1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhật ký Lệ Giang 1 và những kinh nghiệm chia sẻ - Lịch trình Tây An Tết âm lịch (T.55) ??" Hà Giang

Chủ đề trong 'Hồi ức về các chuyến đi' bởi zhouqingxin, 23/05/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dudu08

    dudu08 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/07/2001
    Bài viết:
    584
    Đã được thích:
    0

    híc .....nhà thơ đòi kiện em ra tòa nên em phải gỡ ảnh ra ạh,mong cả nhà thông cảm!!!!!
    Bắn súng không nên thì đền đạn, đề nghị Zhou đăng ảnh của phiên dịch của đoàn thay cho ảnh của Manly đi. Không phải đề nghị đâu, mà là yêu cầu đấy. Nếu không đăng thì...phạt tẩm quất cho manly
  2. zhouqingxin

    zhouqingxin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/10/2005
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Phạt em ạ???vô tư đi ,.....em có roi rồi ai muốn quất thì cứ việc đăng ký ,kể cả anh.....
  3. dudu08

    dudu08 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/07/2001
    Bài viết:
    584
    Đã được thích:
    0

    Bắn súng không nên thì đền đạn, đề nghị Zhou đăng ảnh của phiên dịch của đoàn thay cho ảnh của Manly đi. Không phải đề nghị đâu, mà là yêu cầu đấy. Nếu không đăng thì...phạt tẩm quất cho manly
    Thôi, anh xung phong post ảnh phiên dịch của đoàn lên TTVN vậy, sợ chưa??? Em Zhou định sửa máy ảnh à, sao định lên Giang Vọng Đức làm gì, em không thấy anh Hoàn Kiếm có sửa được đâu. Anh bảo có 2 chỗ có thể đến, thứ nhất là chỗ anh Huân ở 463 Giải Phóng, thứ 2 là chỗ đầu Quang Trung, gần ngã tư Tràng Thi, cạnh cửa hàng bán vé máy bay VNA, đối diện bãi xe ô tô hàng không. Anh cũng từng sửa ở đấy rồi, có vẻ cũng uy tín.
    Được dudu08 sửa chữa / chuyển vào 08:15 ngày 14/06/2006
  4. zhouqingxin

    zhouqingxin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/10/2005
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Vâng em đang sửa máy ảnh đây......chỗ Quang Trung thì qua rồi nhưng phải chờ ,còn chỗ anh Huân cũng đã nghe qua nhưng chưa đến được,,,thôi để thứ 7 em qua chỗ anh Huân xem thế nào ,,,,hi hi...Cái máy ảnh hôm ở Lệ giang rơi đánh oạch một cái,vỡ mất màn hình tinh thể lỏng ,chờ thay vì ở Quang Trung họ vẫn chưa có màn đồng bộ ....
    Thôi ảnh của em anh.... giữ làm tin trong nhà nhé ......đừng pót lên mạng không bọn hắc lào ,lang ben ....nó lại có cơ hội để quảng cáo thì chết em đấy !!!!
  5. dudu08

    dudu08 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/07/2001
    Bài viết:
    584
    Đã được thích:
    0
    Theo anh thì em nên điện thoại hỏi anh Huân trước xem sao, nếu QT không có đồ thay thì anh cũng lo chỗ anh Huân cũng thế nốt. Số điện thoại của anh ấy trong box Thiết bị nghe nhìn.Nếu qua mà không được thì mất công. Chia buồn vì những thiệt hại của chuyến đi để đời
  6. cafeonline

    cafeonline Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/09/2003
    Bài viết:
    271
    Đã được thích:
    0
    Ảnh của bác dudu đẹp quá. Máy móc thế này mà không được vận hành khai thác ở lệ giang nhỉ.
    Chốt vài chiếc vào cuối đĩa CD lệ giang nhé
  7. zhouqingxin

    zhouqingxin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/10/2005
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Trích một số thứ từ Tây tạng để tham khảo ,em thấy mọi người có vẻ say mê Tây tạng ,rưng mà đến đấy thì ...híc ...khó khăn lắm đấy ......
    KHÁI QUÁT VỀ TÂY TẠNG

    Trước kia Tây Tạng là một nước độc lập, nay là một khu hành chính ngang với cấp tỉnh của Trung Quốc. Nằm về phia tây nam Trung Quốc. Tên chính thức: Khu tự trị Tây Tạng (Xiang Autonomous Region). Phía bắc giáp Khu tự trị Tân Cương (Xinjiang Uygur Autonomous Region) và tỉnh Thanh Hải (Quinghai Province). Phía đông giáp tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) và Vân Nam (Yunnan). Phía nam giáp Myanmar, Ấn Độ, Bhutan và Népal. Và phía tây cũng còn giáp với Ấn Độ.
    So với vị trí các quốc gia trên toàn thế giới thì Tây Tạng là nơi có địa thế cao nhất, xứ sở này nằm ở độ cao trung bình 4875m. Chính vì vậy nó còn được gọi là xứ trên mái nhà của thế giới (theo Roof of the World). Đồng thời là khu biệt lập nhất trên thế giới, nó bị những dãy núi cao bao bọc ở ba phía. Phía nam: dãy Hỵmalaya, phía tây: dãy Karakorum, phía bắc; dãy Côn Luân (Kunlun). Tổng diện tích: 1.2 triệu km2. Thủ phủ cũng chính là thành phố lớn nhất: Lhasa.
    ĐẤT DAI VÀ TÀI NGUYÊN
    Toàn bộ phần phía nam của Tây Tạng nằm gọn trong dãy Himalaya mà trong đó nhiều ngọn núi cao nhất của thế giới thuộc về dãy này. Một số các ngọn núi chính là Everest (8850m - cao nhất thế giới), Namzha Parwa (7756m) và Gurla Mandhata (7728m). Còn có một dãy Himalaya khác nữa mà người ta gọi là Xuyên Himalaya (Trans Himalaya) ở phía bắc mà đỉnh của nó cao hơn 7300m. Nằm giữa hai dãy này là một thung lũng có con sông trải dài khoảng 1000km từ đông sang tây. Con sông Brahmaputra là sông chính ở đây (người Tây Tạng quen gọi là sông Yarlung Zangbo). Nó chảy từ tây sang đông và đi qua hầu hết khu vực này.
    Dãy Xuyên Himalaya nghiêng từ phía bắc đổ xuống cao nguyên Tây Tạng. Cao nguyên này trải dài ra phía tây tới dãy Kasakohu và trải dài ra phía bắc tới dãy Côn Luân.
    Cao nguyên Tây Tạng này thỉnh thoảng cũng có núi và có độ cao trung bình 4570m. Nó hơi dốc từ phía nam sang phía đông. Phần phía đông của Tây Tạng là một khu vực có địa hình gồ ghề với một số dãy núi nằm theo hướng bắc nam và có một số thung lũng sâu nằm rải rác.
    SÔNG NGÒI, AO HỒ
    Tây Tạng là nơi bắt nguồn của nhiều con sông chính trên lục địa châu Á. Sông Brahmaputra là con sông quan trọng nhất Tây Tạng. Các sông Ấn, Hằng và sông Sutlej ở Ấn Độ là thượng nguồn (headwater) ở miền tây Tây Tạng. Có một số con sông như Salueen (Nu Jiang) bắt nguồn từ trung Tây Tạng, còn thượng nguồn của sông Mékong (Langcang Jiang), Trường Giang (Dương Tử - Chang Jiang)(55), Hoàng Hà bắt nguồn ở miền bắc Tây Tạng. Nhiều sông ở Tây Tạng có tiềm năng phát triển thủy điện rất lớn. Cao nguyên Tây Tạng có nhiều hồ nước mặn nằm rải rác, chẳng hạn như hồ Ngangla Ringco ở phía tây và hồ Namco (Na mutso ) ở phía đông).
    KHÍ HẬU
    Tây Tạng có một khí hậu bán khô cằn, khắc nghiệt. Lượng mưa trung bình hàng năm chỉ vào khoảng 311mm. Nhiều vùng khác mưa còn thấp hơn thế nhiều. Vùng đông nam là vùng có lượng mưa nhiều nhất. Núi và cao nguyên thường lạnh vơi các cơn gió lạnh thổi quanh năm. Còn khí hậu tương đối cân bằng nhất chỉ có ở vùng ven sông.
    Nhiệt độ trung bình hằng năm là 1.10C. Sau hoàng hôn, nhiệt độ giảm khá nhanh, đây là đặc trưng của Tây Tạng.
  8. zhouqingxin

    zhouqingxin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/10/2005
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    DÂN SỐ
    Người Tây Tạng chiếm đa số với một số cộng đồng dân tị nạn từ Nepal và Ấn Độ. Một cộng đồng thiểu số khác người Hoa, càng ngày càng tăng do di dân từ bình nguyên Trung Quốc sang.
    Ngôn ngữ chính là tiếng Tây Tạng, một nhánh của hệ Hán Tạng. Một bộ phận lớn cư dân sống đời du mục và bán du mục. Theo số liệu thống kê chính thức Tây Tạng có 2.200.000 người. Hai triệu người Tây Tạng khác sống lưu vong ở Népal, Ấn Độ và Trung Quốc. Tây Tạng là nơi có mật độ dân số thấp nhất trong tất cả các tỉnh Tây Tạng và các vùng khác của Trung Quốc: 1,5người/km2. Thành phố chính duy nhất là Lhasa (với số dân 124.000 người - Thống kê 1992). Thành phố lớn thứ nhì là Sigazé
    KINH TẾ
    Các hoạt động kinh tế ở Tây Tạng chủ yếu xoay quanh nông nghiệp tự cung tự cấp. Nuôi gia súc cũng khá phổ biến ở cao nguyên Tây Tạng này. Người ta nuôi cừu, trâu bò và dê. Ngoài ra còn có lạc đà, yack, ngựa.
    Những vùng có cỏ cho gia súc gặm được rất ít, chủ yếu tập trung ở các thung lũng ven sông.
    Các vụ mùa chính là lúc mạch, lúa mì, kiều mạch, lúa mạch đen, khoai tây và một số loại rau trái. Người ta cũng khai thác một số mỏ than nhằm sản xuất có mở rộng nhưng cũng chỉ giới hạn ở các nhà máy quy mô nhỏ.
    Các thiết bị điện tử và công nghiệp vải sợi và các ngành chủ yếu.
    VĂN HÓA TƯ TƯỞNG
    Tây Tạng theo tôn giáo truyền thống là Lạt ma giáo. Đây là một nhánh của đạo Phật - nhánh duy nhất với hình thức phát triển cao là Phật giáo Mật tông (esoteric). Ngoài ra ở Népal và Mông Cổ cũng có một số người theo đạo này. Sự hành trì tôn giáo rất nghiêm nhặt. Lạt ma giáo tiếp thu một số yếu tố của tín ngưỡng bản địa là đạo Bon. Đạo Bon là một hình thức Phù thủy (Shamanum) có trước khi Phật giáo du nhập và Tây Tạng. Đến bây giờ vẫn tồn tại, mặc dù nó đã bị pha tạp nhiều.
    Ngoài ra ở Tây Tạng cũng có cộng đồng thiểu số theo Hồi giáo, Kitô giáo và Hindu. Từ khi Tây Tạng sát nhập vào Trung Quốc năm 1950, tôn giáo đã bị kiểm soát chặt chẽ và ***************** Trung Quốc năm 1966, Hồng vệ binh (Red Guard) đã phá hủy khoảng 2700 ngôi đền.
    Nền văn hóa truyền thống của Tây Tạng cũng dựa trên nền tảng Lạt ma giáo. Tính chất Mật giáo (exoteric) cao. Ở Tây Tạng còn lưu giữ tương đối đầy đủ một số bộ kinh Đạt thừa quý. Lạt ma giáo có nhiều lễ, hội.
  9. zhouqingxin

    zhouqingxin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/10/2005
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử: đáng xem xét nhất đây..hi..hi
    Dường như người dân Tây Tạng đã di cư vào khu vực thung lũng sông hoàng hà và cùng ở chung với các nhóm dân du mục Trung Á, Thổ Nhĩ Kỳ.
    Ngày xưa Tây Tạng được chia thành các tiểu quốc, đến thế kỷ trhứ 6 thì vua Gnamri Srong-brtsan (Luân Tán Lộng Nang) đã thống nhất các tiểu quốc này. Srongtsen-Gampo (Tùng Tấn Can Bố, 617-651) lên ngôi lúc 13 tuổi. Nhưng năm sau ông cho xây dựng hoàng cung ở Potala và dời quốc đô về đây. Sau đó ông đã bành trướng đế quốc ra đến Népal, phía tây Tây Tạng và một phần Ấn Độ, thậm chí còn tạo được mối bang giao qua hôn nhân với triều Đường. Đường Thái Tông đã gã công chúa Văn Thành cho Tùng Tán Can Bố. Từ đó du nhập đạo Phật vào Tây Tạng, du nhập một loại chữ viết của Ấn Độ, đồng thời du nhập các nền kỹ thuật canh nông tiên tiến của Trung Hoa.
    Từ thế kỷ thứ 7, quân đội Tây Tạng bắt đầu tấn công biên giới Trung Quốc dọc theo con đường tơ lụa. Sự xâm lăng này lên đến cao trào vào năm 763, quân dân Tây Tạng tiến vào đất Trung Quốc, bị cuộc nổi loạn An Lộc Sơn đánh tan tác và An Lộc Sơn chiếm luôn kinh đô Trường An (Changian), bây giờ là Tây An (Xian). Cũng vào khoảng cùng thời gian đó nhà sư (theo bán truyền thuyết) lừng danh của Ấn Độ là Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) đến truyền giáo và hoằng pháp tại Tây Tạng. Sự hoằng pháp này thành công mỹ mãn dươi thời vua Khri-Srong-Ide-brtsan và Liên Hoa Sinh đã sáng lập nên dòng tu Bsam-yas (Samye).
    SỰ CAI TRỊ CỦA MÔNG CỔ VÀ LẠT MA GIÁO
    Vào khoảng gần cuối thế kỷ thứ 10, vương quốc Tây Tạng bắt đầu phân rã, cuối cùng tạo thành nhiều lãnh địa manh mún. Phật giáo có lúc bị lu mờ vào khoảng giữa thế kỷ thứ 11, nhưng các nhà truyền giáo Ấn Độ đã kịp thời khôi phục lại, các tu viện vẫn tiếp tục truyền thống tôn thờ những vị tái sinh, thông thường cũng là trưởng tu viện, đôi khi chỉ là một cậu bé được người ta tin rằng là hậu thân của vị lạt ma trước. Năm 1240, một đội quân Mông Cổ xâm lược đã tấn công nhiều tu viện; năm 1247, Hốt Tất Liệt đã chỉ định một trong những vị lạt ma hàng đầu làm phó vương lâm thời cho mình ở Tây Tạng. Về mặt hành chính, đất nước Tây Tạng bị tổ chức lại dưới sự bảo hộ của Mông Cổ.
    Tây Tạng lấy lại được nền độc lập sau khi triều Nguyên của Mông Cổ sụp đổ vào năm 1368. Những tu viện đối lập đã giành lại chính quyền từ tay vị lạt ma Phó vương. Chính quyền thế tục này dã được lấy lại vào thế kỷ thứ 15. Phật giáo Tây Tạng đã được hồi sinh nhờ công của nhà cải cách Tsongkhapa (Tông-khách-ba), người sáng lập nên dòng tu mũ vàng (hoàng mạo). Năm 1587 vị trưởng dòng tu đời thứ ba nhận tước hiệu Đạt lai - có nghĩa là rộng như làđại dương - từ tay Altakhan, một vị hãn người Mông Cổ. Vị hãn này trên danh nghĩa là phó vương (khan-viceroy). Altal cũng đã đem người dân Mông Cổ đặt dưới quyền lực tôn giáo của Đức Đạt lai lạt ma. Vị trưởng dòng tu Gelugpa đời thứ tư được cho là đã tái sinh vào gia đình Altal,và lực lượng quân Mông Cổ đã vào Tây Tạng để thực hiện yêu sách của vị tái sinh nhưng bị chống đối bởi dòng tu Karmapa và giới quý tộc quyền thế của Tây Tạng. Đến năm 1642, liên minh Mông Cổ - Gelugpa đã thiết lập một chính quyền thống nhất trên toàn cõi Tây Tạng dưới sự cai quản của Đạt Lai lạt ma.
    Vào đầu thế kỷ thứ 18, người Mông Cổ và triều Thanh ở Trung Quốc đều liên quan đến một vị Đạt lai lạt ma đời thứ sáu bị truất phế như một kẻ mạo danh. Năm 1720, quân đội Trung Hoa đánh bật quân Mông Cổ ra khỏi Tây Tạng và được đón chào khá nồng nhiệt ở Lhasa; hoàng đế nhà Thanh trên danh nghĩa cai quản toàn bộ đất Tây Tạng và cơ sở những đại diện của mình cũng như những đơn vị đồn trú của mình ở Lhasa, còn chính quyền thì nằm trong tay các vị Đạt lai lạt ma.
    Sự can thiệp triệt để nhất cả nhà Thanh tại Tây Tạng vào năm 1792 khi quân đội Trung Hoa giúp Tây Tạng đánh bại sự xâm lược của người Gurka từ Népal. Trong lúc đó, các quan chức người Anh tại nước thuộc địa Ấn Độ đang muốn giành một chỗ đứng ở Tây Tạng. Những cố gắng của họ xưa nay chưa có kết quả, chủ yếu là do sự phản ứng của Tây Tạng trước việc xâm lăng của người Gurka do Anh quốc hậu thuẫn. Mọi người ngoại quốc chỉ trừ người Trung Hoa đều bị trục xuất khỏi Tây Tạng vào năm 1782. Nhà Thanh không hề giúp đỡ gì cho người Tây Tạng trong cuộc chiến với người Ladakh vào năm 1842 và với Népal năm 1858. Năm 1904, Tây Tạng đã tương đối độc lập với Trung Hoa, nhưng lại bị quân Anh xâm lược; người Anh lo sợ ảnh hưởng của Nga tại xứ này. Sự xâm lăng này đã đặt nền tảng cho một hiệp ước song phương Trung - Anh vào năm 1796. Theo những điều khoản của hiệp ước này, hoàng đế Trung Hoa được nhìn nhận là có chủ quyền với nước Tây Tạng, trong khi Tây Tạng lại chẳng hề được hỏi ý kiến về vấn đề này. Hiệp ước cũng nói đến việc trả một số tiền bồi thường lớn cho quân Anh để họ rút quân khỏi Tây Tạng. Vào năm 1907, chính quyền Anh và Nga ký một hiệp ước không can thiệp vào nội bộ Tây Tạng.
    ĐỘC LẬP TRÊN DANH NGHĨA
    Hiệp ước Trung - Anh đã tạo điều kiện cho nhà Thanh xâm lược Tây Tạng vào năm 1910. Nhưng sau đó nhờ cuộc cách mạng lật đổ nhà Thanh vào năm 1912, Tây Tạng đã giành được độc lập trên danh nghĩa từ tay Trung Quốc. Mọi quân nhân người Trung Hoa bị trục xuất khỏi Tây Tạng. Năm 1914, một hội nghị tổ chức tại Simla quy tụ đại diện của các chính quyền Anh, Trung Quốc, Tây Tạng, một hiệp ước thăm dò được đặt ra để quy định các mối bang giao song phương và đường biên giới giữa cá nước. Hiệp ước cũng quy định một nước Tây Tạng tự trị và chủ quyền của Trung Quốc tại một vùng gọi là nội Tây Tạng (inner Tiber), vùng tiếp giáp với Trung Quốc. Chính quyền Trung Quốc sau đó đã phản đối hiệp ước này. Năm 1918 quan hệ căng thẳng giữa Trung Quốc và Tây Tạng bắt đầu chuyển hướng qua xung đột quân sự; một lệnh ngừng bắn được đưa ra dưới sự giúp đỡ của người Anh, vào tháng 9 cùng năm. Những cố gắng hòa giải xung đột này đều không thành công và chống đối lại nổ ra vào năm 1931. Các vị Đạt lai lạt ma vẫn tiếp tục điều hành Tây Tạng như một quốc gia độc lập.
    SÁT NHẬP VÀO TRUNG QUỐC
    Tháng 5-1951 một hiệp ước đã được ký trong đó quy định rõ quyền hạn của Đức Đạt lai lạt ma là các vấn đề nội vụ, còn quyền hạn của Trung Quốc là các vấn đề quân sự và ngoại giao.
    Trong năm 1952, Trung Quốc đã xây dựng các sân bay tại một số vùng của Tây Tạng và tiếp tục xây dựng các tuyến đường nhằm mục đích phát triển giao thông liên lạc. Một năm sau dó Ấn Độ công nhận Tây Tạng là một phần của Trung Quốc và rút các đội quân đang đóng tại hai đồn giao dịch thương mại ở biên giới. Đức Đạt lai lạt ma sau đó được bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân Quốc gia. Theo những điều khoản của một hiệp ước được ký kết vào tháng 4.1955, Ấn Độ nhường lại cho Trung Quốc quyền kiểm soát hệ thống điện thoại, điện tín và dịch vụ bưu chính của Tây Tạng. Một Ủy ban được lập ra vào năm 1956 để soạn thảo hiến pháp cho Tây Tạng, Đức Đạt lai lạt ma được chỉ định làm chủ tịch.
    Năm 1965 Tây Tạng chính thức là một Khu tự trị của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa cho đến nay.
    chúc ước mơ chinh phục Tây tạng thành hiện thực....em thì có vẻ không hợp với Tây tạng lắm hic,,híc...

  10. likemoon

    likemoon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    659
    Đã được thích:
    0
    Ấy, trước khi đi Tibet ghé qua Tứ Xuyên cái nhểy:
    Tứ Xuyên là một trong những tỉnh lớn nằm sâu trong lục địa Trung Hoa. Phía bắc giáp tỉnh Thiểm Tây, Lan Châu, Thanh Hải, phía nam giáp tỉnh Vân Nam, phía đông là Trùng Khánh và phía tây giáp cao nguyên Tây Tạng. Thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên là Thành Đô, một thành phố lớn trong các thành phố lớn hiện nay của Trung Quốc. Đây cũng là cửa ngõ giao thông ra vào cho những ai muốn đến viếng thăm Tây Tạng.
    Ngược về quá khứ trong lịch sử Trung Hoa từ hơn hai ngàn năm trước. Từ thời nhà Tây Hán (Tiền Hán) do Lưu Bang trảm xà dựng nghiệp, đóng đô ở Trường An. Sau nhà Hán thiên đô về Lạc Dương lập ra nhà Đông Hán. Tào Tháo mượn danh nghĩa phò vua Hán, đánh dẹp Viên Thiệu, thống lĩnh vùng phương bắc. Tôn Kiên vượt Trường Giang đến miền đông nam lập ra nhà Đông Ngô thống trị miền Giang Đông. Lưu Bị, hậu duệ nhà Hán, dấy binh mong khôi phục nhà Hán, nhưng không nơi nương thân. Lưu Bị nghe lời của vị quân sư thừa tướng Khổng Minh, lui về Ba Thục, đốt đường sạn đạo để che mắt họ Tào, ẩn mình chiêu hiền đãi sĩ , lập ra triều đại Thục Hán và lấy Thành Đô làm kinh đô tạm thời, trong giấc mơ dẹp tan Tào Tháo và đánh bại Tôn Quyền để dựng lại nhà Hán của một thời oanh liệt. Tứ Xuyên ngày nay chính là nước Ba Thục vào thời Tam quốc mà Lưu Bị đã dựng nghiệp. Có lẽ đây là nét lịch sử của Trung Hoa được rất nhiều người Việt biết đến qua sách chuyện, cải lương hay phim nhiều tập. Thành Đô, thủ phủ của Tứ Xuyên, nơi đã có một thời lịch sử gắn liền với người dân Trung Hoa, một thời, ?othời thế tạo anh hùng?, một thời ?ogian- hùng? và ?ochính-đạo? tranh ngôi; một thời kết nghĩa anh em vườn đào của Lưu Bị - Quan Vân Trường - Trương Phi nổi danh trong câu chuyện truyền thế, một thời uy danh của một vị quân sư thừa tướng mà ngày nay uy danh của ông càng được nhiều người trên thế giới biết đến là Khổng Minh Gia Cát Lượng.
    Đỗ Phủ, một thi thánh của văn học Trung Quốc trong thời gian lưu lạc vùng Tứ Xuyên đã có một bài thơ nổi tiếng nói về mối hận của Khổng Minh đã không thu phục được Tam quốc
    Công cái phân Tam quốc,
    Danh thành Bát Trận Đồ
    Giang lưu thạch bất chuyển,
    Di hận thất thôn Ngô
    Đỗ Phủ ​
    Nhưng Thành Đô không những chỉ nổi danh trong những cây chuyện lịch sử mà nơi đây còn là nơi nổi tiếng trong văn học Trung Hoa. Chẳng hạn như Thiếu Lăng Thảo Đường của Đỗ Thiếu Lăng Đỗ Phủ, nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Trung Hoa vào triều đại nhà Đường. Nói đến thi ca của Trung Hoa thì những người say mê thi ca, ai cũng phải biết đến Thi Phật Vương Duy, Thi Tiên Lý bạch, thi sử Bạch Cư Dị và Thi Thánh Đỗ Thiếu Lăng Đỗ Phủ. Những nhà thơ Thi Tiên, Phật, Thánh, Sử đó đâu còn chỉ riêng của Trung Hoa mà họ đã đi vào văn học của thế giới.
    Ngoài ra, cố hương của Thi tiên Lý Bạch cũng không xa Thành Đô là bao. Đường Minh Hoàng vừa là vua vừa là thi nhân trong thời gian lưu vong để tránh cái nạn An Lôc Sơn cũng đã lui về Ba Thục để mà tưởng nhớ đến Dương Quí Phi. Có lẽ đã không có ai hơn được Lý Bạch khi ông tán tụng về sắc đẹp của Dương Quí Phi cho nhà vua Đường Minh Hoàng
    Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
    Xuân phong phất hạm nộ hoa nồng
    Dịch thơ:
    Nhìn mây chợt nhớ áo em
    Nhìn hoa chợt nhớ dung nhan em cười
    Gió xuân vương nhẹ gót hài
    Hương xuân em gửi một trời đắm say
    (tác giả dịch)​
    Thi ca thì thế, nhưng là một thiếu sót lớn nếu quên đi ba trong bát đại văn hào thời Tống cũng xuất thân từ Tứ Xuyên: Tô Đông Pha, Tô Tuân, Tô Triệt, một gia đình ba cha con cùng là ba con đại bàng trong nền văn chương thời trung cổ Trung Hoa. Một gia đình đã có công đưa nền văn chương Trung Hoa đến chỗ hoàn hảo.
    Không những thế, Tứ Xuyên còn là một thắng địa của những dãy núi cao với bao nhiêu điểm văn hóa, chắc hẳn làm nao lòng người lữ khách khi đến thăm viếng nơi đây: đây là ngọn núi Thanh Thành và kia là ngọn núi Nga Mi ... Nga Mi Sơn, tên ngọn núi quen thuộc cho những ai đã từng say mê tiểu thuyết võ hiệp diễm tình của Kim Dung, ai mà không biết đến Quách Tường, ***** phái Nga Mi, con của Anh hùng Xạ Điêu Hoàng Dung - Quách Tỉnh, ai mà không biết đến Chu Chỉ Nhược yêu say mê Trương Vô Kỵ của Triệu Minh trong chuyện Cô Gái Đồ Long, ai mà không biết đến nhân vật Diệt Tuyệt sư thái, người muốn tuyệt diệt đi cái bể khổ oan tình ở cõi đời này.
    Tỉnh giấc câu chuyện võ lâm mà Kim Dung đã mê hoặc biết bao nhiêu người dân châu Á, hãy đến Nga Mi Sơn để đích thực được nhìn thấy cái thực và cái mơ. Nga Mi Sơn là một ngọn núi vừa là thắng địa vừa là thánh địa của Phật giáo Trung Quốc. Sương mù quanh năm lững lờ giữa núi, đỉnh cao nhất của Nga Mi Sơn là đỉnh Vạn Phật và ngôi chùa Kim Đỉnh tọa lạc trên đỉnh núi cao hơn 3000m. Từ Kim Đỉnh vào những ngày trời đẹp, phóng tầm mắt nhìn xa, mây trôi dưới chân người lữ khách, sương mù nhè nhẹ tỏa chung quanh, tạo cho người lữ khách chút suy tư về sự huyền ảo của đời sống quanh mình. Những ngôi chùa như Vạn Niên Tự, Tiên Phong Tự, Ngẫu Tiên Tự nằm trên lưng chừng núi ...như ẩn như hiện trong mây ..Tiên cảnh nếu có thì chắc cũng chỉ đến thế là cùng. Đặc biệt hơn, ngôi Vạn Niên Tự với ngôi đền thờ Phổ Hiền Bồ Tát ngự trên tòa sen trên lưng voi trắng trông thật lạ mắt so với những ngôi chùa mà người lữ khách đã gặp từ những phố thị miền bắc và miền đông Trung Quốc.
    Đến Tứ Xuyên thế nào người du khách cũng phải ghé thăm bức tượng Phật ngồi ở Lạc Sơn. Đây là bức tượng Phật ngồi, được đục đẽo vào lòng núi Lạc cao lớn nhất thế giới, với bao nhiêu huyền thoại vây quanh. Đức Phật ngồi nửa mắt nhìn xuống dòng Mân Giang, nửa mắt Phật vời nhìn ra dòng sông Thanh Y và Đại Độ. Phật ngồi để giữ cho dòng sông yên bình chảy, sóng nước sóng đời sẽ mãi bình yên cho nhân gian bên những dòng sông hung dữ.
    Chưa đủ đâu, Tứ Xuyên còn có viện bảo tàng Tam Tinh Đôi, một viện bảo tàng rất cần cho những ai say mê đi tìm những di tích của nước Thục ngày xa xưa. Những di tích về nền văn minh Ba Thục mới được tìm thấy hơn chục năm nay. Có thật nhiều điều mà chúng ta chưa hiểu được ngày xưa làm sao người ta đã làm được. Như Đập Đô Giang nằm phía tây bắc Thành Đô, một Đập nước đã được thiết kế từ hơn 2200 năm lúc Tần Thủy Hoàng vừa thống nhất Trung Hoa. Đập được xây dựng với mục đích lấy nước sông Mân Giang đem vào dùng cho bình nguyên Thành Đô. Có đến thăm, người ta mới biết người xưa cũng đã có một trình độ hiểu biết đáng kính phục rồi.
    Tứ Xuyên còn là quê hương của một loại Gấu mèo hiếm quí trên thế giới ngày nay. Con gấu Panda hay còn gọi là Đại Hùng Miêu với cặp mắt viền đen tròn to đen láy, đẹp và dễ thương đến lạ lùng. Số lượng loại gấu Panda, một loại thú hiếm nổi tiếng và không còn nhiều trên thế giới. Đã có Đại Hùng Miêu thì thế nào cũng phải có Tiểu hùng Miêu. Đó là loại gấu Panda đỏ, có đuôi dài trông như một con chồn và nhỏ con khá nhiều so với loại Đại Hùng Miêu.
    Nét lịch sử, văn hóa, thắng địa, linh địa của Tứ Xuyên Trung Hoa được người Việt chúng ta biết đến ít nhiều như thế đấy!
    [​IMG]
    Bản đồ Tứ Xuyên
    [​IMG]
    Hey all, chuẩn bị update thông tin về Cửu Trại Châu đi nhể .
    Được likemoon sửa chữa / chuyển vào 17:44 ngày 15/06/2006
    Được likemoon sửa chữa / chuyển vào 17:46 ngày 15/06/2006

Chia sẻ trang này