1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhân việc trả lời chất vấn của Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Hiện, nghĩ về ngành Tòa án hiện nay

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi nguyenbalocvn, 30/11/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fsai

    fsai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/04/2004
    Bài viết:
    928
    Đã được thích:
    0
    Bài bào chữa của cụ Bích cho bác Hiệu (tiếp theo)
    ----
    c. Cơ chế tự động giúp thẩm phán nâng cao khả năng
    Tự một mình mình, thẩm phán không thể nâng cao khả năng. Đó là sự thật giống như một học sinh không có bạn. Thẩm phán phải được hỗ trợ. Trong một vụ án hình, thẩm phán được trợ giúp bởi hai bên có lợi ích trái ngược nhau: kiểm sát viên và luật sư của bị cáo. Trong một vụ dân sự thẩm phán cũng được trợ giúp bởi hai bên có lợi ích khác nhau nhưng đều là luật sư. Chính khi nghe hai ý kiến khác nhau, thẩm phán xem xét và quyết định. Hệ thống tòa án chúng ta được khởi đầu bằng các vụ xử hình sự. Ở đó công lý được bảo đảm bằng một cơ cấu ?oước chế và kiểm soát lẫn nhau? do ba đơn vị thực hiện là công an, viện kiểm sát và tòa án. Ba đơn vị khác nhau thật, nhưng rất tiếc chúng cùng một gốc: tất cả đều là cơ quan nhà nước chưa nói đến chuyện họ cùng ở trong Ban Nội chính của một địa phương. Do đó oan sai đã xẩy ra. Phải có một đơn vị khác gốc thì mới thực sự có sự ?oước chế và kiểm soát lẫn nhau? hữu hiệu. Pháp lệnh luật sư ở ta chỉ mới có từ năm 1987. Nhưng họ được đối xử ra sao?
    Thứ nữa, các bản án của tòa không được công bố rộng rãi. Điều này làm cho sinh viên luật muốn học thực tế, muốn tạo khả năng suy luận cũng không có phương tiện. Vì không phổ biến rộng rãi bản án; nên thẩm phán có thể viết ?oý kiến luật sư không xác đáng? mà không sợ luật sư phản đối; họ cũng chẳng phải lo rằng lý lẽ của mình sẽ bị đem ra công luận để mà chau chuốt câu văn, lập luận rõ ràng. Họ thiếu cả áp lực lẫn sự kích thích để phải tuyên các bản án rõ ràng với lý luận sắc bén.
    Thiếu kích thích nằm ở chỗ nhiệm kỳ năm năm của họ. Một thẩm phán muốn tự mình nâng cao khả năng thì cần một thời gian dài. Thẩm phán có còn cố gắng chăng trước câu hỏi: ?oliệu có được bổ nhiệm kỳ sau không?? Chân thiện mỹ là một cái gì lâu dài và phải mất nhiều thời gian mới đạt đến. Năm năm một lần không phải là một thời gian dài. Nó dành cho các chức vụ chính trị để tránh sự lạm dụng quyền hành và khuyến khích thay đổi trong các biện pháp đề ra. Tính chất của luật pháp khác hẳn. Nó phải tạo ra sự ổn định và tiên đoán được; do dó nó cần bền vững và có biểu tượng của sự bền vững để hôm nay khi nhìn lại hôm qua mọi người biết về ngày mai. Thẩm phán là biểu hiện của sự bền vững đó. Nhiệm kỳ năm năm là không phù hợp cho cố gắng muốn nâng cao khả năng mình của thẩm phán cũng như cho biểu hiện về sự bền vững của tòa án. Có sự nhầm lẫn về bản chất giữa chính trị và tư pháp.

    3. Dân kêu oan mà Tòa án nhân dân tối cao không giải quyết
    Vấn đề này liên quan đến thủ tục tố tụng dân sự nhiều hơn là hình sự; bởi vì đa số các vụ hình sự đều trở thành chung quyết tại cấp phúc thẩm; chỉ có các vụ dân sự mới lên tới tòa tối cao.
    Nói đến việc tòa án nhân dân tối cao có giải quyết hay không việc kêu oan của dân chúng thì phải nhìn vấn đề trong một tổng thể. Thứ nhất là việc xét xử ở cấp sơ thẩm rồi phúc thẩm; vì nếu hai cấp này đã giải quyết công minh vụ việc thì không cần phải đưa cấp tối cao. Thứ hai là bằng chứng vì việc xét xử ở các phiên tòa thực sự là việc xem xét bằng chứng mà các bên nêu ra để dựa trên đó luật được áp dụng và bản án được tuyên.
    a. Việc xét xử ở các cấp tòa
    Trong một vụ án có hai vấn đề tòa phải xem xét để ra bản án. Lấy một vụ đi vay tiền để nói cho dễ hiểu. A nói với B cho vay 5 tỉ và hẹn sau một năm sẽ trả lại. Nếu A không trả nợ hết mà bị đưa ra tòa thì ở đây có hai vấn đề: (i) việc đưa tiền cho vay và trả nợ và (ii) sự cam kết sẽ trả lại. Vấn đề (i) là sự kiện, còn (ii) là pháp lý. Vấn đề (i) liên quan đến bằng chứng, là đi tìm sự thật; vấn đề (ii) liên quan đến khả năng lập luận của thẩm phán để áp dụng luật có liên quan. Để bảo đảm sự công minh một vụ án được xét lần đầu tại cấp sơ thẩm; nếu bên nào không thích bản án sơ thẩm thì có quyền đem nội vụ lên cấp phúc thẩm rồi sau đó cấp tối cao.
    Khi có hai vấn đề phải xem xét trong một vụ và ở các cấp tòa khác nhau thì luật tố tụng ấn định tòa các cấp sẽ xét xử cả hai vấn đề như nhau hay mỗi cấp chú trọng từng vấn đề khác nhau. Nghĩa là các tòa sẽ xét xử trùng nhau hay không. Do luật lệ về bằng chứng sẽ đề cập sau này tòa án ở chúng ta xem xét trùng lập ở cả ba cấp vì chúng ta coi trọng ?osự thật khách quan?. Do cả ba cấp làm trùng nhau nên hiện nay việc xét xử các vụ dân sự của ta không có điểm dừng. Hệ thống ba cấp giống như cái thang có ba bậc, các bên tranh chấp có thể leo lên đến bậc cao nhất rồi lại xuống bậc thấp nhất rồi lại đi lên tiếp! Có vụ kéo dài đến cả chục năm. Bởi thế, sự hữu hiệu của hệ thống tòa án ta kém; niềm tin của dân chúng vào tòa án thấp. Khi thấy tòa xử kéo dài một vụ xù nợ, một người hàng xóm sẽ rút ra kết luận rằng cứ đi vay rồi xù cũng chẳng sao; tức là khi không sợ quyền uy của tòa án thì người ta lại càng hay làm sai rồi lại càng đưa ra tòa xử. Thủ tục tố tụng như thế này khuyến khích sự sai trái và làm tòa án bị tràn ngập công việc; tòa càng bị càng trở nên kém hữu hiệu. Do vậy mới có đề nghị - về mặt thủ tục là - tòa án tối cao không nên xem xét bằng chứng mới; nghĩa là không xử các việc mà dân chúng kêu oan. Khi nghe đề nghị như thế thì thân chủ chúng tôi cũng đã xem xét thấu đáo thủ tục xét xử ở các nước khác. Ở đó luật tố tụng của họ cho tòa phúc thẩm không xem xét bằng chứng mới; còn cấp tối cao chỉ xét xử khi quyết định của tòa phúc thẩm không đúng với hiến pháp.
    Có vị đại biểu đã tuyên bố phải để cho dân kiện lên đến tòa tối cao hầu bảo đảm quyền khiếu nại của họ. Quyền ấy là cao nhất. Khi nói như thế vị đại biểu ấy đã cố thiết lập ?osự tuyệt đối? trên thế gian này! Buộc cả ba cấp tòa phải xử như nhau. Điều mà đã gây ra sự thiếu kính trọng đối với tòa án, biểu tượng của quyền uy của quốc gia hiện nay. Chúng ta hãy xem ở các hệ thống pháp luật khác người ta làm như thế nào và họ có bảo vệ ?oquyền cao nhất? của người dân hay không?
    Trong các hệ thống pháp luật khác - thông luật của Anh, Mỹ; dân luật của Pháp, Đức - luật tố tụng của họ quy định (qua văn bản hay tập tục) tòa sơ thẩm xem xét các vấn đề pháp lý lẫn sự kiện và tuyên án; nếu một trong hai bên kháng cáo thì tòa phúc thẩm chỉ xem các vấn đề pháp lý của bản án đã tuyên. Rất hiếm khi tòa phúc thẩm xem chứng cứ mới vì coi rằng tòa sơ thẩm đã làm đủ và đúng theo luật. Để làm việc ấy, luật tố tụng dân sự của họ được xây dựng trên hai nền tảng chính liên quan đến bằng chứng.
    b. Luật về bằng chứng
    Luật của ta chỉ liệt kê các loại chứng cứ mà không ấn định loại nào có giá trị hơn loại nào và để cho tòa thẩm định. Vì thế, luật mới sợ tòa dưới thẩm định sai và cho tòa trên được xem xét lại, không sợ trùng việc vì nguyên lý nền tảng là ?osự thật khách quan?.
    Ở Pháp hay Mỹ họ có luật về mức độ tin cậy của bằng chứng. Ở Pháp công chứng thư có giá trị cao hơn tư chứng thư (vì thế mới có công chứng viên). Ở Mỹ bằng chứng có giá trị phải là bằng chứng có liên quan (relevant), chứ không phải là của bất cứ ai (hearsay), hay của những ai được phép không phải tiết lộ (privileged). Để ý ta thấy luật của họ lấy bằng chứng (một sự kiện vật chất) làm nền tảng; còn chúng ta lấy sự thẩm định của thẩm phán làm gốc; (tức là lấy con người). Vì bằng chứng là nền tảng nên luật tố tụng của Mỹ cho phép hai bên ?ođào bới? bằng chứng. Nguyên đơn có thể xin tòa buộc bị đơn phải trưng ra bằng chứng dẫu bất lợi cho mình. Họ không cho giấu bằng chứng. Luật của Pháp cho xét xử bằng giấy tờ; nghĩa là thẩm phán dựa theo các bản lý đoán của hai bên mà quyết. Mỗi bên cứ nêu bằng chứng và lập luận lên tòa; qua luật sư, họ phải gửi bản sao cho bên kia xem. Bên kia sẽ trả lời, nêu bằng chứng khác để đánh đổ lập luận vừa nhận. Cứ việc ?olời qua tiếng lại? đến khi không còn gì nói nữa thì hai bên xin tòa nghị án. Thẩm phán không tác động gì trong quá trình này. Bên nào đưa bằng chứng thiếu thì ráng mà chịu.
    Như thế nghĩa là luật của cả hai hệ thống buộc các bên phải trưng ra hết mọi bằng chứng ở cấp sơ thẩm; các bên chủ động đẩy diễn tiến phiên tòa; thấy đủ hết rồi mới xin tòa xử. Vậy khi tòa đã xử thì không thể kêu ca nữa về bằng chứng, về ?osự thật? đã đưa ra. Kháng cáo lên tòa trên là chỉ phàn nàn về cách lập luận của chánh án; tức là xin xem xét các vấn đề pháp lý để tăng hay giảm hình phạt.
    Luật tố tụng của chúng ta để chánh án chủ động trong xét xử, lại không đặt ra mức độ tin tưởng của chứng cứ; chỉ nhấn mạnh ?osự thật khách quan? và để cho lòng người xác định; nên mới xẩy ra những gì chúng ta đã thấy. Lịch sử phát triển của nền tư pháp trên thế giới cho thấy chính người dân tranh chấp trước, họ đến xin tòa giải quyết cho họ. Ở thế đó, tòa để cho hai bên chủ động; giúp họ tìm bằng chứng, chứ không đi lấy hộ; ai có bằng chứng ?othật hơn? thì tòa dựa vào đó và sẽ lập luận. Nếu hai bên làm sai từ đầu (thí dụ hợp đồng vô hiệu) thì tòa bảo ?okhông cưỡng chế thi hành được? (unenforceable). Và hai bên về tự giải quyết lấy, ai làm bạo thì đã có luật hình. Như là một quy luật tâm lý, khi phải tự xử mình lúc làm sai, thì người ta sẽ tìm cách làm đúng ngay từ đầu.
    Luật pháp của chúng ta làm ngược lại, giao cho tòa án sứ mạng bảo vệ quyền lợi của công dân; buộc thẩm phán phải chủ động. Hễ cứ có việc gì xẩy ra, anh Việt kiều lừa tiền, lừa tình chẳng hạn, thì dư luận đặt ngay câu hỏi: cơ quan nào có trách nhiệm, ai quản lý! Ít ai bảo: ?oAnh, chính anh phải chịu trách nhiệm, anh phải tự quản lý anh.? Cá nhân nào cũng sợ ?olàm mất lòng người khác? nên bán cái cho xã hội. Xem như thế những vấn đề tiềm ẩn trong hệ thống luật pháp của chúng ta còn liên quan đến nhận thức.
    -----
    (còn tiếp)
  2. fsai

    fsai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/04/2004
    Bài viết:
    928
    Đã được thích:
    0
    Bài bào chữa của cụ Bích cho bác Hiệu :
    (Tiếp theo và hết )
    ---
    c. Uy lực của bản án đã xử
    Luật pháp phải có tác dụng là bảo cho công dân biết; (i) nếu anh làm như thế thì (ii) anh sẽ bị đối xử như vậy, như vậy?. Vế (i) giúp người dân ổn định, vế (ii) giúp họ tiên đoán được. Sự tiên đoán kia phải dựa trên thực tế tức là các quyết định tòa án đã ra; vì giữa cách đối xử mà luật định và biện pháp tòa án đưa ra có khác nhau (do có xét đến hoàn cảnh cụ thể). Để giúp cho luật pháp tiên đoán được, các hệ thống khác đặt ra nguyên tắc là đối với các vụ án có cùng một tính chất thì kết quả của vụ án trước ràng buộc vụ án sau. Cùng nguyên tắc nhưng kỹ thuật sử dụng của mỗi hệ thống khác nhau. Bên thông luật gọi một bản án chung thẩm là tiền lệ (precedence); dân luật gọi là án lệ (jurisprudence). Tòa sơ thẩm ở Anh, Mỹ khi xử bị bắt buộc phải tra cứu và áp dụng tiền lệ. Tòa sơ thẩm ở Pháp không bị buộc phải tuân theo án lệ, nhưng khi bản án bị kháng cáo thì tòa phúc thẩm sẽ dẫn án lệ. Vậy, tòa dưới ?ochẳng dại gì? mà không tuân theo án lệ.
    Cách sử dụng tiền lệ, tra cứu án lệ, tạo nên một sự hơi khác biệt trong cách thức áp luật vào sự kiện của các thẩm phán ở hai hệ thống kia; nhưng cả hai đều giống nhau trong phương pháp suy luận khi phân tích sự kiện. Đó là tài năng của thẩm phán. Và ở hai cấp tòa thì trình độ này khác nhau; cho nên vấn đề pháp lý được tòa phúc thẩm xem xét khi bản án bị kháng cáo và chỉ vấn đề này.
    Chính trên cái tổng thể này mà tòa phúc thẩm ở các hệ thống khác họ không xem xét chứng cứ mới; hoặc có thì rất ít. Chính nhờ vào (i) tín lực của bằng chứng và cách buộc đưa ra nó; (ii) quyền của tòa bác hay nhận; (iii) án lệ; và (iv) xét lại khả năng lập luận của thẩm phán ở tòa dưới (tức là vấn đề pháp lý của nội vụ) nên ở họ không có chuyện ?oán dân sự xử kiểu nào cũng được?. Tòa án có uy. Dân nghĩ đến tòa án là đã sợ; nên ngần ngại nuốt lời đối với gì mình đã cam kết.
    Các nước phát triển - mà luật pháp của họ được coi là một nguồn gốc của luật quốc tế - họ làm như thế. Nếu thân chủ chúng tôi có nêu vấn đề lên ở đâu đó thì có phải là một cái lỗi hay không? Chúng ta có nên tiếp tục thiết lập sự tuyệt đối trong hệ thống tòa án của chúng ta không, sau bao nhiêu hậu quả của nó đã thấy?
    Gần đây trong báo giới có bàn về câu hỏi tòa phúc thẩm có xem xét chứng cớ mới hay không; tức là một vấn đề cũng giống như chúng tôi đang biện hộ cho thân chủ ở đây. Có các câu trả lời khác nhau đã được đưa ra. Người bảo có và lý do là để ?otìm ra sự thật khách quan nhất?. Nguời bảo không thì nói rằng đó là để tránh sự ?okhông công bằng? và xóa ?oáp lực sổ đen? cho thẩm phán.
    Thưa qúy vị, vai trò của hệ thống xét xử không phải là để làm việc ấy. Vai trò của tòa án là bảo đảm niềm tin của công dân vào chế độ; là duy trì chế độ; là bảo đảm sự ổn định và tiên đoán được của luật pháp, hầu tạo sự an tâm cho công dân, khuyến khích họ làm đúng qua đó phát triển sự lương thiện trong xã hội. Đấy mới là nguyên lý của hoạt động xét xử.
    Khi thiết lập hệ thống tư pháp chúng ta hầu như không để ý đến nguyên lý này vì chúng ta khởi đầu từ tòa án nhân dân, xét xử những vụ hình sự; mãi sau này mới xét những vụ dân sự; nên ta đã đem những nguyên tắc xét xử của hình sự sang dân sự vốn khác tính chất. Mối quan tâm chính khi xử một vụ hình là chấm dứt tội phạm, răn đe người khác, và phạm nhân đi tù. Đó là những mục tiêu ngắn hạn và tác động của nó lan tỏa không rộng; vì không phải ai cũng muốn vi phạm hình sự. Trái lại tác động của một bản án dân sự lan tỏa rộng, do đó nó kéo dài. Bởi vì hành vi dân sự (vay nợ) hay việc dân sự (sinh con) chính là cuộc sống, và ai cũng phải sống. Vay tiền thì ai cũng có một hai lần làm trong cuộc đời mình. Một bản án dân sự bênh con nợ sẽ khuyến khích người dân xù nợ, và việc này rất dễ lan rộng vì nó có lợi nếu làm. Khi người đi vay xù nợ thì người có tiền sẽ không muốn cho vay, tiền của người sau biến thành vàng chôn dưới đất. Nền kinh tế thiếu tiền mặt thì làm sao phát triển?
    Ưu tư của thân chủ chúng tôi là vào những vấn đề này chứ không phải ?oquyền cao nhất? của dân chúng; khi nhìn sang các hệ thống khác mà người ta đã có cách giải quyết.
    4. Duyệt án ?" Vụ Đồ Sơn
    Hai vấn đề này là những thứ nằm tiềm tàng từ lâu trong hệ thống tòa án của ta. Vấn đề đầu thân chủ chúng tôi đã phát biểu tại diễn đàn Quốc hội. Về vấn đề sau thì nó không phải chỉ mới xuất hiện trong thời gian nhiệm chức của thân chủ chúng tôi. Nó là những gì thuộc về tính chất của ngôi nhà.
    Tòa án có thực sự độc lập không? Chúng ta phải xem, phải nhìn thẳng vào sự thật thì mới thấy hết vấn đề được. Nguyên tắc độc lập xét xử luôn được khẳng định; chỉ có điều ta có muốn làm hay không. Đồ Sơn là một bài học rất lớn mà báo chí đã nói thay ngành tòa án. Thân chủ chúng tôi ủng hộ việc lên tiếng của báo chí. Phải để cho cơ quan tư pháp độc lập. Quý vị có thể nói rằng pháp luật qui định độc lập thế rồi, sao tòa án không độc lập? Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Khi một anh sống ở địa phương, quyền lợi gắn bó ở đó, bổ nhiệm, nhận xét, khen thưởng đều gắn với cấp ủy, chính quyền địa phương thì anh lựa chọn thế nào? Thưa quý vị phải nhìn thẳng vào sự thật chứ ạ!
    Để kết thúc bài biện minh này, thì trách nhiêm thực sự mà thân chủ chúng tôi chịu, theo thiển ý, chỉ là nhận thức ra được tình hình của căn nhà đến đâu và đã sửa chữa nó được đến mức nào chứ không phải về những vấn đề nền tảng mà quý vị đã nêu vốn do tính chất bẩm sinh của căn nhà gây ra. Thân chủ chúng tôi nếu có sai sót chỉ là ở cách thức trình bày chứ không phải ở nội dung. Nhưng sau khi biết những gian truân của thân chủ chúng tôi khi ở trong căn nhà dột, hẳn quý vị cũng cảm thông với thân chủ chúng tôi và sẽ sẵn sàng giúp đỡ thân chủ chúng tôi trong cố gắng tân trang căn nhà. Đó là việc làm cần thiết của tất cả chúng ta cho tổ quốc thân yêu này: nhận ra vấn đề, cùng chung sức làm, thay vì quy trách.
    Nguyễn Ngọc Bích
  3. fsai

    fsai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/04/2004
    Bài viết:
    928
    Đã được thích:
    0
    Với một lòng cầu thị sâu sắc, bác nào mới bẩu tớ sai ở trang 1 vui lòng chỉ ra điều luật quy định về việc ra nghị quyết của Quốc hội khi thực hiện việc chất vấn.
    Thân mến ...
  4. nguyenbalocvn

    nguyenbalocvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/07/2006
    Bài viết:
    1.401
    Đã được thích:
    0
    Hì hì, với một lòng tôn trọng bác cũng không kém, mong bác cho iem thêm tí thời gian để tìm chính xác tài liệu chứng minh.
    iem xin 2 ngày! (công việc cơ quan dạo này cũng hơi bận rộn nên mới xin thêm thời gian, mong bác thông cảm)
  5. nguyenbalocvn

    nguyenbalocvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/07/2006
    Bài viết:
    1.401
    Đã được thích:
    0
    *************

    Số: 14/2003/L-CTN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    ----- o0o -----
    Ngày 26 Tháng 06 năm 2003

    --------------------------------------------------------------------------------


    LỆNH CỦA *************
    Về việc công bố Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội.

    ************* CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Căn cứ vào Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 10;
    Căn cứ vào Điều 91 cửa Luật ''Tổ chức Quốc hội;
    Căn cứ vào Điều 50 của Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật,

    NAY CÔNG Bố:
    Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội Đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XI, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2003.


    *************
    CHỦ TỊCH
    (Đã ký)





    Trần Đức Lương

  6. nguyenbalocvn

    nguyenbalocvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/07/2006
    Bài viết:
    1.401
    Đã được thích:
    0
    Theo luật hoạt động giám sát thì việc trả lời chất vấn là một hoạt động giám sát, và Quốc hội có quyền ra nghị quyết về chất vấn
  7. nguyenbalocvn

    nguyenbalocvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/07/2006
    Bài viết:
    1.401
    Đã được thích:
    0
    Chương I
    NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
    Điều 1. Chức năng giám sát của Quốc hội Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
    Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
    Điều 2. Giải thích từ ngữ
    Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
    1. Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
    2. Chất vấn là một hoạt động giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu những vấn đề thuộc trách nhiệm của *************, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm nát nhân dân tối cao và yêu cầu những người này trả lời.
  8. nguyenbalocvn

    nguyenbalocvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/07/2006
    Bài viết:
    1.401
    Đã được thích:
    0
    Điều 7. Các hoạt động giám sát của Quốc hội Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau dây:
    1. Xem xét báo cáo công tác của *************, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
    2. Xem xét báo cáo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
    3. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của *************, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
    4. Xem xét việc trả lời chất vấn của *************, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
    5. Thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban.
  9. nguyenbalocvn

    nguyenbalocvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/07/2006
    Bài viết:
    1.401
    Đã được thích:
    0
    Điều 11. Chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp
    Tại kỳ họp Quốc hội, việc chất vấn và trả lời chất vân được thực hiện như sau:
    1. Đại biểu Quốc hội ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu ghi chất vấn và gửi đến Chủ tịch Quốc hội để chuyển đến người bị chất vấn. Đoàn thư ký kỳ họp giúp Chủ tịch quốc hội tổng hợp các chất vấn của đại biểu Quốc hội để báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
    2. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự kiến danh sách những người có trách nhiệm trả lời chất vấn tại kỳ họp và báo cáo Quốc hội quyết định;
    3. Việc trả lời chất vấn tại phiên họp toàn thể của Quốc hội được tiến hành theo trình tự sau đây:
    a) Người bị chất vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ nội dung các vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục;
    b) Đại biểu Quốc hội có thể nêu câu hỏi liên quan đến nội dung đã chất vấn để người bị chất vấn trả lời. Thời gian trả lời chất vấn, thời gian nêu câu hỏi và trả lời thêm được thực hiện theo quy định tại Điều 43 của Nội quy kỳ họp Quốc hội.
    4. Sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của Quốc hội hoặc kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với người bị chất vấn. Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết;
    5. Người đã trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, tại phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội bằng văn bản có trách nhiệm báo cáo với các đại biểu Quốc hội bằng văn bản về việc thực hiện những vấn đề đã hứa khi trả lời chất vấn tại kỳ họp tiếp theo.

    Được nguyenbalocvn sửa chữa / chuyển vào 01:06 ngày 10/01/2007
  10. LVHa74

    LVHa74 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    09/11/2002
    Bài viết:
    479
    Đã được thích:
    0
    Kính cụ tiền bối!. Chắc viết bài này cụ vẫn còn day dứt vì bị hồn ma Phước Tamexco ám ảnh đây. Bao nhiêu năm rồi mà vẫn còn nhẹ dạ quá!

Chia sẻ trang này