1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhà Triệu là một triều đại chính thống của Việt Nam ?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Quake3Arena, 27/04/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. rosered

    rosered Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2003
    Bài viết:
    1.320
    Đã được thích:
    1
    Loãng quá rồi!!! Đang bàn về Triệu Đà cơ mà các bác. Xin mời mở topic về Hai Bà Trưng mà bàn. Hay là các bác dị khẩu đồng thanh công nhận Triệu Đà và nhà Triệu là một triều đại của Việt Nam. Nếu như vậy thì tiểu sinh cho rằng chúng ta đã đạt được chân lý. Topic khoá tại đây là đẹp!!!!!!!!
  2. ukbox

    ukbox Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/12/2003
    Bài viết:
    98
    Đã được thích:
    0
    hôm nay tớ rỗi hơi dạo 1 vòng, qua đây thấy vui vui chỉ định đọc chơi nhưng đọc xong thì bức xúc không thể không giơ tay phát biểu được.
    Thứ nhất các bạn công nhận nhà triệu cho hỏi 1 câu: nước pháp có phải là 1 triều đại của việt nam không?(nghe buồn cười nhỉ?)
    Thứ 2 Triệu Đà có "thực sự" coi dân việt là dân của ông ta hay không hay chỉ coi là nơi cung đốn quân lương phục vụ cho mục đích cát cứ. Giả sử trong cuộc chiến với nhà hán mà Triệu Đà thắng thì Trung Hoa có đổi tên thành nam việt - việt nam không, văn hoá có đổi không, dân trung nguyên có xăm mình, nhuộm răng không?
    Lan man một chút sang sử nước khác để so sánh. Gần thì có TQ có triều nguyên, thanh là người ngoại bang nhưng họ đã đồng hoá với dân bản xứ và trở thành 1 thành phần dân tộc. Xa hơn thì vùng lưỡng hà, babylon có rất nhiều tộc người thay nhau cai trị nhưng cũng cùng chung đặc điểm trên là họ đều trở thành 1 thành phần trong quốc gia ấy.
    nhưng với Triều tiên thì khác họ bị nhật cai trị nhưng không lẽ nhật hoàng là 1 ông vua của họ sao. Hay Bạch nga chẳng hạn, lịch sử của họ cũng lắm khổ đau khi liên tục bị cai trị bởi ngoại bang như LITVA, BALAN, NGA ... nhưng họ vẫn ngẩng cao đầu tự hào với truyền thống của dân tộc mình.
    Không có lí gì ông cha ta đã đấu tranh nhiều đời để không bị đồng hoá với phương bắc mà nay ta lại dễ dàng thế sao?
    Thứ ba, mình không phải chuyên gia về lịch sử, địa lý lịch sử nhưng cũng mạo muội góp ý với các bạn thế này: không nên nhìn vào bản đồ ngày nay mà áp đặt vào bản đồ thời xưa được. Ví dụ như Hợp phố chính là Quảng Châu, nhưng có bạn hỏi là làm sao quân của HBT có thể cơ động đến vậy. Bạn nên hỏi lại là quân hán có thể đến đó bằng cách nào bởi thời đó không có máy bay, không có đường sắt và đường bộ thì cực kì hiểm trở, lam sơn chướng khí, thuỷ thổ không hợp cũng như lương thực khó khăn sẽ cản trở rất nhiều ( có thể mường tượng cảnh này qua tác phẩm TAM QUỐC, đoạn Khổng minh bắt Mạnh Hoạch). Trong khi đó HBT với các bộ tộc ở đó có quan hệ rất mật thiết gắn bó, chỉ cần hô 1 tiếng là có người hưởng ứng ngay.
    Các truyền thuyết về HBT ở vùng Lưỡng Quảng thì tôi có nghe nói nhưng quả thật chưa được nghe. Theo tôi được biết thì chủ yếu hiện còn ở khu tự trị Choang quảng tây, một số nơi có đền thờ các vị tướng của Hai Bà cũng như truyền thuyết về họ.
    PS: Tôi quê ở Thái Bình nhưng vẫn biết thân biết phận là cụ tổ nhà tôi chỉ là dân Tây Sơn chạy loạn đến khai khẩn thôi chứ không được tự hào TB có lịch sử 2K như các bạn nói đâu, thời HBT thì quê tớ chỉ có nhà của cá tôm với long vương thôi (biết đâu lại là phủ của Lạc long quân cũng nên hì hì).
  3. Quake3Arena

    Quake3Arena Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/01/2004
    Bài viết:
    926
    Đã được thích:
    0
    Tại sao mà nước ta ngày nay vẫn dùng tên là Việt Nam. Có bao nhiêu tên khác sao mà không dùng, lại lấy tên đó, trong khi chỉ cần đảo ngược chữ lại lại là tên của đất nước thời nhà Triệu là Nam Việt. Những nhà chính trị người ta cũng có ý đồ cả đó.
    Ngay như truyền thuyết cổ của VN cũng đã nói đất Văn Lang tiến sát Động Đình Hồ. Ngay như thời gian trước đây dân ta cũng nghe đồn rằng Chu Ân Lai có thâm ý định trả cho ta 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây đó.
    Một số thành phố của VN vẫn có đường phố tên là Lĩnh Nam, Nếu tôi không nhầm thì đó là một địa danh ở bên Tàu.
  4. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Hợp phố là ở Bắc Ninh, giả thuyết là như thế. Vì các bác cũng thấy, hiện tượng trùng tên ở Trung Quốc và Việt Nam là rất nhiều. Ví dụ như Thái Nguyên, Sơn Tây, thậm chí là Bình Dương, Hải Phòng, Hà Nội đều có cả ở Trung Quốc và Việt Nam. Đường từ đồng bằng bắc bộ đến Quảng Đông hay ngược lại cực kì khó đi. Vậy nên không phải ngẫu nhiên mà khi giặc phương Bắc xâm lược nước ta trước đây, thường thì đại quân hay đi theo đường thuỷ. Trang bị, sức cơ động cũng như tính chuyên nghiệp giặc phương bắc hơn hẳn nghĩa quân HBT, việc họ đủ sức tiến vào đồng bằng bắc bộ bằng đường bộ trong khi nghĩa quân HBT khó làm được điều ngược lại theo em là hoàn toàn có lý.
    Về Việt Nam và Nam Việt. Em nghĩ có chuyện này đáng chú Việt Tây chính là Quảng Tây và Việt Đông chính là Quảng Đông. Nước ta, theo một cuốn mà em đọc, ban đầu cũng định lấy tên là Nam Việt nhưng nhà Thanh không đồng ý vì sợ Nam Việt có ý bao gồm cả Việt Tây và Việt Đông, nên ta lấy tên là Việt Nam.
  5. Quake3Arena

    Quake3Arena Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/01/2004
    Bài viết:
    926
    Đã được thích:
    0
    BẢO TÀNG LĂNG MỘ TRIỆU VĂN VƯƠNG TẠI QUẢNG CHÂU
    Tác giả: Trương Thái Du
    Đa số bản đồ du lịch phổ thông của thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông Trung Hoa đều có giới thiệu về Bảo tàng lăng mộ kiểu Tây Hán của Nam Việt Triệu Văn Vương. Đây là một địa chỉ văn hóa cực kỳ phong phú và giá trị trong vùng Hoa Nam. Bảo tàng nằm tại số 867 đường Giải phóng bắc, hơi chếch về bên trái cổng chính công viên Việt Tú nổi tiếng.
    Năm 1983, khi san một quả đồi nhỏ để xây dựng các công trình dân sinh, tình cờ một ngôi mộ đá rất xưa, không hề có dấu tích bị xâm phạm, được phát lộ. Ngành khảo cổ học vào cuộc và thật bất ngờ, những di vật tìm được cho thấy đây là nơi yên nghỉ hơn hai ngàn một trăm năm qua của Nam Việt Vương Triệu Hồ. Triệu Hồ có thể là con Trọng Thủy [1], cháu nội Triệu Đà (? ?" 137 trước CN), ông ở ngôi được 16 năm (từ 137 đến 122 TCN) [2].
    Mộ Văn Vương nằm lẹm vào triền đồi, gồm nhiều tảng đá xếp chồng lên nhau tạo thành không gian an táng bên trong. Cửa mộ là hai phiến đá được mài đẽo khá vuông vắn. Đà cửa cũng bằng đá, đã gẫy nhưng chưa sập hẳn, có lẽ do không chịu nổi sức nặng của khối đất đỏ bazan bên trên sau nhiều lần thấm đẫm nước mưa suốt hơn hai thiên niên kỷ. Tổng diện tích sàn mộ trên dưới 25 thước vuông, chia làm 6 khu gồm sảnh chính, gian quàn thi thể và 4 phòng chứa đồ tùy táng.
    Xác Văn Vương nằm trong quan tài gỗ 2 lớp, được tẩm liệm kín bằng những mảnh ngọc mỏng hình chữ nhật, liên kết với nhau bởi chỉ tơ. Tuy nhiên mọi chất liệu hữu cơ đã bị phân hủy hoàn toàn. Ngay đến bộ xương người nay chỉ hiện hữu vẻn vẹn hai mảnh hàm còn nguyên bộ răng khá hoàn chỉnh.
    Năm 1988, một viện bảo tàng đồ sộ được khánh thành trên chính ngọn đồi này. Người ta giữ nguyên hiện trạng hầm mộ, làm vòm che, đường dẫn để khách có thể bước xuống tham quan. Hơn một ngàn hiện vật còn khá nguyên vẹn lấy ra từ mộ được bảo quản và trưng bày trong các gian bảo tàng xây dựng phía sau. Nó phản ánh một cách trung thực, khách quan và rất đầy đủ chi tiết về chính trị, kinh tế và văn hóa của một triều đại nổi bật ở Hoa Nam, vốn không được tín sử Trung Hoa mô tả kỹ lưỡng cũng như xem trọng đúng mức.
    Các di vật chính hiện trưng bày: Khá nhiều thao ấn [3] bằng vàng và ngọc khắc chữ triện như Long kim ấn ?oVăn đế hành tỉ?, Quy kim ấn ?oThái tử?, Ngọc ấn ?oTriệu muội? (Muội có khả năng là tên khác của Triệu Hồ hoặc một danh xưng khiêm tốn của Nam Việt Vương với triều đình Tây Hán); các loại đồ gốm, nồi đồng, búa sắt, rìu sắt, dao, rựa, lò nướng thịt, lưới đánh cá, tiền đồng? Khánh đá, chuông đồng, tù và bằng ngọc bích? Mực tàu, nghiên mực? Thuốc bắc, sừng tê giác, ngọc trai? Bình nước, bình rượu, ly chén đĩa bằng đồng và ngọc, khuy áo vàng bạc đồng, gương đồng, tráp bạc, phù ngọc, chân bình phong đồng, tay nắm cửa đồng, đèn đồng, chân nến ngọc, vật trang sức bằng vàng bạc đồng ngọc bích ngọc trai; tượng mỹ thuật gốm, đá, đồng và ngọc, đỉnh trầm? Áo giáp sắt, giáo, mác, thương đao bằng kim khí, mũi tên đồng, kiếm sắt chuôi nạm ngọc? Tất cả đồ vật nói chung được chế tác ở một trình độ khá tinh xảo, thẩm mỹ cao, hoa văn đẹp nhưng nhỏ bé và giản dị [4].
    Xét về quy mô, mộ Nam Việt Văn Vương khá khiêm tốn so với nhiều ngôi mộ cùng thời khác từng phát lộ ở Trung Hoa. Nó cho thấy khu vực Bách Việt nói chung và Nam Việt nói riêng còn kém phát triển ở khía cạnh nào đó, trong bức tranh toàn cảnh từ thời Tây Hán trở về trước.
    Dù sao đi nữa, ở thì hiện tại di tích mộ Nam Việt Văn Vương chứa đựng những giá trị lịch sử vô giá cho các dân tộc Bách Việt xưa kia và người Việt Nam hiện đại. Giữa bối cảnh các vùng đất của Nam Việt cũ như Quảng Tây, Quảng Đông đã bị Hán hóa đến tận chân lông kẽ tóc, sự độc lập của Việt Nam ít nhiều sẽ giúp việc nghiên cứu quá khứ khách quan và công bằng hơn. Ví như tên đầy đủ của bảo tàng hiện nay là : Tây Hán Nam Việt Vương mộ bác vật quán; chữ ?oTây Hán? được khuyên hiểu là ?okỷ Tây Hán, thời Tây Hán, kiểu Tây Hán?. Song tác giả vẫn thấy chữ này như một chiếc cũi vô hình, trói buộc nhận thức, định dạng di tích mộ Nam Việt Văn Vương trong vòng cương tỏa của nền văn hóa Hán tộc, mặc dù ý chí độc lập và tự cường gần 100 năm của các triều đại Nam Việt Vương là không thể phản bác. Bằng chứng là từ thời Triệu Đà, Nam Việt đã chịu xưng vương trước nhà Hán nhưng Triệu Hồ vẫn sử dụng ấn ?oNam Đế hành tỉ?, chữ Đế xem như một biểu tượng bất khuất.
    Tuy còn những bất đồng thuận trong việc nhận định vai trò 5 đời vua Nam Việt giữa dòng lịch sử Việt Nam, song sử gia Việt Nam vẫn nên có những nghiên cứu nghiêm túc, đầy đủ về ngôi mộ này. Chẳng hạn có gì khác nhau giữa bó tên có mũi bằng đồng còn như mới trong viện bảo tàng đã nêu và loại nỏ và tên do Cao Lỗ, tướng của An Dương Vương chế tạo ra? Nếu truyền thuyết An Dương Vương là có thực, hiển nhiên nhiều di vật trong mộ Triệu Hồ sẽ là vật chứng so sánh có một không hai với những khám phá khảo cổ Việt Nam về An Dương Vương và Loa thành trong tương lai.
    Quảng Châu nay chính là Phiên Ngung xưa, kinh đô Nam Việt. Nhìn những cao ốc tân kỳ thi nhau vươn lên trời cao, núi đồi bị bạt dần, lòng người không khỏi tiếc nuối. Ngung sơn, nơi có mộ Nam Việt Vương Triệu Đà chắc ở đâu đó trong lòng thành phố [5]. Mong những cọc móng các công trình xây dựng đồ sộ đừng phạm phải hài cốt Triệu Đà. Tuy nhiên chính những khối bê tông muôn hình muôn vẻ kia đang muốn vĩnh viễn che giấu tích xưa, người cũ. Thêm nhiều yếu tố tinh thần của con người và xã hội mới, vô hình chung hiện tại dường như đã đoạn tuyệt với quá khứ, bằng việc gia cố và chôn chặt những mộ phần cổ kính một cách chắc chắn hơn bao giờ hết.
    Chú thích:
    [1] Nói ?ocó thể? là vì: Các sách sử xưa nay ở VN đều cho rằng Trọng Thủy tự tử theo Mỵ Châu vào năm 208 trước CN, năm An Dương Vương bại trận trước Triệu Đà. Như thế ít nhất Triệu Hồ phải sinh ra cùng năm đó. Vậy đến năm 122, khi mất, Triệu Hồ đã 86 tuổi. Xem hàm răng còn nguyên vẹn trong mộ sẽ thấy bất thường. Đại Việt sử ký toàn thư (NXB KHXH ?" Hà Nội 1993), Ngoại kỷ, Quyển 2 (phần Văn Vương) ghi nhận Triệu Hồ mất năm 52 tuổi có vẻ hợp lý với di cốt nhưng mâu thuẫn với những niên biểu khác trong cùng kỷ ấy.
    [2] Các niên biểu ở đây đều lấy từ phụ chú của Viện Bảo Tàng Lăng mộ Nam Việt Vương tại Quảng Châu. Có vài khác biệt so với Việt sử.
    [3] Thao ấn là loại ấn nhỏ để đeo, có dây choàng vào cổ. Tiếng Hán hiện đại đùng từ ?oNữu ấn? để chỉ ?oThao ấn?.
    [5] Khâm định Việt sử thông giám cương mục (NXB GD Hà Nội 1998), Tiền biên, Quyển 1, ghi chú : Sách Thái bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử đời Tống, mô tả Ngung Sơn chỉ cách Huyện lỵ Nam Hải (tức Phiên Ngung) 1 dặm về phía bắc.
    [4] Theo tôi biết trên mạng có ít nhất hai bài đã viết về lăng mộ này. Một của Trương Quang tại http://perso.wanadoo.fr/charite/office1/013quangchau.html và một của Mai Thế Phú tại http://www.sgtt.com.vn/cacsobaotruoc/439_43/p12_13_tham***ichviet.htm
    Cả hai bài đều mắc những lỗi lớn giống nhau trong mô tả lăng mộ, và có khả năng bài thứ hai là bản ?oxào? từ bài thứ nhất. Tuy nhiên cũng nhờ thông tin từ hai bài này mà tôi đã tìm đến được Viện bảo tàng.
  6. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Hai Bà Trưng đánh Tàu chiếm 65 thành xứ Lĩnh Nam, tên này có lẽ là chỉ vùng đất phía nam núi Ngũ Lĩnh. "Nên" đọc Trần Đại Sĩ để biết! NXB Trẻ mới in sách của ông ta hẳn hoi!!!
  7. Quake3Arena

    Quake3Arena Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/01/2004
    Bài viết:
    926
    Đã được thích:
    0
    Thêm một chút tư liệu về HBT lấy từ ĐVSKTT ,
    kỷ Trưng Vương.
    [3a] Lê Văn Hưu nói: Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi ! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy.
    K ỷ T h u ộ c Đ ô n g H á n
    Người địa phương thương mến Trưng Nữ Vương, làm đền thờ phụng (đền ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc70 , ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có).
  8. tieu_ho_tien

    tieu_ho_tien Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/04/2004
    Bài viết:
    516
    Đã được thích:
    0
    Ngay cả việc lấy tên nước là Việt Nam cũng khó khăn.Nhà Thanh không đồng ý cho ta xưng quốc hiệu là Nam Việt là lẽ dĩ nhiên.Nhưng việc xưng quốc hiệu là Việt Nam cũng khó chịu bởi vì Việt Nam là đọc ngược của Nam Việt.Theo Việt sử toàn thư mà em được đọc thì đến thời Minh Mạng quốc hiệu ta phải đổi là Đại Nam chứ không được xưng là việt nam nữa (và có ghi chú là do áp lực của Trung Quốc)
    Quốc hiệu việt nam không không được nhắc đến trong một thời gian dài .Việt Nam quốc dân đảng là chính đảng đầu tiên sử dụng lại 2 tiếng Việt Nam .Mãi đến năm 45 2 tiếng Việt Nam mới được sử dụng lại
    Nói thế để thấy rằng riêng việc nước mình tên là Việt Nam cũng rất khó khăn (do Trung Quốc luôn gây áp lực) chứ không phải dễ dàng là không xưng là Nam Việt thì xưng Việt Nam
    Về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thì trong các sách sử đều nói về sự nổi dậy thành công ở Giao chỉ ,Cửu chân ,nhật Nam và hợp phố.Em vẫn nghỉ Hợp Phố ở đây là ở Quảng Châu chứ không phải ở Bắc Ninh.Nhưng có lẽ không phải do Hai Bà trưng đánh được đến hợp phố mà do khởi nghĩa thành công ở Giao chỉ ,cửu chân nên khiến hợp phố ,nhật nam nổi dậy hưỏng ửng(trong việt sử toàn thư đã ghi chú rõ)
    Còn hai bà trưng chắc cũng chỉ đánh được loanh quanh ở Giao chỉ thôi chứ chưa đến được tận hợp phố vì nếu thế khi chọn kinh đô nên chọn ở phiên ngung hay ở nơi nào khác chứ khong phải ở Mê linh (không tốt cho việc đóng đô)
    Do đó việc sử sách chép 2 bà chiếm được 65 thành trì có thể hiểu rằng 65 thành trì đó do toàn thể người việt nổi dậy và giành lấy được chứ không phải do 2 bà chiếm được cả.Hợp phố ở đây nếu hiểu là Quảng Đông thì hợp lý hơn
    Nhân tiện nói luôn hiện tưọng trùng tên ở Trung Quốc và Việt nam rất nhiều tuy nhiên khi không có ghi chú gì thêm thì người ta thường hiểu là một nơi dễ có khả năng nhất.Ví dụ khi nói đến Nam Duơng ta thường nghĩ đến Indonexia chứ khong phải là địa danh ở Trung Quốc.Tất nhiên đôi lúc người ta cố tình nói lập lờ để đánh lừa nhưng cho dù thế thì ta vẫn đặt khả năng đó là lớn nhất(không chắc chắc)còn các khả năng khác thì chỉ là hàng thứ yếu mà thôi
  9. tieu_ho_tien

    tieu_ho_tien Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/04/2004
    Bài viết:
    516
    Đã được thích:
    0
    Bác nào có nhiều tư liệu lịch sử cho hỏi tí:Triệu Quang phục có quan hệ gốc gác con cháu gì với Triệu Đà không nhỉ .Em thấy 2 chú này cùng họ Triệu,đều dính dáng đến nước ta (Triệu Đà là nam việt vương,triệu quang phục là triệu việt vương)
    ,lại đều rất tài giỏi .Không biết có liên hệ huyết thống không
    Em thấy trong các sách sử chỉ nói Triệu quang phục là con triệu túc chứ không nói rõ quê quán,nguồn gốc ra làm sao
  10. ctech

    ctech Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/05/2003
    Bài viết:
    381
    Đã được thích:
    0
    Trước hết phải nhấn mạnh điều này: Ý nghĩa thế nào là dân Việt nói chung và phân biệt với dân Hán thời đó? Hầu hết sử sách cả Việt Nam và Tàu đều thống nhất thừa nhận Bách Việt trước khi phần dân thuộc lãnh thổ TQ bây giờ bị đồng hoá hoàn toàn (từ thời Chu đến Hán) vẫn có thể coi là bao gồm cả Mân Việt, Ngô Việt ... (dân vùng Phúc Kiến, Quảng Châu, Quảng Đông, Quảng Tây) với nước Sở, Việt, Ngô... , lẫn Âu Việt (vùng thượng du lên đến tận Vân Nam) và Lạc Việt (vùng đồng bằng sông Hồng) với nước Âu Lạc. Chỗ này giải thích về nguồn gốc Bách Việt của người Âu Lạc 1 chút: Người Âu Việt (của Thục Phán) thì rõ ràng là có nguồn gốc từ trên phía bắc rồi. Ngay cả thuỷ tổ người Lạc Việt theo truyền thuyết (theo tôi theo truyền thuyết còn dễ tin hơn sử sách vì chúng ta không có chữ viết và trải qua nghìn năm Bắc thuộc, nhưng "trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ") là vùng động Đình hồ (kiểm tra bản đồ có thể đoán là gần trung lưu sông Trường Giang) nghĩa là hoàn toàn có cùng nguồn gốc với các dòng Bách Việt khác.
    Vì vậy thời Hai Bà Trưng việc giải phóng 65 thành trì đất Lĩnh Nam bao gồm cả Hợp Phố, Tượng Quận, Hải Nam ... là hoàn toàn hợp lý. Giả thuyết Hợp Phố là Bắc Ninh tôi nghĩ quá mơ hồ. Cái tên Hợp Phố được tất cả các sách sử công nhận giống nhau từ trước đến nay thì việc chỉ căn cứ trên khả năng cơ động của quân đội thời bấy giờ và khoảng cách xa không thể đưa ra kết luận này được. Mà việc Hai Bà Trưng có quyền làm chủ cả trên Hợp Phố, Nam Hải ... có thể giải thích rằng dân vùng đó nổi dậy hưởng ứng hợp lý hơn nhiều. Nên nhớ lúc này dân Bách Việt vẫn còn rất độc lập với dòng Hán tộc phương Bắc (thời Tần vừa chinh phục được mấy nước tộc Bách Việt ở phía nam khoảng 20-30 năm). Việc dân Bách Việt ở Hợp Phố, Nam Hải ... thời đó hưởng ứng Hai Bà Trưng quá dễ hiểu, và họ công nhân Hai Bà Trưng cũng giống như những Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ, Phùng Hưng được dân Việt khắp Giao Chỉ 1000 năm sau hưởng ứng và công nhận là thủ lĩnh của mình vậy.
    Bây giờ quay lại việc phân tích nên công nhận Triệu Đà và con cháu là 1 triều đại của VN không, theo tôi là cần phải công nhận, sẽ đúng và tốt theo rất nhiều yếu tố:
    1- Cái tên nước Nam Việt của nhà Triệu gắn liền với vùng đất của người Việt ở phía nam lẽ nào chúng ta lại không nhận. Dù phải hiểu rằng đây là mảnh đất của các tộc người Bách Việt nói chung.
    2- Công nhận như vậy sẽ đúng với tinh thần nguồn gốc của dân tộc Việt 1 cách mở rộng hơn. Vì có thể coi như người VN ngày nay là những con cháu còn sót lại của người Bách Việt xưa, những con cháu không chịu bị sự đồng hoá của Hán tộc, phải chạy về phương Nam. Chẳng hạn các vua Trần gốc là người Mân Việt ở ven biển Phúc Kiến, dù chỉ sang VN 4-5 đời nhưng vẫn là 1 trong những triều đại tự cường hàng đầu trong lịch sử của chúng ta, họ cũng rõ ràng là người Việt chứ. Các triều Hồ, Mạc cũng không phải là không có tinh thần tự cường dù ít dù nhiều: nhà Hồ cũng cố gắng kháng chiến và con cháu Mạc Đăng Dung cũng không đem Cao Bằng dâng cho Tàu.
    3- Mở ngoặc về chuyên môn lịch sử 1 chút, cách công nhận các triều địa VN và nguồn gốc dân Việt sẽ khiến cho lịch sử VN được giải thích rõ ràng mạch lạc hơn nhiều.
    4- Về mặt chính trị công nhận như vậy ít nhất cũng không bị bất lợi vì nhà Triệu với kháng chiến của tể tướng Lữ Gia cũng gắng sức chống lại sự xâm lược của phương Bắc không kém mấy các triều đại sau này của Đại Việt.
    5- Trong khi thừa nhận nhà Triệu và nguồn gốc ngưòi Việt theo cách này ít nhất sẽ giúp việc giáo dục lịch sử cho các thế hệ sau nhìn tấm gương ông cha như vậy mà luôn đề cao hiểm hoạ phương Bắc.
    Được ctech sửa chữa / chuyển vào 05:56 ngày 05/08/2004

Chia sẻ trang này