1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhật Bản - những sắc màu văn hoá và nghệ thuật

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Desert_Rose_new, 13/01/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    Nhật Bản - những sắc màu văn hoá và nghệ thuật

    I/ Đồ chơi truyền thống Nhật Bản

    [​IMG]
    Nhật Bản có rất nhiều đồ chơi và trò chơi truyền thống đã làm cho trẻ em thích thú từ thời Trung cổ. Cho dù cuộc sống hiện đại có sôi nổi, và trẻ con không có nhiều thời gian để chơi đùa như ngày xưa nữa, một số nhưng đồ chơi và trò chơi cổ này vẫn rất phổ biến. Ngày nay, chúng xuất hiện chủ yếu là quanh những ngày nghỉ Tết.
    Một ví dụ là một trò chơi tên là menko, đòi hỏi bạn phải ném những quân bài hình tròn hay hình vuông xuống đất. Bạn cố gắng thắng được quân bài của đối thủ bằng cách ném quân bài của mình lên trên nó. Menko đã xuất hiện từ những năm 1700. Những quân bài trong trò chơi thường được trang trí bằng hình của những nhân vật trong truyện tranh, cầu thủ bóng chày, diễn viên và những nhân vật nổi tiếng khác. Menko phổ biến chủ yếu với các cậu con trai.
    [​IMG]Menko

    Các cậu bé Nhật Bản còn thích chơi con quay và diều. Con quay, hay còn được gọi là koma, được đánh cho quay bằng tay hoặc bằng một sợi dây, đã đến Nhật Bản khoảng một nghìn năm trước từ Trung Quốc. Trong thời kì Edo (1603-1868), cuộc chơi quay giành phần thắng đã trở nên phổ biến. Sử dụng một sợi dây, những người chơi quay một con quay nhỏ làm bằng gỗ hoặc bằng sắt được gọi là bei-goma vào trong một vòng tròn, thường là một cái thùng được bọc bằng khăn, và cố gắng đánh con quay của đối thủ ra khỏi vòng. Nhiều năm qua, rất nhiều loại con quay khác nhau đã được tạo ra tại Nhật Bản, bao gồm cả những con quay phát ra tiếng động và những con quay quay với tốc độ rất nhanh.
    [​IMG]Koma [​IMG]Bei-goma

    Một đồ chơi truyền thống nữa của Nhật Bản là con diều, hay còn được gọi là tako, được các cậu bé đặc biệt ưa thích trên khắp cả nước và có một vị trí đặc biệt trong trái tim của họ. Diều đã du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc trong thời kì Heian (794-1185), và phổ biến rộng rãi trong thời kì Heian. Chúng có rất nhiều hình dạng, bao gồm cả hình vuông và hình lục giác, và thường được trang trí bằng những hình ảnh và hoa văn truyền thống. Một loại diều rất phổ biến trong những gia đình buôn bán ngày xưa là yakkodako. Những con diều này thường được làm tương tự như hình người với cánh tay duỗi ra theo những tư thế hài hước. Thương gia có những con diều được làm tương tự như những người phục vụ của họ. Thả diều là trò giải trí chủ yếu ngày xưa. Các nhóm người cùng thả một con diều khổng lồ, đôi khi có kích thước đến hơn 100 m2. Những cuộc thi thả diều, tại đó người ta cố gắng giật đứt dây diều của đối thủ, cũng rất phổ biến.
    [​IMG]Tako

    Những cô bé Nhật Bản có những trò chơi và đồ chơi yêu thích riêng. Một trò chơi phổ biến đã xuất hiện từ lâu lắm rồi là hanetsuki, một trò tương tự như cầu lông nhưng không sử dụng lưới. Quả cầu được làm bằng một cái hạt có gắn lông chim, và cái vợt, được gọi là hagoita, có hình chữ nhật và được làm bằng gỗ. Hanetsuki đã xuất hiện từ hơn 500 năm nay. Những cái vợt được trang trí bằng những hình ảnh đa dạng: các cô gái mặc kimono, các diễn viên kịch Kabuki? Trong khi trẻ con vẫn thích chơi hanetsuki thì rất nhiều người lại sưu tập những cái vợt để trang trí.
    [​IMG][​IMG]Hane

    Trẻ em Nhật Bản còn thích chơi một kiểu bài được gọi là karuta. Karuta có hình vuông như những quân bài Tây, nhưng thay vì số và hình dáng, chúng lại có tranh, chữ, và thậm chí cả những bài thơ ghi trên đó nữa. Có khoảng vài chục quân bài trong mỗi bộ karuta.
    [​IMG]Karuta
    Một kiểu chơi phổ biến của trẻ em với loại bài này có tên là iroha karuta, trong đó người được chỉ định là ?ongười đọc? có một bộ bài với những câu tục ngữ hay châm ngôn được viết sẵn trên đó, trong khi những người chơi khác tập trung quanh một bộ bài được trải ra, với chữ cái đầu tiên hay một vài từ của câu tục ngữ/châm ngôn và một bức tranh trên quân bài. Khi người đọc bắt đầu đọc một câu tục ngữ hay châm ngôn, những người chơi sẽ cố gắng tìm một quân bài thích hợp trong những quân bài trải ra ở đằng trước họ. Ai tìm được quân bài trước sẽ thắng vòng đó và tập hợp những quân bài lại. Cuối cùng, người chơi nào thắng được nhiều quân bài nhất sẽ thắng cuộc. Iroha karuta đã xuất hiện từ thời kì Edo, và những thông điệp trên các quân bài thường là những câu tục ngữ hay châm ngôn thường xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày.

    [​IMG]
    Ngày Tết ở Nhật Bản sẽ không được trọn vẹn nếu thiếu trò chơi fuku warai, một trò giống giống trò gắn đuôi cho lừa ở phương Tây. Những người chơi được bịt kín mắt sẽ có đường nét của một khuôn mặt nhưng thiếu các bộ phận ở trên sàn nhà trước mặt họ. Mục đích của trò chơi là là phải đặt những mảnh giấy cắt hình mắt, mũi và mồm lên trên khuôn mặt. Trò chơi này trở nên phổ biến vào cuối thời kì Edo (1603-1868), và người ta bắt đầu chơi trò chơi này vào dịp Năm mới trong thời kì Taisho (1912-1926). Cho tới những năm 1960, mọi người, chủ yếu là trẻ con, vẫn chơi trò này ở nhà. Đầu tiên, chỉ một kiểu mặt được sử dụng trong trò chơi này: gương mặt tròn trịa vui nhộn của một người phụ nữ. Nhưng qua thời gian, những gương mặt khác, phản chiếu thời kì mà chúng được tạo ra, cũng được sử dụng: những diễn viên nổi tiếng, nhân vật truyện tranh?






    Blue eyes, baby's got blue eyes, like the deep blue sea...


    Được Desert Rose sửa chữa / chuyển vào 16:24 ngày 13/01/2003
  2. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    II/ Kimono
    1. Lịch sử Kimono
    Đầu tiên, ?okimono? là từ tiếng Nhật dùng để chỉ trang phục. Nhưng trong những năm gần đây, từ này đã được dùng để chỉ riêng cho trang phục truyền thống Nhật Bản. Kimono mà chúng ta biết đến ngày nay đã xuất hiện trong thời kì Heian (794-1192).
    Từ thời kì Nara (710-794) cho tới khi đó, người Nhật thường mặc những bộ quần áo có tách biệt rõ ràng phần trên và phần dưới (quần hoặc váy), hoặc những bộ quần áo liền nhau. Nhưng trong thời kì Heian, một kĩ thuật làm kimono mới đã được phát triển. Được gọi là phương pháp cắt thẳng, kĩ thuật này bao gồm việc cắt vải theo những đường thẳng và khâu chúng lại với nhau. Với kĩ thuật này, những người làm kimono không phải bận tâm đến hình dạng của người mặc.
    [​IMG]Nara [​IMG]Heian
    Những bộ kimono cắt thẳng đã mang đến rất nhiều thuận tiện. Chúng rất dễ gấp. Chúng phù hợp với mọi loại thời tiết. Chúng có thể mặc thành nhiều lớp để giữ ấm vào mùa đông, và những bộ kimono làm bằng loại vải thoáng mát như vải lanh để dễ chịu vào mùa hè. Nhưng tiện lợi đó đã giúp kimono trở thành một phần trong cuộc sống hàng ngày của người dân Nhật Bản.
    [​IMG]Kamakura
    Qua thời gian, do việc luyện tập mặc kimono theo nhiều lớp đã trở thành tập tục, người Nhật bắt đầu chú ý đến việc các bộ kimono màu sắc khác nhau kết hợp với nhau như thế nào, và họ đã phát triển một tính nhạy cảm ngày càng cao về màu sắc. Thông thường, việc phối hợp màu sắc tượng trưng cho những màu sắc theo mùa hoặc họ thuộc về tầng lớp chính trị nào. Có lẽ cũng trong thời kì này, sự phối hợp màu sắc truyền thống của Nhật Bản đã phát triển.
    Trong thời kì Kamakura (1192-1333) và thời kì Muromachi (1333-1603), cả đàn ông và phụ nữ đều mặc những bộ kimono màu sáng. Binh lính mặc những màu tượng trưng cho người chỉ huy của họ, và đôi khi chiến trường loè loẹt như một buổi trình diễn thời trang vậy.
    Trong thời kì Edo (1603-1868), dòng họ Tokugawa cai trị toàn Nhật Bản. Đất nước bị chia cắt thành những lãnh địa phong kiến do những lãnh chúa cai quản. Các samurai của mỗi lãnh địa được nhận biết bằng màu sắc và hoa văn trên ?ođồng phục? của mình. Chúng bao gồm 3 phần: một cái kimono, một cái áo không tay được gọi là kamishimo mặc ngoài áo kimono, và một cái hakama, một loại váy xẻ tương tự như quần. Kamishimo được làm bằng vải lanh, được hồ cứng để làm cho vai áo dựng đứng lên. Với việc phải làm rất nhiều trang phục samurai, những người làm kimono tay nghề ngày càng khá lên, và làm kimono đã trở thành một hình thức nghệ thuật. Kimono trở nên quý giá hơn, và cha mẹ để chúng lại cho con cái như là vật gia truyền của gia đình.
    [​IMG]Diễn viên kịch nô mặc kamishimo
    Trong thời kì Meiji (1868-1912), Nhật Bản chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hoá nước ngoài. Chính phủ khuyến khích người dân sử dụng quần áo và những thói quen của phương Tây. Những viên chức chính phủ và quân đội được luật quy định phải mặc quần áo phương Tây trong những buổi lễ chính thức (điều luật đó ngày nay không còn nữa). Với những công dân bình thường, mặc kimono trong những dịp trang trọng được quy định phải mặc những áo khoác ngoài có trang trí bằng hình dấu riêng của gia đình, để có thể nhận biết được gia cảnh của người đó.
    Ngày nay, người Nhật hiếm khi mặc kimono trong cuộc sống hàng ngày, mà để dành cho những dịp như đám cưới, đám tang, tiệc trà, hay những sự kiện đặc biệt khác, như lễ hội mùa hè.
    [​IMG]Mặc Kimono đi xem kịch Kabuki
    2. Các kiểu kimono và thiết kế
    Cách thức để làm kimono là độc nhất vô nhị. Một miếng vải dài từ 12 đến 13 mét và rộng từ 36 đến 40 cm được cắt thành 8 mảnh. Những mảnh này được khâu lại với nhau để tạo nên hình dáng cơ bản của chiếc kimono. Tất cả số vải đều được sử dụng, không có cái gì bị vứt đi. Loại vải thường được sử dụng là lụa, nhưng yukata (loại kimono thường mặc mùa hè) thường được làm bằng cotton. Việc sử dụng tám miếng vải riêng biệt giúp dễ dàng tách rời chiếc kimono ra để thay thế hoặc sửa những miếng vải đã cũ, phai màu hay bị hỏng.
    [​IMG]
    Màu sắc của kimono được tạo thành từ 1 trong 2 cách: vải được dệt từ những sợi chỉ màu khác nhau, hoặc là vải dệt được nhuộm. Một ví dụ về vải kimono có màu được dệt là oshima-tsumugi, một loại vải được làm ở trên đảo Amami-Oshima, phía nam Kyushu. Loại vải này rất chắc và có màu bóng. Một ví dụ nữa là yuki-tsumugi, được làm ở thành phố Yuki thuộc quận Ibaraki, người ta nói loại vải này bền đến nỗi có thể để được 300 năm.
    [​IMG]Tsumugi
    Kimono nhuộm bắt đầu với vải dệt màu trắng, sau đó sẽ có những hình trang trí được vẽ hoặc thêu lên đấy. Kĩ thuật này sản sinh ra những loại vải màu sắc sặc sỡ. Một ví dụ về vải nhuộm là kyo-yuzen, được làm ở Kyoto, có đặc điểm là có những hình trang trí màu rất tinh vi. Một ví dụ khác là kaga-yuzen, được sản xuất tại thành phố Kanazawa. Kaga-yuzen có đặc điểm là có những hình ảnh thực tế về thiên nhiên. (Từ yuzen là tên của kĩ thuật nhuộm có thể chịu được mẫu vẽ và loại vải thường được dùng để tạo ra nó.)
    [​IMG]Iromugi
    Lợi thế của vải với màu được dệt là màu được phủ đều, vì vậy nếu mặt trước của vải bị bạc màu, bạn có thể sử dụng mặt kia. Lợi thế của vải nhuộm là nếu màu bị bạc, bạn có thể dễ dàng nhuộm một màu mới.
    [​IMG]
    Kimono được mặc cùng với những cái dây thắt lưng được gọi là obi, để giữ chiếc kimono đúng vị trí và khép kín mặt trước. Obi không chỉ phục vụ cho chức năng thiết thực này mà còn rất đẹp nữa. Obi dài khoảng 4 mét và rộng khoảng 30cm. Có hai loại obi: fukuro-obi chỉ có trang trí trên một mặt, và nagoya-obi thì hẹp hơn ở giữa giúp dễ dàng buộc vào người hơn. Obi như là nishiki-obi được làm ở Kyoto được đánh giá cao bởi những màu sắc như màu vàng và bạc được dệt vào đó. Obi như là hakata-kenjo, được làm tại quận Fukuoka cũng rất nổi tiếng.
    [​IMG]Obi
    Có rất nhiều cách để thắt obi. Cách thắt nơ phổ biến nhất là taiko-musubi (drum bow). Kiểu nơ này được thắt ở đằng sau lưng, xoè ra như một cái gối và rất đẹp. Kiểu taiko-musubi đã phổ biến từ cuối thời kì Edo. Trước khi kiểu nơ này xuất hiện thì người ta không hề quan tâm xem obi của họ có đẹp hay không, obi chỉ là một cách để giữ chiếc kimono đúng vị trí và khép kín mặt trước. Nhưng từ khi kiểu taiko-musubi xuất hiện, rất nhiều kiểu nơ đẹp khác cũng xuất hiện theo.
    [​IMG]Taiko-musubi
    Trong thời kì Meiji, người ta bắt đầu thắt chiếc obi với những phụ kiện được gọi là obi-ageobi-jime. Obi-age dùng để giữ đúng vị trí miếng đệm thường đượd dùng để định hình cái nơ buộc. Obi-jime được dùng để giữ đúng vị trí của obi. Việc sử dụng những phụ kiện này trong những màu sắc được phối hợp khác nhau đã trở thành một cách để người ta phô bày khiếu thẩm mĩ của mình.
    [​IMG]Obi-jime
    Những vật dụng chủ yếu khác đi kèm với chiếc kimono bao gồm han?Teri (một lớp vải lót cho cổ áo của bộ kimono ở phía trong) và tabi (tất để đi cùng với dép zori). Những vật dụng này chỉ toàn một màu trắng để làm nổi bật màu sắc của chiếc kimono.
    [​IMG]Kamikazari ( trâm cài đi kèm với kimono)
    3. Người ta thường mặc kimono vào những dịp nào?
    Người Nhật thường nhận biết được bốn mùa một cách rất tinh, và trang phục họ mặc thường phù hợp theo mùa. Người Nhật cũng rất hay thông báo về tình trạng trong cuộc sống của họ. Những sự kiện quan trọng được tổ chức để đánh dấu những mốc lịch sử trong sự trưởng thành của những đứa trẻ, và người ta thay đổi những bộ kimono của họ cho phù hợp với mùa và sự kiện.
    Trong vòng từ 30 đến 100 ngày sau khi một đứa trẻ được sinh ra, cha mẹ, anh chị em ruột, và ông bà cùng nhau đến lễ ở đền để thông báo sự ra đời của đứa trẻ. Đứa trẻ được mặc một bộ kimono lót màu trắng. Trên bộ kimono đó thì đứa trẻ mặc một bộ kimono nhuộm-yuzen sáng màu nếu là bé gái, và một bộ kimono đen được trang trí bằng hình dấu riêng của gia đình nếu là bé trai.
    Một sự kiện quan trọng nữa trong cuộc đời của đứa trẻ là Lễ hội Shichi-Go-San (?obảy-năm-ba?) được tổ chức vào tháng 11. Vào ngày này, cha mẹ dẫn cậu con trai năm tuổi và cô con gái 7 hoặc 3 tuổi đến đền thờ gần nhà để cảm tạ thần linh đã giúp cho lũ trẻ được khoẻ mạnh và làm cho chúng lớn lên. Những đứa trẻ cũng mặc kimono trong dịp này.
    [​IMG]Shichi-Go-San
    Vào năm 20 tuổi, những cô cậu thanh niên kỉ niệm ngày họ chính thức trưởng thành bằng cách đến lễ ở một đền thờ vào Ngày Trưởng thành, ngày thứ Hai thứ 2 của tháng 1. Vào dịp này, các cô gái mặc furisode (kimono với ống tay áo dài), và các cậu con trai mặc haori (áo khoác ngắn) và hakama được trang trí bằng những hình dấu riêng của gia đình.
    [​IMG]Furisode
    Những bộ kimono furisode chỉ được mặc bởi những phụ nữ chưa kết hôn. Ngày xưa, những cô gái Nhật trẻ bày tỏ tình yêu của mình với một người khác giới bằng cách vẫy cái tay áo có vạt dài của chiếc kimono furisode của họ.
    Tại những đám cưới, cô dâu mặc một bộ kimono toàn màu trắng được gọi là shiromuku. Màu trắng biểu hiện cho sự bắt đầu của một cuộc hành trình.
    Một khi người phụ nữ đã kết hôn, họ không còn mặc furisode nữa. Thay vào đó, họ mặc tomesode, một loại kimono có vạt tay áo ngắn hơn. Tomesode màu đen với hình dấu của gia đình người mặc trên đó được dành cho những dịp trang trọng, như đám cưới của một người họ hàng chẳng hạn? Tomesode màu cũng được mặc vào những dịp trang trọng, nhưng chúng không phải luôn có hình dấu của gia đình ở trên. Chìa khoá để phân biệt điểm đặc biệt của chiếc tomesode (màu đen và cả những màu khác nữa) là chỉ có vải ở phần dưới của chiếc kimono được trang trí hoa văn.
    [​IMG]Tomesode[​IMG]
    [​IMG]
    Có rất nhiều loại kimono khác dành cho phụ nữ. Khi đến thăm một cách trang trọng, họ mặc homongi (?ovisiting kimono?), hoàn toàn được trang trí bằng hoa văn. Tsukesage (được trang trí bằng hoa văn chạy từ mép của mặt trước và mặt sau áo lên gặp nhau tại vai áo, và hoa văn trên ống tay áo gặp nhau tại đỉnh của ống tay áo) được dành cho các bữa tiệc, các buổi tiệc trà, cắm hoa và đám cưới của bạn bè.
    [​IMG]Homongi[​IMG]Tsukesage[​IMG]Komon
    Để mặc bình thường, người ta có thể chọn trong các bộ kimono như komon, được trang trí bằng những hoa văn nhỏ và tinh tế, và tsumugi với những hoa văn sáng và nổi bật hơn.
    Cho dù là dịp nào ?" đi lễ đền đầu năm mới, đến thăm một người lớn tuổi hơn hay là gì đi nữa - người Nhật luôn luôn ghi nhớ mùa để quyết định nên mặc bộ kimono nào. Những màu nhạt như xanh lá cây nhẹ thích hợp với mùa xuân, trong khi những màu sắc hơi lạnh như màu hoa oải hương (xanh nhạt hơi pha đỏ) hay xanh thẫm lại hợp với mùa hè. Mùa thu mời gọi những màu mô phỏng theo màu sắc của những chiếc lá đang chuyển màu, và mùa đông là mùa cho những màu sắc mạnh như đen và đỏ.
    [​IMG]mùa hè[​IMG]mùa đông
    Vào mùa hè, người Nhật rất thích đốt pháo hoa và tham dự những lễ hội mùa hè. Vào thời gian này, họ mặc những bộ kimono mùa hè đơn giản, được gọi là yukata. Ngày xưa, người ta thường mặc yukata ở nhà sau khi tắm xong, nhưng bây giờ, chúng phần lớn đã trở thành áo khoác ra đường vào mùa hè, nơi chúng được người già cũng như người trẻ, đàn ông cũng như phụ nữ, mặc. Phần lớn yukata được làm bằng cotton. Theo truyền thống là chúng được trang trí hoa văn xanh nước biển trên nền trắng hoặc trắng trên nền xanh nước biển, nhưng trong những năm gần đây, những kiểu trang trí nhiều màu sắc cũng đã xuất hiện.
    [​IMG]
    Cho dù kimono không còn là trang phục thường ngày ở Nhật Bản nữa, người dân vẫn thích mặc nó vào rất nhiều dịp trong năm. Và khi họ mặc chúng, họ sử dụng vải, màu sắc và kiểu cách của chiếc kimono để bày tỏ tình yêu với bốn mùa trong năm của mình.

    Blue eyes, baby's got blue eyes, like the deep blue sea...
  3. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    III/ Ukiyo-e (Phù Thế hội)
    [​IMG]Mikaeri Bijin (A Beauty Looking over Her Shoulder) của Hishikawa Moronobu
    Nguồn gốc của Ukiyo-e: Từ Ukiyo muốn nhắc đến thế giới của những người dân bình thường, và e có nghĩa là tranh. Vì vậy kể từ khi ukiyo-e bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỉ 16, nó thường miêu tả cuộc sống hàng ngày ở Kyoto. Mãi cho đến thế kỉ 18, ukiyo-e mới trở thành một hình thức nghệ thuật phổ biến, tuy vậy, vẫn phải cảm ơn một phần tới sự phát triển trong kĩ thuật in mộc bản. Ngoài ra, những chủ đề quen thuộc như diễn viên kịch kabuki và những phụ nữ đẹp đã được miêu tả vào thời kì này, và những cuốn sách có tranh minh hoạ của những hoạ sĩ ukiyo-e trẻ tuổi được lưu hành rộng rãi. Những nhân tố này đã giúp ukiyo-e trở thành một phần của văn hoá Nhật Bản. Các bậc thầy của ukiyo-e là Matabei, Moronobu, Harunobu, Kiyonaga, Utamaro, Hiroshige, Hokusai?
    [​IMG]Ichikawa Monnosuke (The Actor Ichikawa Monnosuke) của Torii Kiyonobu
    Đổi mới kĩ thuật: Đầu tiên, ukiyo-e không phải là những bản in mà là những bức vẽ bằng sumi (mực đen); sau đó, màu được thêm vào, và do số màu tăng lên và bức tranh trở nên phức tạp hơn, kĩ thuật in mộc bản đã phát triển được những bản in hàng loạt cũng có trang trí như thế. Chỉ một vài màu được sử dụng trong những bản in đầu tiên, như vì kĩ thuật phát triển, ukiyo-e trở nên nhiều màu sắc và trang nhã hơn.
    Làm bản in mộc bản là một quá trình gồm ba công đoạn: (1) vẽ một bức hình trang trí bằng mực, (2) khắc hình trang trí vào những khối gỗ, (3) thêm mực màu vào khối gỗ và ấn giấy lên trên đó để in hình trang trí. Có những chuyên gia cho từng công đoạn này, và cả quá trình mất rất nhiều công sức, nhưng một khi khối gỗ được hoàn thành thì trở nên dễ dàng hơn rất nhiều so với trước kia để sao chép một hình trang trí tương tự.
    Những bức in sản xuất hàng loạt bằng cách này được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, và ukiyo-e đã phát triển thành một hình thức nghệ thuật phổ biến.
    [​IMG]Yokkaichi (Fifty-Three Stations of the Tokaido: Yokkaichi) của Utagawa Hiroshige
    Các loại ukiyo-e: Khi ukiyo-e phát triển lên thành một hình thức nghệ thuật phổ biến, những chủ đề đã được xét tới. Yakusha-e là chân dung của những diễn viên kịch kabuki trong những vai phổ biến; chúng phần nào cũng giống những poster và ảnh của những ngôi sao điện ảnh bạn có thể mua ngày nay. Bijin-ga minh hoạ những phụ nữ xinh đẹp của Edo ( ngày nay là Tokyo). Bạn có thể nghĩ họ là hình ảnh của những phụ nữ thành thị lí tưởng. Thiên nhiên không là đề tài của ukiyo-e cho đến mãi về sau, khi người ta trở nên khám khá hơn và có thể đi du ngoạn lúc rỗi rãi. Những bản in phong cảnh được sử dụng tương đương như bưu thiếp ngày nay.
    [​IMG]Sawamura Sojuro (The Actor Sawamura Sojuro) của Utagawa Toyokuni
    Ảnh hưởng lên nghệ thuật phương Tây: khoảng cuối thế kỉ 19, những hoạ sĩ châu Âu tình cờ bắt gặp những bản in ukiyo-e được dùng để gói hàng. Họ đã bị gây ấn tượng rất mạnh bởi những đường cong đầy diễn cảm, sự sử dụng màu sắc táo bạo và sự sáng tạo tự do của ukiyo-e. Cho tới khi đó, những nghệ sĩ châu Âu và Mĩ chưa bao giờ bắt gặp những kiểu kĩ thuật mà các nghệ sĩ ukiyo-e đã sử dụng. Ukiyo-e vì thế đã có ảnh hưởng lớn đến những hoạ sĩ Ấn tượng như Vincent van Gogh và Claude Monet.
    [​IMG]Furyu Rokkasen: Sojo Henjo (Six Famous Poets: The Priest Henjo) của Suzuki Harunobu
    to be continued...

    Blue eyes, baby's got blue eyes, like the deep blue sea...
    Được Desert Rose sửa chữa / chuyển vào 16:45 ngày 13/01/2003
  4. batistava

    batistava Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    05/02/2001
    Bài viết:
    1.149
    Đã được thích:
    0
    ui , đỉnh cao oé ... bạn zì ơi, vào JC club pốt bài đi ....
    http://www.ttvnol.com/forum/forum.asp?FORUM_ID=208
    The world will be RED & BLACK again ....
  5. Yasunari

    Yasunari Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    895
    Đã được thích:
    0
    He he , tranh giành em gái của box tớ hả ?
    Chậc , các chú lắm thời gian , vô tư post bài , sướng !
    -------
    Vậy thì con vật nào đã bay theo những đoá hoa triêu nhan của tôi ? Không biết nữa ...
  6. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    IV/Búp bê Nhật Bản
    1. Búp bê Nhật Bản
    a. Búp bê
    Búp bê đã từng được nhắc đến dưới cái tên ?okatashiro? [một đồ vật được dùng trong những nghi lễ đạo Shinto (Thần đạo Nhật Bản) có hình một con người chịu đựng lời phù phép vì sự ô uế mang tính lễ nghi hay những thế lực ma quỷ]. Chúng không chỉ có chức năng là đồ chơi cho trẻ em mà còn là những vật theo lễ nghi có liên hệ gần gũi với việc hành lễ tôn giáo.
    Trong những tôn giáo cổ xưa, ?okatashiro? bản thân là một sự nhân cách hoá theo lễ nghi. Chúng được chia một cách rộng rãi ra thành những vật phẩm cúng tế và thành ?ohaniwa? [một cái tượng đất sét. Haniwa có nghĩa là ?ovòng đất sét? và nó nói đến một khối trụ bằng đất sét đỏ, thường được đặt quanh khu mộ phần Hoàng gia để giúp ổn định khu đất và nâng đỡ mái nhà] hay ?ohito-gata? là hiện thân của linh hồn con người.
    ?oHinamatsuri? (Lễ hội Búp bê) ngày nay đã có từ thời Edo (1603-1868). Vào năm 1616, Mạc phủ đã chọn ra năm lễ hội theo mùa từ những lễ hội được tổ chức ở triều đình và quyết định làm lễ kỉ niệm. Đó là ?onanakusa? (7/1) [có nghĩa là bảy loại cỏ. Nó muốn nói đến hai nhóm, mỗi nhóm bảy loại cỏ, một nhóm có vào mùa xuân và một nhóm vào mùa thu. Người ta thu thập bảy loại cỏ mùa xuân và ăn chúng vào ngày 7/1 để thể hiện ước muốn có một sức khoẻ dồi dào], ?omomo-no-sekku? (3/3) [Lễ hội Đào được tổ chức để mong muốn cho những bé gái sau này sẽ được hạnh phúc và phát đạt], ?otango-no-sekku? (5/5) [Lễ hội Con trai được tổ chức để mong muốn cho những cậu con trai sau này lớn lên sẽ được mạnh khoẻ], ?otanabata? (7/7) [Lễ hội Thất tịch theo truyền thuyết về Ngưu Lang Chức Nữ ở hai bên bờ sông Ngân, mỗi năm được gặp nhua một lần vào ngày 7/7] và ?ochoyo-no-sekku? (9/9) [Lễ hội được tổ chức vào ngày 9/9 âm lịch. Vì số 9 tượng trưng cho sự giàu có, ngày thứ 9 của tháng thứ 9 được coi là một ngày cực kì may mắn để chúc nhau trường thọ] thường được biết đến dưới cái tên ?okiku-no-sekku? (Lễ hội Hoa cúc). Tất cả những lễ hội này, ngoại trừ ?onanakusa? đều được tổ chức vào những ngày mà có ngày và tháng cùng một số như 3/3, 5/5? Vào thời đó, người ta tin rằng đây là những ngày tốt lành.
    Lễ hội Búp bê đầu tiên là lễ hội ?omomo-no-sekku? năm 1629, khi Hoàng hậu Tokufumon?Tin-Kazuko (con gái của Tokugawa Hidetada[Tướng quân thứ hai của triều đại Tokugawa, nắm quyền từ năm 1605 đến năm 1623]), là vợ của Thiên hoàng Gomizunoo (Thiên hoàng thứ 108) chuẩn bị một cặp búp bê nam nữ cho con mình.
    Búp bê thời Muromachi (1333-1603) là sở thích của các thầy tế và các thợ chạm khắc.
    Tên cho những con búp bê như thế được đặt vào thời Muromachi, nhưng đến thời kì Edo thì nghề làm búp bê mới xuất hiện. Những bức tượng nhiều màu sắc là thí dụ của ?okeicho-butsu? [những tượng Phật được tạo ra chủ yếu vào thời kì Keicho (1596-1615)] đã được sản xuất trong thời Muromachi bằng cách sử dụng phấn nhập khẩu (chất nhuộm trắng dùng cho những bức tranh kiểu Nhật), được làm bằng cách tán nhỏ vỏ sò đã đốt cháy. Kĩ thuật này cũng được dùng để làm búp bê. Phong tục trưng bày búp bê tại ?omomo-no-sekku? cũng được hình thành trong một số lãnh chúa phong kiến, họ đều sử dụng những thợ làm búp bê lão luyện để khoe khoang về búp bê của mình.
    Công nghệ làm ?ohina? (một từ cổ có nghĩa là búp bê) tất nhiên đã sản sinh ra nhiều loại búp bê khác, bao gồm cả những con búp bê có y phục, và sau đó đến thời kì những con búp bê sang trọng nổi bật hẳn lên. Những con búp bê dùng trong lễ nghi đã có được một số chất liệu trang trí và những con búp bê được trang trí lộng lãy đã ra đời. Bằng cách phục trang cho những con búp bê này trong những loại vải lộng lẫy, đắt tiền và sử dụng kịch Nô và cách sống của người dân làm đề tài, những con búp bê đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật minh hoạ ba chiều. Mặt khác, Lễ hội Búp bê cũng được tổ chức trong những gia đình dân thường, họ bắt đầu phong tục trưng bày búp bê sử dụng đất sét và giấy làm chất liệu. Từ trước đó rất lâu, vì những con búp bê đất sét và giấy này đã được coi như là hàng thủ công dân gian địa phương và mang lại một nguồn lợi nhuận, những tiềm năng thương lại của chúng đã được phát triển bằng những nỗ lực quảng cáo tại một số ?ohan? (lãnh địa). Rất nhiều búp bê loại này vẫn còn tới ngày nay và được coi là búp bê dân gian.
    Những con búp bê phản chiếu thời kì, vùng miền và phong tục khi chúng được tạo ra. Do đó, chúng còn được coi là những phiên bản ba chiều của ukiyo-e. Vì ukiyo-e là một nhân tố thiết yếu trong văn học dân gian, búp bê cũng trở nên thiết yếu trong thể loại này. từ việc quan sát những con búp bê chân dung được làm cho vợ của những ông chủ cửa hàng lớn và những người phục vụ nữ trong những dinh thự samurai để cạnh tranh những diễn viên yêu thích của mình, chúng ta có thể dễ dàng hình dung ra sự lôi cuốn của từng diễn viên kịch Kabuki và của những buổi biểu diễn rất phổ biến với công chúng của họ.
    b. Hina Ningyo ?" Búp bê cho Lễ hội con gái
    Lễ hội ?omomo-no-sekku? kỉ niệm ?ohina matsuri? xuất phát từ một phong tục cổ của Trung Quốc ?ojoshi-no-matsuri? (Festival of the Serpent Day). Để dâng những lời nguyện cầu sức khoẻ và hạnh phúc cho năm tới, người ta theo lễ nghi chuyển những bất hạnh và tội lỗi của họ sang cho ?ohito-gata? bên mép nước, và sau đó thả cho chúng trôi đi. Tục lệ này được làm vào ngày đầu tiên của ?omi? (?orắn? trong biểu tượng hoàng đạo Trung Hoa) vào tháng 3, đi kèm với việc uống rượu sake được làm từ đào, họ tin rằng rượu này có sức mạnh xua đuổi ma quỷ. Vào thời kì Nara (710 ?" 794), phong tục này đã du nhập vào Nhật Bản và vào ngày này mỗi năm ?okyokusui-no-en? [moojt bưũa tiệc được tổ chức tại triều đình phong kiến vào ngày tị đầu tiên của tháng 3 hặoc tại Lễ hội Đào vào thời Nara và Heian] được tổ chức giữa những người quý tộc vào thời kì Heian (794 ?" 1185).
    Ngày nay, phong tục này vẫn còn tồn tại ở vùng Tottori, và ?onagashi-bina? (thả trôi búp bê hina), kỉ niệm vào ngày 3/3 âm lịch, được cho rằng đã thừa hưởng từ những lễ hội trên.
    Từ ?ohina? bắt nguồn từ ?ohiina?, một cặp búp bê nam nữ được làm thủ công bởi những người nữ tì ở triều đình. Những liên hệ với ?ohina? đã xuất hiện trong những tác phẩm văn chương của những nhà văn nữ thời Heian, như trong ?oMakura-no-soshi? (Chẩm thảo tử: Sách gối đầu của Sei Shonagon), ?oGenji Monogatari? (Truyện Genji của Murasaki Shikibu), và ?oKagero Nikki? (The Gossamer Years: Phù du Nhật kí của vợ của Hoàng thân Kaneie). Nguyên mẫu của những cặp búp bê ?ohina? nam nữ là vị thần được treo trên bức mành tre tại một toà nhà được gọi là Sanjo Den ở triều đình. Đây là ?oSai-no-Kami? đã bảo vệ thế giới này như là biên giới với thế giới bên kia. Vào thời cổ, người ta tin rằng những điều bất hạnh đến từ thế giới bên kia. Phong tục cho rằng người chết mang theo những bất hạnh của thế giới này về thế giới bên kia được thể hiện ở ?oamagatsu?, là một nguyên mẫu khác của ?ohina?. Búp bê ?oamagatsu?, sử dụng làm ?okatashiro? trong các đám ma, đã được biến đổi thành những con búp bê dùng khi một đứa trẻ được ra đời để hứng chịu những bất hạnh trong cuộc đời của đứa bé ấy. Với con trai, những con búp bê này được sử dụng cho tới khi họ đến tuổi trưởng thành. SAu một buổi lễ để thể hiện lòng biết ơn, những con búp bê được đốt thành tro và trở về với đất. Với con gái, những con búp bê được họ mang theo về nhà chồng trong hôn lễ và được sử dụng cho tới khi họ sinh con. ?oAmagatsu? cũng được gọi là ?ohoko?. Sau khi Lễ hội Con gái trở nên phổ biến trong các nhà quý tộc và các lãnh chúa phong kiến vào thời kì Edo (1600 ?" 1868), họ bắt đầu trưng bày chúng, sử dụng ?oamagatsu? làm búp bê nam và ?ohoko? làm búp bê nữ.
    2. Búp bê qua từng thời kì
    [​IMG]Amagatsu [​IMG]Hoko (Amagatsu-bina)
    Búp bê Amagatsu ăn mặc như một con bù nhìn trong khi Hoko lại trông giống như một con búp bê nhồi bông. Cả hai từ này đều được dùng để chỉ một thứ như nhau. Vào thời đó, chúng được gọi là ?ohoko?, còn ngày nay chúng ta gọi là ?oamagatsu?, và cũng có cả ?oamagatsu? nhồi bông. Những con búp bê này được sử dụng làm ?okatashiro? trong những đám ma vào thời kì Heian (794 ?" 1185), nhưng vào thời Muromachi (1333 ?" 1568), chúng được sử dụng rộng rãi làm vật thay thế để chịu đựng những sự nhơ bẩn và những thế lực ma quỷ làm hại trẻ con. Vào thời Edo (1600 ?" 1868), người ta bày những con búp bê này tại lễ hội ?omomo-no-sekku? cùng với những con búp bê cho Lễ hội Búp bê, bằng cách dùng Hoko làm búp bê nam và Amagatsu làm búp bê nữ.
    [​IMG] Kan?Tei-bina
    Cho dù thuật ngữ này bao gồm cả tên năm Kan?Tei (1624 ?" 1644), những con búo bê này được cho là đã sản xuất vào năm Keian (1648 ?" 1651). Những con búp bê được làm cho Hoàng hậu Tokufumon?Tin, là nguồn gốc của Lễ hội Búp bê, có dáng ngồi thấp hơn ?okan?Tei bina? và giống ?ohina? ở khuôn mặt tròn. Chỉ còn đúng một cặp búp bê này còn đến ngày nay ở Bảo tàng Kobe Tekisui. Búp bê ?okan?Tei-bina? còn bao gồm cả một số kĩ thuật làm cho trang phục và gương mặt trông lịch sự. Sự chắc chắn thừa hưởng được từ ?ohina? là một trong những nét đặc biệt của búp bê ?ohina? những ngày đầu.
    [​IMG][​IMG] Kyoho-bina
    Những con búp bê ?ohina? lớn lộng lẫy. Cũng như cái tên của Kan?Tei-bina không phù hợp với năm chúng thực sự được tạo ra, Kyoho-bina không nhất thiết phải được làm vào thời kì Kyoho (1716 ?" 1736). ?oKan?Tei-bina? đã được cải tiến xa hơn, và sau ?ogenroku-bina?, chúng ngày càng trở nên to hơn vào những năm 1700. Trong thời kì cầm quyền của Tướng quân Yoshimune [Tokugawa Yoshimune (1684 ?" 1751) là vị Tướng quân thứ 8 của triều đại Tokugawa, nắm quyền từ 1716 đến 1745], búp bê ?ohina? trở nên xa xỉ đến mức mà việc sản xuất những con búp bê đắt tiền như vậy đã bị cấm. Nếu sự kiện này được xảy ra trong dòng chảy cải tổ của thời kì Kyoho [một loạt những cải tổ và cắt giảm được Tokugawa Yoshimune tiến hành vào thời kì Kyoho để giải quyết những khủng hoảng tài chính đang đối mặt với Mạc phủ và tầng lớp samurai] thì có lẽ những con búp bê này đã được sản xuất trước khi Yoshimune lên nắm quyền Tướng quân. Thêm vào đó, dù người ta nghiêm túc chấp hành lệnh cấm, những con búp bê ?ohina? lớn và lộng lẫy vẫn rất phổ biến giữa các lãnh chúa phong kiến địa phương. ?oKyoho-bina? đạt tới đỉnh cao trong thời hoàng kim của mình vào những năm 1750, nhưng với sự xuất hiện của ?otakakura-bina?, ?ojirozaemon-bina? và ?okokin-bina?, ?okyoho-bina? đã bị lu mờ và đẩy về phía sau.
    [​IMG][​IMG]Yusoku-bina
    Trước búp bê ?oyusoku-bina?, trang phục của búp bê nam ?okyoho-bina? mặc theo kiểu trang phục ?okariginu? của một buổi lễ đi săn, trong khi búp bê nữ lại mặc ?oinsutsuginu?, một bộ trang phục bao gồm 5 chiếc áo thụng khoác ngoài và một chiếc váy lễ màu đỏ xuất hiện trông là quý tộc. Tuy vậy, mẫu thời trang này không phản chiếu hoàn hảo trang phục trang trọng ở triều đình vào thời kì này. Vì thế những người chịu trách nhiệm về trang phục ở Triều đình của Hoàng đế, cùng với dòng họ Yamashina và Takakura, đã phục trang cho búp bê của họ chính xác như những bộ trang phục hoà hợp với kiểu ăn mặc của những năm 1755. Đó là sự bắt đầu của ?oyusoku-bina?.
    [​IMG][​IMG]Kokin-bina
    Búp bê ?ohina? này được thiết kế và làm ra bởi Hara Shugetsu, một thợ làm búp bê của Edo Jukken Dana rất nổi tiếng vì chợ ?ohina? của nó. Chúng được phục trang giống như ?oyusoku-bian?, nhưng búp bê nữ lại được đội một cái mũ miện giống như búp bê ?okyoho-bina?. Vào thời kì này, một số lượng lớn và phong phú búp bê ?ohina? đã được tạo ra. Búp bê ?oyusoku-bina? được sử dụng chủ yếu ở những gia đình quý tộc, ?ojirozaemon-bina? trong những gia đình samurai, và ?okokin-bina? ở những gia đình thương gia giàu có.
    [​IMG][​IMG]Shinno-bina
    Những con búp bê này có kiểu cách giống ?oyusoku-bina?. Trang phục của chúng, kiểu tóc ?oosuberakashi? [một kiểu tóc ngày xưa, chỉ được các thành viên của hoàng tộc dùng khi họ mặc những bộ trang phục trang trọng] của búp bê ?ohina? nữ, và những nét đặc biệt khác đều phản chiếu những nét đặc trưng của ?oyusoku-bina?, nhưng kích thước của chúng lớn hơn, điều này có vẻ giống búp bê ?okyoho-bina? hơn, và sự xa xỉ cũng được nhấn mạnh. Đây là những con búp bê ?ohina? đã trở thành nguyên mẫu cho búp bê ?ohina? ngày nay.

    Blue eyes, baby's got blue eyes, like the deep blue sea...
    Được Desert Rose sửa chữa / chuyển vào 14:54 ngày 23/01/2003
    Được Desert Rose sửa chữa / chuyển vào 14:58 ngày 23/01/2003
  7. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    V/ Nghệ thuật xếp giấy Origami
    [​IMG] [​IMG]
    Origami là một trò giải trí truyền thống của Nhật Bản, Người ta sử dụng chỉ một mảnh giấy hình vuông được gấp bằng nhiều cách khác nhau để tạo nên những hình dáng như những con vật dễ thương và cây cỏ xinh đẹp. Vì nó chỉ tốn một tờ giấy nên sở thích này có thể được thực hiện ở bất cứ đâu; rất nhiều người dân Nhật Bản chơi trò này ở nhà và ở trường. Hình xếp origami nổi tiếng nhất mà rất nhiều trẻ em được học từ cha mẹ hay ông bà là hình chim hạc. Những hình xếp khác bao gồm hình hoa, ****, cua, và ngay cả những sáng tạo khó như hình cây thông Nôen. Origami đặc biệt phổ biến với các cô gái.
    Việc tập origami đã bắt đầu từ đầu những năm 700, khi giấy lần đầu tiên được du nhập vào Nhật Bản. Đầu tiên giấy được gấp lại để trang trí cho những buổi lễ tôn giáo tại đền thờ, nhưng dần dần người ta cũng đã sử dụng chúng trong cuộc sống bình thường. Vào thời kì Heian (794 ?" 1185) phổ biến cách gấp những tờ giấy đắt tiền và sử dụng để gói thư và quà cho đẹp. Sau đó, origami tiếp tục được sử dụng trong những buổi lễ dân gian, nhưng những phụ nữ trong triều đình phong kiến bắt đầu gấp búp bê và những hình dạng khác để tiêu khiển.
    Vào thời kì Edo (1603 ?" 1868), người ta đã nghĩ ra nhiều loại origami khác nhau gồm cả việc cắt và xếp giấy thành từng lớp, và hoạt động này trở nên phổ biến trong những người dân thường ở Nhật Bản. Sau đó, vào thời Meiji (1868 ?" 1912), origami đã bắt đầu được dạy ở trường tiểu học. Học sinh tiếp tục học origami ở trường cho tới tận ngày nay; nó được sử dụng để dạy các khái niệm trong hình học, như mối quan hệ giữ một mặt phẳng và một hình không gian.
    Origami nhanh chóng trở nên phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
    [​IMG][​IMG]
    Blue eyes, baby's got blue eyes, like the deep blue sea...
    Được Desert Rose sửa chữa / chuyển vào 15:20 ngày 23/01/2003
  8. Desert_Rose_new

    Desert_Rose_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    VI/ Ikebana - nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản
    1. Ikebana là gì?
    [​IMG]Heika
    Ikebana là nghệ thuật cắm cành (cây hoặc hoa), lá và hoa đã cắt một cách đẹp đẽ trong những chiếc lọ hay những vật chứa khác đã phát triển ở Nhật Bản hơn bảy thế kỉ nay. Để cắm những cành và hoa chính xác như mình mong muốn, sự hiểu biết về rất nhiều cách khác nhau để buộc chặt và đặt chúng vào vị trí là rất cần thiết. Người ta thường tham dự các lớp học ikebana để học các kĩ thuật này. Thường phải mất từ 3 đến 5 năm để nắm bắt được những kĩ năng về kĩ thuật và sự diễn cảm này.
    [​IMG]Moribana
    Hơn 7 thế kỉ phát triển, ikebana đã hình thành nên rất nhiều kiểu cắm khác nhau. Một vài kiểu phổ biến nhất là kiểu rikka (hoa đứng), seika hay shoka (hoa tươi) và nageire (hoa xếp toả ra) khi cắm trong những lọ hình bát và kiểu moribana (hoa đâm chéo vào nhau) khi sử dụng vật đựng giống như đĩa.
    Một cách truyền thống thì hoa cắm phải được để trang trí ở toko-no-ma ?" cái hốc thụt vào trong các căn phòng nơi thường để tiếp khách. Ngày nay chúng cũng thường được thấy ở các tiền sảnh và phòng khách, cũng như trong hành lang của các toà nhà lớn và tủ kính bày hàng.
    Sự lựa chọn nên cắm hoa gì phụ thuộc vào ước muốn tạo nên sự hoà hợp giữa hoa và vật đựng và tìm thấy những loại hoa phù hợp với khung cảnh chung quanh. Dù việc cắm hoa hết lớp này đến lớp khác được sử dụng trong nghệ thuật cắm hoa phương Tây, trong ikebana, sự lưu ý then chốt là việc sử dụng càng ít cành và lá càng tốt để tạo nên những đường nét thanh lịch nêu bật lên vẻ đẹp của hoa.
    [​IMG]Hanaisho
    Một số trường dạy ikebana đã bắt đầu kết hợp những kiểu hoa tương tự như của phương Tây (như kiểu Hanaisho của trường Ohara). Nhưng dù như vậy thì cũng sẽ không có những lớp hoa dày đặc như kiểu phương Tây; cách cắm hoa thấm đẫm cái nhìn của phương Đông về thiên nhiên và kết hợp chặt chẽ với không gian xung quanh hoa để hình thành nên một sự cân bằng hoàn hảo giữa những yếu tố này.
    2. Các kiểu cắm hoa Ikebana
    a. Heika
    Heika (cũng được gọi là rikka, shoka hay seika) là một kiểu cơ bản của cắm hoa ikebana sử dụng một chiếc lọ cao và làm nổi bật những đường thẳng. Nét đặc biệt lớn nhất là tầm quan trong của việc làm nổi bật nét hấp dẫn tự nhiên của hoa và cắm chúng theo một cách trang nhã và thanh lịch.
    Những chiếc lọ có miệng nhỏ hoặc những vật đựng cao có hình cái bình được sử dụng, với những cành được bó chặt vào với nhau ở trên miệng. Những thanh ngang được sử dụng để gắn những cành vào lọ.
    [​IMG]
    Kiểu cắm heika bao gồm 3 yếu tố chính ?" cành gốc, cành phụ và cành trang trí; độ dài, vị trí và sự khác biệt về góc của chúng phụ thuộc vào loại heika được sử dụng. Trong kiểu cắm xiên, một trong những kiểu cắm heika quan trọng nhất, độ dài của cành gốc gấp rưỡi chiều cao của chiếc lọ, còn cành phụ và cành trang trí thì bằng khoảng một nửa độ dài của cành gốc.
    Cành gốc được để nghiêng về phía trước khoảng 70 độ và toả ra phía trước và bên trái một vùng khoảng 45 độ. Cành phụ được đặt ở phía sau và bên trái của cành gốc để tạo ra độ sâu. Cành trang trí được cắm làm sao để nó sẽ xiên về phía trước một góc 60 độ qua một khu vực góc 30 độ về phía bên phải của cành gốc và cành phụ.
    [​IMG][​IMG]
    b. Moribana
    Moribana sử dụng một vật chứa nông và một kenzan, một cái đế cắm với rất nhiều mũi nhọn để cắm hoa vào đó. Nét đặc biệt của moribana là sự toả rộng ra của những hình dạng tự nhiên và một mô hoa xinh đẹp.
    Trong khi kiểu heika đã được phát triển từ rất nhiều thế kỉ trước đây và có rất nhiều quy tắc, moribana mới chỉ khoảng 100 năm tuổi và không cầu kì như vậy. Những loại hoa của Tây có thể được sử dụng, ví dụ như vậy, và những bông hoa đã cắm có thể được để trong những căn phòng kiểu Tây và lối vào ?" không chỉ ở trong tokonoma, hốc thụt vào của một căn phòng kiểu Nhật truyền thống.
    [​IMG]
    Có rất nhiều kiểu moribana phụ thuộc vào độ dài và góc của cành gốc, cành phụ và cành trang trí. Kiểu vuông góc là kiểu phổ biến nhất; nó tạo ra một cảm giác về sự ổn định và tính nghiêm trang. Với kiểu này, độ dài của cành gốc dài khoảng bằng đường kính và độ sâu của vật chứa cộng lại, với cành phụ vào khoảng 2/3 và cành trang trí dài khoảng bằng một nửa độ dài của cành gốc.
    Cành gốc được đặt thẳng đứng, trong khi cành phụ thì nghiêng đi 45 độ và toả ra một vùng khoảng 30 độ về phía trước và bên trái. Cành trang trí nghiêng 60 độ và được đặt qua một vùng 45 độ về phía trước và bên phải. Nếu nhìn từ trên xuống, ba cành này tạo thành một tam giác vuông. Hoa được đặt vào trong tam giác này để lấp đầy chỗ trống.
    [​IMG][​IMG]
    Dụng cụ cắm hoa Ikebana
    [​IMG]
    Hasami (kéo hoặc kéo xén) được dùng để cắt hoa và cành đến độ dài mong muốn. Cho dù cách cắt cành còn phụ thuộc vào kiểu cây và kiểu cắm, hầu hết đều được cắt theo một góc. Điều này giúp chúng dễ đứng vững hơn trong lọ hoặc trong kenzan và tạo ra khoảng trống để cho được nhiều nước hơn.
    [​IMG]
    Kabin: lọ cao dùng trong cắm hoa kiểu heika. Thanh ngang được dùng để giữ các cành tại ba điểm.
    [​IMG]
    Utsuwa: vật chứa thấp và nông dùng cho moribana
    [​IMG]
    Kenzan là một cái đế cắm với rất nhiều mũi nhọn cao khoảng 1cm để cắm hoa vào và giữ cho hoa đứng chắc.
    Blue eyes, baby's got blue eyes, like the deep blue sea...

Chia sẻ trang này