ta sẽ không ngạc nhiên trước sự ?ophân thân? của một nữ thi sĩ, đã rạch ròi CON NGƯỜI XÃ HỘI với những thi phẩm yêu nước hoặc lên án cái Ác, cái Xấu xa, và CON NGƯỜI CÁ NHÂN, với những vần thơ trữ tình mang tính nội tâm, thầm kín, về những mối tình dang dở.

    Bài thơ ?oTôi cũng cả ngày?? sau đây, được Olga Berggoltz sáng tác năm 1949 - khi Stalin và bè đảng đang tổ chức hàng loạt vụ thanh trừng nhằm vào giới lãnh đạo cấp tiến Leningard, thành phố yêu dấu của nữ thi sĩ - cho thấy CON NGƯỜI XÃ HỘI của Berggoltz, với những trăn trở, day dứt và buồn bã. Như nhiều tác phẩm khác, bài thơ đã nằm trong ngăn bàn gần bốn chục năm, và chỉ được xuất hiện vào thời ?ocải tổ? ở Liên Xô, trên tờ ?oVăn học Xô-viết?, tháng 10-1987.

    TÔI CŨNG CẢ NGÀY?

    Tôi cũng cả ngày ngồi họp -
    miệng dối trá và tay tôi biểu quyết
    Rằng sao tôi chửa bạc đầu vì sầu muộn?
    Sao chưa chết đi vì hổ thẹn, ở đó??
    Rồi tôi còn lang thang hồi lâu trên phố phường,
    tại đây, rốt cục, tôi lại được là tôi.
    Người quét sân cho tôi lửa bên cánh cửa nhìn ra sân
    và tôi tìm, nơi nào có rượu mạnh.
    Tại một quán rượu, có hai phế binh
    (cách đây không lâu, họ đã chiếm Krasny Bor)
    buông lời than vãn về những thiệt thòi,
    rượu đã khiến họ trở nên không biết sợ.
    Và ngừng lại trước những kỷ niệm chung của chúng tôi,
    thắp lại đống tro tàn đã nguội của dĩ vãng.
    Anh đi trinh sát - và đụng phải bãi mìn.
    đội trừng giới - nhưng ai thoát được?
    Có kẻ trở về với mề đay trên vai,
    nhưng bao người còn lại, đều nằm xuống ở đó,
    Họ đã đổ máu, ôi, không ít
    để đổi lấy những tội lỗi tầy đình, chưa bao giờ tồn tại.
    Và khi ấy, hẳn tỉnh ra từ đó
    bất giác, tôi tuôn cơn thịnh nộ:
    Đã quá đủ với những tâm hồn cao thượng,
    và lũ ác quỉ ơi, ta yêu ngươi biết chừng nào!
    (1949)

    H.Linh
    nguồn: www.nhipcauthegioi.hu
  2. taicuc

    taicuc Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/11/2002
    Bài viết:
    480
    Đã được thích:
    3
    OLGA BERGGOLTZ - "CÂY NGẢI ĐẮNG" CỦA NỀN THI CA XÔ VIẾT (1)
    LỜI NGƯỜI VIẾT: Đã có biết bao huyền thoại được thêu dệt về mối tình kéo dài trong ký ức (cho dù cuộc hôn nhân lại vô cùng ngắn ngủi) của nữ sĩ người Nga Olga Berggoltz (1910-1975) và nhà thơ Nga sớm nổi danh nhưng cũng sớm chịu số phận đắng cay Boris Kornilov (1907-1938). Nhiều thế hệ người yêu thơ Việt Nam từng yêu cùng "nàng Olga" qua những bản dịch Việt ngữ ngọt ngào của nhà thơ Bằng Việt, và cũng chỉ thường chỉ nhớ đến cái tên Olga Berggoltz qua những bài thơ tình mơ mộng đầy nữ tính của bà.
    Mấy ai biết rằng, đường đời của Olga không chỉ có những mối tình. Bà đã trải qua vô vàn thử thách của số phận: sự ghẻ lạnh, hắt hủi của người đời, sự phản bội của bạn bè, những tháng ngày tủi nhục trong tù ngục, sự đau đớn khi mất những đứa con còn trứng nước... Song, điều đáng quý của Olga Berggoltz mà chúng ta đọc được đằng sau những dòng viết bật máu của bà, là Olga vẫn giữ được nét tinh tế, nồng nàn trong trái tim người phụ nữ, giữ được những suy nghĩ tha thiết với cuộc đời, giữ được niềm hy vọng đôi khi tưởng chừng đã tắt trong tâm. Chính nhờ những điều đó mà thơ của bà gần gũi với người đọc Việt Nam, một dân tộc luôn trân trọng tình người, và nhiều khi, phải nương vào tình người mà vượt lên trên mọi đau khổ.
    Viết về nữ sĩ Olga Berggoltz không dễ dàng vì tư liệu thì nhiều, nhưng có vô số hướng gợi mở, phân tích khác nhau. Song, là một người vốn hâm mộ nhà thơ, tôi thấy bất kỳ thông tin nào về Olga cũng đầy hấp dẫn, từ những mẩu chuyện về thời thơ ấu ngắn ngủi của bà cho đến những chuyện "hậu trường" của nền thi ca Xô-viết, gắn liền với những năm tháng đầy đau khổ hậu bán thập niên 30 và thời kỳ chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (1) sau đó. Lần giở lại một số trang nhật ký của Olga, đọc một số đoạn trích trong "Những ngôi sao ban ngày", hồi ký của những người trong gia đình, của mẹ và em gái bà, của các nhà văn Nga đương thời và cả những nhà văn Nga hiện đại, tôi thử ghép lại thành một bức chân dung tỉ mỉ về người con gái Nga kỳ lạ này.
    Thực ra, tôi không muốn dùng từ "bà" để viết về Olga Berggoltz, mặc dù khi nằm xuống, Olga đã bước vào tuổi xế bóng đời người. Nhưng cuộc đời của nữ sĩ cùng những vần thơ Nàng viết không bao giờ "có tuổi" trong tâm khảm những người yêu mến Nàng, mặc dấu ấn của thời gian. Olga Berggoltz mãi mãi là "Nàng Thơ" của thành Petrograd của thành Len ngày nào. Nàng trẻ mãi. Và bất tử.
    Nghĩ đến Olga Berggoltz, không hiểu sao tôi lại muốn nhớ đến một loài cỏ dại đã từng xuất hiện trong thơ của Nàng: "Cây ngải đắng" - loài thảo mộc có mùi hương gợi niềm bất trắc nhưng lại có sức sống bền bỉ và kiên cường đã từng là ám ảnh Olga suốt nhiều năm. Và ngải đắng cũng đã từng là biểu tượng cho sự dằn vặt trong Tình yêu của người con gái nồng nàn và can trường ấy:
    Rồi tôi vẫn nghiến răng bướng bỉnh
    Ngẩng cao đầu khép chặt lòng đau
    Hoa ơi hoa, hoa nở vì đâu
    Hoa ngải đắng của tình tôi yêu dấu?
    ...
    Chẳng làm gì nữa đâu lời âu yếm vô ngần
    Của người dưng hay người tôi thương mến
    Muôn nẻo quanh tôi loài cỏ hoa quyến luyến
    Ngải đắng ơi, hoa ngải đắng tình tôi!

    (trích "Cây ngải đắng", 1928 - Thụy Anh dịch)
    P/s : Bài viết này của Phong Điệp được đăng trên blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. Do ttvn không cho phép đăng quá 20000 ký tự nên tôi buộc phải chia thành nhiều đoạn, mong mọi người thông cảm.
  3. taicuc

    taicuc Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/11/2002
    Bài viết:
    480
    Đã được thích:
    3
    Phần 1: TUỔI THƠ NGẮN NGỦI VÀ HẠNH PHÚC
    Ngắn ngủi, vì Olga Berggoltz rời bỏ những ngây thơ thiếu nữ rất sớm: 16 tuổi yêu và 17 tuổi đã lấy chồng, 18 tuổi sinh con... Bà cũng sớm bước vào cuộc đời sáng tác mà ban đầu tưởng chừng chỉ có những niềm vui lấp lánh đầy mê hoặc.

    * Những người thân
    Olga Berggoltz sinh ngày mùng 3-5-1910 (theo lịch mới là ngày 16-5) tại Saint Petersburg (Petrograd). Thân phụ bà - Phedor Kristophorovich Berggoltz - mấy chục năm là bác sĩ của một nhà máy, chữa bệnh cho công nhân, nhưng trước đó ông từng là bác sĩ phẫu thuật phục vụ trong quân đội, kinh qua chiến tranh chống Đức dưới đế chế Nga hoàng, rồi tham gia chống Bạch vệ thời Nội chiến. Sau thời nội chiến loạn lạc, năm 1921, ông cùng vợ là bà Maria Timopheevna, hai con gái Olga và Maria tái đoàn tụ ở thành phố bên dòng sông Neva. (Trước đó, năm 1918, vợ ông đưa hai con nhỏ lánh về thành phố nhỏ yên tĩnh Uglich, tiếng là tránh tên rơi đạn lạc nhưng kỳ thực là để tránh nạn đói!)
    Ngôi nhà của gia đình Berggoltz ở cửa ô Nevski là một căn nhà gỗ hai tầng xinh đẹp với tám cửa sổ, nằm giữa những tán cây phong lớn và một mảnh vườn con trồng đủ các loại hoa. Phía sau nhà còn có một vườn táo với con đường mọc nhiều tử đinh hương thơm ngát. Cuối con đường, có một nhà bát giác nhỏ bằng kính nhiều màu, nơi mọi người có thể ngồi uống trà và trò chuyện cả trong những ngày Đông giá rét. Bây giờ, con phố nằm đằng sau ngôi nhà này được mang tên bà - phố Olga Berggoltz! Đại gia đình của Olga sống trên tầng hai, diện tích còn lại thì cho thuê. Gọi là cho thuê, nhưng quan hệ giữa chủ nhà và người thuê rất ấm áp như người một nhà. Căn nhà thuở ấu thơ ấy đã được Olga nhắc đến không ít lần một cách thân thương trong "Những ngôi sao ban ngày" (2), một cuốn sách có thể coi là tự truyện của bà.
    Tâm hồn nhạy cảm và gần gũi thiên nhiên mà Olga nhận được từ thuở thiếu thời, đôi khi khiến bà mềm yếu nhưng sau này, lại chính là sức mạnh tiềm tàng giúp bà trụ lại trước những thử thách của cuộc đời. Nếu không có những mùa hè rớt dưới mái nhà cha mẹ êm ấm chở che, chắc hẳn Olga không cảm nhận được sự chuyển động kỳ diệu của thiên nhiên như thế này:
    Có một mùa trong ánh sáng diệu kỳ,
    Cái nắng êm ru, màu trời không chói,
    Mùa hè rớt cho những người yếu đuối,
    Cứ ngỡ ngàng như lúc mới vào xuân.
    Trên má mơ hồ tơ nhện bay giăng,
    Se sẽ như không, nhẹ nhàng, phơ phất...
    Lanh lảnh bầy chim bay đi muôn nhặt,
    Hoa cuối mùa sặc sỡ đến lo âu.
    Những trận mưa rào đã tắt từ lâu,
    Tất cả thấm trên cánh đồng lặng sẫm,
    Hạnh phúc nhiều hơn mắt nhìn say đắm,
    Ghen tuông dù chua chát... cũng thưa hơn
    .
    (trích "Mùa hè rớt" - Bằng Việt dịch)
    Sau này, hình ảnh ngôi nhà thân thiết của cha mẹ còn xuất hiện nhiều lần trong thơ Olga, luôn là gam màu ấm nóng, trầm xuống bồi hồi trong bức tranh sôi động về cuộc chiến hoặc công cuộc lao động xây dựng đất nước, lắm khi đầy những khẩu hiệu, những lời tung hô:
    Chúng tôi ra mặt trận theo những đường phố quen thuộc
    Nhớ đến mỗi con đường như một giấc chiêm bao
    Đây hàng giậu của mái nhà tổ phụ
    Đây, trước kia, có cây phong to lớn lá rì rào.
    Xuân khi ấy, cây vươn tới chúng tôi qua cửa sổ
    Buổi sớm mai, óng ánh, mát tươi
    Nhưng đông này lạnh lùng u tối
    Bạn xanh ơi, bạn cũng chết rồ
    i.
    (trích "Đường ra mặt trận", 1942 - Xuân Diệu dịch)
    Những năm ấu thơ, Olga sống khá đầm ấm và hạnh phúc trong vòng tay của những người ruột thịt: cha mẹ; hai người bà: bà Olia nghiêm khắc và bà Masha hiền hậu (tên của hai bà được trân trọng đặt cho hai chị em nàng); và những cô, chú, bác dịu dàng khác - thường gọi nàng với cái tên rất âu yếm là Lialia, còn cô em gái của nàng là Musia... Hai chị em có bà vú Avdochia, người đã ôm chặt lấy Olga khi năm 1917, thành phố quê hương nàng rung chuyển trong tiếng súng vang rền, khiến tâm hồn non nớt của bé Lialia đầy lo sợ. Sau này, khi ở trong nhà lao, nàng đã nhớ về mái ấm của mình, về hạnh phúc êm ả tuổi thơ:
    Chị từng mơ thấy mái nhà xưa
    Nơi tuổi thơ ngây mình đã sống
    Nơi trái tim như thuở nào trông ngóng
    Một tình yêu, một hơi ấm chốn nương lòng
    Thấy cả đêm Giáng sinh và cả cây thông
    Thấy em gái cười to vui thích
    Thấy dịu dàng và đầy phấn khích
    Ô cửa hồng mới sáng sớm đã rực lên
    Và những món quà tặng nhau buổi đêm
    Lá thông tỏa mùi hương cổ tích
    Những đốm sao vàng đêm tĩnh mịch
    Ngay trên mái nhà của chị em ta ..
    .
    (trích "Gửi em gái", 1939 - Thụy Anh dịch)
    Olga được thừa hưởng từ người cha mái tóc vàng và chiếc mũi hếch nghịch ngợm, đôi mắt xanh biếc trong vắt và bướng bỉnh. Nhưng nàng lại là đứa trẻ sớm nhạy cảm, gương mặt đôi khi mang một nỗi buồn kỳ lạ không lý giải nối. Nỗi buồn ấy được nhà văn Anninski (3) gọi là "nỗi sầu không lời và vô duyên cớ của tâm hồn Nga". Nó len lỏi vào lòng Olga sau những lần chứng kiến cảnh bà vú Avdochia trong những ngày lễ tết, sau khi đã uống vài ba chén thường cất giọng hát một bài dân ca có lời buồn da diết, mặc dù âm điệu lại rất đỗi nhịp nhàng. Thế rồi nửa chừng, bà vú lại ôm mặt thổn thức. Những giọt nước mắt đầy cay đắng chẳng hiểu vì sao cứ rơi ra, tuồng như chẳng ai và chẳng có gì an ủi được.
    Olga - còn có tên thân mật là Olia hay Lialia - là cháu yêu của ông của bà, còn cô em gái Maria (Masha, Musia) là con yêu của mẹ của cha. Gia đình Berggoltz thường đùa như vậy, không phải vì Olia chỉ được ông bà yêu và Masha chỉ được cha mẹ chiều mà chỉ để nhấn mạnh sự quan tâm chiều chuộng của hai người bà đối với đứa cháu gái đầu Olia xinh xắn. Bà nội cũng tên là Olga có tính cách khá khắc nghiệt, và còn khắc nghiệt hơn nữa từ khi có con dâu (tức thân mẫu của Olga Berggoltz). Điều đó có thể lý giải bằng một sự ghen tuông rất thường tình của bà mẹ khi chứng kiến con trai yêu quý đắm đuối bên người vợ trẻ. Mọi tình cảm của bà dồn vào đứa cháu gái yêu như một sự "trả thù ngọt ngào". Nhưng cũng chính điều này khiến tình cảm của Olia không được ổn định: nàng luôn bị giằng xé trong những cảm nhận hạnh phúc, vui sướng lẫn lộn với lo lắng và căng thẳng.
    Trong "Những ngôi sao ban ngày", cô bé Olia nhận xét về bà mình: "Bà có những bức tranh thánh giống y nhau - toàn những gương mặt tối sầm giận dữ và dài ngoẵng... Bà chẳng cho chúng tôi động vào đồ vật gì trong nhà...- Bọn bay làm vỡ mất thôi, làm hỏng mất, làm sứt mất! Tránh tránh nào... Đừng động vào!"... Kể cả đồ chơi mà mọi người và chính bà tặng cho tôi bà cũng giữ gìn cấm đoán!" Nhưng rồi trong nhật ký ngày 20-1-1923, Olga lại ghi: "Hôm nay Olga Mikhailovna (bà nội nàng - ND) đã mở lòng với mình. Điều này khiến mình cảm động quá - Hóa ra bà nội thực chất rất bất hạnh và cô đơn khủng khiếp trong tâm hồn..."
    Ông bà nội thay nhau mua tặng Lialia của ông bà hết nơ lại tất chân, lại cả găng tay ren điệu đà nữa khiến cô bé đôi khi cảm thấy mình như một nàng công chúa nhỏ xinh đẹp vậy.
    Nhưng Olga cũng từng rất buồn, tâm trạng đôi lúc trầm uất khi bà nội luôn luôn tìm đủ mọi cớ để dày vò mẹ nàng, người mà bà cho rằng là nguyên nhân khiến cha nàng ngày càng gày yếu, vất vả đi... (đầu những năm 20, ông bị lâm bệnh sốt phát ban và nhiều thứ bệnh khác). Mẹ của Olia và Masha là một phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng và chịu đựng. Sau mỗi lần mẹ chồng nổi cơn thịnh nộ thì Maria Timopheevna lại nhẫn nhịn xin lỗi, bắt chuyện làm hòa bằng giọng nói nhỏ nhẹ, hiền lành.
    Bà ngoại của Olia và Masha cũng rất hiền hậu. Sau khi sinh con gái đầu lòng, Maria Timopheevna trở nên ốm yếu, lại bị không khí căng thẳng trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu "đầu độc", bà ốm liên miên, mấy lần phải nằm bệnh viện. Bà ngoại của Olia và Masha luôn có mặt chăm sóc con gái mình, nâng đỡ con về mặt tinh thần. Những năm bước vào tuổi 60, bà ngoại vẫn làm việc không ngừng, ít khi tỏ ra u sầu. Bà là người kiên cường trong vỏ bọc một phụ nữ lam làm, nhường nhịn.
    Năm 1941, khi Olga Berggoltz đã bị cuốn vào vòng quay của cuộc sống đầy phức tạp trên thành phố, hiếm khi có dịp trở lại thăm cửa ô Nevski yêu dấu, bà ngoại ốm nặng rồi mất. Trong "Những ngôi sao ban ngày", Olga tả những giây phút cuối cùng được gặp bà với nhiều xúc động:
    "Bà nằm trên chồng gối, choàng chiếc khăn ren màu trắng móc theo kiểu nông dân. Gương mặt bà trở nên bé nhỏ, teo tóp với những nếp nhăng ngang dọc. Đôi mắt trũng sâu nhưng ánh nhìn từ dưới hố mắt sâu thẳm ấy rất sáng và minh mẫn, lấp lánh sống động kỳ lạ. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên rung động hơn cả là đôi tay đang đặt trên ngực bà: sao đôi bàn tay của bà có vẻ như to quá cỡ, biết bao nhiêu là vết chai và cục sần gồ lên, những sợi gân xanh lớn quấn quanh chúng. Đó là đôi tay của người đàn bà đã làm việc không nghỉ trọn vẹn 80 năm trời trong tổng số 87 năm sống trên đời, đôi tay của người mẹ đã sinh nở, chăm chút, thay tã, bế ẵm 14 đứa con và nhiều cháu chắt, đã từng tự mình chôn cất cho cả cháu, cả con. [...] Tôi chợt nhớ đến những lần bà đưa tôi đi tắm hơi, đặt tôi ngồi trong chậu gỗ đựng đầy nước lạnh, lau bọt xà phòng làm xốn mắt tôi... khi ra khỏi nhà tắm hơi công cộng, bà còn mua kem ốc quế cho tôi ăn và cho uống nước kvas chua nữa... Còn tôi? Tôi đã làm được điều gì tốt đẹp cho bà, cho dì Vera, cho cha tôi? Chẳng có gì hết..."
    Trong gia đình, Olga rất gần gũi với cha, ông Phedor Kristophorovich. Giữa hai cha con có mối dây liên hệ vô thức nào đó khiến họ thông hiểu nhau, từ khi nàng còn là cô bé Lialia dễ vui sướng lại hay hờn giận cho đến lúc đã trở thành nữ sĩ tên tuổi. Thân phụ Olga cũng là người biết chịu đựng, không bao giờ than vãn về sự vất vả hay khổ sở của mình. Ngoài ra, ông còn không biết che giấu tình cảm, ông sôi nổi và đôi khi nông nổi nữa. Cả hồi nhỏ cho đến khi đã là quả phụ, Olga vẫn thường tìm về bên cha để hai cha con cùng ngồi im lặng trong căn phòng đạm bạc của ông. Khi đã rời mái nhà thân yêu bất chấp sự phản đối kịch liệt của cha, rồi bị bắt, nàng từng nhắc đến ông với niềm thương xót khôn nguôi trong bài "Gửi em gái":
    Trong chật chội và bực mình khổ sở
    Nơi căn phòng đồ gỗ cũ mèm
    Vò võ sống cô đơn mỏi mệt
    Người cha mà ta đã nỡ bỏ quên

    Cha Olga cũng rất chăm chút gia đình, yêu vợ và chiều chuộng hai cô con gái. Trong trí nhớ của Olga, cha nàng thời trẻ rất... điển trai và phong độ trong bộ quần áo nhà binh, nhất là hồi ông trở về sau cuộc chiến với nước Đức thời Nga Hoàng. Ông có mái tóc vàng xoăn xoăn, có bộ ria rậm như các binh sĩ Nga thời đó, bộ ria mà chị em Olga hay đùa là "chiếc đuôi thò ra từ dưới mũi cha!" Mỗi lần nghe con gái nói vậy, ông Phedor Kristophorovich lại xoắn xoắn bộ ria và cất giọng hát vui vẻ một bài ca vui nhộn của lính: "Râu hỡi, ria ơi, sao ngừng xoắn lại - cô nàng của ta lại sắp ba hoa..." Trong truyện vừa "Uglich" (4) và tác phẩm "Những ngôi sao ban ngày", Olga có nhiều trang thuật lại những mẩu chuyện thật thân mật về cha và các con gái. Đoạn hồi tưởng về cuộc gặp gỡ với cha sau khi cuộc nội chiến kết thúc rất ngộ nghĩnh:
    "Hai chị em chúng tôi đờ người ra vì sợ hãi: đầu cha nhẵn bóng, gương mặt gày tiều tụy, đen sạm và chẳng có tí ria nào, mà chúng tôi vẫn nghĩ là cha phải có bộ ria rất đẹp và mái tóc bồng bềnh cơ...
    - Bác là cha chúng cháu ạ? - Musia trịnh trọng hỏi..."
    Nhưng điều khiến Olga nhớ và ngưỡng mộ nhất là tình yêu giữa cha mẹ nàng. Họ yêu nhau nồng nàn, có ghen tuông, hờn giận, nhưng vẫn đầy lãng mạn trong khung cảnh thời chiến đói khổ. Những năm mẹ và hai cô con gái sống ở thành phố Uglich bên bờ sông Volga yên tĩnh, ông Phedor Kristophorovich có xin phép về thăm gia đình hai lần. Lần đầu tiên ông về có báo trước, khỏi phải nói thân mẫu Olga đã hồi hộp mong đợi thế nào! Bà viết trong nhật ký:
    "Tôi sắp xếp lại phòng cho tôi và Phedia (tên thân mật của Phedor - ND) - phòng chúng tôi có cầu thang riêng dẫn lên. Căn phòng bé xíu sơn đỏ xanh, chẳng có cái gì thừa cả: một cái giường, cái bàn con...Tôi mang vào đây những bông cúc dại, cắm khắp nơi những bó hoa cúc tuyệt diệu vì chính sự giản dị của mình... Khi Phedia cùng tôi bước vào phòng, anh thốt lên:
    - Trời, thật tuyệt! Anh rất thích!
    Bỏ áo bành-tô ra, anh ôm tôi vào ngực. Trời ơi, tôi hạnh phúc quá! Cả thế giới này đang ở trong hai chúng tôi, và chúng tôi đã ngập chìm trong thế giới ấy.
    .."
    Có lẽ, sẽ không còn gì khó hiểu khi về sau, chúng ta được đọc những vần thơ viết về tình yêu say đắm và quay cuồng, như quên hết thảy mọi khái niệm không gian và thời gian, quên cả mọi lý lẽ... của nữ sĩ Olga Berggoltz:
    Không phải thế! Anh được yêu, anh có biết
    Vĩnh viễn anh là yêu dấu của em
    Em không tha thứ cho anh điều gì hết
    Cũng chẳng buông đôi tay ấm dịu hiền

    (trích "Không phải thế! Anh được yêu!", 1940 - Thụy Anh dịch)
    Cảnh ấy, người ấy, không gian ấy... của tuổi ấu thơ đã như một tiền đề làm nên tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, khao khát yêu thương của nàng!
  4. taicuc

    taicuc Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/11/2002
    Bài viết:
    480
    Đã được thích:
    3
    Tiếp nhận lý tưởng mới, cuộc sống mới
    Gia đình Berggoltz tiếp nhận những biến đổi của thời cuộc một cách nhẹ nhàng, như thể cuộc sống vốn vậy. Họ không cần nghĩ ngợi gì nhiều, chỉ sống giản dị cùng với mạch sống của đất nước. Sau đây là một đoạn cảm động trong hồi ký của bà Maria - em gái của Olga Berggoltz - viết năm 1942, miêu tả cuộc đối thoại giữa người cha và cô con gái Olia khi ông chuẩn bị lên đường ra mặt trận sau một vài ngày được về thăm gia đình ở thành phố Uglich:
    "Cha ngồi bên giường Olia, tôi thấy ông xoa cái đầu bé nhỏ trăng trắng của chị và nói: "Cha không ở lại được, con ạ" - Olia không khóc, nhưng hỏi với vẻ buồn rầu, không, đau buồn thì đúng hơn..: "Người bênh đợi cha?" Ông nói: "Thương binh, con ạ". Và rõ ràng có thể hiểu rằng như thế là sự việc quan trọng hơn nhiều. Olia nói câu gì đó rồi cả hai người ngồi im lặng rất lâu..."
    Rõ ràng, từ rất nhỏ, Olga đã cảm nhận được sâu sắc nghĩa vụ của người công dân đối với đất nước, con tim bà ngay từ hồi ấy đã biết buồn đau và biết dũng cảm chịu đựng nỗi buồn đau của mình vì những điều lớn lao hơn. Những điều này vẫn còn đó trên con đường mà Olga đã chọn, đã đi suốt cuộc đời mình, mặc cho những oan ức và dối lừa bà sẽ gặp... Chúng ta sẽ có dịp quay lại tìm hiểu sâu hơn "cảm hứng công dân" xuyên suốt một đời thơ Olga Berggoltz ở các phần sau.
    Khi Lenin mất, bà nội của Olga đã thắp nến trong nhà để tưởng nhớ, và Olga thì cảm thấy một nỗi buồn sâu sắc mà thời ấy những người công nhân vùng quê nàng đều cảm nhận. Thực ra, đó là âm hưởng chung của con người của một thời đại. Thậm chí, người ông của nàng với dòng dõi quý tộc xa xưa cũng từng giảng giải cho cô cháu gái bé nghe về trạm thủy điện đầu tiên của chính quyền Xô-viết xây dựng ở Volkhov, rằng nhờ có Lenin và chính quyền mới mà họ sẽ có một dòng điện công suất mạnh hơn, những cái bóng điện sẽ "to hơn, tròn hơn, sáng hơn và cả ngày có điện, khắp nơi có điện..." ("Những ngôi sao ban ngày", trang 18).
    Niềm tin ấy có chút ngây thơ, nhưng là cái nhìn trong trẻo của những con người mở lòng với cuộc sống mới. Cũng vậy, còn rất non nớt với tuổi 15, 16 của mình, Olga đã mang niềm tin ấy trong tâm, hăm hở bước vào cuộc đời lao động và cống hiến:
    Thậm chí lũ chúng tôi còn cùng tưởng lại tuổi thơ xa vắng
    Ôn lại thời nội chiến năm nao, lời hiệu triệu cứu đói năm nào
    Rồi ánh điện đầu tiên từ Volkhov dâng trào
    Rọi thẳng vào tuổi thanh xuân
    Rọi vào ngôi trường yêu dấu
    Tưởng lại ngày rời chiếc bàn học sinh thơ ấu
    Bỏ lại cho các em, chúng tôi bước vào đời
    Đến với hăng say lao động, trải trước mắt sáng ngời:
    Tấm bản đồ khai hoang đất ông cha máu thịt
    Lấp lánh ngọn lửa nhiều màu vui say nồng nhiệ
    t
    ...
    (trích "Lại một mình đơn độc lên đường", 1952 - Thụy Anh dịch)
    * Tập làm thơ
    Olga say mê văn học và đến với thi ca từ rất sớm. Người cha đóng vai trò quan trọng trong những sáng tác đầu tiên của cô thi sĩ bé bỏng, luôn muốn biết ý kiến của cha về những "tác phẩm" của mình.
    Olga viết trong "Những ngôi sao ban ngày" về thời điểm đầu năm 1924 như sau:
    "Trong gia đình mỗi người nhìn việc tôi làm thơ theo một kiểu khác nhau. Cha thì có bài thích bài không. Khi tôi đọc cho cha nghe bài thơ về khu vườn nhà chúng tôi, ông đã xoa đầu tôi rối bù cả lên và nói: "Tuyệt lắm... Y như Pushkin vậy!" và cả buổi chiều đi đi lại lại trong nhà theo thói quen, vò đầu tóc rối bù mà lẩm nhẩm dòng thơ đầu tiên trong bài ấy:
    "Người mơ màng, khu vườn cổ phủ đầy băng giá..."

    Khi tôi phải lòng một cậu chàng lớp chín bên cạnh thì tôi viết:
    "Hoa chuông ơi! Nồng nàn
    Ơi loài hoa dịu dàng
    Lóng lánh như lệ bạc
    Mộng thiếu nữ đa mang
    "
    Cha nghe rồi nói "Hừm... Ờ..." rồi lầm bầm hát một đoạn ca cổ:
    "Đa cảm! Đa cảm!..
    Đa cảm quá, các ngài ơi.."

    Tôi khóc òa lên vì buồn giận. Mẹ thì dịu dàng an ủi và nói là thơ "xúc động, tình cảm" lắm, chỉ có điều cha không hiểu được thôi. Mẹ thì thấy tôi viết cái gì cũng khen, còn cha thì khác... Tôi biết là cha hiểu hết!
    Cha thường bảo: "Lialia, học đi con, học không phải với mục đích là sau này bị chồng bỏ thì có thể tự lo liệu cuộc sống cho mình. Con hãy học không phải vì cái tương lai kiểu ấy! Đừng có lúc nào cũng nghĩ ngợi và tấp tểnh chuyện chồng con, nghe chửa!" (trích "Những ngôi sao ban ngày")
    Khi Lenin qua đời (năm 1924), Olga ngồi trong xó bếp, giấu mọi người viết những vần thơ:
    Những tiếng còi nhà máy chúng tôi
    Đang ca lên vang dội
    Hình như tất cả các nhà máy
    Đều quỳ gối
    Bởi chúng đã mồ côi
    Bởi Lenin đã mất
    Lenin thân yêu đã mất...

    Ấy thế mà chỉ lướt ngang qua sau lưng con gái đang ngồi thu lu với cây bút trong tay và cuốn vở nhỏ, ông Phedor đã hiểu ngay vấn đề. Ông động viên: "Con cứ viết đi, cha không làm phiền đâu. Nhưng nếu mà viết được thì cho cha xem nhé!"
    Và "tôi đã đọc cho cha nghe khi chỉ có hai cha con, không có mẹ, không có Musia, không có Avdochia bên cạnh. Tim tôi đập mạnh kinh khủng và khi đọc xong bài thơ thì tim còn nhảy loạn cả lên, mà cha thì vẫn chưa nói gì, chỉ nhìn tôi với ánh mắt rất chăm chú và mới lạ, sau đó đưa tay ra cầm trang viết im lặng đọc rồi nói nghiêm túc:
    - Con chép lại đi con, chép đẹp vào nhé. Cha sẽ đưa cho bích báo của nhà máy. Có thể họ sẽ in đấy. Cha cảm thấy là họ sẽ in..."
    ("Những ngôi sao ban ngày", trang 114)
    Khi người cha sôi nổi thông báo tin bài thơ của cô con gái lần đầu tiên được đến với công chúng: "Chúc mừng con! Mọi người bảo là hay... Con đã trở thành thi sĩ thực thụ rồi đấy - họ đã in thơ con!", không hiểu sao lúc ấy, cô bé Olga 14 tuổi cùng với sự vui sướng tột độ lại cảm thấy đôi chút sợ hãi, lo âu. Một linh cảm kỳ lạ chăng?
    Dầu thế nào mặc lòng, từ bấy giờ, Olga đã thề sẽ trở thành một nhà thơ thực sự, hơn thế nữa, là một nhà thơ của giai cấp vô sản. Mặc dù luôn có những linh cảm lạ lùng, khi ấy, người thiếu nữ trong sáng không hề biết rằng cuộc đời đầy biến động phía trước đang chờ đợi nàng với tất cả nỗi thống khổ cùng cực.
    Và, không phải ai cũng đứng vững được như bà, kiên cường đối mặt với mọi bất hạnh để giữ được trái tim tha thiết với tình yêu, với Tổ quốc, với số phận những con người...

    Chú thích:
    (1) Người Nga phân biệt Chiến tranh Vệ quốc 1812 (chống quân đội của hoàng đế Pháp Napoleon) với Vệ quốc Vĩ đại 1941-45 (chống phát-xít Đức).
    (2) "Những ngôi sao ban ngày" (1959) là cuốn sách văn xuôi tự sự trữ tình, tự truyện của Olga Berggoltz. Năm 1968, sách được chuyển thể thành kịch bản và dựng thành bộ phim cùng tên về nữ sĩ Olga.
    Tác phẩm đã được Phan Quang dịch ra tiếng Việt (dựa trên bản tiếng Pháp của Jean Cathala), Nhà xuất bản Văn học in lần đầu năm 1963 (những đoạn thơ dài trong sách do Chế Lan Viên dịch).
    3) Lev Alechsandrrovich Anninski (1934-): nhà phê bình văn học và điện ảnh Nga, tác giả bài nghiên cứu "Olga Berggoltz: "Tôi... người vợ góa của thành Leningrad" (tạp chí "Neva" số 6, 2005).
    (4) Uglich là một thành phố nhỏ bên bờ sông Volga. Đây cũng là tên một truyện vừa của Olga Berggoltz, viết năm 1932.
    Những đoạn dịch hồi ký, tư liệu... trong bài là của tác giả. Trong phần trích dẫn thơ, những phần có in đậm là tác giả mạn phép sửa của các dịch giả khác, mong được thể tất!

  5. Redtulips

    Redtulips Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2008
    Bài viết:
    3.766
    Đã được thích:
    175
    Mình thích bản dịch dưới đây hơn, tên dịch giả vẫn là Bằng Việt, nhưng có lẽ người trích dẫn đã sửa, thêm bớt cho phù hợp với ý họ. Tuy chỉ khác có mấy chữ (mình sẽ in đậm), nhưng nghe mượt mà, dịu dàng hơn. Rất tiếc là đọc lâu quá rồi, mình cũng không nhớ nguồn nữa:
    KHÔNG ĐỀ
    Em nhớ lại chuyện ngày quá khứ.
    Khúc hát ngây thơ một thời thiếu nữ.
    ?oNgôi sao cháy bùng trên sông Neva
    Tiếng chim kêu trong bóng chiều tà?.
    Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọt ngào hơn.
    Em mới hiểu bây giờ anh có lý.
    Dẫu chuyện xong rồi, anh xa cách thế
    Em hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa
    Lớp trẻ lớn lên, giờ lại hát theo ta
    Cũng nhắp lại vị ngọt ngào thuở trước
    Vẫn sông Neva bóng chiều non nước
    Nhưng nghĩ cho cùng họ có lỗi đâu anh?
    P/S: Nếu mình là dịch giả, mình thích dùng từ "nhấp" hơn là "nhắp" trong câu "(cũng) nhắp lại vị ngọt ngào thuở trước". Tuy cùng một nghĩa cả, nhưng không hiểu sao, cảm giác như từ "nhấp" có vẻ thuận hơn.
    Có ai đồng tình (hoặc phản đối) với mình không nhỉ?
  6. deny_me

    deny_me Ma Xó

    Tham gia ngày:
    07/03/2003
    Bài viết:
    7.776
    Đã được thích:
    0
    Không đề.
    Có gì nghẹn ngào khi đọc hết toàn bài thơ. Và nhận ra rằng, thời gian giúp con người ta trưởng thành hơn, song lại cũng mang đi nhiều tiếc nuối.
    Em nhớ lại chuyện ngày quá khứ
    Khúc hát ngây thơ một thời thiếu nữ
    Ngôi sao cháy bùng trên sóng Neva
    Và tiếng chim kêu những buổi chiều tà
    Lời "thú nhận" của cô gái đã bắt đầu. Cô nhắc "chuyện ngày xưa" đã trôi vào quá khứ, cái ngày xưa thời hoa đỏ nồng nàn, thời "thiếu nữ" ngây thơ trong sáng. Cô nhắc lại một khúc hát và hình ảnh "ngôi sao cháy bùng trên dòng sông Nhê va" tưởng như không gian buổi chiều của ngày xưa còn đó, cùng với tiếng chim còn đồng vọng. Tất cả những gì thuộc về "nhân chứng" một thời còn nguyên vẹn - còn hiện hình rất rõ trong cô.
    Năm tháng đắng cay hơn năm tháng ngọt ngào hơn
    Em mới hiểu bây giờ anh có lý
    Dù chuyện xong rồi dù anh xa cách thế
    Em hát khác xưa rồi khóc cũng khác xưa
    Một lời thú nhận - thú nhận cái "vô lý" của mình ngày xưa sau khi trải qua bao nhiêu nghiệt ngã của cuộc sống. Giờ cô mới nhận ra "anh có lý". Tại thời đó nhìn cái gì cũng đẹp, cũng lung linh, lại còn lắm mơ ước viển vông, lãng mạn. Ai cũng có một thời như thế... trong tình yêu thường hay đòi hỏi, hay so sánh để rồi có lúc bị mất đi tất cảm mà không biết, mà còn mải tìm kiếm xa xôi. Khi hiểu ra thì "anh đã xa cách thế" .. Đối mặt với hiện tại và nhìn lại quá khứ, chiêm nghiệm và nhận ra "em hát khác xưa rồi khóc cũng khác xưa"... Xưa là của thời thiếu nữ với "khúc hát ngây thơ", nay có hát cũng là hát bằng hiện thực cuộc sống. Kể cả những giọt nướcmắt, chúng không còn trong trẻo tinh khôi, mà chỉ là biểu hiện của những tiếc nuối sai lầm, xót xa.. khi con người đã trưởng thành chín chắn...
    Lũ trẻ lớn lên lại nối tiếp hai ta
    Họ lại nhắp vị ngọt ngào thủa trước
    Cũng sông Neva bóng chiều xoáy nước
    Nghĩ cho cùng họ có lỗi đâu anh.
    Tình yêu luôn bất tận, như bánh xe quay vòng trên con đường không có giới hạn. Nó giống như một cuộc chạy đua tiếp sức của nhiều thế hệ nối tiếp nhau vậy. "Chuyện đã xa cách thế" và "lớp trẻ lớn lên lại hát theo ta, lại nhắp vị ngọt ngào thủa trước"...mà ko biết họ sẽ rất có thể đi vào "vết xe đổ" của những người đi trước.. và lại có sự tan vỡ, sự hối hận và tiếc nuối.. :) Nhưng nghĩ cho cùng, họ cũng chưa hoặc không cần biết đến điều đó vì lúc đó họ đang yêu nhau, tình sẽ đổ vỡ đi chăng nữa đâu phải lỗi ở họ.. ....Có phải tác giả thanh minh cho họ, cũng là thanh minh cho bản thân mình, cho những "vô lý" ngày xưa..
    Buồn, nhưng không nặng nề.. trong nuối tiếc nhẹ nhàng Bài thơ gợi cho tôi nhớ lại một khổ thơ của nhà thơ Trương Nam Hương..
    Anh ngồi canh giữ nỗi đau
    Nhắc bàn chân những người sau tránh mình
    Chiều đâu đến nỗi thất tình
    Giá anh ngày ấy tin mình, tin em
    Ps: bài này đã đưa khá lâu, nay có topic nên đưa lại. Từ "nhấp" là đúng rồi, còn từ "nhắp" là từ cùng nghĩa, nhưng là từ địa phương thôi mà.!
  7. taicuc

    taicuc Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/11/2002
    Bài viết:
    480
    Đã được thích:
    3
    Phần 2: NHỮNG MỐI TÌNH TRONG ĐỜI: SAY MÊ VÀ THỐNG KHỔ
    Và thế là Olga dấn thân vào con đường xa xôi, kỳ ảo của Thi Ca.
    Những năm đầu tiên bước vào đời, Olga đã từng rất thân thiết và ý hợp tâm đầu với người bạn thơ Iaroslav Smeliakov (1913-1972), nhưng đến khi gặp chàng trai 19 tuổi Boris Kornilov trong một lần sinh hoạt với bút nhóm có tên "Kế tục" vào tháng 2-1926, nàng đã rơi vào ánh hào quang của một tình yêu "từ cái nhìn đầu tiên".

    Vẫn còn là trẻ thơ, non nớt nhưng say đắm, cô thiếu nữ 16 tuổi Olga Berggoltz đã đón nhận tình yêu đầu như đón nhận số phận của mình. Chàng trai trẻ có vóc dáng nhỏ bé, đội mũ kepka, biết đọc thơ mình sáng tác một cách lôi cuốn và say sưa đã khiến trái tim nàng rung động. Họ yêu nhau và chỉ mấy tháng sau đã thành vợ thành chồng. Olga sinh được một cô con gái Irina, nhưng về sau bé bị bệnh mà mất khi mới tròn 8 tuổi (1936).
    "Tính cách khắc nhau", thậm chí thơ của họ cũng mang những đặc điểm đối chọi nhau, nói như Lev Anninsky (1), nhịp thơ nặng nề, trơn chuội của Kornilov ít có thể hòa hợp với cung đàn dâng trào thẳng băng của Berggoltz. Và vì thế (mà cũng chẳng chắc đã vì thế, bởi chuyện yêu đương rồi xa cách vốn dĩ luôn là điều bí ẩn), đôi tình nhân mê đắm này đã chia tay. Họ xa nhau, nhưng mối dây liên hệ sâu sắc giữa hai người vẫn còn, không lời, không hình ảnh, nhưng thiêng liêng đến mức khó hiểu. Mãi đến sau này, Olga vẫn không nguôi nhớ và đây đó trong các bài thơ, người ta vẫn mơ hồ hiểu Olga nhắc đến mối tình đầu của mình với niềm day dứt khôn nguôi. Sở dĩ người viết bài này dùng từ "mơ hồ" vì chỉ duy nhất có một bài thơ nữ sĩ ghi rõ "Gửi Boris Kornilov" (mà nhà thơ Bằng Việt tạm đặt tên là "Bài thơ cuộc đời"), sáng tác năm 1940, sau khi Kornilov đã mất được hai năm. Bài thơ này đã trở thành huyền thoại trong lòng người yêu thơ Việt Nam, qua bản dịch uyển chuyển và rất thành công của nhà thơ Bằng Việt (2).
    Khi viết bài thơ này, Olga mất liên lạc với Boris đã lâu, chỉ được biết rằng anh bị bắt - không ai rõ Kornilov bị đi đày giữa chốn Gulag xa hút, hay đã bỏ mình? Olga kiên nhẫn chờ đợi tin người, và không một phút nào tin vào cái chết của Boris Kornilov:
    Không, chẳng bao giờ em chấp nhận nổi đâu
    rằng anh đã qua đời, anh hãy tin em nhé
    Ranh giới giữa sáng tâm và loạn trí
    em bây giờ thường nhìn thấu được ra

    ("Không, chẳng bao giờ em chấp nhận nổi đâu", 1938*)
    Đến Leningrad vào năm 1925, chàng trai 18 tuổi từ thành phố bên sông Volga đã từng rất nổi tiếng, là "cái hy vọng" của nền Thi ca Xô-Viết trẻ như lời khẳng định của nhiều người tại Đại hội lần thứ I các nhà văn Xô-Viết. Tháng 4-1925, "Ra biển!", bài thơ đầu tiên của Boris Kornilov được đăng tải và rất được khen ngợi. Ảnh hưởng khá sâu sắc phong cách Esenin, nhưng anh vẫn giữ được cho mình nét riêng không trộn lẫn. Đó là những câu thơ mang nhịp điệu khá gập ghềnh, đôi lúc trúc trắc, khó đọc. Thi phẩm nổi tiếng nhất thời đó của Kornilov là "Bài ca chào đón" (1931) được nhạc sĩ tài danh Shostakovich (cũng là nhạc sĩ yêu thích nhất của Olga) phổ nhạc trong bộ phim "Người đón chờ" (1932):
    Ban mai đón ta bằng hơi giá
    Dòng sông đón ta bằng gió xa
    Cô gái tóc quăn hỡi, cớ sao em vẫn
    Không vui nghe tiếng còi tàu?
    Đừng ngủ nữa, tóc quăn ơi, hãy dậy mau
    Những đội thợ đã vào phân xưởng
    Đất nước bừng dậy cùng vinh quang
    Đón chào ngày mới

    Olga có mái tóc xoăn vàng óng rất đẹp và ngay ở bài thơ mang âm hưởng ngợi ca cuộc sống mới này, nàng vẫn hiển hiện bên chàng!)

    Suốt hơn hai thập niên, cả nước hát bài ca ấy, ngợi ca nhịp điệu làm việc sôi nổi của một ngày mới trên đất nước Xô-viết. Có ai ngờ, chờ đón tác giả của nó lại là một ngày đen tối! Boris trở thành một trong những cái đích ngắm của nạn bạo hành thời Stalin sau khi anh viết bài thơ "Ngày cuối cùng của Kirov" (3). Vì bài thơ này, anh bị khép vào tội "phản cách mạng". Năm 1936, Kornilov bị khai trừ khỏi Hội nhà văn Xô-viết. Tháng 3-1937, nhà thơ bị bắt. Thi phẩm cuối cùng của anh được đăng là những vần thơ về A. Pushkin. 20-2-1938, nhà thơ vĩnh viễn không bao giờ còn được làm thơ nữa: Boris Kornilov bị xử hình. (4)
    Từng là người thân của Boris, mặc dù đã rất xa, Olga Berggoltz vẫn không tránh khỏi liên lụy. Bà cũng rơi vào chốn ngục tù khi đang mang thai đứa con trai nhỏ, để rồi vĩnh viễn mất đứa bé cùng quyền làm mẹ. Về điều này, chúng ta sẽ còn trở lại vào các phần sau.
    Trong một tác phẩm của mình viết năm 1935, Boris Kornilov nhắc đến Olga với giọng thơ tha thiết đầy tiếc nuối:
    Người thương ơi, em tìm được ai rồi?
    Mà ngân nga bài ca trong trẻo
    Thủ thỉ tâm tình... thay thế cho kẻ
    U uẩn một thời... là tôi
    Em đã hôn ai rồi
    Bên dòng Dunai, bên dòng Oka nước mát
    Trên bến đợi, bên bờ đổ nát
    Bên dốc đứng kia nơi ào ạt sông này
    Anh chàng ấy sẽ cao thấp béo gầy?
    Xuân tới chàng ta bao nhiêu tuổi?
    Có dám bước đến đây đàng hoàng không bối rối
    Giản dị cất tiếng chào tôi?

    ("Tôi từng có người thương", 1935)
    Có một điều thú vị là, cho dù bài thơ được viết từ năm 1935, nhưng nhiều hình ảnh nhắc nhở về cô đoàn viên Olga trẻ trung, trong sáng như thiên thần mà Boris gọi là "người vợ có đôi cánh trắng" cũng như những nơi nàng bước chân qua trong trí tưởng tượng của anh - tất cả đều từng có thực trong cuộc đời của Olga sau này, hệt như một sự tiên tri, một điềm báo
    Chúng ta gặp lại những "bến đợi, bờ đổ nát, dốc đứng, dòng sông" trong thơ của Olga viết trong thập kỷ 40-50 của thế kỷ trước. Đó cũng là tiếc nuối:
    Tìm về bờ dốc cũ xưa
    Đối mặt tận cùng số mệnh
    Hạnh phúc một thời chống chếnh
    Là tôi... nhiều năm qua rồi
    Biển xanh biếc tận chân trời
    Hoàng hôn màu đồng ngút ngát
    Hoa cỏ dưới chân xào xạc
    Lại như... nhiều năm qua rồi
    Cũng hương bạc hà khắp nơi
    Cũng tiếng én kêu não ruột
    Làm sao lấy lại, anh ơi
    Những gì thân thương đã mất?

    ( "Cánh én bên bờ dốc đứng", 1940)
    Đó cũng là một giấc mơ yêu:
    Một bến đợi lạ lùng trong đêm tối cuối trời
    Lửa sáng trên bờ, lửa ở sâu đáy nước
    Ai đó tôi không quen đứng chờ đây từ trước
    Mà từ xa tôi cũng có thể nhận ra
    Chỉ một phút nữa thôi tôi sẽ nghe thấy người ta:
    "Em đây rồi. Anh đến với em, em có biết?"
    Phút đầu tiên tôi không thốt nên lời gì hết
    Chỉ chìa tay đón số phận của mình...

    ("Lại một mình đơn độc lên đường", trích "Chùm thơ về sông Đông - sông Volga", 1950)

  8. taicuc

    taicuc Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/11/2002
    Bài viết:
    480
    Đã được thích:
    3
    Phải chăng, nàng Olga năm nào và mối tình say đắm đầu tiên vẫn thấp thoáng sống dậy trong suốt cuộc đời gian truân của nữ sĩ Berggoltz?
    Và mãi về sau, Olga vẫn thường xuyên qua lại thăm nom thân mẫu của Kornilov, âu yếm gọi bà là "mẹ".
    *
    Mối tình thứ hai - Nikolai Molchanov - đến với Olga rất giản dị, nhưng lâu bền, và, như bà nói, là "mãi mãi".
    Em lấy được anh của cuộc đời
    Như tia lửa bắn ra từ đá cuội
    Để rồi chẳng chia rời,
    Để rồi anh yêu em mãi mãi
    .
    ("Em lấy được anh của cuộc đời", 1936)
    "Mãi mãi" - từ này tưởng chừng dễ nói ra giữa những người đang yêu, cũng dễ trở thành là "đầu môi chót lưỡi". Nhưng với Olga, đến cuối đời, bà đã một lần nữa nhắc đến người chồng thứ hai của mình với từ "mãi mãi". Bà luôn cảm thấy mình là "người vợ góa" của ông, kể cả khi bà đang hạnh phúc với mối tình thứ ba, mối tình cuối đời:
    Hôm nay đây em đã ngoái nhìn.
    Và bỗng thấy: hướng về mình từ lòng băng giá
    Người bạn đời còn sống với đôi mắt có hồn rất lạ
    Người duy nhất của em - mãi mãi, muôn đời
    ...
    Là vợ người ta - với tất cả những ai đang sống
    Với riêng chúng mình - em là vợ góa của anh.

    ("Ôi xin đừng ngoái lại phía sau", 1947)
    Năm 1926, Olga Berggoltz theo học khóa nghiên cứu Lịch sử nghệ thuật và năm 1927, bà được tuyển vào học ngành báo chí khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Leningrad. Ở đó, sau khi chia tay với Kornilov năm 1930, bà gặp Nikolai Molchanov (1909-1942) và đi bước nữa cùng ông. Buổi đầu bày tỏ tình yêu giữa đôi trai gái cũng vẫn xúc động không khác gì lần yêu đầu: một buổi sớm mai trên con đường dọc bờ sông vắng thưa người qua lại, không khí nao niết mùi hương tỏa ra từ những rặng thông, tiếng hải hâu kêu chao chác từ xa... thấp thoáng cánh trắng dập dềnh phía bầu trời ửng đỏ của rạng đông. Cảnh tượng ấy đã chứng kiến mối tình "mãi mãi" của Olga Berggoltz và Nikolai Molchanov. Hai con người trẻ tuổi cùng làm việc miệt mài bên nhau ở Alma-Ata (Kazakhstan) - khi ấy Olga là phóng viên báo "Thảo nguyên Xô-viết", cùng chiến đấu trong vòng phong tỏa của phát-xít Đức ở Leningrad và cùng chung sức trong rất nhiều dự định.

    Nikolai là nhà nghiên cứu văn học. Tác phẩm cuối cùng
    Nikolai là nhà nghiên cứu văn học. Tác phẩm cuối cùng của ông - "Năm nhà thơ" - vẫn còn dang dở vì chiến tranh, và vì... cái chết! Đầu năm 1942, khi nạn đói hoành hành đến cực điểm trong thành Len, Nikolai Molchanov đã qua đời, trong đau đớn. Olga, người phụ nữ kiên gan chịu đựng đói, khổ, đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần trong những ngày đêm Leningrad bị bao vây, đã "khóc một lần cho cả 900 ngày đêm ấy". Người vợ góa của Molchanov, khi đó tuyệt vọng cùng cực, đã đi bộ băng qua nửa thành Len chết chóc để đến ngồi bên cha - bởi lẽ, cũng như thời thơ ấu, người cha vẫn là nơi bấu víu về tinh thần của bà. Trong hồi ký "Những ngôi sao ban ngày", Olga kể:
    "Cha im lặng, tôi có cảm tưởng, im lặng rất lâu, mà cũng có thể là chỉ vỏn vẹn vài giây thôi. Cha hiểu tại sao tôi lại tìm đến người. Cha vẫn biết Nikolai đã vào viện. Và người chậm rãi bước ra khỏi cái barie, đứng trước mặt tôi và, cúi đầu rất thấp, yên lặng hôn tay tôi. Đoạn, ngẩng phắt đầu lên, nhìn vào mắt tôi bằng ánh nhìn điềm tĩnh, hình như có đôi chút lảng tránh sang hướng khác và khẽ nói:
    - Nào, đi thôi bé con, cha sẽ cho con uống chút nước nóng. Có thể cha con mình chế món gì ăn nhỉ!... - Rồi ông nói thêm, hơi nhếch mép cười: "Món shi thì lại hơi mặn..." (5)
    Tôi hiểu câu lẩy đó của ông và nghe thấu được tất cả sự cay đắng. Cha rất yêu quý Nikolai. Nhưng cha con tôi không nói thêm lời nào nữa, kể cả về anh lẫn về cái chết."

    Số phận quả đã cay nghiệt với Olga. Bi kịch của người chồng đầu tiên Boris Korinilov, cái chết của hai bé gái: Irina và Maia (Maia là con gái của Olga với Nikolai Molchanov, cô bé mất vì bạo bệnh khi vừa mới biết cất lời gọi "Mẹ"), mất đứa con út ở trong tù khi còn là một bào thai..., và bấy giờ, mất người bạn đời tri kỷ. Không phải ngẫu nhiên mà sau này, Olga luôn luôn lo sợ, rằng tất cả những người bà yêu mến đều bỏ bà mà ra đi.
    Thế nhưng, cuộc sống dẫu vô vàn khó khăn, khốc liệt, nhưng quý giá vô cùng, vẫn còn đang ở phía trước. Và Olga Berggoltz đã sống, đã đứng vững một cách xứng đáng, là chỗ dựa tinh thần của biết bao con người thành Len năm ấy. Bà làm được tất cả những điều ấy nhờ có tình yêu:
    Tình yêu của anh kỳ diệu vô chừng
    Khiến em phải ngẩng cao đầu và sống

    ("Ngày 29 tháng Giêng năm 1942")
    Về sau, không chỉ một lần, Olga đã nhắc đến việc viết tiếp phần hai cuốn "Những ngôi sao ban ngày", trong đó, bà nói,"tôi sẽ viết nhiều về người bạn, người chồng của tôi - Nikolai Stepanovich Molchanov. Tôi chưa từng biết người nào tuyệt vời và cao cả hơn con người ấy. Phóng khoáng, độ lượng, tuyệt vời, một con người rất kiêu hãnh".
    Và cũng không phải một lần, Olga cảm thấy mình có lỗi với người, khiến những giấc mơ không tròn và trái tim không thôi thao thức:
    Anh đi qua những trận chiến, trại tập trung Maidanek, địa ngục tối mò
    xuyên qua những lò thiêu say lửa cười nghiêng ngả
    qua cái chết của chính mình anh tìm về thành Len sỏi đá
    đến được nơi này vì anh rất yêu em
    Anh tìm được nhà em, em đang sống êm đềm
    không ở nhà chúng mình xưa mà trong ngôi nhà khác,
    và người chồng mới bên em - thực tại làm anh ngơ ngác,
    ôi sao anh chẳng ngờ đến sự hiện diện của người?!
    ...
    Bạn đời của em ơi, - xin tha thứ cho em tiếng nghẹn ngào vô tình không trông đợi,
    từ lâu rồi em không biết nữa đâu là thực là mơ...

    ("Bội bạc", 1946)
    "Người chồng mới" mà Olga nhắc đến trong bài thơ trên là nhà ngôn ngữ học Georgi Makogonenko (1912-1986), người mà, không hiểu sao, sau này các nhà viết tiểu sử Olga thường tránh nhắc đến tên. Dường như người ta ngầm lên án ông về sự dằn vặt tâm hồn của Olga thể hiện trong các bài thơ viết về tình yêu cuối đời, về sự cô đơn của bà lúc tuổi già. Mà chính Olga cũng chưa bao giờ đề tặng ông bất cứ một bài thơ tình nào, cho dù, vì ông, bà đã từng viết những vần thơ "âm thầm ghen tuông cay đắng". Thế nhưng, không thể phủ nhận được một điều rằng, tình yêu thứ ba này, tuy không làm mờ đi mối tình âu yếm trong quá khứ với Boris Kornilov, không khiến bà nguôi quên mối tình sâu đậm kéo dài "mãi mãi" với Nikolai Molchanov, thì vẫn từng là bàn tay chìa ra nâng đỡ tinh thần bà trong những giờ khắc hoang mang:
    Anh đã nhận lấy người đàn bà u sầu, không mềm dịu
    Người có ý nghĩ tối tăm, cơn mê dại nặng nề
    Có nỗi niềm góa bụa không xóa được đau tê
    Có nghiêm túc một tình yêu chưa từng qua đi hết
    Nhận lấy về mình không mưu cầu niềm hoan hỉ
    Miễn cưỡng nhưng vì yêu anh đã nhận về....

    ("Đã nhận lấy...", 1942)
    Theo Lev Anninsky, Georgi Makogonenko đã làm mọi cách để Olga bình tâm lại, thậm chí, lấy quyền của một phó Phòng Văn nghệ BBT Đài Phát thanh Leningrad (nơi Olga làm việc suốt thời gian thành Len bị phong tỏa), ông đã "lệnh" cho bà phải viết cho xong thi phẩm "Trường ca tháng Hai" kịp ngày lễ Quân đội 23-2-1942. Bởi ông nhìn rõ, chỉ có công việc mới cứu được Olga khỏi nỗi đau riêng. Bản trường ca ấy đã cứu được Olga, trả lại sự bình tâm cho bà, cũng như cứu được rất nhiều người đàn bà góa khác của Leningrad khỏi chìm đắm trong hồi ức đau thương. Và tình yêu, cho dẫu đầy ắp ghen tuông, day dứt, thì vẫn cứ là "hạnh phúc".
  9. taicuc

    taicuc Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/11/2002
    Bài viết:
    480
    Đã được thích:
    3
    Hai người chính thức hóa quan hệ vợ chồng vào ngày 20-2-1949 (một sự trùng hợp kỳ lạ: đây cũng chính là ngày mất của Boris Kornilov!) mặc dù trước đó, ngay từ năm 1942, họ đã chung sống dưới một mái nhà. Con trai riêng của Georgi và thân phụ ông cùng sống với họ. Tổ ấm mới của Olga có đầy đủ những gì từ lâu bà thầm mơ ước. Đó là một căn hộ xinh xắn với những tiện nghi thường nhật của một gia đình, với "bàn giải khăn ren họa tiết nhẹ nhàng" (6), với những buổi tối tiếp đón khách thơ đông vui sôi nổi. Và hai vợ chồng cùng viết chung những vở kịch về Leningrad thời chiến; "Họ đã sống ở Leningrad" (1944), "Trên mảnh đất của chúng tôi..." (1947), kịch bản phim "Bản hợp xướng Leningrad" (1945), những trang bút ký đăng tải nhiều kỳ trên tờ "Tin tức" (Izvestia) "Dòng thơ Nga" (13-8-1944), "Phụ nữ Nga" (19-8-1944)...

    Theo hồi ký của I. Glikman, nhà nghiên cứu nghệ thuật Nga, thì thời bấy giờ, Georgi thường tham gia làm việc ở xưởng "Lenfimlm": "Những cô diễn viên trẻ đẹp thường tìm mọi cách làm quen với Iura (tên thân mật của Georgi) Magokonenko. Họ mê không phải là cái sự hoạt động nghệ thuật của ông mà là vẻ bề ngoài của Iura. Ông cao lớn, cân đối, đẹp trai, có đôi mắt xám tuyệt diệu, mái tóc dày tuyệt vời, những ngón tay dài thanh mảnh. Mà ăn mặc thì rất đỏm dáng".

    Từ tháng Năm đến tháng 10-1949, Olga đi thực tế ở làng Rakhino tỉnh Novgorod. Tại đây, bà đã viết những dòng lo âu vào nhật ký của mình, linh cảm về sự không bền vững của mối tình này:
    "... Những cô gái trẻ dễ thương - những cô giáo có khi còn ít tuổi hơn Irka (tên gọi âu yếm của con gái đầu lòng đã mất) - giờ là những đứa con của mình.
    Nhìn họ, điều đầu tiên cảm thấy là sự ghen tị với sức trẻ tươi mới của họ, với sự quyến rũ của họ - chắc là tuổi già đã chớm đến rồi, và mình cảm thấy rất rõ là Iura - người hãy còn trẻ và rất đẹp trai, rồi cũng sẽ muốn có những cô nàng như thế..., mà biết đâu anh đang có rồi chăng...[...] Mình ở đây đã 7 ngày rồi mà Iurka chẳng gửi lấy một tấm bưu thiếp, chẳng có lấy một bức điện. Ôi, rồi mình sẽ được nhận từ anh ấy điều tệ hại cuối cùng, nỗi buồn đau kinh khủng nhất - anh ấy sẽ bỏ mình, sẽ đi theo cô khác...
    Giá mà được tự do! Muốn quá tự do, thoát được những ghen tuông, thoát được cả tình yêu, thoát khỏi những ý nghĩ về anh ấy!"


    Không phải ngẫu nhiên mà Olga đã viết trong thi phẩm "Em thầm cay đắng ghen tuông" (1949), tả lại tâm trạng khổ sở lụy tình của một người đàn bà:
    Em giấu giếm nỗi niềm khổ sở
    Của hờn ghen xuống tận đáy tâm hồn
    Tưởng tới anh cùng một cô gái nhỏ
    Không phải mình - tươi sáng, đáng yêu hơn!

    và hoang mang:
    ... Giờ thốt nhiên em như chẳng là em
    Ít nói, ít cười, đùa những lời cay độc
    Mọi người thương hại em, và bỗng chốc
    Họ không còn chia sẻ những niềm vui
    Giữa cuộc chơi em chợt nghẹn lời
    Đưa mắt nhìn về miền mông lung bí ẩn
    Trong giây lát em đã xa vạn dặm
    Cô độc vô cùng với nỗi lòng riêng
    Nơi nhạt nhòa ánh sáng không tên
    Khẽ run rẩy trong khí trời ẩm ướt
    Nếu khi ấy anh gọi em thảng thốt
    "Em ở đâu?" ... Em cũng chẳng quay về

    để rồi cất lời khẩn khoản người thương:
    Anh yêu ơi giữa bao điều vô thức
    Hãy nhắc thật nhiều rằng anh rất yêu em
    Em lại trở về giản dị đáng yêu thêm
    Em sẽ không còn ghen tuông cay đắng nữa

    Những câu thơ này không phải được thốt ra vào một giây phút bất chợt, chúng phản ánh sự dằng xé day dứt trong tâm hồn của bà từ rất lâu.
    Đó là bản đầu tiên của bài thơ "Em thầm cay đắng ghen tuông" in trên tạp chí "Thế giới mới" (Novyi Mir). Sau này, khi in cuốn "Nút thắt" (Uzel) (7), Olga đã sửa lại một cách cay đắng như thế này: "Em sẽ thôi không còn bất hạnh, nghiệt ngã và đau buồn..."
    Bà sống những ngày sau với Makogonenko bằng một tình yêu thái quá và bất an. Và cái kết cục bà luôn lo sợ đã đến. Năm 1959, tình yêu cuối cùng trong đời nữ sĩ đã ra đi. Makogonenko bỏ người vợ thi sĩ để đến với một cô gái trẻ "tươi sáng, đáng yêu hơn". Dù đã linh cảm trước được mất mát bằng trái tim nhạy cảm với khổ đau của mình, thì Olga vẫn rơi vào trạng thái trầm uất. Không chịu nổi, bà từng kêu lên trong những trang nhật ký của mình: "Đừng giày vò tôi nữa, hỡi người/ Người không bị lãng quên, người không xứng với dòng thơ tôi viết/ Người không khiến ai phải than tiếc,/ không bị giặc giết/ Không rơi vào vòng tay của bất hạnh khốn cùng..."
    Có cảm giác rằng, những tủi khổ trong đoạn đời cũ chưa bao giờ làm bà kiệt quệ về tinh thần đến thế. Lẽ chăng là, mọi bất hạnh đều có thể chịu đựng được nếu trong tim lưu giữ được tình yêu? Chỉ đến bấy giờ, tình yêu hiện tại lụi tắt, bà mới rơi vào mép vực của cái chết - cái chết về tinh thần. May thay, Olga đã chạm được "bàn tay giải cứu" chìa ra với mình từ... những vần thơ. Bà đặc biệt xúc động khi đọc Marina Svetaeva, những vần thơ về sự chia ly:

    Mới hôm qua còn chìm trong mắt em đây
    Bây giờ đã nhìn sang phía khác
    Mới hôm qua còn ngồi bên em đợi tiếng chim gọi sáng
    Giờ sơn ca thành quạ cả rồi anh.
    ...
    Những con tàu đưa người yêu dấu đi rồi
    Con đường trắng mang người đi mất hút
    Và tiếng nức nở ngân vang khắp nơi trên trái đất:
    "Anh yêu, em đã làm gì anh?"
    ("Mới hôm qua", 1920)
    Những ngày này, trên môi Olga không ngừng ngân lên những bài thơ tình yêu của Martynovski, của Pasternak, của Marina Svetaeva... Dường như, đó là "liệu pháp tinh thần" của bà vậy, để thấy mình không đơn độc chịu đựng nỗi đau chia lìa. Và cuối cùng, đương nhiên, bà tìm quên trong... thuốc lá và rượu. Thực ra, bà bắt đầu uống từ lâu, ngay từ khi bắt đầu chung sống với Georgi Makogonenko và thói quen xấu này đã khiến miệng lưỡi thế gian xúc xiểm bà khá nhiều. Họ thêu dệt đủ điều. Thật đau lòng khi tưởng ra cảnh người phụ nữ phúc hậu dịu dàng này chìm trong cơn mộng của ma men. Nhưng, nhìn lại những gì bà trải qua, chúng ta hoàn toàn hiểu bà. Đôi khi, cơn mê lại đem tới cho tâm hồn những khoảng lặng cứu rỗi vô cùng cần thiết.

    Tuy vậy, Olga không chìm mãi trong "rượu, mê, quên". Bà còn làm việc, làm việc say mê, hết lòng, hết sức cho đến cuối đời. "Cây ngải đắng" của nền Thi ca Xô-viết trong mọi nỗi bất hạnh vẫn sống, vẫn nở hoa, vẫn tỏa mùi hương cay cực cùng đời:
    Đời đã chia cắt đôi ta đã khiến mình xa mãi
    Em vẫn tin anh sáng trí sáng lòng
    Nhưng chưa bao giờ chạm tay vào mảnh đất kiệt cùng
    Hẳn anh chưa từng biết mùi ngải đắng
    Tôi mải mê hít căng mùi hương sâu lắng
    Ngải đắng đây, đắng ngắt tình đời
    Nỗi đau của loài người giản đơn vô hạn
    Đã trở thành niềm cay cực của riêng tôi
    Từ những cửa đập bê tông vẫn thoảng đưa về mùi hoa ngải
    Mùi hương yêu bất tử bay đến tận nhà tôi
    Thử hỏi làm sao tôi có thể chẳng cất lời
    Trở về sau đắng cay nói lời yêu khác trước
    .
    ("Những lá thư viết trên đường", 1952-1960)
    (*) Những đoạn thơ dịch trong bài viết này là của Thụy Anh.
    Ghi chú:
    (1) Lev Aleksandrovich Anninski (1934-): nhà phê bình văn học và điện ảnh Nga, tác giả bài nghiên cứu "Olga Berggoltz: "Tôi... người vợ góa của thành Leningrad" (tạp chí "Neva" số 6, 2005).
    (2) Tuy nhiên, ở đây, tôi vẫn muốn nhắc đến một câu trong nguyên bản chỉ để thấu hiểu thêm số phận của một con người và, hơn thế, cả một mối tình. Dịch ý câu thơ ấy: "Bây giờ, anh có lý, ơi người đầu tiên, người đã xa mất dấu của em!" Ý thơ này nằm trong đoạn:
    Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọt ngào hơn
    Em mới hiểu, bây giờ anh có lý
    Dù chuyện xong rồi, Anh đã xa cách thế!
    "Em hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa theo..."
    ("Bài thơ cuộc đời", 1940 - Bằng Việt dịch)
    Xin nhấn mạnh: "Người đầu tiên, người đã xa mất dấu" (dịch sát nghĩa hơn là "mất tích") - Olga muốn ngầm nhắc ý "mất tích", không có tin tức gì về Kornilov thời gian từ sau ngày ông bị bắt.
    (3) Sergei Kirov (1886-1934), lãnh tụ Xô-viết, giữ chức bí thư Thành ủy Leningrad từ năm 1926. Cái chết của ông vào đầu tháng 12-1934 có nhiều uẩn khúc. Nhiều sử gia cho rằng, trong việc này có sự can thiệp dàn xếp của Stalin.
    (4) Ngày 5-1-1957, Boris Kornilov được phục hồi danh dự sau Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô.
    (5) Lấy từ tích truyện "Shi" (món xúp bắp cải chua) của văn hào Nga Ivan Turgenev (1818-1883), viết năm 1878. Đó là câu chuyện kể về nỗi đau của người mẹ trong ngày chôn cất đứa con trai độc nhất của mình. Khi đó, người nhà giàu ngạc nhiên thấy bà ngồi ăn món shi, và nói rằng: "Món shi hơi mặn" mà không hiểu rằng nó mặn vì đẫm nước mắt của người mẹ, không phải do muối.
    (6) Ý trong bài thơ "Chẳng có gì trở lại..." (1947).
    (7) Xuất bản năm 1965, tuyển các thi phẩm của Olga sáng tác trong giai đoạn 1937-1964

  10. taicuc

    taicuc Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/11/2002
    Bài viết:
    480
    Đã được thích:
    3
    Hôm nọ lang thang trên mạng tìm được bài viết này đăng trên blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, chợt nhận thấy rằng mình biết quá ít, thuộc quá ít về nhà thơ nữ này của nước Nga thân yêu. Mà hình như cũng không chỉ riêng tôi có rất ít người trong box Thica này thuộc được nhiều thơ của bà.
    Những câu thơ được nhiều người biết nhất là " Bài thơ cuộc đời" và " Mùa lá rụng" hình như được viết khi bà đang trải qua mối tình đầu, những tháng ngày hạnh phúc ngắn ngủi như trong bài viết của Phong Điệp trên đây.
    Đọc xong toàn bộ bài viết này không hiểu sao tôi lại nhớ đến hình ảnh của một nhà thơ nữ mà tôi cực kỳ yêu mến và mối tình bi thảm của cô: Nhà thơ Xuân Quỳnh và nhà thơ Lưu Quang Vũ
    @ Redtulips : Bản dịch được trích dẫn là bản dịch chính xác của nhà thơ Bằng Việt. Tuy nhiên, dù có dịch thành công đến mấy thì dịch cũng chỉ là dịch nghĩa chứ dịch thơ thì khó lắm. Văn học Nga có những thể thơ riêng và muốn cảm nhận được chính xác nó phải đọc bằng ngôn ngữ của nó, văn hoá của nó và cảm nhận tâm hồn của người Nga nữa! Điều ấy thì quá khó với những người như chúng mình. Thôi thì cứ tạm bằng lòng với những bản dịch ( một chút là những "câu thơ trong trí nhớ" của mình vậy!)
    @ Deny_me: Anh cũng đọc bài cảm nhận này của em ( anh dùng từ cảm nhận mà không dùng từ bình bởi không cẩn thận bạn Tân Tâm Thức lại gọi là bình biện thì nguy!) trong một topic khác về Olga Berggoltz lâu lắm rồi. Hôm post bài này cũng có đọc lại, rất mừng vì em đã đăng lại trong topic này!

Chia sẻ trang này