1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhớ lại và suy nghĩ (Zhukov)

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Amore, 11/09/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    - Phương diện quân Xta-lin-grát cần những gì để thủ tiêu hành lang của địch và hên lạc với Phương diện quân Đông-nam? - Xta-lin hỏi.
    - Ít nhất là thêm một tập đoàn quân bộ đội hợp thành thật sung sức, một quân đoàn và ba lữ đoàn xe tăng và 400 khẩu lựu pháo trở lên. Ngoài ra, trong thời gian chiến dịch, cần tập trung thêm ít nhất một tập đoàn quân không quân.
    A.M. Va-xi-lép-xki hoàn toàn ủng hộ ý kiến của tôi.
    Tổng tư lệnh lấy bản đồ riêng có ghi vị trí các đội dự bị của Bộ Tổng tư lệnh ra xem hồi lâu rất chăm chú. Tôi và Va-xi-lép-xki lui dần ra xa bàn và nói với nhau rất khẽ rằng, có lẽ phải tìm một quyết tâm nào khác chăng.
    - Quyết tâm ?okhác? như thế nào nhỉ? - Đột nhiên Xta-lin ngẩng đầu, hỏi.
    Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng Xta-lin thính tai đến thế. Chúng tôi đến gần bàn.
    - Thôi được, - Xta-lin nói tiếp, - các anh về bên Bộ tổng tham mưu và suy nghĩ thật kỹ xem cần làm gì ở vùng Xta-lin-grát. Có thể lấy ở đâu và đơn vị nào để điều đến tăng cường cho quân ta ở Xta-lin-grát, nhân thể suy nghĩ cả về Phương diện quân Cáp-ca-dơ. Mai, 9 giờ tối chúng ta lại gặp nhau ở đây.
    Suốt ngày hôm sau, tôi và Va-xi-lép-xki làm việc ở Bộ Tổng tham mưu.
    Tôi và Va-xi-lép-xki tập trung chú ý vào những khả năng mở chiến dịch quy mô lớn để không hao tốn các đội dự bị đang chuẩn bị và đã sẵn sàng mở những chiến dịch bộ phận. Tháng 10, ta đã kết thúc việc hình thành và tập hợp những đội dự bị chiến lược. Cùng lúc ấy, nền công nghiệp của chúng ta đã tăng thêm nhiều sản lượng máy bay kiểu mới nhất và đạn dược cho pháo binh.
    Sau khi cân nhắc tất cả các phương án có thể, chúng tôi quyết định đề nghị với Xta-lin kế hoạch hành động sau đây: thứ nhất, phòng ngự tích cực để tiếp tục tiêu hao địch; thứ hai, bắt tay chuẩn bị phản công để đánh địch ở khu vực Xta-lin-grát một đòn có thể làm thay đổi hẳn tình huống chiến lược ở phía nam có lợi cho ta. Còn kế hoạch phản công cụ thể thì ai nhiên trong một ngày chúng tôi không thể tính toán chi tiết được, nhưng chúng tôi thấy rõ rằng, cần đánh những đòn cơ bản vào hai bên sườn của cụm quân địch ở Xta-lin-grát do quân đội Ru-ma-ni phụ trách.
    Theo tính toán sơ bộ, chúng tôi thấy trước ngày 15-11, không thể chuẩn bị xong lực lượng và phương tiện cần thiết để phản công. Khi đánh giá kẻ địch, chúng tôi xuất phát từ chỗ phát-xít Đức không đủ sức thực hiện kế hoạch chiến lược của nó năm 1942. Lực lượng và phương tiện Đức đã sử dụng đầu mùa thu 1942 không đủ để thực hiện các nhiệm vụ ở Bắc Cáp-ca-dơ cũng như ở vùng sông Đông và sông Von-ga. Tất cả những gì mà bộ chỉ huy Đức có thể sử dụng ở Cáp-ca-dơ và ở khu vực Xta-lin-grát đều đã bị tiêu hao và suy yếu nhiều rồi. Bọn Hít-le rõ ràng là không thể điều đến miền Nam một lực lượng đáng kể hơn nữa và tất nhiên, cũng giống như sau khi bị tiêu diệt ở Mát-xcơ-va, chúng sẽ buộc phải chuyển sang phòng ngự trên tất cả các hướng.
    Chúng tôi biết rằng, những đơn vị có sức chiến đấu cao nhất trong quân đội Đức là tập đoàn quân 6 của Pao-luýt và tập đoàn quân xe tăng 4 của Gốt đã qua những cuộc chiến đấu đẫm máu và bị tổn thất lớn trong khu vực Xta-lin-grát, cho nên không đủ sức hoàn thành chiến dịch chiếm thành phố và đã bị sa lầy ở đấy.
    Quân đội Liên Xô trong những trận chiến đấu sống mái với quân thù trên các đường dẫn về Xta-lin-grát và tiếp đó ngay trong thành phố, đã bị thiệt hại nặng. Vì vậy, với lực lượng hiện có, không đủ sức tiêu diệt quân địch. Nhưng chúng ta đã huấn luyện xong các đội dự bị chiến lược lớn được trang bị vũ khí và khí tài tối tân. Đến đầu tháng 11, Bộ Tổng tư lệnh ắt sẽ có những binh đoàn cơ giới và những binh đoàn xe tăng được trang bị loại xe tăng T-34 mà cả thế giới đều biết. Điều đó cho phép chúng ta đề ra cho bộ đội những nhiệm vụ lớn lao hơn.
    Hơn nữa, cán bộ chỉ huy cao cấp của chúng ta, qua thời kỳ đầu của chiến tranh đã học thêm được nhiều, đã nghiền ngẫm được nhiều điều, và trải qua trường học chiến đấu gay go chống kẻ địch mạnh, đã thành những người có bản lĩnh cao về nghệ thuật tác chiến. Cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị các cấp khác và các chiến sĩ Hồng quân với kinh nghiệm qua nhiều trận chiến đấu ác liệt với quân thù, đã nắm vững đầy đủ các phương thức và phương pháp tác chiến trong bất kỳ tình huống nào.
    Bộ Tổng tham mưu, trên cơ sở tài liệu của các mặt trận, đã nghiên cứu các mặt mạnh, yếu của quân Đức, Hung-ga-ri, Ý, Ru-ma-ni. So với quân Đức thì quân chư hầu kém hơn về trang bị, về kinh nghiệm, về sức chiến đấu, ngay cả trong phòng ngự. Và cái chủ yếu nhất là, lính của chúng, thậm chí cả nhiều sĩ quan, đều không muốn chết vì quyền lợi xa lạ với họ trên những cánh đồng xa xôi của nước Nga mà Hít-le, Mút-xô-h-ni, An-tô-ne-xcu, Hoóc-ti và các tên trùm phát-xít khác đã điều họ đến.
    Tình hình quân địch gay go thêm còn là vì ở khu vực sông Đông và sông Von-ga, lực lượng dự bị chiến dịch của chúng còn rất ít, không quá 6 sư đoàn, mà những sư đoàn này cũng bị rải ra trên một chính diện rộng. Địch không thể nào tập trung những lực lượng đó thành một quả đấm trong một thời gian ngắn. Hình thế chiến dịch của toàn bộ mặt trận địch cũng thuận lợi cho ta: quân ta chiếm lĩnh vị trí bao quát và có thể cải thiện tương đối dễ các bàn đạp ở các khu vực Xê-ra-phi-mô-vích và Clét-xcai-a.
    Sau khi phân tích tất cả những tình hình đó, chúng tôi sẵn sàng đến gặp Xta-lin.
    Đến tối, Va-xi-lép-xki gọi điện thoại báo cáo với Tổng tư lệnh rằng chúng tôi sẵn sàng, như chỉ thị của Tổng tư lệnh, sẽ có mặt lúc 21 giờ. Xta-lin nói là đồng chí bận độ vài giờ và sẽ tiếp chúng tôi lúc 22 giờ.
    Đến 22 giờ, chúng tôi đã có mặt ở phòng làm việc của Tổng tư lệnh.
    Chào nhau xong, Tổng tư lệnh bực dọc nói:
    - Hàng chục, hàng trăm nghìn nhân dân Liên Xô đang hy sinh trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát-xít, thế mà Sớc-sin chỉ lo kỳ kèo mặc cả về vài chục chiếc máy bay ?oHa-ri-kên?. ?oHa-ri-kên? của họ là những thứ tồi, phi công của ta không thích loại ấy...
    Và tiếp liền đó, với giọng hoàn toàn ôn tồn, đồng chí nói tiếp:
    - Nào các đồng chí đã nghĩ được gì. Ai sẽ báo cáo?
    - Tùy đồng chí ra lệnh - Va-xi-lép-xki trả lời - Chúng tôi đã nhất trí ý kiến.
    Tổng tư lệnh đến cạnh bản đồ của chúng tôi.
    - Các anh có cái gì đây?
    - Đây là dự thảo sơ bộ kế hoạch phản công ở khu vực Xta-lin-grát, - Va-xi-lép-xki nói.
    - Những cụm quân nào đây trong khu vực Xê-ra-phi-mô-vích?
    - Đấy là một phương diện quân mới. Cần thành lập thêm để đánh thật mạnh vào hậu phương chiến dịch của số quân địch đang tác chiến ở khu vực Xta-lin-grát.
    - Hiện nay chúng ta có đủ lực lượng để mở chiến dịch lớn như thế không?
    Tôi báo cáo rằng, theo chúng tôi ước tính, sau 45 ngày, có thể đủ lực lượng và phương tiện cần thiết bảo đảm chiến dịch và có thể chuẩn bị tốt được.
    - Nếu chỉ đánh từ bắc xuống nam và từ nam đến bắc dọc sông Đông có tốt hơn không? - Xta-lin hỏi.
    Tôi nói, như vậy thì bọn Đức có thể nhanh chóng điều các sư đoàn thiết giáp của chúng từ Xta-lin-grát đến và ngăn chặn các đòn công kích của ta. Cú đấm của chúng ta ở phía tây sông Đông sẽ không cho phép địch vận động nhanh vì có sông ngăn cản và không cho phép chúng đưa các đội dự bị ra chặn các cánh quân ta lại.
    - Thế các cánh quân xung kích của ta như vậy có phải là vươn ra xa quá không?
    Tôi và Va-xi-lép-xki giải thích là chiến dịch chia làm hai giai đoạn cơ bản: 1 - chọc thủng trận địa phòng ngự, bao vây cụm quân Đức ở Xta-lin-grát và tạo nên một vành đai vững chắc ở bên ngoài để cô lập cụm quân này với lực lượng bên ngoài; 2 - tiêu diệt bọn địch bị vây và phá âm mưu của địch hòng mở vây.
    - Phải suy nghĩ thêm về kế hoạch và tính toán những nguồn lực lượng của chúng ta, - Tổng tư lệnh nói, - Còn bây giờ thì nhiệm vụ chủ yếu là giữ vững Xta-lin-grát và không cho địch tiến về phía Ca-mư-sin.
    A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép bước vào báo có điện thoại của A.I. Ê-rê-men-cô.
    Nói điện xong, Tổng tư lệnh nói:
    - Ê-rê-men-cô báo cáo rằng địch điều thêm mấy đơn vị xe tăng về thành phố. Chắc ngày mai chúng lại đánh. Đồng chí hãy ra lệnh ngay, cho điều cấp tốc sư đoàn cận vệ 13 của Rô-đim-xép qua sông Von-ga và xem còn có thể điều thêm những gì tới đây nữa trong ngày mai - đồng chí nói với Va-xi-lép-xki như vậy.
    Quay lại tôi, Tổng tư lệnh ra lệnh:
    - Gọi điện thoại bảo Goóc-đốp và Gô-lô-va-nốp cho không quân hoạt động ngay tức khắc. Ngay từ sáng sớm, Goóc-đốp phải cho đánh ngay để làm tê liệt quân địch. Bản thân anh hãy bay trở về phương diện quân Xta-lin-grát và nghiên cứu tình hình ở khu vực Clét-xcai-a và Xê-ra-phi-mô-vích. Vài hôm nữa Va-xi-ìép-xki phải đến Phương diện quân Đông-nam để nghiên cứu tình hình ở cánh trái của nó. Kế hoạch này chúng ta sẽ tiếp tục bàn sau. Những điều chúng ta đã bàn ở đây, ngoài ba chúng ta ra, hiện nay chưa nên cho ai biết nữa.
    Một giờ sau, tôi lên máy bay về bộ tư lệnh Phương diện quân Xta-lin-grát.
    Các ngày 13, 14, 15 tháng 9 đối với quân và dân Xta-lin-grát là những ngày nguy kịch, rất nguy kịch. Kẻ địch bất chấp tất cả, từng bước chọc xuyên qua gạch ngói ngổn ngang của thành phố, ngày càng tiến sát đến sông Von-ga. Xem chừng như quân ta không thể đứng vững được nữa. Nhưng hễ quân thù tiến lên là các chiến sĩ vinh quang của chúng ta thuộc tập đoàn quân 62 và 64 lại kiên trì bắn vào chúng. Nhà cửa đổ nát của thành phố trở thành chiến lũy. Nhưng lực lượng của ta từng giờ từng phút vợi đi dần.
    Trong những giờ phút nguy kịch, có lúc tưởng chừng như là giờ phút cuối cùng ấy, sư đoàn cận vệ 13 của A.I. Rô-đim-xép (rút từ lực lượng dự bị của Bộ tổng tư lệnh) đã tạo nên bước ngoặt. Sau khi vượt sông sang Xta-lin-grát, sư đoàn phản kích ngay. Đòn tiến công ấy làm kẻ địch hoàn toàn bị bất ngờ. Ngày 16-9, sư đoàn của A.I. Rô-đim-xép đánh lui quân địch trên đồi Ma-mai-ép.
    Chi viện cho quân và dân Xta-lin-grát còn có những đòn tiến công của không quân do A.E. Gô-lô-va-nốp và X.I. Ru-đên-cô chỉ huy, và những trận tiến công, pháo kích từ phía bắc của Phương diện quân Xta-lin-gtát vào các đơn vị thuộc quân đoàn 8 của Đức.
    Chúng ta phải thấy hết công lao của các chiến sĩ tập đoàn quân 24, tập đoàn quân cận vệ 1 và tập đoàn quân 66 thuộc Phương diện quân Xta-lin-grát, của các phi công tập đoàn không quân 16 và không quân tầm xa, đã không nề hy sinh, chi viện rất đắc lực cho các tập đoàn quân 62 và 64 của Phương diện quân Đông-nam trong việc giữ vững Xta-lin-grát.
    Với tất cả ý thức trách nhiệm, tôi xin nói rằng, nếu không có những đòn phản kích bền bỉ của bộ đội Phương diện quân Xta-lin-giát, nếu không có những đòn tiến công có hệ thống của không quân thì tình hình Xta-lin-grát eo lẽ còn nguy hơn nữa.
    Cũng đáng chú ý lời một tên sĩ quan Đức hồi đó ở trong tập đoàn quân của Pao-luýt viết về việc này: ?oLúc ấy, các đơn vị của quân đoàn chúng tôi bị thiệt hại hết sức nặng nề trong khi đánh trả trong tháng 9 những đợt tiến công mãnh liệt của đối phương từ phía bắc chọc vào các trận địa chia cắt của chúng ta. Các sư đoàn nằm trong khu vực này bị suy yếu hẳn; mỗi đại đội thường chỉ còn 30-40 lính?[4].
    Lúc tạm yên tiếng súng, được phép của Tổng tư lệnh, A.I. Ê-rê-men-cô và N.X. Khơ-rút-xốp đến sở chỉ huy của tập đoàn quân cận vệ 1. Ở đấy đã có mặt tư lệnh không quân tầm xa Gô-lô-va-nốp và tôi. Ê-rê-men-cô tỏ ý muốn tìm hiểu và bàn bạc về tình hình ở Xta-lin-grát. Goóc-đốp và Mốt-ca-len-cô giới thiệu cho Ê-rê-men-cô mọi chi tiết của tình huống và những nhận định của mình.
    Tổng tư lệnh đã dặn tôi phải giữ tuyệt đối bí mật dự kiến kế hoạch phản công lớn, nên câu chuyện chủ yếu xoay quanh việc tăng cường bộ đội các Phương diện quân Đông-nam và Xta-lin-grát. Ê-rê-men-cô có hỏi về kế hoạch phản kích mạnh hơn, tôi không thể không trả lời, tôi nói rằng tương lai, Bộ Tổng tư lệnh sẽ tiến hành phản kích với lực lượng lớn hơn nhiều, nhưng hiện nay thì không có lực lượng mà cũng không có phương tiện cho một kế hoạch như vậy.
    Cuối tháng 9, Xta-lin lại gọi tôi về Mát-xcơ-va để bàn kế hoạch phản công. Trước đấy, Va-xi-lép-xki cũng đã trở về Mát-xcơ-va sau khi nghiên cứu xong các điều kiện để phản công của các tập đoàn quân ở cánh trái Phương diện quân Đông-nam.
    Trước khi đến Đại bản doanh, tôi và Va-xi-lép-xki đã gặp nhau để bàn kết quả nghiên cứu các điều kiện thực hành phản công.

    [4] L. Vi-de: Tai họa trên sông Von-ga.
  2. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Trong khi bàn tình hình ở khu vực của Phương diện quân Xta-lin-grát, Tổng tư lệnh hỏi tôi về tướng Goóc-đốp. Tôi báo cáo rằng V.N. Goóc-đốp về mặt tác chiến là tướng giỏi, nhưng có chừng nào không hòa mình được với cơ quan bộ tư lệnh và với anh em cán bộ chỉ huy.
    Xta-lin nói, thế thì cần cử tư lệnh khác cho phương diện quân đó. Trung tướng Rô-cô-xốp-xki được đề nghị vào cương vị ấy. Va-xi-lép-xki ủng hộ tôi. Thế là quyết định ngay: Phương diện quân Xta-lin-grát đổi tên là Phương diện quân sông Đông, còn phương diện quân sông Đông-nam đổi thành Phương diện quân Xta-lin-grát. Cử K.K. Rô-cô-xốp-xki làm tư lệnh Phương diện quân sông Đông, tham mưu trưởng là M.X. Ma-li-nin. Trung tướng N.Ph.Va-tu-tin được dự kiến cử làm tư lệnh Phương diện quân Tây-nam đang xây dựng. Cơ quan tư lệnh của tập đoàn quân cận vệ 1 được quyết định làm nòng cốt cơ bản để phát triển thành bộ tư lệnh Phương diện quân Tây-nam. Mốt-ca-len-cô, tư lệnh tập đoàn quân ấy được chuyển sang tập đoàn quân 40.
    Sau khi bàn bạc tỉ mỉ kế hoạch của chiến dịch phản công, Tổng tư lệnh nói với tôi:
    - Đồng chí hãy bay trở lại mặt trận. áp dụng mọi biện pháp để tiêu hao và làm suy yếu đối phương nhiều hơn nữa. Xem lại một lần nữa các khu vực dự kiến trong kế hoạch để tập trung những đội dự bị và các khu vực xuất phát cho Phương diện quân Tây-nam và cánh phải của Phương diện quân Xta-lin-grát, đặc biệt ở khu vực Xê-ra-phi-mô-vích và Clét-xcai-a. Cũng với mục đích ấy, đồng chí Va-xi-lép-xki nên đi một lần nữa đến cánh trái của Phương diện quân Đông-nam và nghiên cứu tất cả các vấn đề đã định trong kế hoạch cho vùng ấy.
    Nghiên cứu xong tỉ mỉ tại chỗ tất cả các điều kiện để chuẩn bị phản công, tôi và Va-xi-lép-xki trở về Bộ tổng tư lệnh, bàn lại một lần nữa những điều cơ bản của kế hoạch phản công; sau đó kế hoạch được duyệt y.
    Ký tên dưới bản đồ kế hoạch phản công là G.K. Giu-cốp và A.M. Va-xi-lép-xki. Tổng tư lệnh phê ?oDuyệt y?.
    Xta-lin nói với Va-xi-lép-xki:
    - Cần hỏi ý kiến các tư lệnh phương diện quân về ý định hành động của họ sau này, nhưng đừng để lộ ý đồ kế hoạch của chúng ta.
    Tôi được lệnh trực tiếp góp ý kiến với Hội đồng quân sự phương diện quân sông Đông về tính chất hoạt động của bộ đội nhằm ra sức chi viện cho Xta-lin-grát. Tôi còn nhớ rõ buổi nói chuyện ngày 29-9 trong hang, trong khe núi ở phía bắc Xta-lin-grát, nơi đóng sở chỉ huy của tư lệnh tập đoàn quân Mốt-ca-len-cô.
    Khi tôi nêu ý kiến là cần tiếp tục hoạt động tích cực để địch không thể rút bớt lực lượng và phương tiện từ khu vực của Phương diện quân sông Đông về đánh Xta-lin-grát, thì Rô-cô-xốp-xki nói rằng, lực lượng và phương tiện của phương diện quân ít quá nên ở đây không thể làm được chuyện gì đáng kể. Tất nhiên Rô-cô-xốp-xki nói đúng. Tôi cũng nghĩ như thế, nhưng nếu không tích cực chi viện cho Phương diện quân Đông-nam (bây giờ là Phương diện quân Xta-lin-grát) thì không thể nào giữ được thành phố.
    Ngày 1-10, tôi trở về Mát-xcơ-va tiếp tục xây dựng nốt kế hoạch phản công. Từ Xta-lin-grát đến Mát-xcơ-va tôi đi bằng máy bay của A.E. Gô-lô-va-nốp, do đồng chí ấy trực tiếp lái. Tôi vui vẻ ngồi vào ca-bin, cạnh người phi công xuất sắc này.
    Sắp đến Mát-xcơ-va, tôi thấy hình như máy bay bất thình lình rẽ ngoặt và hạ dần. Tôi đoán chắc là chúng tôi bay chệch đường rồi. Nhưng vài phút sau, A.E. Gô-lô-va-nốp đã cho máy bay đỗ xuống một nơi tôi chưa hề biết. Chúng tôi đã hạ cánh an toàn. Tôi hỏi A.E. Gô-lô-va-nốp:
    - Sao anh cho máy bay đỗ xuống đây?
    - May quá, đây là cạnh sân bay, nếu xuống sân bay thì bị vỡ tan mất.
    - Sao thế? - Tôi ngạc nhiên.
    - Sân bay đóng băng.
    Chúng tôi đang nói chuyện thì chiếc máy bay của tôi bay theo sau cũng hạ xuống và tôi đi về sân bay Trung tâm Mát-xcơ-va.
    Dĩ nhiên các chuyến bay trong điều kiện phức tạp, cất cánh vội vã thì không thể lúc nào cũng thuận lợi. Tôi còn nhớ kỹ một câu chuyện ?omáy bay? suýt làm chúng tôi thiệt mạng. Nó cũng xảy ra trên đường Xta-lin-grát về Mát-xcơ-va. Thời tiết hôm ấy không bay được, trời mưa, Mát-xcơ-va thông báo rằng trên thành phố có mù, tầm nhìn xa bị hạn chế. Nhưng vẫn phải bay vì Tổng tư lệnh gọi.
    Trên đường thì dễ bay nhưng tới gần Mát-xcơ-va, tầm nhìn xa không quá 100 m. Phòng điều độ của không quân điện cho phi công bảo xuống sân bay dự bị. Nhưng như thế thì chắc chắn chúng tôi sẽ đến điện Crem-lanh chậm, Tổng tư lệnh đang mong.
    Nhận hết trách nhiệm về mình, tôi ra lệnh cho phi công cứ hạ cánh xuống sây bay Trung ương và ngồi lại trong ca-bin với đồng chí. Khi bay trên Mát-xcơ-va, thình lình chúng tôi thấy cách cánh trái máy bay chừng 10 - 15 m có một đầu ống khói nhà máy. Tôi liếc nhìn phi công; anh ta, mắt không chớp, nâng máy bay lên một chút, và 2-3 phút sau, cho nó hạ cánh.
    Hạ cánh xong, tôi nói:
    - Có lẽ chúng mình đã may mắn thoát khỏi tình thế mà người ta có thể nói là ?onguy to?.
    Đồng chí mỉm cười, trả lời:
    - Trên trời có thể xảy ra đủ các thứ, nếu người lái coi thường thời tiết.
    - Tại tôi cả! - Tôi trả lời và siết chặt tay đồng chí.
    Rất tiếc là vì lâu quá tôi quên tên đồng chí phi công ấy. Nếu tôi không nhầm thì hình như là Bê-li-a-ép - một con người rất tốt và một phi công rất dày dạn kinh nghiệm. Tôi đã cùng bay với đồng chí hơn 130 giờ. Không may đồng chí đã hy sinh trong một tai nạn máy bay.
    Tháng 10, Đại bản doanh đã quyết định cho hơn 6 sư đoàn bổ sung đầy đủ vượt sông Von-ga tiến vào Xta-lin-grát vì tập đoàn quân 66 thực chất không còn gì ngoài các cơ quan hậu cần và tham mưu. Phương diện quân sông Đông cũng được tăng cường một ít. Đại bản doanh và Bộ Tổng tham mưu đặc biệt quan tâm việc lấy quân và công tác tổ chức cho Phương diện quân Tây-nam mới thành lập.
    Trong tháng 10, vẫn tiếp tục các trận chiến đấu ác liệt ngay trong thành phố và các vùng ven.
    Hít-le đã đòi bộ chỉ huy cụm tập đoàn quân ?oB? và Pao-luýt, tư lệnh tập đoàn quân 6 phải đánh chiếm ngay Xta-lin-grát.
    Như trên đã nói, để chuẩn bị một trận công kích quyết định, bộ chỉ huy Đức ngay từ tháng 9, đã rút quân Đức đang phòng ngự ở các cạnh sườn và lấy quân Ru-ma-ni thay vào đấy, vì thế sức phòng ngự của chúng ở khu vực Xê-ra-phi-mô-vích và nam Xta-lin-grát bị yếu hẳn đi.
    Giữa tháng 10, địch mở đợt tiến công mới, với hy vọng chuyến này sẽ kết liễu hẳn xta-lin-gtát. Nhưng, cũng như trước kia, chúng lại vấp phải sự chống giữ kiên cường của quân đội Xô-viết. Chiến đấu đặc biệt ác liệt và mưu trí ở đây là sư đoàn cận vệ 13 của A.I. Rô-đim-xép, sư đoàn 95 của V.A. Gô-ri-sơ-nưi, sư đoàn 37 của V.G. Giô-lu-đép, sư đoàn 112 của V.A. Éc-môn-kin, cụm quân của X.Ph. Gô-rô-khốp, sư đoàn 138 của I.I. Li-út-ni-cốp, lữ đoàn xe tăng 84 của Đ.N. Bê-lưi.
    Chiến sự tiếp diễn mấy ngày đêm liền trên các đường phố, trong từng căn nhà, từng nhà máy, trên bờ sông Von-ga - khắp mọi nơi. Các đơn vị của ta bị tổn thất nặng trụ lại trên những ?ocù lao? nhỏ ở Xta-lin-grát.
    Để chi viện cho quân và dân Xta-lin-grát, ngày 19-10, Phương diện quân sông Đông bắt đầu tiến công. Cũng như những lần trước, bọn Đức lần này buộc phải rút bớt lực lượng công kích thành phố, đưa phần lớn không quân, pháo binh và xe tăng quay sang đánh Phương diện quân sông Đông.
    Cùng lúc ấy, tập đoàn quân 64 tổ chức phản kích từ phía nam trong khu vực Cu-pô-rô-xnôi-ê - Giê-li-ô-nai-a Pô-li-a-na vào sườn các đơn vị địch đang tiến công. Phương diện quân sông Đông tiến công và tập đoàn quân 64 phản kích làm dịu bớt tình hình gay go của tập đoàn quân 62 và đã đánh bại những cố gắng của địch nhằm làm chủ thành phố. Nếu không có Phương diện quân sông Đông và tập đoàn quân 64 chi viện, thì tập đoàn quân 62 không thể đứng vững được, và Xta-lin-grát có thể bị địch chiếm.
    Đầu tháng 11, địch mấy lần thử tiến hành trong thành phố những hoạt động nhằm thanh toán các ổ tác chiến phòng ngự, rồi ngày 11-11, khi quân ta kết thúc công việc to tát chuẩn bị phản công, một lần nữa địch lại cố tiến công, nhưng không kết quả.
    Đến lúc ấy quân thù đã bị suy yếu đến cực độ. Qua việc hỏi cung tù binh, ta xác định được rằng quân số các bộ đội và binh đoàn địch rất thấp, tinh thần không chỉ của lính mà cả của sĩ quan cũng sa sút trông thấy, ít tên tin rằng mình có thể sống sót mà thoát khỏi cái địa ngục trần gian của những trận chiến đấu bao nhiêu tháng ròng.
    Từ tháng 7 đến tháng 11, trong các trận chiến đấu của sông Đông, sông Von-ga và ở Xta-lin-grát, địch bị thiệt hại hơn 60 vạn người, hơn 1.000 xe tăng, hơn 2.000 pháo và cối, ngót 1.400 máy bay. Hình thế chiến dịch chung của quân Đức ở khu vực sông Von-ga cũng trở nên gay go. Các đội dự bị cỡ quân đoàn và sư đoàn không còn nữa, hai bên sườn của cụm tập đoàn quân ?oB? chỉ còn những đội quân người Ru-ma-m, Ý, Hung-ga-ri với sức chiến đấu kém và bắt đầu thấy mình đang bị nguy khốn, không có lối thoát.
    Quân đội Xô-viết trên sông Đông đã chiếm lĩnh những trận địa có lợi đảm bảo vị trí xuất phát phản công cho các Phương diện quân Tây-nam và sông Đông. Ở phía nam Xta-lin-grát, tập đoàn quân 51 phản kích bộ phận, đuổi địch ra khỏi các dải hồ ao và giữ vững tuyến có lợi Xác-pa - Xa-xa - Bác-man-sắc. Chính khu vực này đã được Va-xi-lép-xki đề nghị chọn làm khu vực xuất phát cho cuộc phản công vào tháng 11 của cánh trái Phương diện quân Xta-lin-grát.
    Những cuộc chiến đấu quyết liệt bảo vệ Xta-lin-grát đã kéo dài hơn 3 tháng.
    Nhân dân toàn thể thế giới nín thở theo dõi trận chiến đấu vô cùng vĩ đại ở khu vực sông Đông, sông Von-ga và Xta-lin-grát. Những thắng lợi của Quân đội Xô-viết, sự đấu tranh dũng cảm chống kẻ thù của họ đã cổ vũ cả loài người tiến bộ, và tạo nên sự tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng đánh bại chủ nghĩa phát-xít.
    Trận Xta-lin-grát là một trường học thắng lợi hết sức lớn đối với quân đội ta. Bộ chỉ huy và các cơ quan tham mưu đã có nhiều thực tiễn về tổ chức hiệp đồng bộ binh, xe tăng, pháo binh, không quân. Bộ đội đã biết cách phòng ngự kiên cường trong thành phố, kết hợp phòng ngự kiên cường với cơ động ở các sườn. Tinh thần quân ta lên rất cao, và tất cả các điều ấy tổng hợp lại đã chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho Quân đội Xô-viết chuyển sang phản công.
    Giữa tháng 11-1942, những trận chiến đấu phòng ngự khu vực Xta-lin-grát và bắc Cáp-ca-dơ đã kết thúc thời kỳ đầu cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại, một thời kỳ giữ vị trí đặc biệt trong cuộc sống nhân dân Liên Xô. Đấy là thời kỳ vô cùng gian khổ đối với quân và dân Liên Xô, đặc biệt khi quân đội Hít-le vừa giết hại, tàn phá, vừa tiến đến Lê-nin-grát, Mát-xcơ-va và chiếm U-crai-na. Đến đầu tháng 11-1942, quân địch đã chiếm một vùng đất đai bao la của nước ta gồm 1,8 triệu km vuông; trước chiến tranh, gần 80 triệu người sống trên diện tích đó. Hàng triệu người Liên Xô vì chiến tranh phải rời bỏ quê hương, nhà cửa, đi về phía đông để khỏi sống dưới ách chiếm đóng của quân thù. Quân đội Liên Xô do tình hình chiến sự lúc bấy giờ buộc phải rút sâu vào lòng đất nước, bị tổn thất khá nhiều về người và của cải vật chất.
    Thế nhưng, ngay trong thời kỳ gay go ấy, quân và dân Liên Xô vẫn tin tường vào khả năng tiêu diệt quân thù. Trước nguy cơ sống còn, nhân dân ta càng đoàn kết chặt chẽ chung quanh Đảng cộng sản; và mặc dầu có nhiều khó khăn, cuối cùng đã chặn đứng được kẻ thù ở tất cả các hướng.
    Trải qua 16 tháng chiến đấu, quân địch trên mặt trận Xô-Đức đã vấp phải cuộc kháng chiến kiên cường của Quân đội Xô-viết và của nhân dân trong các vùng bị chiếm đóng và chúng đã bị tổn thất hết sức nặng nề. Đến đầu tháng 11-1942, chúng đã có 2 triệu người bị giết, bị thương và mất tích. Đấy là những cốt cán ưu tú của quân Đức mà cuối thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh, bọn chỉ huy phát-xít không còn gì để thay thế được nữa.
    Thế thì chiến tranh đã bắt đầu như thế nào?
    Bất thình lình quân địch cho một số lớn không quân và bộ đội thiết giáp đánh những đòn bất ngờ vào quân ta trên tất cả các hướng chiến lược. Ngay những ngày đầu, bộ chỉ huy Đức cho ra quân một lúc 190 sư đoàn được trang bị tốt, 3.712 xe tăng, 47.260 khẩu pháo và cối; 4.950 máy bay. Quân số địch huy động sang đánh Liên Xô lúc bấy giờ là 5,5 triệu người. Chúng ta dễ hiểu rằng cần có những lực lượng, phương tiện như thế nào và sức chiến đấu của bộ đội phải ra sao mới có thể đánh lùi được những đòn tiến công như thế của quân thù.
    Những đơn vị đóng ở các quân khu phía tây của chúng ta và những đơn vị, theo quyết định của Chính phủ, được điều từ các quân khu nội địa về các quân khu phía tây mùa xuân năm 1941, về số lượng và chất lượng chiến đấu, đều kém quân địch ở những hướng chúng đánh những đòn chủ yếu. Ở đây, ưu thế về số lượng của địch rất lớn: 5-6 lần trở lên, nhất là về xe tăng, pháo binh và không quân.

  3. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Nếu bộ đội các quân khu biên giới dược lệnh sẵn sàng chiến đấu hoàn toàn từ trước thì có thể gây cho địch tổn thất lớn hơn nữa ngay trong những ngày đầu chiến tranh, có thể kìm hãm chúng lâu hơn trên các tuyến phòng ngự phía tây. Nếu làm được như thế thì việc ra quân của các đơn vị từ các quân khu nội đìa đến sẽ có tổ chức hơn.
    Tuy nhiên, ngay cái kết quả tất hơn ấy cũng không thể giúp chúng ta hoàn toàn đánh bại các đòn tiến công và sự đột nhập của địch vào biên giới nước ta trong thời kỳ đầu chiến tranh. Tháng 9, 10 năm 1941, và mùa hè năm 1942, các Phương diện quân miền Tây, Dự bị, Bri-an-xcơ và các phương diện quân của hướng tây-nam đã phòng ngự có tổ chức từ trước nhưng chúng ta vẫn không thể đánh lui hoàn toàn các đòn tiến công mạnh mẽ của địch.
    Tình hình đã khác hẳn đi khi Quân đội Xô-viết, nhờ sự nỗ lực vô cùng lớn lao của Đảng và nhân dân, được trang bị một số lượng dồi dào xe tăng, máy bay, khí tài chiến đấu và hỗ trợ hiện đại. Năm 1942, nước ta sản xuất được hơn 21.000 máy bay, hơn 24.000 xe tăng và từ cuối năm, theo quyết định của Hội đồng quốc phòng, đã triển khai sản xuất hàng loạt pháo tự hành. Tinh thần hăng hái của bộ đội được củng cố thêm với vũ khí đáng tin cậy và họ đã chiến đấu có hiệu quả hơn, kết quả lớn hơn.
    Viện trợ kinh tế - quân sự của các đồng minh chúng ta đã có tác dụng như thế nào trong những năm 1941-1942? Vấn đề này, sách báo phương Tây phóng đại rất nhiều.
    Viện trợ được đồng minh ra sức quảng cáo đã đến với chúng ta theo kiểu cho thuê mượn với quy mô khác xa lời hứa của họ. Không cần phải nói, viện trợ thuốc đạn, xăng chất lượng cao, một số loại thép, phương tiện vận tải đường bộ và lương thực, tất nhiên là có vai trò tích cực của nó. Nhưng tỉ trọng của nó không đáng kể so với tổng số yêu cầu của nước ta về khối lượng giao hàng được thỏa thuận. Còn xe tăng và máy bay mà chính phủ Anh và Mỹ giao cho chúng ta thì phải nói thẳng rằng, chiến sĩ xe tăng và lái máy bay của ta không thích sử dụng, nhất là xe tăng chạy bằng xăng, thường bốc cháy như bó đuốc.
    Thời kỳ đầu chiến tranh là một trường học nghiêm túc về đấu tranh vũ trang chống một kẻ thù mạnh và có kinh nghiệm. Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô, Bộ Tổng tham mưu, bộ chỉ huy và cơ quan tham mưu các đơn vị đã thu được nhiều kinh nghiệm tốt về tổ chức và tiến hành những trận chiến đấu phòng ngự tích cực và những chiến dịch phản công.
    Trong những trận chiến đấu ác liệt của thời kỳ đầu chiến tranh, đã biểu hiện đặc biệt mạnh mẽ chủ nghĩa anh hùng rất phổ biến của các chiến sĩ Xô-viết và sự dũng cảm của các cán bộ chỉ huy được Đảng Lê-nin giáo dục. Tinh thần gương mẫu của đảng viên, đoàn viên, những người khi cần thiết, sẵn sàng hy sinh thân mình để chiến thắng quân thù, đã có tác dụng đặc biệt tích cực. Cuộc chiến đấu anh hùng của các chiến sĩ bảo vệ pháo đài Bre-xtơ, Lê-nin-grát, Mát-xcơ-va, Ô-đét-xa, Xê-va-xtô-pôn, Xta-lin-grát, Li-ê-pai, Ki-ép và Cáp-ca-dơ, đã ghi vào lịch sử những trang ngời sáng.
    Trong thời kỳ đầu chiến tranh, đã ra đời những đội quân cận vệ Liên Xô. Vì toàn đơn vị biểu thị chủ nghĩa anh hùng tập thể, và đã lập nhiều thành tích trong chiến đấu, nhiều đơn vị đã được nhận danh hiệu đó: 4 quân đoàn kỵ binh, 36 sư đoàn bộ binh, 27 lữ đoàn xe tăng, 32 trung đoàn không quân và nhiều đơn vị khác. Trong Hải quân, danh hiệu cận vệ được trao tặng cho hai tàu tuần dương, bốn tàu ngầm, một tàu khu trục và một tàu rải thủy lôi. Trong số những đơn vị được tặng danh hiệu cận vệ đầu tiên có sư đoàn bộ binh cơ giới Mát-xcơ-va 1 của đại tá A.I. Li-diu-cốp, quân đoàn kỵ binh 2 của tướng P.A. Bê-lốp, quân đoàn kỵ binh 3 của tướng L.M. Đô-va-to, lữ đoàn xe tăng 4 của tướng M.E. Ca-tu-cốp, trung đoàn không quân tiêm kích 26 của thiếu tá A.P. Yu-đa-nốp, trung đoàn không quân oanh tạc đâm bổ 31 của trung tá P.I. Đô-nứt, trung đoàn không quân cường kích 215 của trung tá L.Đ. Rây-nô, trung đoàn pháo binh 440 của thiếu tá A.I. Briu-kha-nốp, v..v...
    Cuộc chiến đấu vũ trang gay go đến cực độ chống quân phát-xít Đức đã tiêu tốn rất nhiều vũ khí, khí tài và của cải vật chất. Mặc dầu bị mất một phần đáng kể những khu vực kinh tế rất quan trọng và nhiều xí nghiệp, nhà máy, nhân dân ta đã lao động quên mình, ra sức cung cấp cho quân đội các phương tiện cần thiết để tiến hành chiến tranh. Đến cuối thời kỳ đầu chiến tranh, cả nước đã biến thành một mặt trận quân sự. Nhân dân Liên Xô thấy mình có nghĩa vụ phải làm tất cả những gì có thể làm để chiến thắng quân thù.
    Nhân viên các cơ quan hậu cần của Hồng quân đã lao động rất anh hùng. Trong một năm rưỡi chiến tranh, tổng khối lượng hàng quân sự chở bằng đường sắt gồm 635 vạn toa xe. Đã mang đến cho bộ đội hơn 11,3 vạn toa đạn dược, gần 6 vạn toa vũ khí và khí tài, hơn 21 vạn toa xăng dầu. Các đơn vị vận tải ô-tô chỉ trong năm 1942, đã chở 2,7 triệu người, 12,3 triệu tấn hàng, 1.923 xe tăng và 3.674 khẩu pháo. Ngành vận tải hàng không quân sự đã chuyên chở 532.000 người, trong đó có 158.000 thương binh.
    Việc cải tổ các cơ quan hậu cần của Hồng quân vào hồi đầu chiến tranh đã được chứng tỏ là hoàn toàn đúng. Việc lựa chọn đích đáng những cán bộ lãnh đạo, cán bộ chính trị và cán bộ chủ trì các cơ quan Đảng của hậu cần đã bảo đảm sự liên hệ công tác rất chặt chẽ với nền kinh tế quốc dân trong nước và sử dụng đúng đắn tất cả các khoản của cải cực kỳ to lớn cung cấp cho bộ đội.
    Còn kẻ thù mà quân đội Xô-viết phải đánh trong thời kỳ đầu thì thế nào?
    Cần giải đáp vấn đề này vì một lẽ để cho thế hệ trẻ của chúng ta biết rõ nhân dân Liên Xô đã phải trải qua cuộc chiến đấu gay go như thế nào để bảo vệ Tổ quốc. Đọc vài bản hồi ký, vài tác phẩm nghệ thuật, không phải lúc nào cũng có thể hiểu đúng kẻ thù mà các chiến sĩ Xô-viết phải đối phó là kẻ thù có mưu tính sâu xa, có kinh nghiệm và mạnh đến mức nào.
    Trước hết hãy nói đến đám đông chủ yếu của quân Đức ?" binh lính, hạ sĩ quan và sĩ quan.
    Quân Đức thọc vào biên giới Tổ quốc ta là những kẻ đang say sưa với những thắng lợi dễ dàng đè bẹp quân đội các nước Tây Âu, chúng đã bị bộ máy tuyên truyền của bọn Gơ-ben đầu độc, tin chắc có thể dễ dàng đánh thắng Hồng quân, và tin chắc mình hơn hẳn tất cả các dân tộc khác. Đặc biệt hiếu chiến là bọn binh lính và sĩ quan trẻ, đám quân các đơn vị thiết giáp và không quân. Trong những tháng đầu chiến tranh, tôi có nhiều dịp lấy khẩu cung tù binh Đức và phải nói rằng rõ ràng là chúng nó tin tất cả những lời hứa phiêu lưu của Hít-le.
    Về sức chiến đấu của binh lính và sĩ quan Đức, về mặt huấn luyện chuyên môn và rèn luyện chiến đấu, thì chắc chắn là tất cả các binh chủng, đặc biệt trong bộ đội thiết giáp và không quân, chúng đều có trình độ cao.
    Trong chiến đấu và trong mọi công việc ở chiến trường, lính Đức thành thạo nghiệp vụ, kiên trì, tự tin và có kỷ luật.
    Cho nên các chiến sĩ Xô-viết đã phải đánh nhau với một kẻ thù dày dạn kinh nghiệm và mạnh, thắng được nó không phải là đơn giản. Các cơ quan tham mưu các cấp từ bộ đội, binh đoàn đến tập đoàn quân của Đức đều được huấn luyện về các phương thức tổ chức trận chiến đấu, đợt chiến đấu và chiến dịch hiện đại. Việc chỉ huy bộ đội trong quá trình tác chiến được thực hiện chủ yếu bằng phương tiện vô tuyến điện, mà cán bộ chỉ huy và cơ quan các cấp của quân đội Đức đều được trang bị đầy đủ. Trong tiến trình chiến đấu, chúng kiên quyết đốc thúc bộ đội phải hoàn thành nhiệm vụ. Chúng còn biết tổ chức tốt hiệp đồng với máy bay chiến đấu, bọn này thường ném bom dọn đường cho lục quân.
    Đối với các cơ quan tư lệnh cấp cao của quân Đức thì trong thời kỳ đầu chiến tranh tôi đã có nhận định đánh giá khả năng khá cao.
    Chúng ta đã thấy chúng làm kế hoạch và tổ chức rất kỹ lưỡng những đòn tiến công đầu tiên trên tất cả các hướng chiến lược, chọn được những người chỉ huy binh đoàn và những tư lệnh tập đoàn quân dày kinh nghiệm, trong nhiều trường hợp, đã xác định đúng phương hướng, lực lượng và thành phần bộ đội cho các đòn tiến công, nhằm vào đúng những đoạn yếu trong trận đỉa phòng ngự của ta. Mặc dù vậy, chiến lược chính trị - quân sự của chủ nghĩa phát-xít Đức tỏ ra rất sai lầm và thiển cận. Trong những chủ trương chính trị và chiến lược, chúng đã có những sơ suất và sai lầm rất nghiêm trọng. Lực lượng mà bọn Đức nắm trong tay (thậm chí kể cả những đội dự bị của bọn chư hầu) không đủ để đồng thời mở những chiến dịch có ý nghĩa chiến lược trên ba hướng chủ yếu nhất.
    Quân địch trong những điều kiện ấy buộc phải chấm dứt tiến công vào Mát-xcơ-va và chúng chuyển sang lâm thời phòng ngự, rút phần lớn lực lượng của cụm tập đoàn quân ?oTrung tâm? ra chi viện cho cụm tập đoàn quân ?oNam? để đối phó với các Phương diện quân Trung ương và Tây-nam của chúng ta.
    Không đạt được mục tiêu cuối cùng ở Lê-nin-grát, bộ tổng chỉ huy Đức buộc phải rút không quân và bộ đội thiết giáp ra khỏi Lê-nin-grát và điều động chúng về hướng Mát-xcơ-va để tăng cường cho cụm tập đoàn quân ?oTrung tâm?. Tháng 10, 11, quân Đức chỉ có thể tiến công trên một hướng: hướng Mát-xcơ-va, nhưng ngay ở đây do sự đánh trả của Quân đội Liên xô trên các cửa ngõ Mát-xcơ-va ngày càng mạnh, chúng cũng không đủ lực lượng để hoàn thành nốt chiến dịch ?oBão táp?.
    Chúng lại mắc lại cái sai lầm chiến lược nghiêm trọng như thế khi làm kế hoạch chiến cục hè 1942.
    Cơ sở của tất cả những sai lầm ấy là sự đánh giá quá thấp sức mạnh và sự hùng cường của đất nước xã hội chủ nghía chúng ta và của nhân dân Liên Xô, đánh giá quá cao lực lượng và khả năng của chúng.
    Chủ trương xâm chiếm Liên Xô, Hít-le và bè lũ tính rằng sẽ dốc toàn bộ lực lượng và phương tiện của chúng đánh Liên Xô. Đấy chỉ là ý muốn của một tay cờ bạc đang cay cú. Mặc dầu chính phủ Pê-tanh phản bội, nhân dân lao động Pháp không chịu cúi đầu trước bọn chiếm đóng phát-xít. Và nhân dân các dân tộc yêu chuộng tự do Nam Tư, Ba Lan, Tiệp Khắc, v..v... cũng không chịu cúi đầu. Bọn Hít-le phải đối phó với một phong trào kháng chiến của đông đảo nhân dân. Nước Anh cũng không chấm dứt cuộc chiến đấu mặc dầu họ không dốc toàn lực vào cuộc chiến.
    Bọn Hít-le không tính được rằng nhân dân Liên Xô đoàn kết chung quanh Đảng, lại có sức kiên cường đến như thế, và trong một thời gian ngắn lại cải tổ được nền kinh tế, nhanh chóng tổ chức sản xuất hàng loạt xe tăng, máy bay, đại bác, đạn dược và tất cả mọi thứ cần cho Hồng quân để tạo nên ưu thế so với quân phát-xít Đức và tiêu diệt chúng.
    Trong những điều kiện gay go, bộ đội ta đã được tôi luyện, trở nên kiên cường, tích lũy kinh nghiệm chiến đấu, và khi đã có trong tay những phương tiện cần thiết, thì từ chỗ là bên rút lui, phòng ngự, chuyển thành bên tiến công.
    Công tác tổ chức và động viên vô cùng lớn lao của Đảng Lê-nin chúng ta đã đạt những kết quả rực rỡ cả trong lĩnh vực xây dựng quân đội cũng như động viên nhân dân Liên Xô xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm cho cuộc đấu tranh vũ trang của Hồng quân với quân phát-xít Đức.
    Thế là, giai đoạn đầu chiến tranh giữ nước vĩ đại kết thúc bằng sự thất bại của tất cả các kế hoạch chiến lược của bộ chỉ huy Hít-le và bằng việc làm tiêu hao rất nhiều lực lượng và phương tiện của nước Đức. Kết quả chủ yếu ấy của cuộc chiến đấu chống quân phát-xít Đức đã góp phần rất lớn quyết định trước bước phát triển về sau của cả Thế chiến thứ hai.

    ----Hết chương 13----
    Được Amore sửa chữa / chuyển vào 10:20 ngày 15/02/2005
  4. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Chương 14
    TIÊU DIỆT QUÂN PHÁT-XÍT ĐỨC Ở KHU VỰC XTA-LIN-GRÁT

    Tháng 10-1942, rõ ràng bộ chỉ huy Đức đã buộc phải chuyển sang phòng ngự chiến lược trên toàn mặt trận phía đông. Quân của Hít-le đã bị thiệt hại vô cùng nặng nề, và đến lúc này mất hẳn khả năng tiến công. Kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh, đây là lần phá sản thứ hai của tất cả các kế hoạch chiến tranh chống Liên Xô.
    Bộ máy tuyên truyền của bọn phát-xít đã mở chiến dịch kêu gào ?ochuẩn bị cẩn thận hơn để kịp thời đón mùa đông thứ hai của Nga?. Bộ chỉ huy Đức chỉ thị cho bộ đội chúng chuẩn bị phòng ngự tích cực, vững chắc để tạo cho năm 1943 những điều kiện kết thúc chiến tranh một cách thắng lợi.
    Cái gì đã làm cho bộ tổng chỉ huy quân Đức gặp tình hình phức tạp lúc bấy giờ?
    Một mặt, giống hệt năm 1941, các mục tiêu chiến lược của chúng đều không đạt được, quân của chúng bị căng ra từ Biển Đen qua Bắc Cáp-ca-dơ, Xta-lin-grát, sông Đông, đến tận biển Ba-ren-xép; thiếu hẳn những đội dự bị chiến lược rảnh rang để có thể tự do sử dụng cả ở tiền tuyến và hậu phương; tinh thần bộ đội và nhân dân đều sa sút. Mặt khác, sức mạnh của Nhà nước Liên Xô ngày càng tăng rõ rệt, và Liên Xô đã khắc phục thắng lợi mọi khó khăn về kinh tế và quân sự.
    Đầu tháng 11-1942, bọn Đức có trên mặt trận Xô-viết cả thảy 266 sư đoàn, tức gần 6,2 triệu người với hơn 70.000 khẩu pháo và cối, 6.600 xe tăng và pháo tiến công, 3.500 máy bay chiến đấu, 194 tàu chiến.
    Cũng ở thời điểm ấy, bộ đội tác chiến của Liên Xô có 6,1 triệu người với 72.500 pháo và cối, 6.014 xe tăng và pháo tự hành, 3.088 máy bay chiến đấu. Trong đội dự bị chiến lược của Đại bản doanh có 25 sư đoàn bộ binh, 13 quân đoàn xe tăng và cơ giới, 7 lữ đoàn bộ binh độc lập và xe tăng.
    Như thế là đến những ngày kết thúc thời kỳ đầu của chiến tranh, lực lượng so sánh đã bắt đầu thay đổi có lợi cho Liên Xô.
    Điểm hơn hẳn của chúng ta còn thể hiện ở chỗ các lực lượng vũ trang Liên Xô đã biết giữ tuyệt mật ý định hành động của mình, biết tung tin nghi binh trên quy mô lớn buộc đối phương phải nhầm lẫn. Việc điều chỉnh đội hình và tập trung quân đều rất bí mật nên có thể giáng cho địch những đòn bất ngờ.
    Bọn Hít-le cho rằng, sau những đợt chiến đấu vô cùng gay go ở Xta-lin-grát và ở Bắc Cáp-ca-dơ thuộc miền nam nước ta, Quân đội Liên Xô không đủ sức mở những trận tiến công lớn ở các vùng này nữa.
    Trong mệnh lệnh tác chiến số 1 của bộ tổng chỉ huy lục quân Đức đề ngày 14-10-1942 có nói:
    ?oBản thân quân Nga qua những trận chiến đấu gần đây đã bị suy yếu nghiêm trọng, và trong mùa đông 1942-1943 không thể có những lực lượng lớn như họ đã có trong mùa đông vừa qua?.
    Nhưng điều ấy là xa sự thật nhiều.
    Theo chủ trương của Đại bản doanh, các hoạt động tích cực của bộ đội ta trong mùa hè và mùa thu 1942 ở hướng tây đánh vào cụm ?oTrung tâm? quân Đức là nhằm làm cho địch bị chệch phương hướng, gây ra cho chúng ấn tượng rằng chính đây là nơi chúng ta đang chuẩn bị chiến dịch mùa đông. Vì vậy, tháng 10, bộ chỉ huy Đức đã tập trung khá nhiều quân đánh vào các phương diện quân phía tây. Chúng điều một số sư đoàn xe tăng, cơ giới và bộ binh từ Lê-nin-grát đến khu vực Vê-li-ki-e Lu-ki. Chúng rút từ Pháp và Đức 8 sư đoàn đưa đến vùng Vi-tép-xcơ và Xmô-len-xcơ. Chúng lấy ở Vô-rô-ne-giơ và Gi-dơ-đra 2 sư đoàn xe tăng đưa về Yác-xê-vô và Rô-xláp. Kết quả là đầu tháng 11, chúng đã điều về tăng cường cho cụm ?oTrung tâm? 12 sư đoàn, không kể các phương tiện tăng cường khác.
    Sở dĩ bọn Đức tính toán sai về chiến dịch như thế là do công tác trinh sát tồi. Chúng không thể phát hiện được sự chuẩn bị cho một cuộc phản công lớn của chúng ta ở khu vực Xta-lin-grát mà lực lượng tham gia là 11 tập đoàn quân cùng nhiều quân đoàn, lữ đoàn xe tăng, cơ giới, kỵ binh và nhiều đơn vị độc lập với 13.500 pháo và cối hơn 1.000 pháo phòng không, 115 tiểu đoàn pháo phản lực, gần 900 xe tăng, 1.115 máy bay (không tính loại PO-2).
    Sau chiến tranh, I-ốt, cựu tham mưu trưởng chỉ đạo tác chiến của quân đội phát-xít Đức, đã thừa nhận rằng chúng không tài nào phát hiện được việc quân đội Liên Xô tập trung đánh vào sườn trái của tập đoàn quân Pao-luýt.
    ?oChúng tôi tuyệt nhiên không tưởng tượng được sức mạnh của quân Nga trong khu vực này. Trước đó, ở đây không có gì hết, thế mà bất thình lình chúng tôi bị nện một đòn mạnh có ý nghĩa quyết định?.
    Khi quân ta bắt đầu phản công, kẻ thù ở miền nam nước ta chiếm lĩnh vị trí chiến dịch và chiến lược sau đây:
    Ở vùng trung lưu sông Đông, Xta-lin-grát và phía nam hồ Sác-pa, lực lượng cơ bản của cụm ?oB? đang hoạt động gồm tập đoàn quân 8 người Ý, tập đoàn quân 3 và 4 người Ru-ma-ni, tập đoàn quân 6 và tập đoàn quân xe tăng 4 người Đức. Trung bình mỗi sư đoàn phụ trách 15-20 km.
    Cánh quân ấy gồm hơn 1 triệu người, 675 xe tăng và pháo tiến công, hơn 10.000 pháo và cối. Về số lượng thì lực lượng hai bên xấp xỉ nhau, bên ta có trội hơn một phần về xe tăng.
    Phi đoàn không quân 4 và quân đoàn không quân 8 yểm hộ cho cụm ?oB?.
    Chủ trương tiêu diệt cụm tập đoàn quân ?oB?, Bộ tổng tư lệnh Liên Xô xuất phát từ chỗ cho rằng tiêu diệt được quân địch ở khu vực Xta-lin-grát thì bọn ở Bắc Cáp-ca-dơ sẽ lâm nguy, chúng sẽ hoặc là phải vội vã rút lui, hoặc là phải đánh nhau trong điều kiện bị vây hãm.
    Sau khi I.V. Xta-lin mất, có xuất hiện thắc mắc muốn biết rằng ai là tác giả của kế hoạch phản công quy mô lớn, có hiệu suất và thắng lợi to lớn ấy? Mặc dầu câu hỏi ấy giờ đây có thể là không có ý nghĩa gì đặc biệt và ở các phần trên tôi đã trình bày những chi tiết về chủ trương này, tôi vẫn xin bổ sung đôi điểm.
    Có ý kiến cho rằng dự thảo đầu tiên của chiến dịch tiến công đã được Bộ Tổng tư lệnh vạch ra từ tháng 8-1942, song phương án ban đầu có tính chất hạn chế.
    Thực ra đấy không phải là dự thảo của chiến dịch phản công tương lai mà chỉ là kế hoạch phản kích nhằm ngăn chặn quân địch trên các đường dẫn về Xta-lin-grát. Trong Bộ Tổng tư lệnh lúc đó, không ai nghĩ đến phương án lớn, vì chưa có lực lượng và phương tiện để hoạt động lớn.
    Cũng có ý kiến là ngày 6-10, Hội đồng quân sự Phương diện quân Xta-lin-grát gửi lên Bộ Tổng tư lệnh bản đề nghị về tổ chức và tiến hành phản công theo sáng kiến riêng của mình.
    Về vấn đề này A.M. Va-xi-lép-xki trả lời như sau:
    ?oRạng sáng ngày 6-10, tôi với N.N. Vô-rô-nốp và V.Đ. I-va-nốp... đến đài quan sát của tập đoàn quân 51. Ở đây chúng tôi nghe báo cáo của tư lệnh tập đoàn quân N.I. Tơ-ru-pha-nốp. Tối hôm ấy, đến sở chỉ huy phương diện quân gặp tư lệnh và ủy viên Hội đồng quân sự, chúng tôi lại thảo luận kế hoạch phản công sắp tới do Bộ Tổng tư lệnh đề xuất, và trong bộ tư lệnh không có ý kiến gì trái ngược về nguyên tắc đối với kế hoạch, nên đến đêm 6 rạng ngày 7 tháng 10, chúng tôi làm báo cáo gửi về Tổng tư lệnh.
    Ngày 7-10, tôi thay mặt Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho tư lệnh Phương diện quân sông Đông về việc chuẩn bị những dự kiến tương tự cho phương diện quân của mình?.
    Tôi nghĩ rằng không cần nói thêm gì vào những điều Va-xi-lép-xki đã viết. Những lời đó đã xác minh rằng vai trò chủ yếu trong chủ trương phản công thuộc về Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu.
    Trong những bài nghiên cứu lịch sử có ghi rằng sau đó một thời gian tư lệnh Phương diện quân Tây-nam N.Ph. Va-tu-tin cũng gửi lên một kế hoạch phản công. Nảy ra những câu hỏi: sau đó là lúc nào, kế hoạch gì, kế hoạch của phương diện quân hay kế hoạch phản công chung.
    Như mọi người đều biết, Phương diện quân Tây-nam mới được thành lập vào cuối tháng 10 mà lúc đó thì việc tập trung lực lượng và phương tiện theo kế hoạch phản công đã xong và kế hoạch chung của Bộ Tổng tư lệnh cũng được giải quyết rồi.
    Điều cần nói ở đây là mỗi tư lệnh phương diện quân đều phải căn cứ vào thực tiễn và mọi quy định hiện hành mà vạch ra kế hoạch hành động cho phương diện quân của mình, đệ trình lên Bộ Tổng tư lệnh ở Mát-xcơ-va hay cho đại diện của Bộ ngay tại chỗ duyệt và tất nhiên trong đó trình bày cả dự kiến của mình về hiệp đồng với các đơn vị bạn và những yêu cầu đối với Bộ Tổng tư lệnh.
    Để có thể nêu ý kiến về một chiến dịch có tính chất chiến lược hết sức lớn của ba phương diện quân như chiến dịch ở khu vực Xta-lin-grát, không phải chỉ cần căn cứ vào những kết luận về mặt tác chiến mà còn cần căn cứ vào những tính toán nhất định về vật chất kỹ thuật.
    Ai ở đây có thể tính toán cụ thể lực lượng và phương tiện cho chiến dịch quy mô như vậy? Dĩ nhiên chỉ có cơ quan nào nắm trong tay số lượng và phương tiện vật chất ấy. Trong trường hợp này chỉ có thể là Đại bản doanh và Bộ Tổng tham mưu. Cần nhớ rằng Bộ Tổng tham mưu trong suốt cuộc chiến tranh đã là bộ máy làm việc có sáng tạo của Đại bản doanh, thiếu công tác tổ chức đầy sáng tạo của nó, không thể tiến hành dược một chiến dịch nào có quy mô chiến lược cả.
    Rất rõ ràng Đại bản doanh và Bộ Tổng tham mưu trong quá trình chiến đấu đã nghiên cứu chu đáo những tin tình báo về địch do các phương diện quân và do bộ đội cung cấp, đã phân tích và kết luận về tính chất hành động của kẻ địch và của quân ta. Nó nghiên cứu ý kiến đề đạt của các cơ quan tham mưu, các tư lệnh phương diện quân, các binh chủng, quân chủng, phân tích tất cả các tài liệu ấy để hạ quyết tâm.
    Do đó, một kế hoạch tiến hành chiến dịch với quy mô chiến lược chỉ có thể hình thành đầy đủ nếu có sự nỗ lực sáng tạo lâu dài của toàn quân, của tất cả các cơ quan tham mưu và các cán bộ chỉ huy.
    Xin nhắc lại một lần nữa: vai trò cơ bản và quyết định trong việc chủ trương và bảo đảm toàn diện cuộc phản công ở Xta-lin-grát dứt khoát thuộc về Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao và Bộ Tổng tham mưu.
    Và công đầu trực tiếp tiêu diệt quân thù cũng dứt khoát thuộc về những người đánh mạnh, đánh trúng, dũng cảm, gan dạ, tinh thông kỹ thuật, sống mái với quân thù. Ở đây tôi muốn nói tới những chiến sĩ những người chỉ huy, những vị tướng lĩnh vinh quang của chúng ta đã vượt qua thử thách gay go của thời kỳ đầu chiến tranh và trong những ngày chuẩn bị phản công, họ đã hoàn toàn nắm quyền chủ động chiến đấu trong tay và đã đánh địch một đòn trời giáng.
    Công tích của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao và Bộ Tổng tham mưu là ở chỗ hai cơ quan đó đã phân tích rất chính xác tất cả các nhân tố của chiến dịch rất quy mô này, thấy trước bước phát triển và sự kết thúc của nó. Do đó không nên nêu vấn đề tìm xem nhân vật nào là ?otác giả? của ý đồ phản công.
    Phương diện quân Tây-nam lúc bấy giờ do trung ương N.Ph. Va-tu-tin làm tư lệnh đã hoàn thành vai trò chủ yếu trong giai đoạn đầu của cuộc phản công.
    Ở đây tôi thấy không phải trình bày chi tiết toàn bộ kế hoạch phản công và tiến trình chiến dịch, vì trong sử sách của chúng ta đã viết nhiều và căn bản là đúng. Tuy nhiên tôi cho rằng nên đi sâu vào một số điểm. .
    Phương diện quân Tây-nam đánh rất mãnh liệt, rất sâu từ các bàn đạp ở hữu ngạn sông Đông trong vùng Xê-ra-phi-mô-vích và Clét-xcai-a. Phương diện quân Xta-lin-grát tiến công từ khu vực hồ Sác-pa. Lực lượng xung kích của cả hai phương diện quân phải hợp điểm ở khu vực Ca-lát - dải đất nhượng Xô-viết, thực hành bao vây chặt lực lượng cơ bản của địch ở Xta-lin-grát.
    Phương diện quân Tây-nam triển khai lực lượng chủ yếu của mình gồm tập đoàn quân 21 và tập đoàn quân xe tăng 5, một phần lực lượng của tập đoàn quân cận vệ 1 cùng nhiều phương diện đột phá mạnh trên các bàn đạp phía tây nam Xê-ra-phi-mô-vích và trong khu vực Clét-xcai-a. Từ các bàn đạp trên, nó phải tiến công đột phá trận địa phòng ngự của tập đoàn quân 3 Ru-ma-ni, và dùng những binh đoàn cơ động ra sức phát triển chiến đấu về phía đông nam nhằm tiến đến sông Đông ở khu vực Bôn-se-na-ba-tốp-xcai-a - Ca-lát. Sau khi đột phá thắng lợi, bộ đội của phương diện quân phải tiến đến phía sau cụm quân địch ở Xta-lin-grát và cắt đứt tất cả các đường rút lui của chúng về phía tây.
    Nhiệm vụ bảo đảm mặt tây nam và tây cho các đơn vị xung kích của phương diện quân và tạo vành đai bao vây trên hướng ấy đã giao cho tập đoàn quân sườn phải của Phương diện quân Tây-nam, tập đoàn quân cận vệ 1 do trung tướng Đ.Đ. Lê-liu-sen-cô chỉ huy, sau đó giao thêm cho lực lượng cơ bản của tập đoàn quân xe tăng 5 do trung tướng P.L. Rô-ma-nen-cô chỉ huy. Hướng phát triển tiến công của các đơn vị này là về phía tây, tây nam, nam và đến ngày thứ ba của chiến dịch phải đến tuyến Vê-sen-xcai-a - Bô-cốp-xki và dọc sông Chia đến Ô-blíp-xcai-a.
    Các tập đoàn quân không quân 2 và 17 do các thiếu tướng không quân K.N. Xmiếc-nốp, X.A. Crát-xốp-xki chỉ huy có nhiệm vụ yểm trợ cho hoạt động của bộ đội mặt đất Phương diện quân Tây-nam.
    Phương diện quân sông Đông có nhiệm vụ đánh hai đòn bổ trợ. Đòn thứ nhất bằng lực lượng tập đoàn quân 65 đánh đồng thời với Phương diện quân Tây-nam từ phía đông Clét-xcai-a sang đông nam nhằm cuốn bớt trận địa phòng ngự của địch ở hữu ngạn sông Đông. Đòn thứ hai, với lực lượng của tập đoàn quân 24 tiến công từ Ca-cha-lin-xcai-a dọc tả ngạn sông Đông xuống phía nam theo hướng chung đến Véc-chi-a-si, nhằm chia cắt số quân địch đang hoạt động ở đoạn vòng bé của sông Đông ra khỏi đại quân của nó ở Xta-lin-grát.
    Tập đoàn quân 66 cần đẩy mạnh hoạt động ở phía bắc Xta-lin-grát làm tê liệt hẳn quân địch ở đây và loại bỏ khả năng cơ động các đội dự bị của chúng. Tập đoàn quân không quân 16 do thiếu tướng không quân X.I. Ru-đen-cô chỉ huy có nhiệm vụ yểm hộ cho bộ đội mặt đất Phương diện quân sông Đông hoạt động.
    Phương diện quân Xta-lin-grát với lực lượng xung kích gồm các tập đoàn quân 51, 57 và 64 tiến công trên chính diện từ I-va-nốp-ca đến mũi phía bắc hồ Bác-man-xác. Cánh xung kích này có nhiệm vụ chọc thủng trận địa phòng ngự của địch, tiếp tục đánh theo hướng tây bắc tiến đến khu vực Ca-lát - dải đất nhượng Xô-viết, ở đây hợp điểm với bộ đội Phương diện quân Tây-nam, hoàn thành hợp vây quân địch ở Xta-lin-grát.

  5. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Tập đoàn quân 51 dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng N.I. Tơ-ru-pha-nốp tiến công từ những bàn đạp trên các eo đất giữa các hồ Sác pa, Sa-sa, Bác-man-xác có nhiệm vụ chọc thủng phòng ngự quân địch và dùng lực lượng cơ bản phát triển tiến công lên tây nam theo hướng chung đến Áp-ga-nê-rô-vô.
    Tập đoàn quân 57 của tướng Ph.I. Tôn-bu-khin và tập đoàn quân 64 của tướng M.X. Su-mi-lốp tiến công từ khu vực I-va-nốp-ca theo hướng tây và tây bắc nhằm khóa chặt cánh quân địch ở phía nam.
    Tập đoàn quân 62 của tướng V.I. Chui-cốp có nhiệm vụ phòng ngự tích cực làm tê liệt bọn địch đang hoạt động ngay trong thành phố; sẵn sàng chuyển sang tiến công.
    Nhiệm vụ bảo đảm mặt tây nam các đơn vị xung kích thuộc Phương diện quân Xta-lin-grát và tạo vòng vây bên ngoài trên hướng này là của tập đoàn quân 51 (trong đó có quân đoàn kỵ binh 4 của tướng T.T. Sáp-kin). Tập đoàn quân này phải tiến công vào phía tây nam theo hướng chung đến Áp-ga-nê-rô-vô, Cô-chi-ôn-ni-cô-vô. Bộ đội của Phương diện quân Xta-lin-grát được tập đoàn quân không quân 8 của thiếu tướng không quân T.T. Khri-u-kin yểm hộ.
    Trong việc chuẩn bị phản công, cần vận chuyển một khối lượng hết sức lớn bộ đội và phương tiện vật chất, kỹ thuật cho tất cả các phương diện quân, đặc biệt cho Phương diện quân Tây-nam vừa được thành lập lại. Chúng ta cần thấy hết thành tích của Bộ Tổng tham mưu và bộ tham mưu hậu cần Hồng quân. Họ đã hoàn thành một cách rực rỡ việc tập trung phương tiện và lực lượng cho chiến dịch.
    Hơn 27.000 ô-tô được huy động để chuyên chở bộ đội. Hàng ngày đường sắt phải kéo đi 1.300 toa hàng. Bộ đội và hàng hóa cho Phương diện quân Xta-lin-grát phải chuyên chở trong điều kiện đặc biệt phức tạp là có băng mùa thu trôi trên sông Vôn-ga. Từ 1 đến 19 tháng 11 đã đưa qua sông Vôn-ga 160.000 chiến sĩ, 16.000 ngựa, 430 xe tăng, 600 khẩu đại pháo, 14.000 ô-tô, gần 7.000 tấn đạn.
    Cuối tháng 10 đầu tháng 11, tôi và Va-xi-lép-xki cùng mấy đồng chí đại diện của Đại bản doanh đã xuống các đơn vị giúp cán bộ chỉ huy, các cơ quan tham mưu và các đơn vị nắm vững kế hoạch và phương thức thực hành phản công.
    Các hội nghị tổng kết ở các bộ tham mưu phương diện quân đã xác định rằng công tác phức tạp và khó khăn ấy được cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị tiến hành với ý thức trách nhiệm cao và tinh thần chủ động, sáng tạo.
    Từ 1 đến 4 tháng 11, chúng tôi kiểm tra và sửa chữa kế hoạch của Phương diện quân Tây-nam, sau đó kiểm tra chi tiết và phối hợp các kế hoạch hành động của tập đoàn quân 21 và tập đoàn quân xe tăng 5.
    Khi nghiên cứu kế hoạch hoạt động, tại bộ tham mưu Phương diện quân Tây-nam, ngoài tôi ra còn có các đại diện của Đại bản doanh: về các vấn đề pháo binh có tướng N.N. Vô-rô-nốp, về không quân có các tướng A.A. Nô-vi-cốp và A.N. Gô-lô-va-nốp, về bộ đội thiết giáp có tướng Ya.N. Phê-đô-ren-cô. Các đồng chí đó giúp chúng tôi đi sâu vào vấn đề sử dụng và hiệp đồng các binh chủng quan trọng nhất.
    Ngày 4-11, tại bộ tham mưu tập đoàn quân 21 đã tổ chức kiểm tra công việc chuẩn bị tiến công của tập đoàn quân 21 và 65. Trong cuộc họp ấy còn mời cả bộ tư lệnh Phương diện quân sông Đông và tập đoàn quân 65. Lúc này A.M. Va-xi-lép-xki đang ở Phương diện quân Xta-lin-grát kiểm tra việc chuẩn bị của tập đoàn quân 51 và 64. Tôi hẹn với Va-xi-lép-xki là tôi cũng đến đó.
    Trong khi làm việc tại các đơn vị, chúng tôi nghiên cứu tỉ mỉ tin tức về địch, tính chất phòng ngự, cách bố trí lực lượng cơ bản và hệ thống hỏa lực tổng hợp, số lượng và nơi bố trí phương tiện chống tăng và các điểm tựa chống tăng của chúng.
    Chúng tôi đã xác định phương thức và kế hoạch chuẩn bị của pháo binh, mật độ của nó, xác suất tiêu diệt và chế áp trận địa phòng ngự địch, phương thức pháo đi cùng đội hình chiến đấu khi tiến công. Chúng tôi thông qua kế hoạch hiệp đồng của không quân và pháo binh, phân định mục tiêu cho hai loại này, vạch kế hoạch và phương thức hiệp đồng với bộ đội xe tăng khi đột phá và sau khi đưa nó vào đột phá. Chúng tôi đã xác định việc hiệp đồng với các đơn vị ở hai bên sườn, đặc biệt trong lúc đưa bộ đội cơ động vào đột phá và chiến đấu trong chiều sâu của trận địa phòng ngự địch.
    Chúng tôi còn chỉ cho các đơn vị: cần tìm hiểu thêm những gì về địch, cần chủ trương những gì nữa, cần làm thêm những gì trực tiếp trên trận địa, và làm gì để động viên bộ đội.
    Tất cả cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị đều nhất trí là phải hết sức nhanh chóng chọc thủng trận địa phòng ngự chiến thuật của địch, đánh mạnh làm cho chúng bị bất ngờ và nhanh chóng đưa thê đội hai vào chiến đấu để phát triển đột phá chiến thuật thành đột phá chiến dịch.
    Khi nghiên cứu nhiệm vụ tại các quân đoàn, các sư đoàn, trung đoàn, chúng tôi yêu cầu cán bộ chỉ huy suy nghĩ kỹ để quán triệt nhiệm vụ được giao và phương thức hiệp đồng với phương tiện tăng cường, với các đơn vị bạn, đặc biệt trong chiều sâu trận địa phòng ngự địch.
    Đối với cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị tất cả các cấp, công việc ấy rõ ràng là khó và đòi hỏi phải mang hết tâm sức, tài năng ra làm việc khẩn trương, nhưng nó sẽ dần dần sáng tỏ thêm trong quá trình chiến đấu.
    Các cơ quan chính trị, các tổ chức Đảng và Đoàn đã ra sức triển khai công tác chính trị và công tác Đảng trong các đơn vị. Công tác quan trọng ấy được sự chỉ đạo tài giỏi của Hội đồng quân sự phương diện quân và cục chính trị do tướng V.M. Ru-đa-cốp phụ trách.
    Để hoàn thành việc đặt kế hoạch tiến công cho Phương diện quân Xta-lin-grát, như đã thống nhất với Va-xi-lép-xki, tôi đến sở chỉ huy tập đoàn quân 57 ở Ta-chi-a-nốp-ca sáng ngày 10-11. Lúc ấy, ngoài Hội đồng quân sự còn có M.M. Pô-pốp, M.X. Su-mi-lốp, Ph.I. Tôn-bu-khin, N.I. Tơ-ru-pha-nốp, các quân đoàn trưởng V.T. Vôn-xki, T.T. Sáp-kin và nhiều vị tướng khác của phương diện quân. Trước khi khai mạc hội nghị, tôi cùng Va-xi-lép-xki, các tư lệnh tập đoàn quân 51, 57 N.I. Tơ-ru-pha-nốp và Ph.I. Tôn-bu-khin, M.M. Pô-pốp và các tướng khác đã ra trận địa của các tập đoàn quân ấy để xem kỹ nơi chủ lực phương diện quân sẽ triển khai tiến công.
    Sau khi kiểm tra, chúng tôi xem xét vấn đề hiệp đồng của phương diện quân này với Phương diện quân Tây-nam, thống nhất kỹ thuật hợp kích của các đơn vị phái đi trước ở khu vực Ca-lát, kế hoạch hiệp đồng của các đơn vị sau khi đã bao vây địch và những vấn đề khác của chiến dịch.
    Sau đó chúng tôi kiểm tra kế hoạch của các tập đoàn quân do các tư lệnh tập đoàn quân và các quân đoàn trưởng báo cáo.
    Tối 11-11, tôi báo cáo với Tổng tư lệnh theo đường điện thoại:
    ?oTôi đã làm việc hai ngày liền ở chỗ đồng chí Ê-rê-men-cô. Đã trực tiếp đến quan sát trận địa địch ở phía trước tập đoàn quân 51 và 57. Đã làm việc tỉ mỉ với các sư đoàn trường, quân đoàn trưởng, tư lệnh tập đoàn quân về những nhiệm vụ theo kế hoạch ?oU-ran?. Công việc chuẩn cho ?oU-ran? ở chỗ Tôn-bu-khin được tiến hành tốt hơn cả...
    Tôi đã ra lệnh đi trinh sát chiến đấu và trên cơ sở tin tức thu được đã xác định thêm kế hoạch chiến đấu và quyết tâm của tư lệnh tập đoàn quân.
    Đồng chí Pô-pốp làm việc khá, thành thạo trong nhiệm vụ.
    Hai sư đoàn bộ binh do Đại bản doanh chuyển cho Ê-rê-men-cô (87 và 315) chưa lên đường vì cho đến nay chưa nhận được phương tiện vận tải và ngựa.
    Trong số các lữ đoàn cơ giới, mới đến có một.
    Việc cung cấp và chuyên chở đạn dược còn kém. Đạn cho ?oU-ran? rất thiếu.
    Không thể chuẩn bị kịp theo thời hạn quy định của chiến dịch. Tôi đã ra lệnh phải sẵn sàng hành động trong ngày 15-11-1942.
    Cần gấp rút gởi cho Ê-rê-men-cô 100 tấn nhiên liệu dùng cho mùa đông vì thiếu nó thì các đơn vị cơ giới không hoạt động được; cho các sư đoàn bộ binh 87 và 315 tới ngay; gấp rút mang quần áo cho các tập đoàn quân 51 và 57; quần áo và đạn dược cần có cho bộ đội trước ngày 14-11-1942.
    Côn-xtan-tl-nốp[1]
    Số 4657
    11.11.1942?
    Cần nói rằng Tổng tư lệnh thường rất coi trọng vấn đề không quân bảo đảm chiến dịch. Nhận được báo cáo của tôi qua đó biết rằng việc chuẩn bị không quân bảo đảm cho trận phản công không đạt yêu cầu Tổng tư lệnh gởi cho tôi bức điện sau đây:
    ?oĐồng chí Côn-xtan-ti-nốp.
    Nếu ở chỗ Ê-rê-men-cô và Va-tu-tin việc chuẩn bị không quân cho chiến dịch không đạt yêu cầu thì chiến dịch sẽ thất bại. Kinh nghiệm đánh nhau với bọn Đức cho thấy, chỉ thắng lợi khi chúng ta có ưu thế trên không. Trong trường hợp này không quân chúng ta phải thi hành ba nhiệm vụ:
    Thứ nhất, tập trung hoạt động vào khu vực các đơn vị xung kích của ta đang tiến công để chế áp không quân Đức và bảo vệ vững chắc bộ đội ta.
    Thứ hai, mở đường cho các đơn vị tiến công bằng cách ném bom có hệ thống làm cho hàng ngũ chúng rối loạn, không cho chúng bám vào các tuyến phòng ngự gần nhất.
    Thứ ba, truy kích quân địch rút lui bằng cách ném bom, bắn phá có hệ thống làm cho hàng ngũ chúng hoàn toàn bị rối loạn, không cho chúng bám vào các tuyến phòng ngự gần nhất.
    Nếu Nô-vi-cốp cho rằng không quân ta hiện giờ không đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ đó thì tốt nhất là hoãn chiến dịch lại một ít thời gian và ra sức tăng thêm lực lượng không quân.
    Đồng chí trao đổi và giải thích cho Nô-vi-cốp và Vô-rô-giây-kin về việc này và báo cho tôi biết ý kiến chung của đồng chí.
    Va-li-xi-ép[2]
    12.11.1942 - 4 giờ
    Số 170686?
    Làm xong kế hoạch cho bộ đội Phương diện quân Xta-lin-grát, tôi và Va-xi-lép-xki gọi dây nói báo cáo với Xta-lin rằng, chúng tôi cần trực tiếp báo cáo một số ý kiến liên quan tới chiến dịch.
    Ngày 13-11, chúng tôi đến chỗ Xta-lin. Người có vẻ thoải mái, hỏi tỉ mỉ về tình hình công việc ở Xta-lin-grát trong quá trình chuẩn bì phản công.
    Tình hình cơ bản mà chúng tôi báo cáo đại thể như sau.
    Về so sánh lực lượng cả về chất lượng và số lượng chúng tôi nêu rõ là ở khu vực sẽ mở các mũi tiến công chủ yếu của ta (các Phương diện quân Tây-nam và Xta-lin-grát), cơ bản vẫn do quân Ru-ma-ni phòng ngự. Theo lời khai của bọn tù binh thì sức chiến đấu của chúng không cao. Về số lượng trên hướng ấy chúng ta sẽ có ưu thế đáng kể, nêu lúc quân ta tiến công, bọn Đức không điều các đội dự bị của chúng tới; hiện nay trinh sát của ta không phát hiện thấy một sự điều động nào. Tập đoàn quân 6 của Pao-luýt và chủ lực của tập đoàn quân xe tăng 4 đang ở khu vực Xta-lin-grát và đang bị Phương diện quân sông Đông và Phương diện quân Xta-lin-grát kiềm chế.
    Các đơn vị chúng ta, theo đúng kế hoạch, đang tập trung ở những khu vực quy định; nhìn chung, trinh sát của địch không phát hiện được sự điều động này. Chúng ta đã áp dụng mọi biện pháp để giữ bí mật hơn nữa việc cơ động lực lượng và phương tiện.
    Nhiệm vụ của phương diện quân, các tập đoàn quân và các binh đoàn đã quy định xong. Sự hiệp đồng của tất cả các loại vũ khí đã được bàn và giao ngay tại thực địa. Kế hoạch hợp điểm theo dự án của các mũi xung kích của Phương diện quân Tây-nam và Phương diện quân Xta-lin-grát đã được bàn định kỹ với các tư lệnh, các cơ quan tham mưu phương diện quân, tập đoàn quân và cả với các đơn vị nào sẽ tiến đến khu vực Dải đất nhượng Xô-viết - Ca-lát. Trong các tập đoàn quân không quân, việc chuẩn bị có thể sẽ hoàn thành vào ngày 15-11.
    Chúng tôi có thể nói là đã làm xong các phương án lập vòng trong để vây quân địch ở Xta-lin-grát và vòng ngoài để bảo đảm cho việc thanh toán bọn bị vây.
    Việc tiếp tế đạn, chất đốt và quần áo mùa đông bị chậm đôi chút, nhưng ta có đủ cơ sở để cho rằng cuối ngày 16, 17 tháng 11 bộ đội sẽ nhận được.
    Ngay 19-11, Phương diện quân sông Đông và Tây-nam có thể mở màn chiến dịch phản công, Phương diện quân Xta-lin-grát thì sau đó một ngày đêm.
    Sở dĩ có thời hạn khác nhau là vì nhiệm vụ của Phương diện quân Tây-nam phức tạp hơn. Nó ở khá xa khu vực Ca-lát-dải đất nhượng Xô-viết, và còn phải vượt sông Đông.
    Tổng tư lệnh chăm chú lắng nghe chúng tôi. Đồng chí thong thả đưa tẩu lên hút, vuốt nhẹ bộ ria và không lần nào cắt ngang báo cáo của chúng tôi. Qua các cử chỉ đó, chúng tôi thấy đồng chí có vẻ hài lòng. Chiến dịch Xta-lin-grát là dấu hiệu chứng tỏ quyền chủ động đã vào tay quân đội Xô-viết. Tất cả chúng tôi tin tưởng vào thắng lợi của cuộc phản công sắp tới, mà thành quả của nó có thể có nhiều ý nghĩa đối với tổ quốc chúng ta.

    [1] Tên mật của G. Giu-cốp.
    [2] Tên mật của Xta-lin
  6. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Trong khi chúng tôi báo cáo thì các ủy viên Hội đồng quốc phòng và vài ủy viên Bộ chính trị tới để chuẩn bị họp. Chúng tôi phải nói lại những vấn đề cơ bản đã báo cáo với một số đồng chí đến muộn.
    Sau khi bàn thêm đôi chút, Tổng tư lệnh phê chuẩn toàn bộ kế hoạch phản công.
    Tôi và Va-xi-lép-xki báo cáo với Tổng tư lệnh rằng, khi tình hình ở Xta-lin-grát và Bắc Cáp-ca-dơ trở nên nguy kịch, bọn Đức có thể buộc phải điều một phần bộ đội ở các khu vực khác, đặc biệt ở khu vực Vi-a-dơ-ma về ứng cứu cánh quân phía nam.
    Muốn cho việc này không xảy ra, cần gấp rút chuẩn bị và mở chiến dịch tiến công vào khu vực bắc Vi-a-dơ-ma và trước hết phải tiêu diệt quân Đức ở khu vực mỏm đất nhô Rơ-giép. Chúng tôi đề nghị sử dụng vào chiến dịch này bộ đội thuộc hai Phương diện quân miền Tây và Ca-li-nin.
    - Việc đó tốt đấy - Xta-lin nói - nhưng trong hai đồng chí ai đảm nhiệm việc này.
    Tôi và Va-xi-lép-xki đã thống nhất trước với nhau về đề nghị này nên tôi nói:
    - Chiến dịch Xta-lin-grát về tất cả các mặt đã chuẩn bị xong. Va-xi-lép-xki có thể đảm nhiệm việc phối hợp hành động của bộ đội ở Xta-lin-grát, tôi có thể lãnh trách nhiệm chuẩn bị phản công của hai Phương diện quân miền Tây và Ca-li-nin.
    Tổng tư lệnh đồng ý với đề nghị của chúng tôi và nói:
    - Sáng mai đồng chí bay về ngay Xta-lin-grát kiểm tra một lần nữa việc chuẩn bị mở màn chiến dịch của bộ đội và cán bộ chỉ huy.
    Ngày 14-11, tôi lại có mặt ở các đơn vị của N.Ph. Va-tu-tin. Va-xi-lép-xki thì đến chỗ A.I. Ê-rê-men-cô. Hôm sau tôi nhận được bức điện sau đây của Xta-lin:
    ?oGửi đồng chí Côn-xtan-ti-nốp.
    Ngày sơ tán của Phê-đô-rốp và I-va-nốp[3] có thể do đồng chí xem và quy định, sau đó báo cáo với tôi khi về Mát-xcơ-va. Nếu đồng chí thấy ai trong số hai người đó cần sơ tán sớm hơn hay muộn hơn một hai ngày, tôi ủy quyền đồng chí quyết định và vấn đề đó do đồng chí định liệu.
    Va-xi-li-ép
    13 giờ 10
    15. 11. 1942?
    Sau khi trao đổi với Va-xi-lép-xki, tôi quy định Phương diện quân Tây-nam và tập đoàn quân 65 của Phương diện quân sông Đông bắt đầu tiến công vào ngày 19-11, còn Phương diện quân Xta-lin-grát vào ngày 20-11. Tổng tư lệnh duyệt y quyết định của chúng tôi.
    Ngày 17-11, tôi được gọi về Đại bản doanh để chuẩn bị chiến dịch của các Phương diện quân miền tây và Ca-li-nin.
    Ngày 19-11, lúc 7 giờ 30, bộ đội Phương diện quân Tây-nam tiến công mãnh liệt chọc thủng trận địa phòng ngự của tập đoàn quân 3 Ru-ma-ni cùng một lúc trên hai khu vực: tập đoàn quân xe tăng 5 dưới sự chỉ huy của trung tướng P.L. Rô-ma-nen-cô từ bàn đạp ở Tây-nam Xê-ra-phi-mô-vích và tập đoàn quân 21 của tướng I.M. Chi-xti-a-cốp từ bàn đạp ở Clét-xcai-a.
    Địch không chống đỡ nổi đòn tiến công này, đã hoảng hốt rút lui hoặc đầu hàng cả. Các đơn vị Đức ở sau lưng quân Ru-ma-ni đã phản kích rất mạnh hòng chặn bước tiến quân ta nhưng bị hai quân đoàn xe tăng 1 và 26 ra quân đánh cho tan tác. Đột phá chiến thuật ở khu vực của Phương diện quân Tây-nam thế là hoàn thành.
    Trước thế nào, thì nay P.L. Rô-ma-nen-cô, tư lệnh tập đoàn quân vẫn thế. Cần nói rằng đó là một con người dũng cảm, một cán bộ chỉ huy rất giỏi. Xét về cá tính, đồng chí ấy rất thích hợp với những hành động mãnh liệt như vậy.
    Để chống lại tập đoàn quân 21 của tướng I.M. Chi-xti-a-cốp, địch tung đội dự bị ra gồm sư đoàn 1 Ru-ma-ni, 2 sư đoàn xe tăng 14, 22 Đức và sư đoàn kỵ binh 7 vì chúng cho rằng chính ở đây là mũi tiến công chủ yếu của ta. Nhưng sau đó sư đoàn xe tăng 22 Đức và sư đoàn xe tăng 1 Ru-ma-ni lại phải triển khai để đối phó với quân đoàn xe tăng 1 của tập đoàn quân xe tăng 5, do thiếu tướng V.V. Bút-cốp chỉ huy.
    Quân đoàn xe tăng 26 do thiếu tướng A.G. Rô-đin chỉ huy đã đánh quỵ sư đoàn xe tăng 1 và tiêu diệt bộ tham mưu quân đoàn 5 Ru-ma-ni. Một phần quân lính của chúng hoảng hốt tháo chạy, còn phần lớn đầu hàng.
    Vừa mở màn chiến dịch, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn và thực tế xóa bỏ phiên hiệu của các lực lượng cơ bản của quân đoàn 3 Ru-ma-ni phòng ngự đối diện với Phương diện quân Tây-nam. Những đội dự bị của Đức được điều đến ứng cứu chúng cũng bị tiêu diệt.
    Quân đoàn xe tăng 26 của A.G. Rô-đin và quân đoàn xe tăng 4 của A.G. Cráp-chen-cô liền tiến rất nhanh về khu vực Ca-lát để hợp điểm với quân đoàn cơ giới 4 của Phương diện quân Xta-lin-grát.
    Bên trái của tập đoàn quân 21, có tập đoàn quân 65 của Phương diện quân sông Đông đang tiến công dưới quyền chỉ huy của trung tướng P.I. Ba-tốp.
    Trong đêm rạng ngày 23-11, chi đội phái đi trước của quân đoàn xe tăng 26 do trung tá G.N. Phi-líp-pốp lãnh đạo đã đột kích táo bạo, chiếm được chiếc cầu bắc qua sông Đông.
    Đội gác cầu của Đức không một chút nghi ngờ, yên tâm chờ phiên gác sau. Nhưng chính đội phái đi trước của G.N. Phi-líp-pốp đã đến đổi gác. Bọn lính của Hít-le tiếp nhận đội này, yên trí đây là đơn vị huấn luyện của chúng dược trang bị xe tăng và chiến lợi phẩm của Nga. Một trận giao chiến ngắn ngủi xảy ra và chiếc cầu nằm gọn trong tay quân ta. Kẻ địch đôi lần định đẩy lùi quân của G.N. Phi-líp-pốp ra khỏi cầu, nhưng chúng không làm được.
    Trong khi giữ cầu, G.N. Phi-líp-pốp quyết định cử một toán xe tăng do trung tá N.M. Phi-líp-pen-cô chỉ huy đánh chiếm Ca-lát. Từ đó đến Ca-lát còn 2 km. Trung tá N.M. Phi-líp-pen-cô, mặc dầu với số quân ít, đã hạ quyết tâm công kích thành phố trong hành tiến. Trận chiến đấu chiếm Ca-lát kéo dài suốt đêm. Bọn Đức ngoan cố chống cự, nhưng không bao lâu, các đơn vị đi trước của chủ lực quân đoàn đã đến, và thành phố trở về tay quân ta.
    Ngày 24-11, các tập đoàn quân 21 và 5 của Phương diện quân Tây-nam đã tiêu diệt cánh quân Ru-ma-ni bị vây hãm, bắt hơn 3 vạn lính, sĩ quan, tướng và thu rất nhiều khí tài chiến đấu.
    Dưới đây là những điều ghi chép trong nhật ký của tên sĩ quan Ru-ma-ni, chủ nhiệm khí tượng của lữ đoàn pháo binh thuộc sư đoàn 6, nói lên tình hình những ngày ấy.
    ?oNgày 9-11.
    Người Nga khai hỏa như vũ bão vào sườn trái của sư đoàn 5. Tôi chưa hề thấy hỏa lực mạnh như thế... đạn pháo nổ làm rung chuyển đất đập tan những cửa kính... Trên điểm cao 163 xuất hiện xe tăng đối phương đi về phía Pa-xpô-pin-xcai-a. Không mấy chốc được tin báo, các xe tăng đó đang chạy hết tốc lực qua các trận địa và vào đến làng. Pháo ta không gây cho đối phương thiệt hại nào... Những chiếc xe tăng nặng 52 tấn ấy đang chạy với tốc độ tối đa, có vỏ thép rất dày mà đạn ta không xuyên qua được.
    Ngày 20-11
    Từ sáng sớm trên khu vực sư đoàn 13 ?oPrút?, đối phương bắt đầu pháo hỏa chuẩn bị mãnh liệt... Sư đoàn 13 bị tiêu diệt hoàn toàn. Xe tăng chạy tới Grôm-ki, đến làng Ép-xtơ-ra-tốp-xcai-a và thọc sâu vào lưng của ta ở Pê-rê-la-đốp-xki. Bộ chỉ huy quân đoàn 5 lúc ấy đang ở Pê-rê-la-đốp-xki. Mất hẳn liên lạc với bộ chỉ huy cấp trên. Sư đoàn 6 nhận được chỉ thị xa lạ làm sao: ?oBằng bất cứ giá nào cũng phải giữ đến người lính cuối cùng?. Hiện giờ chúng tôi đang bị địch bao vây chặt. Sư 5, sư 6, sư 15 và số còn lại của sư 13 đang nằm trong cái túi.
    Ngày 21-11
    Từ sáng, tình hình chúng ta vẫn nguy kịch. Chúng tôi bị vây... Ở Gô-lốp-xki tình hình cũng tồi lắm. Bây giờ là 11 giờ 05.
    Chúng tôi không biết phải làm gì. Ở đây đang tập họp sĩ quan của sư 13 và 15 mà đơn vị của họ đã bị diệt.
    Ôi là tình thế!
    Bi thảm, nhưng đó là cái dĩ nhiên.
    Đồng đội của tôi mang ảnh vợ con ra xem. Tôi cũng đau lòng nhớ lại mẹ, em và bà con thân thuộc. Chúng tôi mặc tất cả quần áo tốt nhất hiện có, mặc cả hai bộ một lúc và nghĩ rằng trận đánh sẽ kết thúc rất đau đớn... Trao đổi và tranh cãi với nhau khá nhiều về tình hình lúc này... Nhưng dù sao cũng vẫn còn hy vọng... chúng tôi cho rằng quân Đức sẽ đến ứng cứu chúng tôi.
    Bây giờ là 13 giờ 30. Tướng Ma-da-ri-ni, sư trưởng sư 5 nhận trách nhiệm chỉ huy tất cả các sư đoàn. Vòng vây quanh các đơn vị chúng tôi bắt đầu siết lại. Hôm nay là ngày lễ tôn giáo lớn. Chúng tôi hay cha ông chúng tôi đã phạm tội gì với Chúa? Tại sao chúng tôi phải chịu cảnh đau khổ này? Chúng tôi, ba sĩ quan, đang bàn về tình hình và kết luận, không có cách nào tránh khỏi tai họa. Tin không lành từ Ô-xi-nốp-ki bắt đầu được xác định là đúng. Tổ sĩ quan của trung đoàn hạng nặng số 5 bỏ trốn cũng vừa đến đây.
    Khuya đó các sư trưởng và trung đoàn trưởng lại tập họp để hạ quyết tâm cuối cùng. Họ thảo luận hai phương án:
    1) Chọc thủng vòng vây.
    2) Đầu hàng.
    Sau khi thảo luận khá lâu, mọi người chấp nhận phương án thứ hai - đầu hàng.
    Có tin: phía Nga cho người đến kêu gọi đầu hàng... ?
    Phần ghi chép gián đoạn ở đây. Nhưng không cần đọc thêm chúng ta cũng biết rằng toàn bộ số quân Ru-ma-ni đã đầu hàng.
    Tổng tư lệnh rất băn khoăn về hoạt động của cánh phải Phương diện quân sông Đông. Cuối ngày 23-11, người đã gửi chỉ thị dưới đây cho tư lệnh Phương diện quân sông Đông, K.K. Rô-cô-xốp-xki.
    ?oĐồng chí Rô-cô-xốp-xki, đồng gửi đồng chí Va-xi-lép-xki
    Theo báo cáo của Va-xi-lép-xki, sư đoàn mô-tô hóa 3 và sư đoàn xe tăng 16 của bọn Đức đã rút toàn bộ hoặc bộ phận ra khỏi khu vực thuộc phương diện quân của đồng chí và đang đánh vào chính diện tập đoàn quân 21. Tình hình ấy rất thuận lợi để tất cả các tập đoàn quân của phương diện quân đồng chí chuyển sang các hành động tích cực. Ga-la-nin hành động chậm mất rồi. Chỉ thị cho đồng chí ấy chiếm Véc-chi-a-si trước ngày 25-11. Chỉ thị cho cả Gia-đốp tích cực hoạt động thu hút địch về phía mình. Giải thích thật đầy đủ cho Ba-tốp rằng trong tình hình này có thể hoạt động khẩn trương hơn.
    I. Xta-lin
    23. 11. 1942
    19 giờ 40?
    Nhờ tập đoàn quân 21 do thiếu tướng I.M. Chi-xti-a-cốp chỉ huy tiến công thắng lợi và nhờ kết quả của những chủ trương mà Phương diện quân sông Đông đã thi hành, tình hình của tập đoàn quân 65 được chấn chỉnh lại. Nó đã tiến mạnh hơn.
    Ba ngày sau tập đoàn quân 24 của Phương diện quân sông Đông mới tiến công theo dọc tả ngạn sông Đông. Nhưng nó không giành được thắng lợi vì yếu quá.
    Các tập đoàn quân 51, 57, 64 của Phương diện quân Xta-lin-grát bắt đầu hoạt động ngày 20-11, chậm một ngày đêm so với Phương diện quân Tây-nam và sông Đông.
    Tập đoàn quân 51 do thiếu tướng N.I. Tơ-ru-pha-nốp chỉ huy đã tiến công theo hướng chung đến Plô-đô-vi-tôi-ê và tiến đến Áp-ga-nê-rô-vô.
    Tập đoàn quân 57 do thiếu tướng Ph.I. Tôn-bu-khin chỉ huy tiến công theo hướng chung đến Ca-lát.
    Tập đoàn quân 64 dưới sự chỉ huy của trung tướng M.X. Su-mi-lốp đã xuất phát từ khu vực I-va-nốp-ca, dùng cánh quân trái của mình đánh mạnh theo hướng chung đến Ga-vri-lốp-ca, Vác-va-rốp-ca, hiệp đồng với cánh phải của tập đoàn quân 57.
    Sau khi đột phá thắng lợi trận địa phòng ngự của địch và tiêu diệt các sư đoàn Ru-ma-ni 1, 2, 10, 20 cùng sư đoàn mô-tô hóa của Đức tại khu vực của tập đoàn quân 51, quân đoàn cơ giới số 4 của tướng V.T. Vôn-xki đã bước vào chiến đấu và đột phá được vào Plô-đô-vi-tôi-ê. Trong dải hoạt động của tập đoàn quân 57 có quân đoàn xe tăng của thiếu tướng T.I. Ta-na-xchi-sin cũng bước vào chiến đấu. Quân đoàn kỵ binh 4 của tướng T.T. Sáp-kin bắt đầu hoạt động và ngay trong ngày ấy chiếm được nhà ga Áp-ga-nê-rô-vô.
    Quân địch âm mưu ngăn chặn bước tiến của tập đoàn quân 57 về Ca-lát nên đã rút bớt ở Xta-lin-grát hai sư đoàn xe tăng 16 và 24 đưa về đấy. Nhưng chậm mất rồi, vả lại chúng cũng không đủ sức chịu đựng những đòn tiến công mãnh liệt của bộ đội hai Phương diện quân Tây-nam và Xta-lin-grát. Các đơn vị xe tăng của hai phương diện quân này lúc 16 giờ ngày 23-11, đã đến khu vực dải đất nhượng Xô-viết, ở đây lữ đoàn xe tăng 45 của quân đoàn xe tăng 4 dưới sự chỉ huy của trung tá P.K. Gít-cốp là đơn vị đầu tiên bắt liên lạc được với lữ đoàn cơ giới 30 của trung tá M.I. Rô-đi-ô-nốp, thuộc quân đoàn cơ giới 4.
    Vượt sông Đông xong, quân đoàn xe tăng 4 của Phương diện quân Tây-nam dưới quyền chỉ huy của tướng A.G. Cráp-chen-cô và quân đoàn cơ giới 4 thuộc Phương diện quân Xta-lin-grát của tướng V.T. Vôn-xki đã gặp nhau ở khu vực dải đất nhượng Xô-viết, do đó vây chặt được cụm quân địch ở Xta-lin-grát trên cồn đất giữa sông Đông và sông Vôn-ga.
    Sau đó các tập đoàn quân 64, 57, 21, 65, 24, 66 lại tiếp tục phát triển tiến công theo hướng chung đến Xta-lin-grát, khép chặt vòng vây địch ở bên trong bằng hai gọng kìm.
    Tập đoàn quân cận vệ 4, tập đoàn quân xe tăng 5 của Phương diện quân Tây-nam và tập đoàn quân 51 của Phương diện quân Xta-lin-grát, được tăng cường thêm một số binh đoàn xe tăng, đã truy kích bọn địch rút lui, đánh bật các đơn vị đã tan tác của chúng về phía tây, đẩy chúng cách xa hơn nữa cụm quân đang bị vây ở Xta-lin-grát và tạo một vòng vây vững chắc bên ngoài, bảo đảm nhất định tiêu diệt được bọn địch đang bị vây.
    Giai đoạn đầu của cuộc phản công đến đây kết thúc.

    [3] Ngày tấn công của Va-tu-tin và Ê-rê-men-cô - TG.
  7. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Đến những ngày đầu của tháng 12, vòng vây càng siết chặt thêm, và quân ta bước vào giai đoạn tiếp theo với nhiệm vụ thanh toán quân địch đang bị vây.
    Suốt thời gian này, tôi được A.M. Va-xi-lép-xki và Bộ Tổng tham mưu thông báo đầy đủ về tiến trình phản công. Sau khi đã vây chặt tập đoàn quân 6 và các binh đoàn của tập đoàn quân xe tăng Đức, thì nhiệm vụ nặng nề nhất lúc này là không để quân địch chạy thoát khỏi vòng vây.
    Ngày 28-11, tôi có mặt ở sở chỉ huy Phương diện quân Ca-li-nin để cùng bộ tư lệnh thảo luận về chiến dịch tiến công sắp mở.
    Khuya đó, Tổng tư lệnh gọi điện thoại hỏi tôi đã nắm được tình hình mới nhất ở khu vực Xta-lin-grát chưa. Tôi trả lời có. Tổng tư lệnh bảo tôi suy nghĩ và báo cho Người những ý kiến của mình về trận thanh toán quân Đức đang bị vây ở Xta-lin-grát.
    Sáng 29-11, tôi gửi lên Tổng tư lệnh bức điện như sau:
    ?oTrong tình hình hiện nay, nếu Đức không đánh một đòn bổ trợ từ khu vực Ni-giơ-ne Chiếc-xcai-a - Cô-chi-ôn-ni-cô-vô, thì số quân chúng bị vây không dám liều mạng đột phá để thoát khỏi vòng vây.
    Xem ra, bọn chỉ huy Đức đang cố gắng giữ chặt các trận địa ở khu vực Xta-lin-grát - Véc-chi-a-xi - Ma-ri-nốp-ca - Các-pốp-ca - nông trường Goóc-nai-a - Pô-li-a-na và gấp rút tập trung ở Ni-giơ-ne Chiếc-xcai-a - Cô-chi-ôn-ni-cô-vô một cụm quân xung kích để đột phá chính diện quân ta theo hướng chung đến Các-pốp-ca nhằm chia cắt chính diện các đơn vị quân ta, tạo một đường hành lang tiếp tế cho số quân bị vây và để sau đó rút số quân bị vây theo đường hành lang này.
    Nếu gặp thuận lợi thì địch có thể tạo được hành lang ở khu vực Ma-ri-nốp-ca - Li-a-pi-sép - Véc-khơ-ne Chiếc-xcai-a, chính diện hướng về phía bắc.
    Mặt thứ hai của hành lang ấy hướng về đông nam, theo tuyến Se-ben-cô-đê-tư - Gni-lốp-xcai-a - Sa-ba-lin.
    Để các cánh quân địch ở Ni-giơ-ne Chiếc-xcai-a và Cô-chi-ôn-ni-cô-vô không thể liên lạc được với cánh quân ở Xta-lin-grát mà lập hành lang, cần:
    - Hết sức nhanh chóng đánh lui ngay cánh quân địch ở Ni-giơ-ne Chiếc-xcai-a - Cô-chi-ôn-ni-cô-vô và tạo một đội hình chiến đấu dày đặc trên tuyến Ô-blip-xcai-a - Toóc-mô-xin - Cô-chi-ôn-ni-cô-vô. Giữ ở khu vực Ni-giơ-ne Chiếc-xcai-a - Cô-chi-ôn-ni-cô-vô 2 cụm xe tăng, mỗi cụm không dưới 100 xe để làm đội dự bị.
    - Cắt số quân địch bị vây ở Xta-lin-grát ra làm hai. Muốn thế... phải đánh một đòn bổ đôi ở hướng Bôn Rốt-xốt-xca. Cũng hướng về phía ấy, cho một mũi đánh vào Đu-bi-nin-xki, điểm cao 135. Trên các khu vực khác thì phòng ngự và chỉ cho những bộ phận nhỏ, lẻ hoạt động để tiêu hao và làm suy yếu quân địch.
    Sau khi chia cắt số quân địch bị vây ra làm hai, cần... trước tiên tiêu diệt cụm quân địch yếu nhất, rồi dùng toàn lực đánh vào số quân địch ở khu vực Xta-lin-grát.
    Giu-cốp
    Số 02
    29.11.1942?
    Sau khi báo cáo với Tổng tư lệnh, tôi nói chuyện theo đường dây riêng với A.M. Va-xi-lép-xki, đồng chí tán thành dự kiến của tôi. Đồng thời tôi cũng trao đổi ý kiến về hoạt động sắp tới của bộ đội Phương diện quân Tây-nam. Va-xi-lép-xki đồng ý tạm thời hoãn chiến dịch ?oSao thổ lớn? lại và cho Phương diện quân Tây-nam đánh vào sườn quân địch ở Toóc-mô-xin. Bộ Tổng tham mưu cũng có ý kiến như vậy.
    Phương diện quân Tây - nam nhận nhiệm vụ ?oSao thổ nhỏ? như sau: dùng các tập đoàn quân cận vệ 1 và 3, tập đoàn quân xe tăng 5, đánh mạnh theo hướng chung đến Mô-rô-dốp-xcơ, tiêu diệt quân địch trong khu vực đó. Mũi này của Phương diện quân Tây-nam được tập đoàn quân 6 của Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ hỗ trợ, tập đoàn quân này đang tiến công trong hướng chung đến Can-tê-mi-rốp-ca.
    Bộ chỉ huy quân Đức lúc ấy rất cần lực lượng dự bị để cứu vãn tình thế nguy kịch của quân đội chúng ở Xta-lin-grát và Cáp-ca-dơ.
    Không cho địch rút bớt quân của cụm ?oTrung tâm? như tôi đã nói, Bộ Tổng tư lệnh quyết định: song song với cuộc phản công ở Xta-lin-grát, tổ chức cho hai Phương diện quân miền Tây và Ca-li-nin tiến công địch nhằm chiếm vùng đất nhô Rơ-giép. Từ 20-11 đến 8-12 là thời gian phải lập kế hoạch và chuẩn bị tiến công xong.
    Ngày 8-12-1942, các phương diện quân nhận được chỉ thị sau đây:
    ?o Các Phương diện quân miền Tây và Ca-li-nin có nhiệm vụ phối hợp tác chiến nhằm đến ngày 1-1-1943 phải tiêu diệt số quân địch ở khu vực Rơ-giép - Xư-chép-ca - Ô-lê-ni-nô Bê-lưi và trụ lại trên tuyến Ya-rư-ghi-nô - Xư-chép-ca - An-đrây-ép-xcôi-ê - Lê-ni-nô - A-giê-vô mới - Đên-chê-lê-vô - Xvi-tư.
    Phương diện quân miền Tây khi tiến hành chiến dịch cần nắm vững các điều sau đây:
    a) Trong những ngày 10, 11 tháng 12, đột phá trận địa phòng ngự của địch ở khu vực Crô-pô-tô-vô lớn - Ya-rư-ghi-nô và chiếm Xư-chép-xca đúng vào ngày 15-12; ngày 20-12, đưa đến khu vực An-đrây-ép-xcôi-ê đúng hai sư đoàn bộ binh để cùng với tập đoàn quân 41 của Phương diện quân Ca-li-nin vây chặt quân địch ở đó.
    b) Sau khi chọc thủng trận địa phòng ngự địch và chủ lực đã ra đến tuyến đường sắt thì đưa lực lượng cơ động của phương diện quân và đúng 4 sư đoàn bộ binh quay trở lại phía bắc đánh vào sau lưng số quân địch đóng ở Rơ-giép - Chéc-tô-li-nô.
    Tập đoàn quân 30 đột phá trận địa phòng ngự ở khu vực Cô-ski-nô, giao điểm các con đường phía đông bắc Buốc-gô-vô, và đúng 15-12 tiến lên đường sắt ở khu vực Chéc-tô-li-nô; khi tiến ra đường sắt thì hiệp đồng chiến đấu với lực lượng cơ động của phương diện quân và đánh dọc đường sắt đến Rơ-giép để đúng 23-12 chiếm Rơ-giép.
    Phương diện quân Ca-li-nin khi thi hành nhiệm vụ cần nắm vững các việc sau đây:
    a) Tập đoàn quân 39 và 22 tiếp tục tiến công theo hướng chung đến Ô-lê-ni-nô với nhiệm vụ đúng ngày 16-12 tiêu diệt xong cụm quân địch ở đó.
    Một phần lực lượng tập đoàn quân 22 mở đòn tiến công bổ trợ theo hướng Ê-gô-ra cho tập đoàn quân 41 tiêu diệt quân địch ở Bê-lưi.
    b) Tập đoàn quân 41 đến ngày 10-12 phải tiêu diệt cánh quân địch đã đột phá ở khu vực Xư-xư-nô và khôi phục lại trận địa đã mất ở khu vực Ô-cô-lít-xe.
    Đúng 20-12, cho một phần lực lượng tiến đến khu vực Môn-nha - Vla-đi-mia-xcôi - Ê-lê-ni-nô với nhiệm vụ cùng các đơn vị của Phương diện quân miền Tây khóa chặt từ phía nam cánh quân địch bị vây.
    Đúng ngày 20-12 chiếm thành phố Bê-lưi.
    Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao
    I. Xta-lin
    G. Giu-cốp
    Số 170700?.
    Chiến dịch này do lực lượng của hai phương diện quân tiến hành. Nó có ý nghĩa quan trọng góp phần tiêu diệt quân địch ở khu đất nhô Rơ-giép vì vậy cần nói một đôi lời về nó.
    Bộ tư lệnh Phương diện quân Ca-li-nin, đứng đầu là trung tướng M.A. Puốc-ca-ép đã làm tròn nhiệm vụ của mình. Một mũi của phương diện quân này tiến công phía nam thành phố Bê-lưi đã đột phá chính diện thắng lợi, tiến thẳng về hướng Xư-chép-ca. Một mũi của Phương diện quân miền Tây đáng lẽ phải đột phá trận địa phòng ngự của địch và tiến lên hợp điểm với quân của phương diện quân Ca-li-nin để khép kín vòng vây chung quanh quân Đức ở Rơ-giép, nhưng đã không đột phá được.
    Tổng tư lệnh liền bảo tôi gấp rút đến gặp L.X. Cô-nép.
    Sau khi làm việc ở sở chỉ huy Phương diện quân miền Tây, tôi cho rằng mở lại chiến dịch là vô ích. Quân địch đã đoán được ý định của ta và điều khá nhiều lực lượng từ các nơi khác về vùng có chiến sự này.
    Trong lúc đó tình hình Phương diện quân Ca-li-nin ở khu vực quân ta đột phá đã trở nên gay go. Quân địch đánh mạnh vào hai bên sườn, đã chia cắt và bao vây quân đoàn cơ giới của ta do thiếu tướng M.D. Xô-lô-ma-tin chỉ huy.
    Thế là buộc phải điều trong lực lượng dự bị của Bộ Tổng tư lệnh một quân đoàn bộ binh đến ứng cứu để giải vây cho quân của M.D. Xô-lô-ma-tin đã chiến đấu trong những điều kiện cực kỳ gay go trong hơn ba ngày đêm.
    Trong đêm rạng ngày thứ tư, những chiến sĩ người Xi-bê-ri đã kịp thời chọc thủng chính diện quân địch, giải vây cho quân đoàn của M.D. Xô-lô-ma-tin. Quân đoàn đã kiệt sức, được đưa về hậu phương nghỉ ngơi.
    Mặc dầu quân ta ở đây không đạt được mục tiêu do Bộ Tổng tư lệnh đề ra là thanh toán quân địch ở Rơ-giép, nhưng do những hoạt động tích cực của ta, bọn chỉ huy Đức không thể nào rút nhiều lực lượng ở đây về tăng viện cho khu vực Xta-lin-grát được.
    Hơn nữa, để giữ vững bàn đạp Rơ-giép - Vi-a-dơ-ma, bộ chỉ huy Đức buộc phải điều về khu vực Vi-a-dơ-ma - Rơ-giép 4 sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn cơ giới.
    Nghiên cứu những nguyên nhân tiến công không đạt kết quả của Phương diện quân miền Tây, chúng tôi đi đến kết luận rằng, nguyên nhân cơ bản là đã đánh giá thấp những khó khăn về địa hình ở nơi mà bộ chỉ huy phương diện quân chọn làm mũi tiến công chủ yếu.
    Kinh nghiệm chiến tranh dạy rằng nếu trận địa phòng ngự của địch bố trí trên địa hình dễ quan sát, lại không có những vật chướng ngại thiên nhiên làm vật che chở tránh hỏa pháo thì trận địa ấy dễ bị hỏa lực của pháo và súng cối đánh tan, và ở đó tiến công chắc chắn sẽ đạt kết quả.
    Và nếu trận địa phòng ngự của địch ở trên địa hình khó quan sát có dốc cao che khuất lại có các khe sâu chạy thẳng góc với chính diện thì trận địa đó khó bị đánh tan bằng hỏa lực và khó đột phá, đặc biệt khi việc sử dụng xe tăng bị hạn chế.
    Trong trường hợp cụ thể này, đúng là ta đã không tính đến ảnh hưởng của địa hình nơi bọn Đức phòng ngự; nó rất kín đáo vì ở mặt dốc bên kia của vùng đất lồi.
    Nguyên nhân không thành công khác nữa là thiếu xe tăng, pháo, súng cối và máy bay để bảo đảm đột phá phòng ngự địch.
    Bộ tư lệnh phương diện quân cố gắng khắc phục các nhược điểm đó trong quá trình tiến công, nhưng không có kết quả. Tình hình còn thêm gay go vì bộ chỉ huy Đức, ngoài dự kiến của ta, đã ra sức rút quân từ các mặt trận khác về tăng cường cho khu vực này.
    Do tất cả các nguyên nhân ấy, mũi đột kích của Phương diện quân Ca-li-nin sau khi đột phá được ở phía nam Bê-lưi đã trở thành đơn độc.
    Nhưng ta hãy quay lại các hoạt động của quân ta ở khu vực Xta-lin-grát.
    Trong nửa đầu tháng 12, chiến dịch tiêu diệt quân địch bị vây do hai Phương diện quân sông Đông và Xta-lin-grát tiến hành, đã phát triển hết sức chậm chạp.
    Quân địch hy vọng vào sự tăng viện do chính Hít-le hứa hẹn nên đã ngoan cố giữ từng trận địa. Cuộc tiến công của quân ta không đạt kết quả mong muốn vì phải dùng một phần lớn lực lượng để đánh lại cuộc tiến công của địch từ Cô-chi-ôn-ni-cô-vô sang.
    Đối với bọn Đức, nếu bọn chúng ở Xta-lin-grát bị tiêu diệt thì có nguy cơ phát triển thành tai họa lớn về chiến lược.
    Để cứu vãn tình hình chung, bọn Đức cho rằng, trước hết cần ổn định chính diện phòng ngự của chúng trên hướng Xta-lin-grát và nhờ bọn này yểm hộ để chúng rút cụm quân ?oA? ra khỏi Cáp ca-dơ. Nhằm đạt được những mục đích ấy, chúng thành lập một cụm quân mới là cụm ?osông Đông?, cử thống chế Man-sten làm tư lệnh.
    Theo ý kiến của bè lũ Hít-le thì tên này là một trong những tư lệnh đúng cỡ và có khả năng nhất. Để xây dựng cụm quân này, chúng phải điều quân từ các khu vực khác trên chiến trường Xô - Đức và một phần từ Pháp và Đức về.
    Để cứu nguy cho số quân đang bị vây ở Xta-lin-gtát, thống chế Man-sten, như hiện nay chúng ta biết, đã dự kiến tổ chức hai khối xung kích. Một ở khu vực Cô-chi-ôn-ni-cô-vô, một ở khu vực Toóc-mô-xin.
    Nhưng tình hình của Man-sten và cả bọn Đức đang bị vây không thể nào sáng sủa lên được. Lúc ấy quân Đức đang thiếu lực lượng dự bị một cách nghiêm trọng. Số quân chúng có thể tập hợp được thì lại hành quân rất chậm chạp trên các đường giao thông luôn luôn bị phá hoại. Các chiến sĩ du kích của ta ở sau lưng địch biết rõ lý do bọn địch hộc tốc kéo nhau về phía nam nên đã tích cực hoạt động để ngăn bước tiến của chúng. Bất chấp sự khủng bố tàn ác của bọn phát-xít và mặc dầu chúng đề phòng ráo riết, các chiến sĩ yêu nước dũng cảm đã đánh lật nhào hàng chục đoàn xe lửa chở đầy lính Đức.
    Thời gian vẫn trôi qua, nhưng việc tập trung quân Đức với hy vọng giải tỏa và lập một chính diện phòng ngự mới đã không thực hiện được. Hít-le đánh hơi thấy họa diệt vong sắp đến với quân đội của chúng ở Xta-lin-grát, nên thúc ép Man-sten mở ngay chiến dịch mà không đợi tập trung đủ quân.

    Được Amore sửa chữa / chuyển vào 19:51 ngày 21/02/2005
  8. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Man-sten mở màn chiến dịch vào ngày 12-12 chỉ bằng một mũi từ khu vực Cô-chi-ôn-ni-cô-vô tiến công dọc theo đường sắt.
    Mũi Cô-chi-ôn-ni-cô-vô của Man-sten gồm hai sư đoàn xe tăng 6 23 và sau đó thêm sư đoàn xe tăng 17, một tiểu đoàn xe tăng độc lập được trang bị xe tăng nặng loại ?ocọp?, 4 sư đoàn bộ binh và nhiều đơn vị làm lực lượng tăng cường và cả hai sư đoàn kỵ binh người Ru-ma-ni. Trong 3 ngày giao chiến, địch đã tiến lên chỉ còn cách Xta-lin-grát 45 km và đã vượt được cả sông Ác-xai Ê-xau-lốp-xki.
    Chiến sự diễn ra rất ác liệt ở khu vực Véc-ne Cum-xki, hai bên đều bị thiệt hại nặng. Quân địch bất chấp mọi tổn thất, cố vươn đến Xta-lin-grát. Nhưng các chiến sĩ Xô-viết được tôi luyện trong chiến đấu đã kiên cường bảo vệ các tuyến phòng ngự. Mãi đến khi bị sư đoàn xe tăng 17 địch đến áp đảo và khi chúng bất thình lình tăng cường các cuộc ném bom của máy bay thì các đơn vị của tập đoàn quân 51 và quân đoàn kỵ binh của tướng T.T. Sáp-kin mới phải rút qua bên kia sông Mứt-xcô-va.
    Lúc này quân địch còn cách Xta-lin-grát 40 km. Xem ra chúng cho rằng thắng lợi đã sắp thành hiện thực rồi. Nhưng đó là những hy vọng quá sớm. Theo chỉ thị của Đại bản doanh, A.M. Va-xi-lép-xki đã điều tập đoàn quân cận vệ 2 tăng cường của tướng R.Ya. Ma-li-nốp-xki được trang bị đầy đủ pháo và xe tăng tới tham chiến. Đòn tiến công của tập đoàn quân này đã đánh cú quyết định làm cho trận chiến đấu phát triển có lợi cho quân đội Xô-viết.
    Ngày 16-12, các đơn vị của Phương diện quân Tây-nam và tập đoàn quân 6 của Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, lúc này đã chuyển thuộc Phương diện quân Tây-nam, bắt đầu tiến công. Mục đích là tiêu diệt bọn Đức ở khu vực trung lưu sông Đông và tiến vào hậu phương cánh quân địch ở Toóc-mô-xin.
    Tập đoàn quân cận vệ 1 do trung tướng V.I. Cu-dơ-nét-xốp chỉ huy, tập đoàn quân cận vệ 3 do trung tướng Đ.Đ. Lê-liu-sen-cô chỉ huy (lúc này tập đoàn quân cận vệ 1 đã tách ra thành hai tập đoàn quân cận vệ 1 và 3), tập đoàn quân 6 do thiếu tướng Ph.M. Kha-ri-tô-nốp chỉ huy (được chuyển giao cho Phương diện quân Tây-nam và được tăng cường thêm quân đoàn xe tăng 17 của P.P. Pô-lu-bô-ya-rốp) đã nhanh chóng phát triển tiến công về hướng Mô-rô-dốp-xcơ sau khi tiêu diệt tập đoàn quân 8 người Ý.
    Trong thê đội một của chiến dịch, các quân đoàn xe tăng 24 và 25 và quân đoàn cơ giới cận vệ 1 dùng đòn giáp lá cà để đánh bại sự phản kháng của quân dịch. Các quân đoàn xe tăng 17 và 18 tiến công ở bên phải đã tiến tới Mi-lê-rô-vô.
    Hoạt động mãnh liệt của Phương diện quân Tây-nam trên hướng ấy đã buộc Man-sten phải đem lực lượng định dùng để tiến công từ khu vực Toóc-mô-xin quay lại đối phó với các đơn vị của Phương diện quân Tây-nam vừa tiến đến sườn và sau lưng toàn bộ cụm quân ?osông Đông?.
    Báo cáo theo đường ?oBô-đô? ngày 28-12 với Bộ Tổng tư lệnh về tiến trình chiến dịch tiến công, tư lệnh Phương diện quân Tây-nam N.Ph. Va-tu-tin phân tích như sau:
    - Có thể nói là, tất cả bọn địch gồm gần 17 sư đoàn trước đây trực tiếp đối diện với phương diện quân nay đã bị tiêu diệt hoàn toàn và mọi thứ dự trữ đều bị ta chiếm đoạt. Bắt làm tù binh hơn 6 vạn tên, số bị giết không ít hơn số trên; số địch còn lại ít ỏi, gần như sẽ không còn sức chống cự lại, trừ trường hợp hãn hữu.
    Quân địch ở trước mặt phương diện quân đang ngoan cố phòng ngự trên tuyến Ô-blíp-xcai-a - Véc-khơ-ne Chiếc-xcai-a. Tại khu vực Mô-rô-dốp-xcơ hôm nay đã bắt được tù binh thuộc sư đoàn xe tăng 11 và sư đoàn không quân dã chiến 8, là những đơn vị trước đây bố trí ở phía trước tập đoàn quân của Rô-ma-nen-cô. Kháng cự mạnh nhất chống lại tập đoàn quân của Lê-liu-sen-cô và bộ đội cơ động của ta là những đơn vị địch đã từ Cô-chi-ôn-ni-cô-vô vượt sông Đông, tiến đến tuyến Chéc-nư-cốp-xki - Mô-rô-dốp-xcơ - Xcô-xưa-xcai - A-ta-xin-xcai-a. Bọn này sẽ ra sức chiếm lấy một tuyến phòng ngự để ngăn chặn đà tiến công của các binh đoàn cơ động của ta, do đó bảo đảm cho quân của chúng rút lui. Cũng có thể là trong những điều kiện có lợi, chúng sẽ giữ chặt khu đất nhô này để về sau dựa vào đó mà cứu số quân của chúng đang bị vây. Nhưng chúng không thể đạt được điều đó. Toàn bộ lực lượng sẽ được dốc ra để cắt khu đất nhô này.
    Trinh sát đường không hàng ngày ghi được các cuộc điều quân của địch xuống các vùng: Rốt-xốt, Xta-rô-ben-xcơ, Vô-rô-si-lốp-grát, Che-bô-tốp-ca, Ca-men-xcơ, Li-khai-a, Dơ-vê-rê-vô.
    Ý định của địch thật là khó đoán. Hình như chúng chuẩn bị tuyến phòng ngự cơ bản dọc sông Bắc Đô-nét. Trước hết, địch bắt buộc phải bịt lỗ thủng do quân ta tạo nên rộng đến 350 km.
    Nếu đánh địch ngay thì rất tốt, nhưng muốn thế phải tăng viện, vì các lực lượng hiện diện ở đây đang bận hoàn thành ?oSao Thổ nhỏ?, còn đối với ?oSao Thổ lớn? thì cần có lực lượng bổ sung.
    Tôi và Tổng tư lệnh ngồi nghe điện thoại.
    - Nhiệm vụ thứ nhất của đồng chí là không được để Ba-đa-nốp bị tiêu diệt và cấp tốc điều Páp-lốp và Rút-xi-a-nốp đến tiếp viện cho Ba-đa-nốp, - Xta-lin nói. - Đồng chí đã xử trí đúng là cho phép Ba-đa-nốp lúc gay go nhất bỏ Ta-xin-xcai-a. Đòn tiến công gặp gỡ của quân đoàn kỵ binh 8 của đồng chí vào Toóc-mô-xin, nếu được đơn vị bộ binh nào đó tăng viện thì sẽ tốt hơn. Cho quân đoàn kỵ binh cận vệ 3 và một sư đoàn bộ binh tiến qua Xu-vô-pốp-xki đến Toóc-mô-xin là rất đúng lúc.
    Để có thể biến ?oSao Thổ nhỏ? thành ?oSao Thổ lớn?, chúng tôi đã điều cho đồng chí hai quân đoàn xe tăng 2 và 23. Một tuần nữa, sẽ có thêm 2 quân đoàn xe tăng và 3, 4 sư đoàn bộ binh... Chúng tôi còn ngần ngại việc điều quân đoàn xe tăng 18 xuống Xcô-xưa-xcai-a, tốt nhất là để nó lại ở khu vực Mi-lê-rô-vô - Véc-khơ-ne Ta-ra-xốp-xcôi-ê cùng với quân đoàn xe tăng 17. Nói chung, cần nhớ rằng khi đánh sâu, nên cho những quân đoàn xe tăng ra quân từng đôi một, không cho đi lẻ để khỏi rơi vào tình thế Ba-đa-nốp.
    - Hiện giờ quân đoàn xe tăng 18 ở đâu? - tôi hỏi N.Ph. Va-tu-tin.
    - Quân đoàn xe tăng 18 đang ở phía đông Mi-lê-rô-vô... Nó sẽ không bị cô lập.
    - Hãy nhớ Ba-đa-nốp, không được quên Ba-đa-nốp, dù tình hình thế nào cũng phải cứu lấy Ba-đa-nốp.
    - Tôi quyết thi hành mọi biện pháp có thể và sẽ cứu được Ba-đa-nốp - N.Ph. Va-tu-tin hứa.
    Sau này tôi được nghe kể lại về những chiến công anh hùng của các chiến sĩ xe tăng.
    Sau khi đột phá phía tây bắc Bô-gu-cha, ngày 17-12, hồi 18 giờ 30, quân đoàn vừa chiến đấu vừa tiến được 300 km. Dọc đường tiến đến ga Ta-xin-xcai-a, quân đoàn đã diệt 6.700 lính và sĩ quan địch, thu được một số rất lớn quân trang quân dụng. Sáng ngày 24-12, khi đến sát nhà ga, quân đoàn vừa tiến vừa công kích nhà ga từ nhiều phía. Đại úy cận vệ I.A. Phô-min cùng một tổ chiến sĩ đã lao thẳng vào nhà ga Ta-xin-xcai-a, cắt đôi đường sắt Li-khai-a - Xta-lin-grát. Sau khi tiêu diệt đội bảo vệ của giặc, anh em chiếm được đoàn tàu chở đầy máy bay mới chưa lắp. Tiếc rằng đại úy I.A. Phô-min trúng đạn đã hy sinh anh dũng ở đấy.
    Trong lúc đó các chiến sĩ xe tăng do đại úy Ph.Ph. Nê-cha-ép chỉ huy đánh thọc vào sân bay đang có hơn 200 máy bay vận tải Đức sắp cất cánh nhưng chưa kịp bay lên trời thì xe tăng đã ghìm chặt lại và quật nát chúng. Quân đoàn xe tăng giữ ga Ta-xin-xcai-a 5 ngày đêm, chiến đấu ác liệt trong vòng vây chống các lực lượng dự bị của địch vừa kéo đến. Sáng ngày 29-12, sau khi nhận lệnh của N.Ph. Va-tu-tin, quân đoàn đã chọc thủng vòng vây, và nhờ tinh thần dũng cảm, sự chỉ huy chiến đấu rất tài trí của V.M. Ba-đa-nốp, đã hoàn toàn rút ra có tổ chức tới I-lin-ca, sau đó vài hôm lại tiến công thắng lợi vào Mô-rô-dốp-xcơ.
    Do có nhiều đóng góp vào việc tiêu diệt quân địch ở vùng sông Vôn-ga, sông Đông, quân đoàn 24 được đổi thành quân đoàn xe tăng cận vệ 2 mang tên danh dự Ta-xin-xcai-a và quân đoàn trưởng V.M. Ba-đa-nốp là người đầu tiên trong cả nước được tặng huân chương Xu-vô-rốp hạng nhì. Nhiều cán bộ, chiến sĩ trong quân đoàn được Chính phủ khen thưởng.
    Những đòn tiến công thắng lợi của bộ đội Phương diện quân Tây-nam và Xta-lin-grát trên hướng Cô-chi-ôn-ni-cô-vô và Mô-rô-dốp-xcơ đã có tác dụng quyết định số phận đội quân của Pao-luýt đang bị vây ở Xta-lin-grát.
    Bộ đội các Phương diện quân Tây-nam và Xta-lin-grát đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, tiêu diệt quân địch rất nhanh, làm phá sản kế hoạch của Man-sten định giải tỏa cho quân của Pao-luýt. Đầu tháng Giêng, quân của Va-tu-tin đã tiến đến tuyến Nô-vai-a Ca-lít-va - Cri-xcôi-ê Chéc-cô-vô - Vô-lô-si-nô - Mê-lê-rô-vô - Mô-rô-dốp-xcơ, trực tiếp đe dọa toàn bộ quân Đức ở Cáp-ca-dơ.
    Cánh quân Đức ở Cô-chi-ôn-ni-cô-vô bị đánh tơi bời, đến cuối tháng 12 đã chạy về tuyến Xim-li-an-xcai-a - Giu-cốp-xcai-a - Đubốp-xcôi-ê - Đi-mốp-ni-ki. Bị thiệt hại nặng, số quân ở Toóc-mô-xin rút về tuyến Chéc-nư-sép-xcai-a - Lô-dơ-nôi - Xim-li-an-xcai-a.
    Thế là âm mưu của tư lệnh cụm quân ?osông Đông?, thống chế Man-sten định đột phá vòng vây phía ngoài của ta để cứu quân của Pao-luýt đã bị phá sản hoàn toàn.
    Điều đó cả bọn chỉ huy và bọn lính đang bị vây cũng hiểu. Chúng thất vọng nhưng chúng lại mong muốn một cái gì đó đến cứu chúng khỏi diệt vong. Khi mà hy vọng cứu chúng đã tàn đi, thì tâm trạng chán ngán đắng cay lại đến...
    Sau khi âm mưu giải tỏa bị thất bại hoàn toàn, bọn cầm quyền Đức không coi nhiệm vụ cứu số quân bị vây sắp chết đến nơi là chủ yếu trái lại chúng buộc bọn này phải đánh nhau lâu hơn trong vòng vây để làm tê liệt quân đội Liên Xô. Chúng cần tranh thủ một thời gian tối đa để rút quân của chúng từ Cáp-ca-dơ và điều lực lượng từ các mặt trận khác về, tạo nên một mặt trận mới đủ sức ngăn chặn trong chừng mực nào đó đà phản công của ta.
    Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao thì lại áp dụng các biện pháp để nhanh chóng diệt hết bọn quân đã bị vây và để có thể sử dụng các đơn vị của hai phương diện quân đó vào một nhiệm vụ cần làm gấp là tiêu diệt số quân Đức rút khỏi Cáp-ca-dơ và miền nam nước ta.
    Tổng tư lệnh tối cao ra sức thúc giục các tư lệnh phương diện quân.
    Cuối tháng12, Hội đồng quốc phòng họp thảo luận về những hoạt động sắp tới. Tổng tư lệnh đề nghị:
    - Việc lãnh đạo tiêu diệt quân địch đang bị vây cần chuyển vào tay một người. Hiện giờ hoạt động của hai tư lệnh phương diện quân đang trở ngại cho tiến trình chiến đấu.
    Các ủy viên Hội đồng quốc phòng có mặt đã ủng hộ ý kiến ấy.
    - Ta nên giao cho tư lệnh nào chỉ huy bộ đội thanh toán nốt quân địch ở đây?
    Có người nào đó đề nghị giao hết quyền cho K.K. Rô-cô-xốp-xki.
    - Sao đồng chí yên lặng? - Tổng tư lệnh quay lại hỏi tôi.
    - Theo tôi cả hai tư lệnh đều xứng đáng, - tôi trả lời - A. I. Ê-rê-men-cô tất nhiên sẽ thắc mắc nếu chuyển bộ đội Phương diện quân Xta-lin-grát thuộc quyền chỉ huy của K.K. Rô-cô-xốp-xki.
    - Bây giờ không phải là lúc thắc mắc, - I.V. Xta-lin ngắt lời. ?" Và ra lệnh cho tôi: gọi điện thoại cho Ê-rê-men-cô tuyên bố quyết định của hội đồng quốc phòng.
    Tối hôm ấy tôi gọi điện cho A.I. Ê-rê-men-cô theo đường dây riêng và nói:
    - An-đrây I-va-nô-vích, Hội đồng quyết định để K.K. Rô-cô-xốp-xki chỉ huy thanh toán nốt số quân địch ở Xta-lin-grát, vì vậy anh chuyển giao các tập đoàn quân 57, 64, 62 của Phương diện quân Xta-lin-gtát cho Phương diện quân sông Đông.
    - Sao lại có quyết định ấy? - A. I. Ê-rê-men-cô hỏi.
    Tôi giải thích cho đồng chí lý do đưa đến quyết định ấy.
    Nghe xong đồng chí có vẻ bối rối và cảm thấy không thể tiếp tục bình tĩnh nói chuyện nữa. Tôi đề nghị lát sau gọi điện lại cho tôi.
    Khoảng 15 phút sau có chuông điện thoại:
    - Thưa đồng chí đại tướng, tôi vẫn chưa hiểu tại sao lại dành ưu tiên cho bộ tư lệnh Phương diện quân sông Đông thế. Tôi đề nghị báo cáo với đồng chí. Xta-lin là tôi yêu cầu được ở lại đây đến khi thanh toán xong quân địch.
    Đối với ý kiến của tôi muốn để Ê-rê-men-cô nói điện thoại riêng với Tổng tư lệnh, Ê-rê-men-cô trả lời:
    - Tôi đã gọi điện thoại, nhưng Pô-xcrê-bư-sép nói rằng Xta-lin đã ra lệnh là tất cả các vấn đề ấy chỉ nói với đồng chí thôi.
    Tôi phải gọi điện thoại lên Tổng tư lệnh về ý kiến trao đổi với Ê-rê-men-cô. I.V. Xta-lin tất nhiên đã phê bình tôi và bảo ra ngay chỉ thị về việc chuyển giao ba tập đoàn quân của Phương diện quân Xta-lin-grát cho K.K. Rô-cô-xốp-xki. Chỉ thị ấy ban hành ngày 30-12-1942.
    Bộ tư lệnh Phương diện quân Xta-lin-grát còn phải điều khiển cánh quân đang hoạt động ở hướng Cô-chi-ôn-ni-cô-vô và tiếp tục tiêu diệt mọi lực lượng địch ở khu vực Cô-chi-ôn-ni-cô-vô.
    Sau đó ít lâu, Phương diện quân Xta-lin-grát đổi tên là Phương diện quân Nam và hoạt động trên hướng Rốt-xtốp.

    Được Amore sửa chữa / chuyển vào 19:53 ngày 21/02/2005
  9. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Thi hành chỉ thị của Bộ tổng tư lệnh, ngày 30-12-1942, ba tập đoàn quân 62, 64 và 57 đã được bàn giao cho Phương diện quân sông Đông.
    Đến ngày 1-1-1943, Phương diện quân sông Đông có trong biên chế của mình 212.000 chiến sĩ có thể chiến đấu được, gần 6.500 khẩu pháo và cối, hơn 250 xe tăng tốt và gần 300 máy bay chiến đấu.
    Cuối tháng 12, A.M. Va-xi-lép-xki chủ yếu lo các vấn đề liên quan đến việc thanh toán quân Đức ở các khu vực Cô-chi-ôn-ni-cô-vô Toóc-mô-xin và Mô-rô-dốp-xcơ. Đại bản doanh cử tướng N.N. Vô-rô-nốp làm đại diện ở Phương diện quân sông Đông để cùng với Hội đồng quân sự phương diện quân lập và đệ trình kế hoạch thanh toán dứt khoát số quân Đức bị vây.
    Bộ Tổng tham mưu và Đại bản doanh sau khi xem kế hoạch, chỉ thị cho tướng N.N. Vô-rô-nốp:
    ?oThiếu sót chủ yếu của kế hoạch ?oCái vòng? do các đồng chí đề nghị là ở chỗ hai mũi tiến công chủ yếu và phụ trợ đi về các phía khác nhau, và không thấy giáp nhau ở đâu cả, vì vậy khó tin là chiến dịch có thể thắng lợi.
    Theo ý kiến của Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tố cao, nhiệm vụ chủ yếu của các đồng chí trong giai đoạn đầu của chiến dịch là chia cắt và tiêu diệt số quân địch bị vây ở phía tây, trong khu vực Tráp-xốp Ba-bua-kin - Ma-ri-nốp-ca - Các-pốp-ca với mục đích làm cho mũi tiến công chủ yếu của quân ta từ khu vực Đơ-mi-tơ-rốp-ca - Nông trường số 1 - Ba-bua-kin có thể quay hướng về phía nam, đến khu nhà ga Các-pốp-ca và mũi tiến công phụ trợ của tập đoàn quân 57 từ khu vực Cráp-xốp-xcli-a-nốp có thể hướng tới gặp mũi tiến công chủ yếu đó trong khu nhà ga Các-pốp-ca.
    Đồng thời nên dùng tập đoàn quân 66 mở một mũi tiến công qua Oóc-lốp-ca theo hướng khu nhà máy Tháng Mười Đỏ và dùng tập đoàn quân 62 mở một mũi tiến công nữa để hợp kích với mũi trên. Mục tiêu của cả hai mũi này là chia cắt khu vực nhà máy khỏi lực lượng cơ bản của địch.
    Đại bản doanh ra lệnh làm lại kế hoạch trên cơ sở những chỉ thị nói trên. Đại bản doanh duyệt thời gian mở màn chiến dịch theo kế hoạch thứ nhất do các đồng chí đề nghị.
    Cần kết thúc giai đoạn một của chiến dịch khoảng 5, 6 ngày sau khi mở màn.
    Kế hoạch giai đoạn hai của chiến dịch, các đồng chí đệ trình lên, qua Bộ Tổng tham mưu vào ngày 9-1; khi làm kế hoạch này cần tính đến những kết quả đầu tiên của giai đoạn một.
    I. Xta-lin
    G. Giu-cốp
    Số 170718
    28.12.1942?
    Tháng 1-1943, vòng vây ngoài ở khu vực sông Đông do được tăng cường hai Phương diện quân Tây-nam và Xta-lin-grát đã lấn về phía tây 200 - 250 km. Tình hình quân Đức bị ép trong vòng vây xấu hẳn đi. Chẳng còn triển vọng nào cứu vãn được chúng. Các kho dự trữ đã cạn. Các đơn vị Đức đã nhận được những khẩu phần chết đói. Các bệnh viện đều chật ních. Số người chết vì bị thương và bị bệnh ngày càng nhiều. Tai họa đã đến, không thể tránh được.
    Để chấm dứt trận đánh, Đại bản doanh ra lệnh cho bộ tư lệnh Phương diện quân sông Đông trao cho tập đoàn quân 6 địch một tối hậu thư kêu gọi đầu hàng theo các điều kiện có thể chấp nhận được. Mặc dầu tai họa đã hết sức rõ ràng, bọn Đức vẫn bác bỏ tối hậu thư của chúng ta. Chúng ra lệnh cho quân lính đánh đến viên đạn cuối cùng và hứa sẽ ứng cứu tuy rằng đó là một điều không thể có được mà lính Đức cũng hiểu như thế.
    Ngày 10-1-1943, sau đợt pháo bắn chuẩn bị rất mãnh liệt, bộ đội Phương diện quân sông Đông bắt đầu tiến công chia cắt quân địch để tiêu diệt từng phần một, nhưng không đạt đầy đủ kết quả.
    Ngày 22-1, sau khi chuẩn bị thêm, bộ đội Phương diện quân sông Đông lại tiến công. Lần này không chịu nổi đòn tiến công, địch phải rút lui. Đạt được thành tích xuất sắc trong các trận chiến đấu ấy là tập đoàn quân 57 dưới quyền chỉ huy của tướng Ph.I. Tôn-bu-khin và tập đoàn quân 66 của tướng A.X. Gia-đốp.
    Tên sĩ quan trinh sát thuộc tập đoàn quân 6 của Pao-luýt đã viết trong hồi ký của hắn về sự rút lui của các đơn vị Đức khi bị quân Liên Xô tiến công như sau:
    ?oChúng tôi buộc phải bắt đầu rút lui trên toàn mặt trận. Nhưng rút lui đã biến thành tháo chạy... Đó đây dậy lên cơn hốt hoảng. Đường chúng tôi đi đầy xác chết mà những cơn bão tuyết như rủ lòng từ thiện đã mau chóng phủ tuyết lên... Chúng tôi đã rút lui không có lệnh nào cả?.
    Và hắn viết tiếp:
    ?oChạy thi với cái chết đang dễ dàng rượt theo chúng tôi bao mạng người trong đội ngũ của mình nằm chồng chất lên mãi, tập đoàn quân bị ép chặt trong đường hẻm của âm ti?.
    Ngày 31-1, cụm quân phía nam của Đức bị diệt sạch. Bọn sống sót do tư lệnh tập đoàn quân 6, thống chế Pao-luýt chỉ huy đã đầu hàng, và ngày 2-2, bọn còn lại của cụm phía bắc cũng đầu hàng nốt. Đến đây đã kết thúc trận chiến đấu vĩ đại nhất trên bờ sông Vôn-ga, nơi đã chấm dứt một cách thảm hại sự tồn tại của cánh quân lớn nhất của phát-xít Đức và bọn chư hầu của chúng.
    Cuộc chiến đấu ở khu vực Xta-lin-grát là cực kỳ khốc liệt. Theo tôi, chỉ có thể so sánh nó với loạt trận chiến đấu bảo vệ Mát-xcơ-va mà thôi. Từ 19-11-1942 đến 2-2-1943, ta đã tiêu diệt 32 sư đoàn và 3 lữ đoàn địch; 16 sư đoàn địch còn lại bị mất từ 50 đến 75 % quân số.
    Thiệt hại chung của quân địch trên bờ sông Đông, sông Vôn-ga, Xta-lin-grát là gần 1,5 triệu người, khoảng 3.500 xe tăng và pháo tiến công, 12.000 khẩu đại bác và cối, gần 3.000 máy bay, một số lớn khí tài quân sự. Số tổn thất về lực lượng và phương tiện ấy đã ảnh hưởng tai hại đến đến tình hình chiến lược chung và làm rung chuyển tận gốc toàn bộ bộ máy chiến tranh của nước Đức Hít-le.
    Những điều gì đã dẫn quân Đức đến chỗ bị tiêu diệt thảm hại như vậy và những yếu tố gì giúp chúng ta giành những thắng lợi lịch sử như thế.
    Sự phá sản của tất cả các kế hoạch chiến lược của bọn Hít-le năm 1942 là hậu quả một mặt của việc bọn Hít-le đã đánh giá thấp lực lượng và khả năng của Nhà nước Liên Xô, tiềm lực hùng hậu về vật chất và tinh thần của nhân dân ta, mặt khác chúng đánh giá quá cao sức mạnh và khả năng của quân đội chúng.
    Những tiền đề rất quan trọng đưa đến việc tiêu diệt quân Đức trong các chiến dịch ?oU-ran?, ?oSao Thổ nhỏ?, ?oSao Thổ lớn?, ?oCái vòng? là tài nghệ tạo ra thế bất ngờ về chiến dịch và chiến thuật, việc chọn đúng hướng tiến công chủ yếu, xác định chính xác những điểm yếu trong phòng ngự của địch. Giữ một vai trò vô cùng lớn lao còn là việc tính toán đúng lực lượng và phương tiện cần thiết để nhanh chóng đột phá trận địa phòng ngự chiến thuật, tích cực phát triển đột phá chiến dịch nhằm bao vây cánh quân chủ yếu của địch.
    Bộ đội xe tăng, cơ giới và không quân có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên tốc độ tiến công như vũ bão, tiến tới bao vây và tiêu diệt quân địch.
    Toàn bộ công tác chuẩn bị phản công được các bộ tư lệnh và các bộ tham mưu tiến hành với tinh thần hết sức chu đáo và tỉ mỉ, và trong quá trình phản công, việc chỉ huy ở tất cả các khâu đều tỏ ra kiên quyết và có dự phòng.
    Giữ vai trò rất lớn trong trận tiêu diệt quân địch ở đây là công tác chính trị và công tác Đảng do các Hội đồng quân sự, các cơ quan chính trị, các tổ chức Đảng, Đoàn và các cán bộ chỉ huy tiến hành. Các tổ chức và cơ quan trên đã giáo dục cho chiến sĩ lòng tin tưởng vào sức mạnh của mình, trau dồi tinh thần gan dạ, dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng tập thể trong chiến đấu.
    Thắng lợi của quân ta ở Xta-lin-grát đánh dấu bước ngoặt cơ bản có lợi cho Liên Xô và mở đầu việc quét sạch quân thù ra khỏi đất nước chúng ta.
    Đây là chiến thắng tưng bừng hằng chờ mong không những của quân đội trực tiếp tiêu diệt quân thù, mà cả của toàn dân Liên Xô ngày đêm bền bỉ lao động bảo đảm cho quân đội mọi thứ cần thiết. Vinh quang đời đời thuộc về nhũng người con trung thành của nước Nga, U-crai-na, Bê-lô-ru-xi, Pri-ban-tích, Cáp-ca-dơ, Ca-dắc-xtăng, Trung Á đã chiến đấu anh dũng, kiên cường.
    Trong hàng ngũ sĩ quan, tướng và cả trong nhân dân Đức đã biểu lộ thái độ bất bình đối với Hít-le và toàn thể bộ máy cầm quyền phát-xít. Nhân dân Đức bắt đầu hiểu rằng Hít-le và bộ sậu của nó đã lôi kéo cả nước vào một cuộc phiêu lưu trắng trợn. Họ cũng hiểu rằng, thắng lợi mà bọn Hít-le hứa hẹn đã cùng với quân sĩ của chúng tiêu tan trong cơn thảm họa trên sông Đông, sông Vôn-ga và Bắc Cáp-ca-dơ.
    ?oThất bại ở Xta-lin-gtát - trung tướng Đức Véc-phan viết - đã gây khủng khiếp trong nhân dân Đức và cả trong quân đội. Suốt lịch sử nước Đức chưa bao giờ có trường hợp ghê sợ, chết một số lượng chừng ấy bộ đội?.
    Vì cả quân Đức, Ý, Hung-ga-ri, Ru-ma-ni đều bị tiêu diệt trên sông Vôn-ga và sông Đông nên uy tín của Đức với bọn chư hầu đã giảm đi rõ rệt. Bắt đầu có bất đồng, tranh cãi vì mất lòng tin vào bộ máy thống trị của Hít-le, người ta bắt đầu mong làm thế nào thoát khỏi mạng lưới chiến tranh mà Hít-le đã đẩy họ vào.
    Đối với các nước trung lập và các nước còn giữ chính sách chờ thời, trận tiêu diệt bọn Đức đã làm cho họ tỉnh người, buộc họ phải thừa nhận sức mạnh hết sức to lớn của Liên Xô và làm cho họ thấy nước Đức Hít-le bị tiêu diệt là điều không thể tránh khỏi.
    Mọi người đều biết, một làn sóng vui mừng đã lan khắp thế giới khi được tin quân Đức đã bị tiêu diệt ở khu vực Xta-lin-grát và tin ấy đã cổ vũ nhân dân các dân tộc tiếp tục đấu tranh chống bọn chiếm đóng phát-xít.
    Đối với riêng tôi, trận phòng ngự ở Xta-lin-grát, công cuộc chuẩn bị phản công và việc tham gia chuẩn bị chiến dịch ở miền Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ở đây tôi thu được nhiều kinh nghiệm thực hành tổ chức phản công hơn ở khu vực Mát-xcơ-va năm 1941. Hồi đó vì lực lượng có hạn nên không thể đề ra mục tiêu của phản công là bao vây tiêu diệt quân địch.
    Vì có thành tích góp phần vào công tác lãnh đạo chung đưa cuộc phản công ở Xta-lin-grát đến thắng lợi to lớn, tôi cùng một số đồng chí nữa được tặng thưởng Huân chương Xu-vô-rốp hạng nhất.
    Được nhận huân chương Xu-vô-rốp hạng nhất đầu tiên, không những là vinh dự lớn đối với tôi mà còn có nghĩa là Tổ quốc đòi hỏi tôi phải làm việc tất hơn nữa để nhanh nóng tiến gần đến giờ tiêu diệt hết kẻ thù, giành thắng lợi hoàn toàn. Huân chương hạng nhất Xu-vô-rốp còn được tặng cho A.M. Va-xi-lép-xki, N.N. Vô-rô-nốp, N.Ph. Va-tu-tin, A.I. Ê-rê-men-cô, K.K. Rô-cô-xốp-xki. Rất nhiều tướng, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ được Chính phủ khen thưởng.
    Việc tiêu diệt giòn giã quân Đức ở khu vực Xta-lin-grát, sông Đông, Cáp-ca-dơ đã tạo điều kiện cho tất cả các phương diện quân triển khai tiến công ở hướng tây nam.
    Sau khi tiêu diệt quân địch ở khu vực sông Đông và sông Vôn-ga, chúng ta lại tiến hành thắng lợi các chiến dịch Ô-xtơ-rơ-gô-giơ-xcơ - Rốt-xô-san-xcơ và Vô-rô-ne-giơ - Ca-xtoóc-nôi-ê. Quân đội Liên Xô phát triển cuộc tiến công mùa đông sang phía tây, chiếm Rốt-xtốp Nô-vô-chéc-ca-xcơ, Cuốc-xcơ, Khác-cốp và nhiều vùng quan trọng khác. Tình hình chung cả về chiến dịch và chiến lược trên toàn mặt trận Xô - Đức đối với quân đội của bọn Hít-le đã trở nên rất xấu.
    Đầu tháng 1-1943, Bộ Tổng tư lệnh giao cho tôi và K.E. Vô-rô-si-lốp tổ chức hiệp đồng tác chiến giữa hai Phương diện quân Lê-nin-grát và Vôn-khốp nhằm phá vỡ vòng vây phong tỏa Lê-nin-grát ở khu vực hồ La-đô-giơ.
    Ý đồ của chiến dịch là tiêu diệt quân Đức ở Xi-nhi-a-vin-xcơ - Xlít-xen-buốc, thanh toán địch trên đoạn đất nhô từ hồ La-đô-giơ chạy về phía nam và bảo đảm đường liên lạc trên bộ với Lê-nin-grát.
    Trên dải đất nhô Xi-nhi-a-vin-xcơ - Xlít-xen-buốc có tập đoàn quân 18 của địch bố trí phòng ngự. Đây là một trận địa có chiều sâu gồm nhiều thê đội. Tư lệnh Phương diện quân Lê-nin-grát là tướng L.A. Gô-vô-rốp, ủy viên quân sự A.A. Giơ-đa-nốp, tham mưu trưởng Đ.N. Gu-xép; tư lệnh Phương diện quân Vôn-khốp là tướng K.E. Mê-rét-xcốp, tham mưu trưởng là tướng M.N. Sa-rô-khin.
    Cả hai phương diện quân đều cần chuẩn bị rất chu đáo cho cuộc tiến công, vì nó phải trải qua vùng bùn than và khắc phục bờ dốc đứng của sông Nê-va.
    Ngày 22-1, Phương diện quân Lê-nin-grát và Vôn-khốp dùng lục quân và không quân với sự tăng cường của không quân Hạm đội Ban-tích Cờ đỏ đã đánh vào trận địa phòng ngự của địch một đòn phủ đầu mãnh liệt.
    Các chiến sĩ Xô-viết làm nhiệm vụ cứu nhân dân Lê-nin-grát thoát khỏi tình trạng bị phong tỏa cực kỳ nặng nề, đã chiến đấu vô cùng anh dũng.
    Ngày 18-1-1943, ngày chiến đấu thứ 7, bộ đội của Phương diện quân Lê-nin-grát và Vôn-khốp đã gặp nhau ở khu vực các khu công nhân số 1 và 5. Vành đai phong tỏa đã bị chọc
    thủng.
    Lúc ấy, ở khu công nhân số 1, tôi được thấy rõ hết nỗi vui mừng của chiến sĩ hai phương diện quân gặp nhau sau khi chọc thủng vành đai phong tỏa. Không đếm xỉa gì đến pháo địch bắn từ các điểm cao Xi-nhi-a-vin-xcơ, các chiến sĩ vẫn ôm chầm lấy nhau. Đấy là niềm vui hằng mong ước của những chiến binh. Phá được phong tỏa là một sự kiện có ý nghĩa lớn về quân sự và chính trị đối với toàn dân Liên Xô. Kế hoạch của Hít-le định dìm chết nhân dân Lê-nin-grát trong đói khát đã bị sụp đổ tan tành.
    Ở đây tôi muốn ghi nhận khối công việc lớn lao mà đảng bộ Lê-nin-grát, Hội đồng quân sự các phương diện quân, các tập đoàn quân với những ủy viên như A.A. Giơ-đa-nốp, V.P. Mda-va-nát-giê, G.P. Rô-ma-nốp, P.A. Tiu-rơ-kin, v.v... đã hoàn thành trong những ngày anh hùng, sống và chiến đấu trong vòng phong tỏa.
    Ngày 18-1, ngày đột phá vòng vây xong, Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô đã quyết định phong cho tôi hàm nguyên soái Liên Xô.
    Ngày 20-1, tôi cùng K.E. Vô-rô-si-lốp đi Lê-nin-grát.
    Chúng tôi vô cùng xúc động thấy rằng không một người nào trong khi gặp gỡ, khi nói chuyện lại than phiền về thiếu thốn, gian khổ do cuộc phong tỏa của địch gây ra. Mọi cuộc trao đổi đều quán triệt một ý chí, làm thế nào nhanh chóng tổ chức đưa đến Lê-nin-grát các phương tiện vật chất và kỹ thuật để sản xuất và sửa chữa khí tài tác chiến đang cần thiết cho quân ta...
    Và mọi người đều nói đến sức mạnh và sự hùng cường của nhân dân Liên Xô được Đảng của Lê-nin giáo dục, một dân tộc không chịu khuất phục trước bất cứ một kẻ xâm lược nào.

    ----Hết chương 14------
  10. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Chương 15
    TIÊU DIỆT QUÂN ĐỘI PHÁT-XÍT Ở CUỐC-XCƠ, Ô-RI-ÔN, KHÁC-CỐP

    THẾ là Phương diện quân Vôn-khốp và Lê-nin-grát chọc thủng vòng vây Lê-nin-grát đã trở thành sự kiện lớn nhất trong chiến cục mùa đông 1942-1943, một sự kiện có ý nghĩa quốc tế to tát. Phương diện quân Tây-bắc, sau khi đánh tan quân giặc ở Đê-mi-an-xcơ, đã tiến tới sông Lô-vát. Phương diện quân miền Tây đã đuổi địch khỏi khu Rơ-giép - Vi-a-dơ-ma, chiếm lại tuyến Đu-khốp-si-na - Đê-men-xcơ.
    Đến giữa tháng 3-1943, tình hình trên tất cả các mặt trận đều chuyển biến có lợi về phía Liên Xô. Sau khi các đơn vị quân Đức, Ru-ma-ni, Ý và Hung-ga-ri trong khu sông Vôn-ga, sông Đông, Tây Cáp-ca-dơ bị tiêu diệt thì sự thiệt hại của địch đã lên đến mức rất cao, vì vậy vào khoảng giữa tháng 3, chúng phải rút về tuyến Xép-xcơ - Rưn-xcơ - Xu-mư - A-khơ-tưa-ca - Cra-xnô-grát - Xla-vi-an-xcơ - Li-xư-chan-xcơ - Ta-gan-rốc.
    Từ khi chuyển sang phản công ở Xta-lin-grát (tháng 11-1942 đến tháng 3-1943), Quân đội Xô-viết đã tiêu diệt tổng cộng trên 100 sư đoàn giặc. Tất nhiên đối với các chiến sĩ và nhân dân Xô-viết, đạt được những thắng lợi to lớn đó không phải dễ dàng gì, chúng ta cũng tổn thất nhiều.
    Trên các mặt trận đã tạm yên tiếng súng, riêng ở các khu vực thuộc Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, Tây-nam, Nam và ở Cu-ban thì vẫn có những trận chiến đấu ác liệt.
    Để không cho tình hình ở cánh phía nam của chúng tiếp tục xấu thêm, bộ tổng tư lệnh Đức đã thu nhập lực lượng bổ sung để phản công lại Phương diện quân Tây-nam. Mục tiêu là đẩy các đơn vị của ta sang bên kia sông Bắc Đô-nét và sau khi tổ chức phòng ngự dọc con sông để làm chỗ dựa, chúng sẽ tiến công các đơn vị quân ta thuộc Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, đánh chiếm Khác-cốp và Ben-gô-rốt.
    Về sau qua các tài liệu thu được, chúng ta biết bọn chỉ huy Đức dự định, khi có điều kiện thuận lợi, sẽ mở rộng các hoạt động của quân đội chúng nhằm thủ tiêu khoảng trận địa phòng ngự nhô ra của chúng ta ở Cuốc-xcơ.
    Đầu tháng 3, quân địch từ khu Liu-bô-tin đã phản kích mạnh vào cánh trái Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ; bị thiệt hại, quân ta rút lui. Ngày 16-3, địch lại chiếm Khác-cốp và bắt đầu phát triển tiến công về phía Ben-gô-rốt.
    Lúc đó, tôi đang ở Phương diện quân Tây-bắc do nguyên soái Liên Xô Ti-mô-sen-cô chỉ huy. Các đơn vị thuộc Phương diện quân này đã tới sông Lô-vát và chuẩn bị vượt sông.
    Sau khi thông báo lên Tổng tư lệnh tối cao về tình hình trên sông Lô-vát, tôi báo cáo rằng, việc tan băng sớm chưa từng có đã gây khó khăn cho việc vượt sông, vì vậy Phương diện quân Tây-bắc đành phải tạm thời đình chỉ cuộc tiến công ở đây.
    Tổng tư lệnh đồng ý như vậy. Sau khi hỏi tôi đôi câu về khả năng phát triển của tình hình ở Phương diện quân Tây-bắc, khi kết thúc cuộc nói chuyện, I.V. Xta-lin cho biết định giao việc chỉ huy Phương diện quân Tây-bắc cho V.Đ. Xô-cô-lốp-xki.
    Tôi đề nghị cử I.X. Cô-nép, đang làm tư lệnh Phương diện quân miền Tây đến chỉ huy Phương diện quân Tây-bắc và cử X.K. Ti-mô-sen-cô xuống phía nam làm đại diện Đại bản doanh giúp đỡ các Phương diện quân Nam và Tây-nam. Đồng chí Ti-mô-sen-cô là người am hiểu địa phương và gần đây, tình hình các nơi đó đã phát triển không thuận lợi cho chúng ta.
    - Được rồi - I.V. Xta-lin nói - tôi sẽ nói với Pô-xcrê-bư-sép báo cho Cô-nép gọi điện tới đồng chí để có điều gì cần thì dặn dò, còn đồng chí thì sáng mai phải về Đại bản doanh. Cần bàn về tình hình các Phương diện quân Tây-nam và Vô-rô-ne-giơ.
    - Có thể, - Xta-lin nói thêm, - cần đồng chí đi Khác-cốp đấy.
    Một lát sau, I.X. Cô-nép gọi dây nói đến tôi.
    - Có gì thế, I-van Xtê-pa-nô-vích.
    - Hội đồng quốc phòng đã cho tôi thôi chức chỉ huy Phương diện quân miền Tây. V.Đ. Xô-cô-lốp-xki được cử thay.
    - Tổng tư lệnh tối cao đã cử đồng chí làm tư lệnh Phương diện quân Tây-bắc thay X.K. Ti-mô-sen-cô. X.K. Ti-mô-sen-cô được phái đến các mặt trận phía nam.
    I.X. Cô-nép tỏ lời cảm ơn và nói rằng, sáng mai sẽ đến nhận nhiệm vụ mới. Sáng hôm sau, tôi về Đại bản doanh.
    Khuya hôm đó, tôi tới Mát-xcơ-va. Đi đường rất mệt vì phải dùng loại xe đi trên mọi địa hình mới có thể vượt qua những con đường đã bị băm nát.
    A.N. Pô-xcrê-bư-sép báo cho tôi biết, I.V. Xta-lin đã triệu tập rất nhiều người đến để bàn cách giải quyết nhiên liệu cho ngành luyện kim, điện lực, các nhà máy chế tạo máy bay và xe tăng. Tôi được lệnh đến hội nghị ngay. Vừa đi vừa ăn qua loa, tôi tới viện Crem-lanh.
    Trong phòng làm việc của Tổng tư lệnh tối cao, ngoài các ủy viên Bộ chính trị, có cả cán bộ lãnh đạo các cơ quan Nhà nước, các công trình sư và giám đốc nhiều nhà máy lớn. Qua các báo cáo, mọi người thấy rõ đang có tình hình căng thẳng trong công nghiệp, kể cả ở các nhà máy quan trọng nhất như nhà máy sản xuất máy bay và đại bác. Sự viện trợ theo lối thuê mượn, hứa hẹn từ nước Mỹ thì được thực hiện một cách tồi tệ.
    Lúc cuộc họp với đồng chí Tổng tư lệnh tối cao kết thúc thì đã hơn 3 giờ đêm. Ở hội nghị ra, người thì về trụ sở Ban chấp hành Trung ương, người thì về các cơ quan Bộ ủy viên nhân dân, người thì về ủy ban kế hoạch Nhà nước để tìm các nguồn lực lượng và để nhanh chóng thực hiện các biện pháp cải thiện sản xuất công nghiệp.
    Sau hội nghị, I.V. Xta-lin lại gần tôi, hỏi:
    - Đồng chí đã ăn sáng chưa?
    - Thưa chưa.
    - Thế thì đến nhà tôi và luôn tiện chúng ta nói chuyện về tình hình vùng Khác-cốp.
    Trong khi ăn, Bộ Tổng tham mưu đưa bản đồ tình huống các Phương diện quân Tây-nam và Vô-rô-ne-giơ tới. Đồng chí thuyết minh bản đồ, khi nói về tình hình Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, báo cáo rằng, ở đây trong ngày 16 tình thế đã trở nên hết sức xấu.
    Sau khi bộ đội thiết giáp và cơ giới địch tiến công từ vùng Cra-ma-toóc-xcơ đã đẩy Phương diện quân Tây-nam sang bên này sông Đô-nét, tình hình phía tây nam Khác-cốp cũng trở nên nghiêm trọng.
    Quân địch từ Pôn-ta-va và từ Cra-xnô-grát đều chuyển cùng một lúc sang tiến công. N.Ph. Va-tu-tin đã kịp kéo các đơn vị vượt lên phía trước của tập đoàn quân xe tăng 3 và tập đoàn quân 69 đã tổ chức được đội hình chiến đấu nghiêm mật ở phía tây và tây nam Khác-cốp. Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ đã không làm được như thế.
    - Tại sao Bộ Tổng tham mưu không nhắc việc đó? - Tổng tư lệnh tối cao hỏi.
    - Chúng tôi đã nêu ý kiến đó với họ. - đồng chí sĩ quan trả lời.
    - Bộ Tổng tham mưu cần đi sâu, can thiệp vào công tác lãnh đạo của phương diện quân. - I.V. Xta-lin đề ra ý kiến một cách kiên quyết. Và sau đó, suy nghĩ một lát nói với tôi - Sáng mai đồng chí cần ra mặt trận.
    Ngay lúc đó, Tổng tư lệnh tối cao gọi dây nói cho ủy viên Hội đồng quân sự Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, N.X. Khơ-rút-xốp và khiển trách Khơ-rút-xốp vì Hội đồng quân sự đã không có biện pháp đánh lại các đòn phản công của địch.
    Sau khi làm việc xong với người thuyết minh bản đồ, Tổng tư lệnh nói:
    - Dù thế nào cũng phải ăn cho xong đã.
    Lúc này đã là 5 giờ sáng.
    Sau bữa ăn trưa, thật ra đã thành bữa ăn sáng, tôi xin phép đến Bộ ủy viên nhân dân quốc phòng để chuẩn bị ra mặt trận Vô-rô-ne-giơ. Lúc 7 giờ sáng tôi đã có mặt tại sân bay Trung ương để đáp máy bay tới Bộ tham mưu Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ. Ngồi lên máy bay, tôi ngủ thiếp đi và chỉ tỉnh giấc khi máy bay hạ cánh, chạm mạnh vào mặt đất.
    Ngay hôm đó, từ Bộ tham mưu Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, tôi gọi điện về tả lại tình hình với I.V. Xta-lin. Tình hình đã xấu hơn so với lúc người cán bộ thuyết minh bản đồ báo cáo buổi sáng. Sau khi chiếm được Khác-cốp, không gặp sự chống cự đặc biệt nào, quân địch đã thọc vào hướng Ben-gô-rốt và chiếm được Ca-da-chi-a Lô-pan.
    Tôi báo cáo với Tổng tư lệnh: ?oCần đưa ngay đến vùng này tất cả lực lượng có thể có của Bộ hoặc có thể rút từ các Phương diện quân bên cạnh; trong trường hợp trái lại bọn Đức sẽ chiếm được Ben-gô-rốt và mở rộng cuộc tiến công về phía Cuốc-xcơ?.
    Một giờ sau, qua cuộc nói chuyện với A.M. Va-xi-lép-xki, tôi được biết Tổng tư lệnh tối cao đã ra lệnh đưa đến vùng Ben-gô-rốt tập đoàn quân 21, tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân 64. Tập đoàn quân xe tăng được dùng làm lực lượng dự bị của tôi.
    Ngày 18-3, Ben-gô-rốt bị quân đoàn xe tăng SS chiếm. Nhưng địch không thể tiến thêm được lên phía bắc.
    Qua báo cáo của tư lệnh sư đoàn cận vệ, tướng Ne-xto **i-tơ-ri-ê-vích Cô-din, tôi được biết tình hình sau đây:
    Theo lệnh của tướng I.M. Chi-xti-a-cốp, tư lệnh tập đoàn quân 21, chi đội phái đi trước do trung tá G.G. Pan-tiu-khốp, trung đoàn trưởng trung đoàn cận vệ 155, chỉ huy đã tới Ben-gô-rốt để tiếp xúc với địch và bắt tù binh.
    Trên đường tới Ben-gô-rốt, khi phát hiện thấy địch, chi đội đã phục kích trong vùng Sa-pi-nô (phía bắc Ben-gô-rốt) và bắt được tù binh thuộc sư đoàn xe tăng ?ođầu lâu?. Qua hỏi cung chúng ta được biết, quân địch tiến về Ô-bôi-an.
    Chiều ngày 18-3, chủ lực của sư đoàn 52 vào chiếm lĩnh trận địa phòng ngự ở phía bắc Ben-gô-rốt và đưa các đội tiền tiêu lên phía trước. Từ đó về sau, quân địch nhiều lần cố sức đánh bật các chiến sĩ cận vệ nhưng đều không đạt kết quả. Bên phải sư đoàn 52 có sư đoàn bộ binh cận vệ 67 phòng ngự và bên trái có sư đoàn bộ binh 375.
    Theo báo cáo của sư trưởng sư đoàn 52, nổi nhất trong các trận chiến đấu ở phía bắc Ben-gô-rốt là trung đoàn trưởng trung đoàn 153, trung tá P.X. Ba-bích, chủ nhiệm chính trị sư đoàn trung tá I.X. Vô-rô-nốp, trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh 151, trung tá I.Ph. Yu-đích. Ngày 20-3, tôi đã tặng thưởng huy chương, huân chương chiến đấu cho nhiều chiến sĩ.
    Ngày 20, 21-3, lực lượng cơ bản của tập đoàn quân 21 đã tổ chức phòng ngự khá vững chắc ở phía bắc Ben-gô-rốt, còn tập đoàn quân xe tăng 1 tập kết ở phía bắc Ô-bôi-an.
    Cuối tháng 3, bọn Đức phát xít đã nhiều lần định đột phá phòng ngự của tập đoàn quân 64 ở Ben-gô-rốt và bắc Đô-nét, nhưng mọi âm mưu đó đều không thực hiện được. Bị đánh thiệt hại nặng, địch phải trụ lại trên tuyến đã chiếm.
    Từ lúc đó, tình hình trong vùng cánh cung Cuốc-xcơ đã tạm ổn. Cả hai bên đang chuẩn bị cho một cuộc giáp chiến quyết định.
    Để kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, Tổng tư lệnh tối cao cử thượng tướng N.Ph. Va-tu-tin làm tư lệnh. Sau khi nhận chức, với lòng kiên nghị sẵn có, N.Ph. Va-tu-tin bắt tay ngay vào việc củng cố bộ đội và xây dựng thế trận phòng ngự có chiều sâu và nhiều tầng. Cuối tháng 3 và đầu tháng 4, chúng tôi đã nhiều lần cùng với N.Ph. Va-tu-tin đến thăm tất cả các khu vực của phương diện quân. Chúng tôi đã cùng cán bộ chỉ huy các bộ đội và binh đoàn đánh giá tình hình, xác định nhiệm vụ và các biện pháp cần áp dụng nếu quân địch chuyển sang tiến công. Tôi đặc biệt lo ngại về đoạn phòng ngự của sư đoàn khinh binh cận vệ 52 mà tôi đã hai lần tới quan sát. Đồng chí tư lệnh phương diện quân và tập đoàn quân đều cùng ý kiến và chúng tôi quyết định tìm mọi cách lấy pháo binh để tăng cường và củng cố khu vực có trách nhiệm nặng nề đó.
    Đã đến lúc chuẩn bị những dự kiến bước đầu về kế hoạch trận chiến đấu lớn ở Cuốc-xcơ.
    Theo sự thỏa thuận với Tổng tham mưu trưởng A.M. Va-xi-lép-xki và tư lệnh các phương diện quân, chúng tôi đã dùng nhiều cách tổ chức trinh sát tỉ mỉ tình hình địch trên các khu vực của các Phương diện quân Trung ương, Vô-rô-ne-giơ và Tây-nam. A.M. Va-xi-lép xki đã giao cho cục quân báo, bộ tham mưu trung ương quân du kích nhiệm vụ xác định số lượng và nơi đóng quân của các đội dự bị địch, tiến trình điều động và tập trung các đơn vị địch rút từ Pháp, Đức và các nước khác tới.
    Hoạt động của lực lượng du kích từ bên trong vùng địch chiếm, do các tổ chức bí mật của Đảng ở địa phương chỉ đạo thường xuyên và không mệt mỏi, đã làm tăng sức mạnh nói chung của các đòn đánh vào quân địch. Sự hiệp đồng giữa quân du kích và bộ đội chủ lực đã chặt chẽ hơn, du kích đã cung cấp tin địch cho chủ lực, phá hoại các lực lượng dự bị địch, cắt đứt giao thông, làm gián đoạn việc điều động quân đội và vũ khí của chúng.

Chia sẻ trang này