1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhận xét về chữ Quốc ngữ

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi A6188, 02/02/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Nhận xét về chữ Quốc ngữ

    Cao Xuân Hạo

    1.

    Trên bình diện ngôn ngữ học lý thuyết, chữ quốc ngữ không phải là một cách viết thích hợp với tiếng Việt. Nó sử dụng tự mẫu La Tinh, một hệ thống văn tự phản ánh cấu trúc âm vị học của các ngôn ngữ biến hình kiểu châu Âu, trong đó đơn vị cơ bản là "tiểu âm vị" (microphoneme), một đơn vị được thể hiện bằng một "âm tố" ("speech sound"), trong khi đơn vị cơ bản của hệ thống âm vị học tiếng Việt là "tiếng", hay "hình tiết" (morphosyllabème) hay "trường âm vị" (macrophoneme)- vốn đồng thời là đơn vị ngữ nghĩa và ngữ pháp. Trong cuốn Âm vị học và tuyến tính (Phonologie et linéarité: Réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaime, SELAF, Paris, 1985), tôi có chứng minh rằng lý thuyết âm vị học hiện hành chỉ có giá trị đối với các ngôn ngữ "tiểu âm vị" (micro-phonematic) như các thứ tiếng châu Âu chứ không thể dùng cho những thứ tiếng "đại âm vị" (macrophonematic) như tiếng Nhật, tiếng Malagasi, và nhất là các thứ tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng Thái, tiếng Việt, trong đó cái đơn vị âm vị học tương đương về cương vị cấu trúc với âm vị Âu châu là âm tiết (tiếng) chứ không phải là âm tố. Một thứ chữ như chữ quốc ngữ, chữ "Pin yin" hay chữ "Romaji" che giấu và xuyên tạc cái cấu trúc âm vị học đích thực của các thứ tiếng sử dụng nó, và làm cho người nghiên cứu lạc hướng hoàn toàn.



    2.

    Ðó là xét trên bình diện lý thuyết ngôn ngữ học cấu trúc. Còn trên bình diện thực tiễn, dùng chữ quốc ngữ cho tiếng Việt cũng không có hại bao nhiêu, vì thứ văn tự này cho phép phân biệt đầy đủ các âm thanh cần phân biệt của tiếng Việt [1]. Và mặc dầu việc vay mượn kiểu chữ này của phương Tây, theo ý tôi, là một công việc có phần đáng tiếc, nó vẫn có một thuận lợi khá quan trọng ở chỗ nó đưa nước ta vào cái khối cộng đồng lớn của những nước dùng chữ La Tinh trên sách báo, giấy tờ và biển hiệu. Nhờ đó, một khi "tiếng" đã được tháo rời ra thành âm, các văn bản tiếng Việt có thể sao đúng chính tả của bất cứ từ ngữ nào (đặc biệt là các tên họ) được viết bằng chữ La Tinh hoặc đã được chuyển tự sang hệ chữ La Tinh. Ðiều này làm cho việc phiên âm các tên họ của người nước ngoài trở nên hoàn toàn vô ích và thậm chí rất có hại, nhất là khi ta biết rằng theo thống kê sơ bộ hơn 90% các tên họ nước ngoài (kể cả người Pháp và người Anh) bị phiên âm sai chỉ vì người viết không biết đọc các tên họ ấy (chứ không phải vì quy tắc chính tả tiếng Việt không cho phép phiên âm đúng). Vả lại làm sao có thể biết đọc cho đúng tên họ của dăm trăm thứ tiếng trong nhân loại ? Trong tình hình văn hóa của thế giới ngày nay, việc truyền thông, trao đổi được thực hiện chủ yếu là qua văn bản, cho nên chính tả quan trọng hơn phát âm rất nhiều. Cái thói phiên âm sinh ra do một định kiến hoàn toàn vô căn cứ (chưa bao giờ được kiểm nghiệm), cho rằng quần chúng ít học và học sinh không thể viết đúng và đọc đúng những từ như volt, watt, ampère hay những tên như Marx, Engels. Thật ra nhiều người trong số chúng tôi đã làm thí nghiệm trên hàng trăm học sinh cấp một sau khi đã thí nghiệm trên con cái chúng tôi với những kết quả hết sức rõ ràng: chỉ cần chép lại một lần và ôn lại từ ba đến năm lần bằng cách "ám tả" theo trí nhớ là các cháu đủ thuộc vài chục tên riêng cho đến bốn năm năm sau, cùng với vài ba trăm tên khác được học thêm trong những năm kế theo [2].



    3.

    Kể từ những năm 20 của thế kỷ cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành công, đã có nhiều người Pháp đề nghị cải tiến chữ quốc ngữ mà họ cho là bất hợp lý. Rồi đến khi miền Bắc được giải phóng, suốt ba năm trời đã diễn ra không biết bao nhiêu cuộc họp, đã in không biết bao nhiêu bài vở và kỷ yếu bàn về cách cải tiến chữ quốc ngữ, rồi cuối cùng người ta mới nhận ra rằng đó là một công việc không những hoàn toàn vô ích mà còn hết sức có hại, lặp lại một cách vô duyên một giai đoạn đã qua của lịch sử chính tả ở châu Âu mà ngày nay người Anh và người Pháp mỗi khi nhớ lại không khỏi cảm thấy bẽ bàng. Số là năm 1897, sau khi Hội Ngữ âm học quốc tế (IPA) ra đời và công bố hệ tự mẫu gọi là Alphabet Phonétique International, một số hội viên và hàng trăm người khác khởi động một phong trào rầm rộ cực lực lên án chính tả Anh và Pháp mà họ cho là hết sức phi lý, cần phải bỏ ngay vì đó là "một nghĩa địa của những hình thái cổ lỗ đã lỗi thời từ lâu" để thay nó bằng một thứ chữ viết phản ánh cách phát âm một cách trung thành và nhất quán, theo nguyên tắc "mỗi chữ ghi một âm và mỗi âm ghi bằng một chữ".

    May thay, với sự đóng góp của những người am hiểu ngôn ngữ hơn, người ta đã nhận ra rằng chữ viết có một chức năng khác với lời nói, chủ yếu là ở chỗ người đọc một văn bản rất khác với người tham gia đối thoại, và chữ viết được đọc bằng mắt chứ không phải nghe bằng tai, cho nên cách nhận diện từ ngữ trên một văn bản rất khác với cách nhận diện từ ngữ khi nghe một lời nói bằng miệng với sự hiệndiện của người phát ngôn ngay trong khi đối thoại. Khi một hệ chữ viết đã được dùng trong vài ba thế kỷ, nó trở thành một truyền thống văn hóa. Mỗi từ ngữ dần dần có một diện mạo riêng, một Gestalt mà người ta đã quen thuộc đến mức không thể thay đổi được nữa. Và cái Gestalt thị giác do cách viết tạo nên được liên hội với cái nghĩa của từ ngữ bất chấp cách phát âm ra sao, và nhờ đó mà người đọc phân biệt được các từ đồng âm mặc dầu không có sự giúp đỡ của tình huống đối thoại hay của sự hiện diện của người đối thoại mà người kia có thể hỏi lại ngay khi không hiểu vì không biết người phát ngôn muốn dùng từ nào trong số những từ đồng âm. Ðó là chưa nói rằng chính tả còn cho biết khá nhiều điều hữu ích về từ nguyên, và do đó, về nghĩa của những từ dùng căn tố Hy Lạp, La Tinh hay Sanskrit, về gốc gác của những tên riêng, và do đó, về quốc tịch hay tôn giáo của người đương sự. Cho nên từ khi có cái phong trào "bài xích và cải cách chính tả Anh Pháp" cho đến nay đã đúng một thế kỷ mà hai hệ thống chính tả này vẫn tồn tại y nguyên, và ngày nay họa chăng chỉ có những người không được bình thường may ra mới còn nghĩ đến chuyện cải cách chính tả Anh hay Pháp, mặc dầu so với chữ quốc ngữ, hai thứ chính tả này còn xa cách phát âm gấp bội.



    4.

    Chữ viết không phải là phiên âm, vì ngôn ngữ không phải chỉ là âm thanh: nó còn có nghĩa nữa. Cho nên một hệ thống chữ viết lý tưởng phải phản ánh, ít nhất là một phần, cái nghĩa của từ ngữ. Từ cổ đại, loài người đã có một hệ thống chữ viết gần đạt đến cái lý tưởng ấy: chữ Hán. Một bằng chứng sáng rực của tính ưu việt của chữ Hán là hiệu quả tuyệt vời của việc sử dụng nó cho một ngôn ngữ thuộc một loại hình hoàn toàn khác tiếng Hán: tiếng Nhật, một thứ tiếng đa âm tiết thuộc loại hình chắp dính (agglutinating). Khi dùng cho tiếng Nhật, nếu không kể một số rất ít những từ gốc Hán được người Nhật phát âm hao hao như tiếng Hán (các từ Hán-Nhật còn giữ dạng đơn âm hay chỉ biến thành song âm), chữ Hán chỉ biểu thị nghĩa, rồi thông qua nghĩa mà biểu thị âm (khi hiểu nghĩa rồi, người Nhật mới chọn giữa hai ba cách phát âm có thể bằng cách căn cứ vào văn cảnh). Dựa vào những thành quả ngoạn mục của việc dạy tiếng Anh bằng chữ Hán cho các học sinh Mỹ mắc chứng dislexia (không học được cách "đánh vần"), một số nhà ngữ học Mỹ đã thấy rõ tính ưu việt của một hệ thống văn tự phi ngữ âm và đã đi đến chỗ tin rằng đó chính là thứ chữ tương lai của nhân loại. Vả lại ai cũng biết rằng chính là nhờ chữ Hán mà người Trung Quốc, vốn nói nhiều ngôn ngữ khác nhau (về phương diện ngôn ngữ học, tiếng Bắc Kinh, tiếng Quảng Ðông, tiếng Triều Châu là những ngôn ngữ khác nhau chứ không phải là những phương ngữ, vì khoảng cách giữa các thứ tiếng ấy xa hơn khoảng cách giữa các ngôn ngữ Slavian như tiếng Nga với tiếng Nam Tư (Serbo-Croatian) hay tiếng Bulgari rất nhiều), có được một công cụ giao tiếp chung. Một nhà ngữ học Pháp gọi chữ Hán là "một thứ esperanto cho đôi mắt của các thần dân Trung Hoa". Thứ esperanto này còn có tầm tác dụng vượt xa bờ cõi Trung Quốc: nó còn là phương tiện giao tiếp đắc lực giữa người Hán và các sứ giả "man tộc" như người Hàn, người Nhật, người Giao Chỉ, người Hồ, và các thứ "rợ" khác, vốn thường bút đàm với người Hán (và với nhau) nhiều hơn là ngôn đàm.



    5.

    Nói đến đây, tôi chắc các vị hiểu tại sao chính tả tiếng Anh và tiếng Pháp "bất hợp lý" đến thế mà vẫn không thể thay đổi được. Khi lớn tiếng lên án chữ viết đương thời, những người Anh và những người Pháp cấp tiến ngày ấy cũng như những người Việt cấp tiến của thời kỳ 1954 (và ngay đến ngày nay hình như vẫn còn sót lại) chỉ chăm chăm vào một tiêu chuẩn duy nhất: ngữ âm (hay âm vị học). Họ phán xử hệ thống chính tả bằng cách đặt câu hỏi: Nó đã phản ánh thật đúng cách phát âm chưa ? Nó đã nhất quán đi theo nguyên tắc "âm và chữ tương ứng một đối một" hay chưa ? Còn những tiêu chuẩn khác thì họ không cần biết đến. Ở đây tôi chỉ xin nhắc đến tiêu chuẩn "truyền thống" hay "tập quán". Như trên kia đã nói, khi người ta đã có nhiều thế kỷ để quen với diện mạo văn tự của các từ ngữ, cái diện mạo ấy trở thành cái hồn của chữ nghĩa. Nó biểu hiện ý nghĩa của ngôn từ không cần thông qua cách phát âm (vốn thay đổi tuỳ theo từng vùng), thành thử mọi mưu đồ cải cách đều là một sự xúc phạm đến truyền thống văn hóa. Viết gia (trong gia đình) thành za hay da, viết lý (trong luân lý) thành lí, viết yêu thành iêu hay iâw, viết qua thành kwa hay cwa trong nhiều thập kỷ nữa vẫn sẽ được tri giác như những lỗi của một lớp người thiếu hiểu biết, nếu không là một lớp người coi khinh hàng chục thế hệ đi trước, trong đó có những bậc thầy đã dựng nên cả một nền văn học hiện đại. Và như thế để làm gì? Chẳng lẽ chỉ vì muốn tiết kiệm khoảng 2% lượng giấy in sách? Chỉ cần tiết kiệm cỡ chữ "corps 10" bằng cỡ chữ "corps 9" cũng tiết kiệm được gấp mười lần như thế. Dĩ nhiên, một cuộc cải cách như thế sẽ không có hại gì đến mấy triệu học sinh vỡ lòng mới bắt đầu học thứ chữ mới. Nhưng ta cứ thử tính số tiền tốn phí để in lại tất cả các sách vở cần thiết cho các thế hệ học thứ chữ mới. Và thử tính xem có sáu mươi mấy triệu người lớn trở thành mù chữ (hay ít ra cũng thành những người dốt nát chuyên viết sai chính tả do những tập quán cũ và cách đánh vần các văn bản một cách khó nhọc, ít ra là trong dăm bảy năm sau cải cách) [3].

    Nhược điểm của chữ quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm vị học, mà chính là ở chỗ nó có tính chất thuần túy ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong trường hợp các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt. Tuy vậy, cũng gần giống như chữ Anh và chữ Pháp, những chỗ bị người ta coi là bất hợp lý chính là những chỗ làm cho nó phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như gia và da, lý và lí (trong lí nhí ) [4], v.v.. Ðáng tiếc là những trường hợp như thế không lấy gì làm nhiều. Nhưngcó ít vẫn còn hơn là không có, như khi ta thay chữ quốc ngữ bằng một thứ chữ thuần túy ghi âm. Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai họa không còn hoán cải được nữa, nhưng ta còn có thể bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán như một môn bắt buộc ở trường phổ thông. Người Việt sẽ không thể giỏi tiếng Việt nếu không thấu đáo nghĩa của các từ Hán-Việt, vốn chiếm tỷ lệ hơn 70% trongtvốn từ vựng tiếng Việt.

    (Báo cáo đọc tại Hội nghị "Chữ quốc ngữ và sự phát triển của văn hóa Việt Nam", Trường Ðại học Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh 1995)

    (Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, nxb Trẻ 2001, tr.107-113)





    Được a6188 sửa chữa / chuyển vào 21:35 ngày 02/02/2003
  2. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Cao Xuân Hạo
    "Hán -Việt" và "thuần Việt"
    Ðã có một thời người ta bài trừ hai chữ trực thăng và thay nó bằng mấy chữ máy bay lên thẳng, vì trực thăng là "từ Hán-Việt", một thứ từ ngữ "ngoại lai", "đi mượn của người Hán", tức là từ của tiếng nước ngoài, còn lên thẳng là từ "thuần Việt", là sản phẩm "cây nhà lá vườn" đáng tự hào của người Việt Nam "chính cống", tức người "Kinh", người "Giao Chỉ", người "Keo" hay người "Yuôn".
    Việc sử dụng nhiều các từ Hán-Việt được nhiều người coi là một hành vi lạm dụng, thậm chí vô đạo đức, cần tránh đến mức tối đa, nhất là khi đã có sẵn những từ "thuần Việt" có thể dùng đề thay thế, và việc thay thế này được coi là một nghĩa cử có tác dụng "giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt", một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mọi công dân nước Việt. Việc thay thế trực thăng bằng lên thẳng đã từng được đánh giá là "một thắng lợi vẻ vang của chủ nghĩa yêu nước", "một thành tựu lớn lao trong việc bảo vệ nền văn hoá dân tộc".
    Ðến khi trong kỹ nghệ hàng không lần lượt xuất hiện những kiểu máy bay cất cách theo chiều thẳng đứng, không cần chạy trên mặt đất để lấy đà, tức là "lên thẳng" thực sự, nhưng lại tuyệt nhiên không phải là "trực thăng", người ta mới thấy "hố", bèn vội vàng dùng lại hai chữ trực thăng.
    Những trường hợp tương tự và những tình trạng lúng túng mà phong trào bài xích "từ Hán Việt" gây ra cũng còn thấy có với những từ ngữ như phi công, bị thay bằng giặc lái (từ này được thay bằng người lái khi dùng cho phi công của ta: ai nấy đều đã được nghe anh hùng không quân Nguyễn Văn Cốc nói trên Ðài phát thanh "Tôi là người lái nhân dân Việt Nam"); giáo cụ trực quan bị thay bằng đồ dùng để dạy, không phận bị thay bằng vùng trời; hải phận bị thay bằng vùng biển (trong khilãnh thổkhông hề bị thay bằng vùng đất)[1]; hoả tiễn bị thay bằng tên lửa[2] ; công tố viên bị thay bằng ủy viên buộc tội; tuần dương hạm bị thay bằng tàu tuần biển, v.v., v.v. [3]
    Vậy thiết tưởng cũng nên xét lại xem nội dung của hai khái niệm Hán-Việt và thuần Việt là gì, để thấy rõ hơn việc bài trừ các từ ngữ Hán-Việt và tìm cách thay thế nó bằng những từ ngữ "thuần Việt" có phải là một biện pháp "giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" hay không.
    Trước hết phải nói ngay rằng không làm gì có những từ có thể gọi một cách chính xác là "thuần Việt", nếu định nghĩa đó là những từ do chính người Việt (dân tộc Việt) sáng tạo ra từ đầu, chứ không bắt nguồn từ tiếng nói của một dân tộc hay một tộc người nào khác. Trước khi có tiếng Việt hiện đại đã từng có một thời đai mà tiền thân của nó là tiếng Việt-Mường, bắt nguồn từ một chi của tiếng Môn-Khmer. Liệu có thể nói rằng những từ ngữ Việt Mường là "thuần Viêt" không, hay nói rằng những từ ngữ Môn-Khmer là "thuần Việt-Mường" không? Khó lòng có thể nói như vậy, vì có thể khẳng định rằng tiếng Việt-Mường là một ngôn ngữ khác chứ không phải là tiếng Việt, cũng như tiếng Môn-Khmer là một ngôn ngữ khác chứ không phải là tiếng Việt-Mường. Vậy có thể coi những từ Môn-Khmer hay những từ Việt-Mường là "thuần Việt" không? Hay đó là những từ mà tiếng Việt đã vay mượn của tiếng Môn-Khmer hay tiếng Việt-Mường? Khó lòng có thể chọn một trong hai cách trả lời, vì cả hai đều không đúng.
    Thật ra phải nói rằng đó là những từ Việt có nguồn gốc trong một ngôn ngữ "mẹ" (hay "ngôn ngữ bà ngoại") của chính nó[4], có khác với những từ Thái, những từ Mã Lai, những từ Hán hay những từ Ấn Âu, vốn bắt nguồn từ những ngôn ngữ không có quan hệ thân tộc với nó.
    Vậy tại sao không nói đó là những từ vay mượn? "Từ vay mượn"(emprunts, loan words) là một khái niệm cần được định nghĩa trên quan điểm lịch sử, và trên cơ sở một cái mốc đánh dấu sự thành hình của ngôn ngữ đang xét. Kể từ cái thời đại mà tiếng Việt-Mường chẳng hạn, có thể coi là đã thành hình như một ngôn ngữ, hay nói cho đúng hơn, một ngữ trạng (état de langue) có những đặc trưng khiến nó có thể coi như không còn là thứ tiếng trước kia (hay ngữ trạng trước kia) nữa, thì những từ ngữ mà nó du nhập từ những ngôn ngữ khác có tiếp xúc với nó có thể coi là những yếu tố vay mượn, trong khi những từ ngữ mà "mẹ nó" vay mươn lại không thể coi là như thế, vì những từ ngữ này đã là những di sản của thời trước do "mẹ nó" để lại và được nó xử lý như những yếu tố thuộc vốn từ vựng của tiếng "mẹ đẻ". Khi những người nói tiếng Việt-Mường không còn vay mượn những từ ngữ Thái (gạo, gà, vịt và hơn 100 từ khác) như hồi chưa tách hẳn ra khỏi tiếng Môn-Khmer, thì những từ này đã được nhập vào vốn từ vựng của tiếng mẹ đẻ của họ, nghĩa là đã trở thành những từ "thuần Việt-Mường".
    Ðối với các từ gốc Hán cũng vậy, tuy ở đây tình hình có phức tạp hơn một chút. Qua hơn 1000 năm bắc thuộc, tiếng Việt đã mượn của tiếng Hán một số từ ngữ nhiều gấp bốn lần vốn từ ngữ đã có trước kia. Trong số từ vay mượn này, có những từ "bình dân" dần dần được người bản ngữ đồng hoá và dần dần có được một dáng dấp ngữ âm riêng, được dùng y hệt như những từ gốc của bản ngữ, và đến vài ba thế hệ sau khi vay mượn, không còn bị người bản ngữ tri giác như những từ ngoại lai nữa. Bên cạnh đó có những từ ngữ Hán đi vào tiếng Việt theo con đường "bác học", chủ yếu là qua các văn bản hành chính sự vụ mà ngay trong các triều đại đã giành được độc lập cũng được viết bằng chữ Hán cổ điển. Ðó chính là tiền thân của các "từ "Hán-Việt" sau này. Những từ này có một diện mạo ngữ âm được quy định chính xác theo các tự điển Trung quốc ?" theo cách chú âm bằng thủ pháp "phiên thiết". Do đó các nhà nghiên cứu thường thấy cần phân biệt giũa những từ ngữ gốc Hán "bình dân" và những từ "Hán-Việt". Dĩ nhiên sự phân biệt này hoàn toàn có cơ sở. Nhưng nó không đủ để phân biệt đối xử với những từ như đầu, tính, dân, học, hiểu được coi như những từ "thuần Việt" và với những từ ngữ như đại bác, tín nhiệm được coi là cần được loại bỏ trong chừng mưc có thể.
    Khi dựng lên sự phân biệt nhân tạo giữa "Hán-Việt" và "thuần Việt", người ta thường quên mất rằng hầu hết những từ được gọi là "thuần Việt" cũng đều có nguồn gốc ngoại quốc (Thái, Mã-Lai, Chăm, Căm-Pu-Chia, Quảng Ðông, Ấn Ðộ, v.v.) không kém gì các từ "Hán-Việt" và các từ mới vay mượn của tiếng Pháp, tiếng Anh. Thật ra, cái sắc thái đặc biệt mà người ta tri giác được ở các từ Hán -Việt không phải là do một đặc trưng "ngoại quốc" gì của các từ này. Chẳng hạn, xét về ngữ âm, các từ Hán-Việt đều có một cấu trúc âm tiết chuẩn mực của những từ thuần Việt, như các công trình nghiên cứu cấu trúc ngữ âm của các từ Hán-Việt đã cho thấy, chứ không có một âm hưởng là lạ như các từ vay mượn như pa-tê, gòong, soóc, xéc, boong, tỉm xắm, vằn thắn (kể cả những tên riêng Quảng Ðông như Cóong, Dzếnh).
    Sở dĩ các từ Hán-Việt được một số người Việt "có học" phân biệt với các từ "thuần Việt". trong đó có cả các từ gốc Hán được phát âm đúng như trong tự điển phiên thiết như đầu, dân, hiểu, học, là vì những lý do khác, không mấy khi được ý thức rõ ràng. Ðó là :
    1. Những yếu tố "Hán-Việt" không được dùng "độc lập" như các yếu tố "thuần Việt", mà chỉ xuất hiện trong những tổ hợp hai tiếng trở lên. Sự phân biệt này trở nên quan trọng và có dáng "khoa học" kể từ khi giới học giả Việt Nam phát hiện ra cái chuẩn tắc hình thức của phái ngữ học miêu tả dùng sự khu biệt giữa " bound forms và"free formslàm nguyên tắc toàn năng và tuyệt đối quyết định mọi thao tác phân tích và thuyết minh ngôn ngữ học.
    Thật ra nguyên tắc này, tuy có một tác dụng thực tiễn nhất định, nhưng xét về lý thuyết hoàn toàn không liên quan gì đến ngôn ngữ học, cho nên nếu được ứng dụng một cách máy móc, sẽ dẫn đến những sự lầm lẫn hết sức thô lậu, như chúng tôi đã chứng minh trong khá nhiều bài vở, và như giới ngữ học thế giới sau những năm 30 đã thấy rõ. Riêng trong lĩnh vực đang xét, nó dẫn tới những kết quả phi lý sau đây :
    quốc ca là một từ nhưng dân ca là hai từ
    súng trường ?"------ ?"- súng ngắn ?"----
    hải quân ?"------ ?"- không quân ?"----
    Cái chuẩn tắc thô thiển này phủ nhận tư cách từ của tất cả những từ bao giờ cũng đi với một phụ ngữ (bổ ngữ hay định ngữ); đó là các vị từ ngoại động (transitive verbs) như nai (lưng) hay các danh từ đơn vị (unit nouns) như chiếc (đũa) chẳng hạn, và làm nảy sinh ra những sự ngộ nhận đáng xấu hổ trong lý thuyết ngữ học phổ thông, như khái niệm "loại từ" ("classifier") chẳng hạn, mà mãi gần đây (đến tận 1994) vẫn có người ta còn chưa thấy rõ tính phi lý.
    2. Trong tiếng Việt, các từ "Hán-Việt" làm thành một lớp riêng, có những đăc trưng ngữ pháp (a) và tu từ (phong cách học) (b) riêng.
    a. Về ngữ pháp, các từ tổ Hán-Việt tuy cũng chứa đựng những mối quan hệ cú pháp (đẳng lập hay chính phụ) rõ rệt không kém các từ tổ "thuần Việt", nhưng mối quan hệ cú pháp này chặt hơn nhiều, một phần là nhờ cái "trật tự ngược" (phụ trước chính sau) so với các từ tổ thuần Việt.
    Chẳng hạn quan hệ cú pháp chính phụ trong xạ thủ hay phi công chặt hơn nhiều so với mối quan hệ tương đương trong người bắn hay người lái : trong khi xạ thủ Nam chỉ có thể hiểu một cách, thì người bắn Nam không cho biết đó là kẻ đã bắn anh Nam hay là người lính tên là Nam (chắc hẳn cách hiểu thứ nhất (trọng âm [111]) tự nhiên hơn cách hiểu thứ hai (trọng âm [011]) [5].
    Tính chất "chặt" của môí quan hệ cú pháp này giữa hai từ"Hán-Việt" làm cho các từ tổ tương tự dễ được hiểu đúng hơn nhiều khi được dùng làm thuật ngữ chuyên môn (khoa học hay kỹ thuật), nhờ đó mà khi cần cấu tạo một thuật ngữ, từ "Hán Việt" bao giờ cũng có ưu thế hơn hẳn từ "thuần Việt", tuy có một thời, nhân danh tính "đại chúng", người ta đã thay những thuật ngữ như khủng long hay nhược điểm bằng những thuật ngữ như thằn lằn kinh khủng [6] hay điểm yếu (đến bây giờ thuật ngữ sau lại bị thay nhầm bằng yếu điểm, vốn có nghĩa khác hẳn). Hồi ấy, người ta còn yêu cầu đặt thuật ngữ khoa học làm sao mỗi người chỉ cần biết đọc chữ quốc ngữ là hiểu ngay được nội dung. Phải chi có thể làm được như vậy, thì có lẽ toàn dân ngay từ sáu bảy tuổi đã không còn phải đi học nữa, vì đã hiểu được đủ thứ khái niệm như nguyên tử, điện tử. lượng tử, tích phân, vi phân, v.v. sau khi những từ Hán-Việt được chuyển thành từ "thuần Việt".
    "thuần Việt" dễ hiểu thật, nhưng đó chính là nhược điểm lớn nhất của nó, vì khi một thuật ngữ quá dễ hiểu, thì cách hiểu "quá dễ" ấy có rất nhiều xác suất là lối "vọng văn sinh nghĩa" ?" tức là cứ nhìn chữ mà đoán mò ra nghĩa, cho nên có thể sai hoàn toàn. Trong nhiều ngành, trên thực tế đã có hàng ngàn thuật ngữ được hiểu như thế, chẳng hạn như tình thái, hàm nghĩa, ngữ dụng, sở chỉ, v.v. là những thuật ngữ có vẻ dễ hiểu đến nỗi ai cũng cho là mình hiểu rồi, cho nên không thấy cần đọc sách nữa.
    Chính tính chất trừu tượng, khó hiểu (?) của thuật ngữ Hán-Việt tránh được cho ta cái hiểm họa ấy.
    b. Về phương diện ngữ nghĩa, hầu như ai cũng đã thấy từ lâu rằng phần lớn các từ Hán Việt đều có một sắc thái ngữ nghĩa (hay tu từ) khiến cho nó khác một cách khá rõ với các từ thuần Việt dường như đồng nghĩa với nó. Ðó là sắc thái "trang trọng", hay "thi vị", hay "cổ kính", hay "bác học", hay "mờ ảo"của các từ Hán-Việt. Ðiều đáng ngạc nhiên là lẽ ra cái sắc thái đặc thù ấy phải cho thấy ngay rằng những từ ấy đã trở thành những từ "thuầnViệt" từ lâu, chính vì trong tiếng Hán nó không hề có, thì ngược lại nó lại được dùng như một cái cớ để bài bác và để tìm đủ cách loại trừ.
    Trong tiếng Hán, nữ chỉ có nghĩa là "gái", phụ nữ chỉ là "đàn bà", trượng phu là "đàn ông" (hay "chồng"), hoa đăng chỉ là "đèn hoa/bông", sơn động chỉ là "hang núi", lam sơn chỉ là "núi xanh", tử sĩ chỉ là "quân lính chết", mãnh hổ chỉ là "con cọp mạnh", tràng kỷ chỉ là "cái ghế dài", lôi vũ chỉlà "mưa giông", phong ba chỉ là "sóng gió", hài chỉ là "giày"[7]
    Sở dĩ khi chuyển sang tiếng Việt những từ ngữ này có được cái sắc thái "thi vị". "cổ kính" hay "bác học" và cái sức mạnh tu từ của nó chính vì nó đối lập với những từ ngữ "thuần Việt" (hay "nôm na"), và đó chính là nguyên nhân làm cho nó có được cái sắc thái ngữ nghĩa hay tu từ mà nó vốn không có trong tiếng Hán, và cái sắc thái mới ấy cũng chính là bằng chứng hoàn toàn chắc chắn cho thấy rằng nó đã là một bộ phận hữu cơ của hệ thống từ vựng của tiếng Việt, hay nói gọn lại, nó đã hoàn toàn trở thành những từ ngữ của tiếng Việt, tức những từ ngữ "thuần Việt".
    Chính cái phong vị riêng (trang trọng, bác học, v.v.) của các từ ngữ Hán-Việt đã cám dỗ một số người làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng sính dùng loại từ ngữ này. Ðáng lẽ nói "bàn nhanh" thì người ta thích nói "hội ý" hơn; đáng lẽ nói "nói chuyện phiếm" thì người ta thích nói "mạn đàm" hơn, đáng lẽ nói "đi thăm" hay "đi xem" thì người ta thích nói "tham quan" hơn, v.v.
    Trước tình hình đó, hồi kháng chiến chống Pháp chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy cần nhắc nhở cán bộ trong cuốn Sửa đổi lối làm việc (dưới bút danh XYZ) là nên nói năng với quần chúng một cách giản dị hơn, dễ hiểu hơn, bình dân hơn, đừng dùng những từ ngữ quá trang trọng, quá bác học mà thành ra khó hiểu. Nói tóm lại, phải dùng từ ngữ sao cho thích hợp với quần chúng.
    Về sau, những lời dặn dò chí lý ấy dần dần bị hiểu sai thành một chủ trương thanh lọc từ ngữ ngoại lai, và người ta hè nhau tìm cách thay thế những từ Hán-Việt nằng những từ "thuần Việt", nghĩa là những từ ngoại lai khác, gốc Thái, Mã Lai, Môn-Khmer, Ấn độ, v.v. trong khi xây dựng thuật gốc Mã Lai, gốc Chàm, gốc Ấn, v,v., trong đó có cả những thuật ngữ khoa học và kỹ thuật.
    Người ta tưởng làm như vậy là bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, trong khi đó chính là làm cho tiếng Việt nghèo đi, và thay những cách nói đúng đắn, hay ho và thích hợp với tình huống, với ngôn cảnh hay văn cảnh bằng những cách nói ngô ngọng, lạc lỏng, thậm chí vô lễ và man rợ. Nếu gọi con gái bạn mình bằng quý nữ chẳng hạn là lố lăng, thì gọi một người đàn bà bằng đồng chí gái hay y tá gái cũng lố lăng không kém. Thủ tướng gái không bằng nữ thủ tướng. nhưng đầy tớ gái lại hơn nữ đầy tớ. Ngài Tổng thống và vợ không bằng Ngài tổng thống và phu nhân, nhưng thằng Út nhà tôi và phu nhân lại không bằng Thằng Út nhà tôi và vợ nó. Nói chung những sự kết hợp không tương thích đều cho những kết quả xấu.
    Gần đây ta thấy xuất hiện những từ ngữ kỳ quặc mà lại hoàn toàn thừa, nhưng được những người sính chữ "sành điệu" hoan nghênh, chẳng hạn như cụm từ chí ít mà theo gương một vài nhân vật thời thượng người ta ưa dùng thay cho ít nhất, ít ra hay tối thiểu. Từ tổ này vừa lai căng vừa sai trái. Trong tiếng Hán cũng như trong tiếng Việt, chí không bao giờ có ý nghĩa "cực cấp tương đối" (superlatif relatif), thường được diễn đạt bằng hơn cả, nhất hay tối. Nó chỉ có thể có nghĩa "cực cấp tuyệt đối" (superlatif absolu), tức là cái nghĩa thường được diễn đạt bằng rất, lắm, như trong chí phải, chí lý, chí tôn, chí hiếu, chí công, chí minh.
    Ðăng lần đầu trong Kiến thức ngày nay số 118 năm 1993<
    (Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, nxb Trẻ 2001, tr.79-88)
  3. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Giáo sư Cao Xuân Hạo trả lời phỏng vấn của báo Lao Động
    LTS (báo Lao Động): Trong xu hướng hội nhập, ngôn ngữ là một trong những thành tố quan trọng làm nên bản sắc văn hóa của một dân tộc và là đối tượng để nghiên cứu và gìn giữ. Bằng tâm huyết và những công trình khoa học của mình trong suốt 20 năm qua, GS, dịch giả Cao Xuân Hạo là một trong những người đầu tiên tìm cách nghiên cứu tiếng Việt đích thực bằng cách quan sát chính lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt một cách có hệ thống (chứ không phải bằng cách sao chép ngữ pháp tiếng Âu Châu).
    Cùng với Tiểu ban tiếng Việt của Hội Ngôn ngữ học TPHCM, ông (vốn là Phó Chủ tịch của Hội, kiêm Phó Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học VN) và các đồng sự đang cùng soạn thảo một bộ sách nhằm thay thế những sách giáo khoa đang dùng ở các trường của ta mà Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn chưa có ý định hủy bỏ, mặc dầu đã từ lâu công nhận rằng kết quả của "12 năm học tiếng Việt qua những cuốn sách ấy là một con số không tròn trịa". Trong bộ sách này, các tác giả sẽ trình bày 300 quy tắc cơ bản mà học sinh phải nắm vững để nói, viết và hiểu đúng tiếng Việt, diễn đạt chính xác những cảm nghĩ của mình và thanh toán những lỗi nặng mà nhà trường chưa bao giờ dạy cách sửa.
    Vì sao ông lại cho rằng "tiếng Việt chưa bao giờ được giảng dạy thực sự ở nhà trường"? Nói như thế có phần cực đoan quá chăng?
    Trong sách giáo khoa tiếng Việt dùng ở nhà trường trung học trong mấy chục năm nay, ngữ pháp tiếng Việt chỉ có mặt trên danh nghĩa, chứ xét về thực chất thì đó là ngữ pháp tiếng Âu Châu được minh hoạ bằng những câu tiếng Việt. Những câu này được sàng lọc rất kỹ: Chỉ có những câu nào giống hệt câu tiếng Pháp mới được đưa vào sách, thành thử chỉ có khoảng vài chục kiểu câu (trong số mấy trăm) được giảng và phân tích cho học sinh dùng. Rốt cục là trong sách hầu như không nói một câu nào về tiếng Việt, về những quy tắc ngữ pháp mà học sinh phải nắm vững để nói, viết và hiểu cho đúng tiếng Việt. Bất cứ nhà ngữ học ngoại quốc nào tình cờ đọc sách dạy tiếng Việt cũng phải thấy ngay rằng đây là một thứ tiếng Châu Âu tiêu biểu, điển hình, thuần tuý; thứ tiếng đó chắc chắn không phải là ngôn ngữ của Nguyễn Du, của Hồ Chí Minh, của Xuân Diệu, của Tố Hữu... của ca dao tục ngữ VN.
    Trong khi đó, ai cũng biết rằng tiếng Việt và tiếng Châu Âu nằm ở hai cực đối lập với nhau đến mức tối đa, có thể nói là một trời một vực. Làm sao có thể chép ngữ pháp tiếng Việt từ tiếng Châu Âu, nhân danh là "hội nhập"? Có khá nhiều người lấy làm tự hào khi thấy dưới ngòi bút của một số tác giả, nhất là các dịch giả, tiếng Việt bây giờ càng ngày càng Tây, nghĩa là càng giống thứ tiếng Việt bồi của mấy ông Tây mới học tiếng Việt. Theo tôi, "hội nhập" chưa bao giờ có nghĩa là gột cho thật sạch những bản sắc của dân tộc để bôi lên mình một lớp sơn thật Tây.
    Ngôn ngữ vốn là sản phẩm tinh túy nhất của văn hoá dân tộc, và đồng thời lại chính là công cụ chi phối mọi hành động, mọi suy nghĩ của một dân tộc. Khi một người Việt không còn biết cách diễn đạt ý nghĩ và tình cảm của mình bằng tiếng mẹ đẻ của mình và của cha ông mình, mà phải bắt chước mấy ông Tây để nói những câu như Em đã, đang, và sẽ được yêu tha thiết bởi anh... chẳng hạn, thì đó là sự suy vong của tiếng Việt.
    Tôi đã nói và viết khá nhiều về sự xuống cấp nhanh đến chóng mặt của tiếng Việt. Tình hình ấy, chính nhà trường của ta phải chịu trách nhiệm. Nếu không bắt đầu dạy tiếng Việt đích thực trong nhà trường ngay từ thập kỷ này, thì những nỗi lo sợ như trên chẳng mấy chốc mà trở thành hiện thực.
    Có người nói rằng thứ tiếng Việt mà ông và các đồng sự của ông ở Hội Ngôn ngữ học TPHCM muốn bảo vệ chỉ là một thứ tiếng Việt đã lỗi thời. Trong khi đó, một trong những đặc tính của ngôn ngữ chính là sự uyển chuyển, biến hóa linh hoạt theo môi trường, xã hội và thời đại...
    Đúng là ngôn ngữ có chuyển biến, nhưng phần chuyển biến nhanh nhất là từ vựng. Trong khi đó ngữ pháp lại thay đổi rất ít và rất chậm. Từ thế kỷ XV (thời Nguyễn Trãi) cho đến nay về cơ bản ngữ pháp tiếng Việt vẫn là một. Tất cả những quy tắc ngữ pháp của thời ấy nay vẫn còn nguyên hiệu lực. Hầu như không có thêm một quy tắc nào mới.
    Còn có cách gì cải thiện được tình hình hiện nay không?
    Dĩ nhiên tôi không bi quan đến mức như một vài bạn đồng nghiệp của tôi. Tuy vậy, nguy cơ vẫn còn đó. Nhưng nếu hoài bão của chúng ta khi xây dựng chương trình tiếng Việt chung quy là mong sao học sinh quên hết những gì đã học, thì tại sao không cố gắng đưa vào chương trình những điều không những không sai trái (vì cố ép bằng được những sự kiện của tiếng Việt vào cái khuôn của tiếng Châu Âu) mà còn cần thiết cho việc hiểu biết tiếng Việt một cách đủ chính xác và nhuần nhị để có thể hiểu đúng hơn, sâu hơn nền văn học của nước nhà và biết diễn đạt một cách chính xác và tinh tế những cảm nghĩ của chính mình?
    Thời hội nhập, tiếng Việt có cần tuân theo những quy tắc truyền thống quá cứng nhắc nữa không; hay cần đơn giản hóa, thưa ông?
    Làm sao tiếng Việt chấp nhận những kiểu nói của tiếng Châu Âu? Tôi không hẹp hòi, nhưng rõ ràng có một điều kiện tiên quyết và quyết định là đừng làm mâu thuẫn những quy tắc ngữ pháp cơ bản của tiếng Việt. Duy nhất trước đây có Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đặt vấn đề về một trong những quy tắc mà ngay chính các nhà ngôn ngữ học cũng không giải thích được, chỉ dùng theo bản năng. Nhiệm vụ của nhà ngôn ngữ học là hiển ngôn hóa những gì mà em bé năm tuổi chưa hiển ngôn được. Tôi đã viết gần xong 300 quy tắc như thế cho riêng tiếng Việt.
    Xin cảm ơn giáo sư.
    (Lao Động số Tết 2003)
  4. A6188

    A6188 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/09/2002
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    0
    Có anh bạn vào Nam, có cô bạn ra Bắc. Tuần này tớ xuống Hải phòng,tuần sau cậu lên Hà nội. Chú mới ở quê lên chơi, mai cháu về quê thăm bác. Tiếng Việt quả thật phong phú. Đôi khi nhìn lại cũng chẳng hiểu tại sao người ta cứ dùng ra - vào, trên - dưới, lên - xuống như vậy.
    Thói quen chăng? Thói quen cũng phải có nguồn của nó???

    "Những chữ dùng làm đầu đề trên đây, ngó như là bình thường lắm, không có gì là khó khăn cả, nhưng thực ra, nghĩa nó cũng khá rắc rối lôi thôi, có khi làm cho ta dùng lầm mà không tự biết.
    Bốn chữ trên, không cứ nó thuộc về từ loại nào, nghĩa nó thế này: từ chỗ thấp chỉ chỗ chỗ cao là trên, từ chỗ cao chỉ chỗ thấp là dưới, từ chỗ quang chỉ chỗ kín là trong, từ chỗ kín chỉ chỗ quang là ngoài.
    Bốn chữ dưới, thường thường nó là động từ, nghĩa nó thế này: từ chỗ thấp đến chỗ cao là lên, từ chỗ cao đến chỗ thấp là xuống, từ chỗ quang đến chỗ kín là vào, từ chỗ kín đến chỗ quang là ra. Lệ như: lên đồi, xuống ao, vào nhà, ra sân.
    Người ta cũng nói đi từ đông đến tây là lên, đi từ tây đến đông là xuống, đi từ bắc đến nam là vài, đi từ nam đến bắc là ra. Là vì ở nước ta, suốt cả nước, phía tây đều là cao nguyên hay núi, cao hơn phía đông; phía đông đều là bờ biển, thấp kém phía tây; phía bắc mở mang trước, coi như quang; phía nam mở mang sau, coi như kín. Cho nên khi nói lên tây, xuống đông, vào nam, ra bắc, cũng tức là cái nghĩa: từ chỗ thấp đến chỗ cao, từ chỗ cao đến chỗ thấp, từ chỗ quang đến chỗ kín, từ chỗ kín đến chỗ quang.
    Nhưng gần nay, người ta cũng có nói từ Sài Gòn lên Hà Nội, từ Hà Nội xuống Sài Gòn, đó là nói theo lối tiếng Pháp: tiếng Pháp nói lên phía Bắc, xuống phía Nam, vì họ theo hình quả đất phía Bắc ở trên, khi vẽ địa đồ cũng vẽ phía bắc ở trên.
    Không những người Pháp mà người Tàu cũng vậy, họ cũng nói xuống phía Nam, lên phía Bắc, tức như nam hạ, bắc thưởng, hay là hạ Giang Nam, thưởng Bắc Kinh. Đó là vì người Tàu đã quen phân biệt địa thế nước mình như nhiều sách xưa có nói: phía bắc đất cao, nhiều rừng núi, phía nam đất thấp, nhiều hồ chằm.
    Như thế, đi từ nam đến bắc và đi từ bắc đến nam, theo người Pháp là lên phía trên, xuống phía dưới; theo người Tàu là lên chỗ cao, xuống chỗ thấp; mà theo ta là ra chỗ quang, vào chỗ kín: ta dùng động từ khác với họ vì cái quan niệm về nam bắc ở đất nước ta khác với họ.
    Khi dùng chính cái động từ vào, ra, ta cũng có dùng trái với người Pháp và người Tàu. Người Pháp nói về diễn kịch: vào, tức là ở hậu trường đi đến sân khấu; ra, tức là ở sân khấu đi đến hậu trường. Còn ta, ở hậu trường đến sân khấu lại nói ra, ở sân khấu đến hậu trường lại nói vào. Không phải bây giờ diễn kịch mới nói như vậy, mà là thói quen từ xưa, hát tuồng hát chèo cũng nói vào buồng, ra rạp. Người Tàu nói "nhập thế", vào đời, tức là chung đụng với người đời và gánh vác việc đời, xuất thế, ra đời, tức là ra ngoàii đời, không dính dấp với cuộc đời, như những người ở ẩn. (Bởi vậy họ mới gọi Khổng giáo là nhập thế chi giáo, Phật giáo là xuất thế chi giáo). Còn tiếng ta từ đây về trước, không nói vào đời mà chỉ nói ra đời, nhưng ra đời lại có nghĩa trái với xuất thế: ra đời là chung đụng với người đời và gánh vác việc đời.
    Chỗ trái nhau đó cũng lại vì cái quan niệm không giống nhau. Người Pháp người Tàu xem trọng ở mục đích là chỗ hoạt động, cho nên nói vào sân khấu, vào đời; còn ta xem trọng ở xuất phát điểm, từ chỗ lập trường của mình mà kể đi, cho nên nói ra sân khấu, ra đời. Nói như thế cũng lại không lìa cái nghĩa từ chỗ kín đến chỗ quang: hậu trường là kín, sân khấu là quang; nhà là kín, đời là quang. Ra đời, còn có nghĩa nói về đứa bé mới sinh ra nữa: ở trong bụng mẹ là kín, lọt khỏi bụng mẹ là quang.
    Kể ra thì ta dùng bốn chữ ra, vào, lên, xuống, đều lấy xuất phát điểm làm căn cứ. Như ở Huế thì nói ra Hà Nội, ở Hà Nội thì nói vào Huế, ở Hải Dương thì nói lên Hà Nội, ở Hà Nội thì nói xuống Hải Dương. Trừ ra: Pháp ở phía Tây mà không nói đi lên Pháp, nói đi sang Pháp; Tàu ở phía Bắc mà không nói đi ra Tàu, nói đi sang Tàu, là vì khi đó có vượt biển hay vượt qua biên giới. Cho đến vượt qua con sông hay cái hàng rào cũng nói như thế: ở Hà Nội sang Bắc Ninh, ở nhà ông Kèo sang nhà ông Cột.
    Lấy xuất phát điểm làm căn cứ thì cũng có cái hay, như nói ra Hà Nội thì biết đi từ phía Nam Hà Nội, xuống Hải Dương thì biết đi từ phía Tây Hải Dương. Nhưng cũng có cái không hay: mỗi khi nói như thế, thấy ra cái ý người nói cứ bám khư khư lấy cái chỗ mình ở, cứ một mực chủ quan, làm cho khẩu khí có vẻ tủn mủn và văn chương đôi khi có vẻ câu thúc không phóng khoáng. Không phải người ta không nói đi Hà Nội, đi Hải Dương, nhưng lấy xuất phát điểm làm căn cứ là cách nói rất thông thường.
    Nhẫn lên cắt nghĩa tám chữ ấy theo như ước lệ xưa nay của tiếng Việt, và giải tỏa một vài điểm tiếng ta sử dụng khác với tiếng ngoại quốc. Đây nhẫn xuống nghiên cứu đến những trường hợp có thể dùng lầm những chữ ấy hay đã dùng lầm nhiều lần rồi.
    Khi ta nói trên trời, dưới đất, trong gia đình, ngoài xã hội, có nghĩa là: trên thì trời, dưới thì đất, trong thì gia đình, ngoài thì xã hội; mà cũng có nghĩa là: bên trên của trời, bên dưới của đất, bên trong của gia đình, bên ngoài của xã hội, nhưng cái nghĩa thứ hai này không được rõ lắm, nó chỉ chờ thêm cho mỗi từ ngữ một động từ hiệp với nói, tức khắc cái nghĩa ấy rõ mồn một.
    Vậy ta thử đặt đứng trước trên, dưới, trong, ngoài mỗi chữ một động từ xem sao, ấy là: lên trên, xuống dưới, vào trong, ra ngoài. Nếu chỉ có thế mà thôi thì trên, dưới, trong, ngoài coi như danh từ làm bổ túc từ cho lên, xuống, vào, ra, cũng như nói lên chỗ cao, xuống chỗ thấp, vào chỗ kín, ra chỗ quang, chứ không có gì lạ. Một ví dụ đủ chứng tỏ nghĩa ấy: Truyện Kiều có câu "thoạt đưa đến trước, vội mời lên trên". "lên trên" đây tức là lên bàn trên, lên hàng ghế trên, chữ trên là danh tự làm bổ túc từ cho động từ lên.
    Rồi ta lại thử đặt đứng trước trên trời, dưới đất, trong gia đình, ngoài xã hội mỗi từ ngữ một động từ, ấy là "lên trên trời, xuống dưới đất, vào trong gia đình, ra ngoài xã hội", thì nó đã rõ mồn một ra nghĩa khác, không còn giống với nghĩa mới vừa nói.
    ?" trường hợp này, những chữ trên, dưới, trong, ngoài phải kể là giới từ làm dính động từ với danh từ để chỉ cái sức đi đến của động từ ấy, và tỏ nghĩa là: lên không những đến trời mà đến bên trên trời, xuống không những đến đất mà đến bên dưới đất, và không những đến gia đình mà đến bên trong gia đình, ra không những đến xã hội mà đến bên ngoài xã hội. Một ví dụ nữa cũng câu trong Truyện Kiều đủ chứng tỏ nghĩa ấy; "Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa", là: vào tận trong phong nhã, vượt ra ngoài hào hoa.
    (Câu Truyện Kiều này có thể có ba nghĩa, mà nghĩa trên, tôi cho là thông hơn cả. Nghĩa thứ nhất: vào trong nhà thì phong nhã, ra ngoài với xã hội thì hào hoa. Nhưng như thế thì phải nói ở trong, sao lại nói vào trong? Nhà của mình ở, còn vào gì nữa? Vả lại, như thế thì ra ngoài không phong nhã hay sao? Thật là không ổn. Nghĩa thứ hai khá hơn: Đây là cách đặt câu "hỗ văn kiến nghĩa" (sẽ giải sau đây), vào trong ra ngoài đều phong nhã hào hoa cả. Nhưng cũng còn đáng ngại: Trong là đâu? Sao lại phải vào? Nghĩa thứ ba như trên, tỏ ra rằng Kim Trọng phong nhã cực kỳ phong nhã mà không thèm theo thói hào hoa là thói công tử. Có thể bẻ rằng Kim Trọng đi ra cỡi ngựa mặc áo đẹp, có vài hề đồng đi theo, chẳng hào hoa là gì? Nhưng có thể cãi rằng đó chỉ là mực tường của nhà nho "phú hậu", không gọi là hào hoa được, phải là như Thúc Sinh: "Trăm ngàn đổ một trận cười như không" mới thật là hào hoa. Tóm lại, tám chữ này, Nguyễn Du muốn tả Kim Trọng là một nhà nho đứng đắn).
    Đã rõ các lẽ như vậy rồi, đây ta có thể lập một cái quy tắc cho khi sử dụng những chữ ấy. Khi lên, xuống, vào, ra chỉ muốn đến một mục đích điểm thì đặt ngay bổ túc từ dưới động từ mà nói lên trời, xuống đất, vào gia đình, ra xã hội, không nên có giới từ; còn khi muốn vượt quá mục đích điểm thì mới phải nói lên trên trời, xuống dưới đất, vào trong gia đình, ra ngoài xã hội, nghĩa là mới phải dùng giới từ trên, dưới, trong, ngoài để chỉ cái sức đi đến của động từ.
    Thế mà có nhiều khi ta hay dùng lầm lắm. Đáng nói vào Huế mà lại nói vào trong Huế, làm cho có thể hiểu rằng vào đến Quảng Nam, Bình Định; đáng nói xuống Hải Dương mà lại nói xuống dưới Hải Dương, làm cho có thể hiểu rằng xuống đến Hải Phòng hay đến biển.
    Cũng vì lẽ ấy te nên nói đứa bé ngồi trên đất cũng như nói ngồi trên ghế, không nên nói đứa bé ngồi dưới đất; nên nói quả na rụng xuống đất không nên nói quả na rụng xuống dưới đất. Vì dưới đất thì thành ở bên dưới đất, ở bên dưới đất thì đứa bé không thể ngồi, qua na không thể rụng xuống đến đó được, và nếu được thì ta cũng có thể thấy đâu mà nói.
    Có khi ý ta muốn nói ra xã hội hay là ra giữa xã hội mà lại nói ra ngoài xã hội. Ra ngoài xã hội thì là không còn ở trong xã hội nữa, đồng nghĩa với cái danh từ "xuất thế", không còn chung đụng với người đời, không còn gánh vác việc đời, một là vào núi ở ẩn, hai là chết đi mới như thế mà thôi. Sai một chữ mà phản hẳn lại với cái ý mình muốn nói.
    Hiện nay, thấy trong nhiều bài trên báo có nói ra ngoài mặt trận hùng dũng oanh liệt thế nọ thế kia, cũng lại phản ý nữa. Ra ngoài mặt trận tức là không ở trong mặt trận, có thể là ở hậu phương. ?" hậu phương thì như cái người ngồi dưới chân núi mà viết cái bài khô khan này. Làm thế nào hùng dũng oanh liệt được? Vậy theo ngữ pháp, phải nói ra mặt trận hay là ra giữa mặt trận, không được nói ra ngoài mặt trận.
    Tuy vậy, chỉ có khi nói lên trên, xuống dưới, ra ngoài mà có thêm bổ túc từ thì mới hay có cái lầm ấy; còn khi nói vào trong, có bổ túc từ - trừ ra nói về địa dư như nói vào trong Huế không kể - thì lại làm chắc thêm nghĩa chứ không lầm. Ví dụ: vào nhà với vào trong nhà, rót rượu vào bình với vào trong bình, đổ mực vào lọ với vào trong lọ thì cách nói sau cũng không khác nghĩa với cách nói trước. Thế vì lẽ gì? Là vì trên, dưới, ngoài đều tiếp giáp với không gian vô hạn, thêm lên, xuống ra thì nó phải quá trớn mà trật đi đường khác; còn trong thì như nhà bị vách ngăn lại, bình, lọ bị cái thành, cái đáy ngăn lại, cách với không gian, cho nên nói vào trong chỉ làm chắc thêm nghĩa vào càng sâu mà thôi, chứ không thể trật đi đường nào được.
    Chưa hết đâu. Những chữ lên, xuống, vào, ra còn nhiều rắc rối lôi thôi khác nữa.
    Lên đồi, xuống ao, vào nhà, ra sân thì đồi ao, nhà, sân là mục đích điểm như trên đã nói. Nhưng khi nói lên ngựa xuống ngựa, vào tù ra tù thì lên và vào vẫn một nghĩa ấy mà xuống và ra lại khác. Xuống ngựa là ở ngựa xuống, ra tù là ở tù ra, ngựa và tù lại là xuất phát điểm. Đến như nói vào cửa biển, ra cửa biển, lên thang gác, xuống thang gác, thì cả vào ra lên xuống đều có nghĩa khác: ở đây nó chỉ là đi trải qua từ ngoài đến trong, từ trong đến ngoài, từ thấp đến cao, từ cao đến thấp mà thôi. Vì vào cửa biển còn đến sông, ra cửa biển còn đến biển, lên thang gác còn đến gác, xuống thang gác còn đến đất; cửa biển thang gác không phải xuất phát điểm đã đành mà cũng không phải mục đích điểm, nó chỉ là kinh quá điểm.
    ?" những trường hợp ấy, muốn cho nghĩa thật rõ, khỏi hiểu lầm, có khi cần phải nói: ở ngựa xuống hay là xuống khỏi ngựa, ở tù ra hay là ra khỏi tù, do cửa biển vào hay ra, do thang gác lên hay xuống.
    Truyện Kiều có nói "vào sinh ra tử", vào ra đây lại còn khác với mấy nghĩa trên kia. Theo phép đặt câu, đặt cách này gọi "hỗ văn kiển nghĩa". Nghĩa là tréo trả những chữ với nhau để mà thấy cái nghĩa của nó. Thế thì vào sinh ra tử không phải là vào chỗ sinh ra chỗ tử hay ra khỏi chỗ tử mà là vào ra cái chỗ có thể sinh có thể tử (may thì sống, rủi thì chết), muốn nói vào ra cái chỗ cực kỳ nguy hiểm.
    Đến như hai cái thành ngữ "lên xe xuống ngựa", "lên võng xuống dù" thì nghĩa nói lại oái ăm lắm. Lên xe đáng lẽ xuống xe, sao lại xuống ngựa? Lên võng đáng lẽ xuống võng, sao lại xuống dù? Vả lại dù không phải "cái chỗ" có thể xuống đó hay là ở đó xuống được. Đây là một cách đặt câu khác nữa: lên xe xuống ngựa nghĩa là lên xe, xuống xe rồi cỡi ngựa; lên võng xuống dù nghĩa là lên võng, xuống võng rồi che dù, có ý nói là người sang không hề đi đất, mà có đi đất nữa cũng không hề giang nắng. Cách đặt câu như thế gọi là "tỉnh văn", nghĩa là gón bớt chữ đi cho khỏi lòng thòng.
    Một điều rất đáng chú ý là có khi lên và xuống dùng cho cùng một động tác, có thể coi là đồng nghĩa, là khi nói lên thuyền xuống thuyền. Lên thuyền là ở đất bước lên thuyền, xuống thuyền là ở trên bờ bước xuống thuyền, hai cách nói đều chỉ nghĩa là đi đến thuyền cả. Cũng đáng chú ý nữa là: xuống xe là ở xe xuống, xuống ngựa là ở ngựa xuống, mà xuống thuyền không thể có nghĩa ở thuyền xuống, muốn tỏ cái nghĩa này người ta không nói thế mà chỉ nói ở thuyền lên, tức là lên bờ.
    Điều này thật là điều quá rắc rối lôi thôi trong ngôn ngữ văn tự của ta. Ước gì cải cách nó đi, bắt nó theo một loạt như lên xe xuống xe, lên ngựa xuống ngựa: nói lên thuyền tức là ở đất bước lên thuyền, nói xuống thuyền tức là ở thuyền bước xuống đất. Nhưng, ngặt một nỗi đất là bờ, phần nhiều cao hơn thuyền, nếu nói xuống thuyề để chỉ nghĩa ở thuyền bước xuống đất thì có lắm khi trái với luận lý. Có lẽ vì e dè đến luận lý mà tiếng nói của ta từ xưa đến nay phải dung nhận cái điều quá rắc rối lôi thôi ấy chăng.
    Bài này chỉ nghiên cứu những cách dùng bất nhất về những chữ lên, xuống, vào, ra theo nghĩa đen. Còn nghĩa bóng như lên voi xuống chó, vào thầy ra tớ, lên nước, xuống màu, vào khuôn, ra dáng, v.v... không nói đến."

    Phan Khôi (1954)

Chia sẻ trang này