1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhớ lại và suy nghĩ (Zhukov)

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Amore, 11/09/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Để đánh lừa địch và giữ gìn tuyệt mật những biện pháp của ta, Hội đồng quân sự trong khi xây dựng kế hoạch chiến dịch đã đồng thời vạch ra kế hoạch đánh lừa địch về mặt chiến dịch và chiến thuật bao gồm những nội dung sau đây:
    - Bí mật tiến hành điều động và tập kết quân tăng cường từ Liên Xô đến.
    - Bí mật điều chỉnh lực lượng và phương tiện dang phòng ngự bên kia sông Khan-khin Gôn.
    - Tiến hành trinh sát thực địa những khu vực, những đoạn xuất phát và hướng tác chiến của bộ đội.
    - Đặc biệt bí mật soạn thảo nhiệm vụ của mọi binh chủng tham gia trong chiến dịch.
    - Dùng mọi binh chủng, quân chủng bí mật tiến hành trinh sát bổ sung.
    - Hoang báo và đánh lừa địch làm chúng lầm lẫn ý định của ta.
    Chúng tôi đã dùng những biện pháp trên nhằm gây cho địch có ấn tượng phía ta không có dấu hiệu gì tỏ ra đang chuẩn bị tấn công, mà chỉ thấy ta đang triển khai rộng rãi việc cấu trúc phòng ngự, và chỉ có phòng ngự mà thôi. Vì vậy đã quyết định mọi việc chuyển quân, tập trung quân và điều chỉnh bộ đội chỉ tiến hành vào ban đêm là lúc hoạt động của máy bay trinh sát và đài quan sát mặt đất của địch bị hạn chế đến mức tối đa.
    Kiên quyết cấm điều bộ đội trước ngày 17 - 18 tháng 8 ra khu vực dự định sẽ từ đó đột kích vào sườn và phía sau lực lượng bố trí của địch. Các cán bộ chỉ huy tiến hành trinh sát thực địa phải mặc binh phục chiến sĩ Hồng quân và nhất thiết phải đi bằng xe tải.
    Chúng tôi nắm được quân địch đang tiến hành do thám bằng vô tuyến điện và rình nghe những câu chuyện nói bằng điện thoại, nên đã vạch ra một chương trình hoang báo trên hệ thống liên lạc vô tuyến và hữu tuyến. Các cuộc đàm thoại chỉ nói về việc xây dựng phòng ngự và chuẩn bị phòng ngự cho chiến cục thu đông thôi. Việc lừa địch bằng vô tuyến điện chủ yếu dựa vào những bộ mã dễ dịch.
    Cho phát thanh hàng ngàn truyền đơn và một số cuốn sách hướng dẫn chiến sĩ trong phòng ngự. Để những truyền đơn và sách đó lọt vào tay địch là nhằm cho chúng biết việc chuẩn bí về mặt chính trị của bộ đội Xô - Mông đang đi theo phương hướng nào.
    Việc tập trung bộ đội của những cụm đột kích hai bên sườn và động tác tiến ra những khu vực xuất phát tấn công được quy định tiến hành trong đêm 19 rạng ngày 20 tháng 8. Rạng sáng, tất cả phải che dấu trong các lùm cây dọc theo sông, trong các công sự đã được chuẩn bị riêng.
    Dùng những mạng lưới ngụy trang làm bằng vật liệu kiếm được ở địa phương để giấu kín pháo, súng cối, xe kéo và những khí tài khác. Các đơn vị xe tăng sẽ thành từng tốp nhỏ từ nhiều hướng tiến ra khu vực xuất phát ngay trước lúc pháo binh và không quân bắn chuẩn bị. Tốc độ của xe tăng cho phép làm như vậy.
    Mọi việc chuyển quân ban đêm được ngụy trang bằng những tiếng động gây nên bởi động cơ máy bay đang bay, pháo, súng cối, súng máy, súng trường bắn ra do các đơn vị tiến hành chặt chẽ theo một kế hoạch ăn khớp với việc chuyển quân.
    Để ngụy trang việc chuyển quân, chúng tôi đã sử dụng những máy phát ra những tiếng động giống hệt như tiếng bánh xe lăn, tiếng máy bay, tiếng xe tăng chạy, v..v... Chừng 12 - 15 ngày trước lúc bắt đầu chuyển quân của các cụm đột kích, chúng tôi đã tập cho địch nghe quen những tiếng động ấy. Thời gian đầu, quân Nhật nhận lầm, cho là bộ đội chuyển quân thật và cho bắn phá vào những vùng chúng nghe thấy những tiếng động ấy. Sau này, hoặc là chúng đã quen, hoặc chúng nhận thấy chẳng đáng quản ngại gì nên thường không chú ý tới những tiếng động ấy nữa, cái đó rất có lợi cho chúng tôi trong thời gian chuyển quân và tập trung thật.
    Các đồng chí tư lệnh, ủy viên Hội đồng quân sự, chủ nhiệm chính trị, tham mưu trưởng và trưởng phòng tác chiến chịu trách nhiệm trực tiếp vạch ra kế hoạch tổng tấn công trong cơ quan tham mưu để những tin tức về chiến dịch tấn công không lọt sang bên quân địch. Các đồng chí tư lệnh và chủ nhiệm các binh chủng, đồng chí chủ nhiệm hậu cần chỉ nghiên cứu những vấn đề trên theo kế hoạch đã được tư lệnh phê chuẩn. Đánh máy kế hoạch chiến dịch, mệnh lệnh, chỉ lệnh chiến đấu và các văn kiện tác chiến khác giao riêng cho một nữ thư ký đánh máy phụ trách.
    Gần đến ngày mở chiến dịch, cán bộ chỉ huy các cấp lần lượt được giới thiệu kế hoạch chiến dịch. Bắt đầu giới thiệu trước 4 ngày, và kết thúc trước khi mở màn tác chiến một ngày đêm. Các chiến sĩ và hạ sĩ quan nhận nhiệm vụ chiến đấu trước lúc tấn công 3 tiếng đồng hồ.
    Những sự kiện sau này và toàn bộ quá trình chiến dịch tấn công của chúng ta chỉ ra rằng, những biện pháp đặc biệt nhằm hoang báo và nghi binh lừa địch cùng những biện pháp khác nhằm chuẩn bị một chiến dịch bất ngờ và giữ một vai trò tối quan trọng, và quân địch thực sự đã bị bất ngờ.
    Việc tổ chức trinh sát kỹ lưỡng quân địch đã được đặc biệt chú ý trong lúc chuẩn bị chiến dịch tháng 8. Nhiều cán bộ chỉ huy, tham mưu và các cơ quan trinh sát lúc bắt đầu tác chiến tỏ ra còn thiếu kinh nghiệm. Các đồng chí giao cho trinh sát rất nhiều nhiệm vụ mà thường là những nhiệm vụ không thực hiện nổi và không có ý nghĩa quan trọng lắm. Kết quả là những cố gắng của các cơ quan trinh sát bị phân tán, ảnh hưởng đến những mục tiêu trinh sát chủ yếu. Thường thường chính các trinh sát viên đã làm cho bộ chỉ huy đi tới những kết luận sơ bộ lầm lẫn, vì chỉ dựa vào một số những dấu hiệu và xét đoán nào đó thôi.
    Tất nhiên, trong lịch sừ những trận đánh và những chiến dịch cũng có những trường hợp có những kết luận sơ bộ tương tự mà vẫn chính xác, nhưng chúng ta không thể xây dựng một chiến dịch quan trọng lại dựa vào những tin tức còn đang nghi ngại. Trong chiến dịch hợp vây và tiêu diệt tập đoàn quân của địch sắp tới, điều chính mà chúng ta cần nắm chắc là vị trí bố trí chính xác và quân số của địch.
    Việc khai thác tin tức địch càng gặp khó khăn thêm vì đây là vùng không có nhân dân sinh sống. Dựa được vào dân, ta có thể tìm ra tin tức. Hàng binh Nhật cũng không có. Còn những người Bắc-gút[4] chạy sang hàng ngũ ta thường lại không biết gì về vị trí và quân số của các đơn vị, binh đoàn quân Nhật. Chúng tôi, nhận được những tin tức tất nhất là do trinh sát chiến đấu. Tuy nhiên, những tin tức ấy mới chỉ là những tin về ngoài tiền duyên và những trận địa gần nhất của pháo binh và súng cối địch.
    Máy bay trinh sát của ta cung cấp được nhiều bức ảnh tốt chụp được phòng ngự bên trong của địch, nhưng cũng phải chú ý là địch thường áp dụng rộng rãi những mô hình và hoạt động nghi binh, nên chúng ta phải rất thận trọng khi kết luận và phải kiểm tra đi lại nhiều lượt để xác định đâu thật, đâu giả.
    Những toán trinh sát nhỏ của ta ít khi lọt được vào bên trong phòng ngự của địch, vì quân Nhật kiểm soát địa hình khu vực đóng quân của chúng khá chặt.
    Tuy vậy, dẫu có những hoàn cảnh không thuận lợi ấy, chúng ta vẫn tổ chức được trinh sát và thu được nhiều tin có giá trị.
    Trinh sát của trung đoàn cơ giới 149 hoạt động giỏi; thiếu tá I.M. Rê-mi-đốp, trung đoàn trưởng, Anh hùng Liên Xô, đã trực tiếp đứng ra tổ chức việc trinh sát của trung đoàn. Đồng chí là người hiểu biết toàn diện đặc điểm của công tác trinh sát. Tôi đã trông thấy thiếu tá I.M. Rê-mi-đốp ngoài bãi huấn luyện. Đồng chí trình bày làm mẫu cho các trinh sát viên cách mai phục bắt tù binh thế nào cho tốt, và bằng cách nào lọt qua lưới canh gác của địch trong đêm tối. Thiếu tá là một người sành sỏi về cách phân biệt những tin tức trinh sát không đúng sự thật. Các chiến sĩ trinh sát rất vui lòng thấy người trung đoàn trưởng mà mình hằng yêu mến và kính trọng lại đích thân đứng ra huấn luyện cho họ.
    Chúng tôi cho rằng chỗ yếu trong cụm quân Nhật là hai bên sườn phòng ngự và chúng không có những đội dự bị cơ động. Còn nói về địa hình thì chỗ nào cũng đều khó khăn cho bộ đội tấn công.
    Căn cứ vào những nhiệm vụ cụ thể, đã vạch ra cả kế hoạch công tác Đảng và công tác chính trị bảo đảm cho chiến dịch. Kế hoạch gồm hai giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị và giai đoạn thực hành.
    Trong giai đoạn chuẩn bị, chủ yếu là đề ra công tác bảo đảm thực hiện những biện pháp của Hội đồng quân sự nhằm tập trung lực lượng và phương tiện cho chiến dịch, làm việc với các đơn vị mới điều trong nước ra, truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu cho họ. Để hoàn thành nhiệm vụ rất quan trọng đó, đòi hỏi tất cả các đảng viên cộng sản, các cán bộ chính trị và các cán bộ chỉ huy phải hoạt động tích cực trực tiếp trong các tiểu đội, trung đội và dại đội. Phải chú ý đến nhiều các cơ quan hậu cần, vì việc bảo đảm vật chất - kỹ thuật kịp thời cho chiến dịch phụ thuộc phần lớn vào những cơ quan đó .
    Bộ đội Liên xô nhận thức rằng, nghía vụ quốc tế vô sản của chúng ta là không bỏ nhân dân Mông Cổ anh em trong những giờ thử thách nặng nề.
    Báo ?oHồng quân anh hùng? đã tích cực mở rộng công tác chính trị. Số nào cũng phổ biến gương chiến đấu của chiến sĩ, cán bộ, các đơn vị và truyền thống chiến đấu của Hồng quân. Cộng tác tích cực với báo này có các nhà văn V. Xtáp-xki, K. Xi-mô-nốp, L. Xla-vin, B. La-pin, D. Kha-xrê-vin, V. Vi-snép-xki, E. Pê-tơ-rốp và những phóng viên nhiếp ảnh đã từng đi khắp mọi nơi - M. Béc-stanh và V. Tê-min. Tôi muốn đặc biệt nói về Vla-đi-mia Xtáp-xki. Đồng chí là nhà văn, một cán bộ tuyên huấn xuất sắc, đã cùng ăn ở và sinh hoạt chung với các chiến sĩ. Tôi cho rằng đồng chí đúng là một phóng viên mặt trận ưu tú. Rất tiếc là nhà văn phóng viên mặt trận chân chính ấy đã hy sinh, hy sinh như một chiến sĩ trong những trận đánh ở gần Mát-xcơ-va năm 1941.
    Chủ bút báo là D. Ốc-ten-béc, một cán bộ có khả năng và tháo vát. Đồng chí biết đoàn kết tập thể các cộng tác viên của tờ báo, lôi cuốn được nhiều chiến sĩ, cán bộ chỉ huy, cán bộ công tác Đảng và công tác chính trị tích cực tham gia viết báo.
    Lúc bắt đầu chiến dịch, ban biên tập báo chủ yếu phải cho in và phát hành thật nhanh chóng những truyền đơn để phổ biến cho các chiến sĩ và cán bộ .
    Ngày 20-8-1939, bộ đội Liên Xô và Mông Cổ mở chiến dịch tổng tấn công nhằm hợp vây và tiêu diệt quân Nhật.
    Hôm ấy vào ngày chủ nhật, tiết trời ấm áp, thanh bình. Bộ chỉ huy quân Nhật, tin là bộ đội Xô - Mông chưa nghĩ đến tấn công và cũng chưa chuẩn bị cho tấn công, đã cho phép các tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp nghỉ ngày chủ nhật. Nhiều tên hôm ấy đi rất xa: có tên đi Khai-la, Gan-dua, có tên đi Gin-gin-xu-mê . Chúng tôi đã tính đến tình hình không kém phần quan trọng đó và hạ quyết tâm mở chiến dịch đúng vào ngày chủ nhật.
    Lúc 5 giờ 45 phút, pháo binh ta bắn mạnh và bất ngờ vào pháo cao xạ và súng máy cao xạ của địch. Có những khẩu pháo được tách riêng ra để bắn đạn khói vào các mục tiêu cho máy bay ném bom ta tới oanh tạc.
    Ở vùng sông Khan-khin Gôn, tiếng động cơ máy bay đang bay tới ngày một mạnh thêm. 150 máy bay ném bom và chừng 100 máy bay tiêm kích đã cất cánh. Cuộc bắn phá của không quân rất mạnh, nâng cao thêm khí thế của chiến sĩ và cán bộ ta.

  2. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Lúc 8 giờ 15 phút, pháo binh, súng cối tất cả các cỡ bắt đầu nhả đạn vào những mục tiêu quân địch, bắn tới mức tối đa của khả năng kỹ thuật.
    Lúc 8 giờ 30 phút, máy bay ta lại tới. Qua tất cả đường điện thoại và vô tuyến, truyền đi bằng mật mã mệnh lệnh: 15 phút nữa bắt đầu tổng tấn công.
    Đúng 8 giờ 45 phút, khi máy bay ta công kích quân địch, ném bom vào pháo binh của chúng, thì những pháo hiệu đỏ bắn lên lệnh cho bộ đội bát đầu vận động ra tấn công. Các đơn vị tấn công được pháo binh bắn yểm hộ đã vọt nhanh về phía trước.
    Máy bay và pháo binh ta bắn phá mãnh liệt và rất có kết quả, chế áp được cả tinh thần, lực lượng của địch và trong suốt một tiếng rưỡi đồng hồ đầu, pháo của chúng không bắn trả được. Những đài quan sát, thông tin hên lạc và các trận địa hỏa lực của pháo binh Nhật bị phá vỡ.
    Đợt tấn công diễn ra rất khớp với kế hoạch chiến dịch và các kế hoạch của trận đánh, chỉ riêng có lữ đoàn xe tăng 6 vì chưa vượt được hết sông Khan-khin Gôn nên chỉ có một bộ phận lực lượng tham gia chiến đấu ngày 20-8. Đến cuối ngày hôm ấy, lữ đoàn hoàn thành vượt sông và tập trung quân.
    Ngày 21 và 22 tháng 8 xảy ra những trận đánh rất ngoan cường, nhất là ở vùng Bôn-si-ê Pe-xki, nơi quân địch chống cự lại mạnh hơn ta dự kiến. Để sửa chữa khuyết điểm ấy phải đưa lữ đoàn xe bọc thép 9 lấy trong đội dự bị vào chiến đấu và tăng cường thêm pháo binh.
    Sau khi đánh tan các cụm quân địch đóng ở hai bên sườn, chiều ngày 26-8, các đơn vị xe tăng bọc thép và cơ giới đã hợp vây xong toàn bộ tập đoàn quân 6 của Nhật, và từ sau ngày hôm ấy bắt đầu cắt địch ra từng bộ phận và tiêu diệt chúng.
    Chiến đấu gặp nhiều khó khăn vì có những bãi cát bùng nhùng, những thung lũng sâu và những đồi cát. Các đơn vị quân Nhật chiến đấu đến tên lính cuối cùng. Song dần dà binh lính chúng cũng nhận rõ thấy việc tuyên truyền lừa bịp về sự bất khả chiến thắng của quân đội Nhật hoàng, bởi vì quân đội chúng đã bị thiệt hại rất nặng, và trong 4 tháng chiến tranh không thắng được một trận nào.
    Xem những dòng chữ ghi chép lại của binh lính và sĩ quan Nhật nói lên cảm tưởng của bọn chúng trong thời gian ấy cũng cảm thấy thú vị.
    Ví như cuốn nhật ký của Pha-cư-ta:
    ?o20-8-1939.
    Từ sáng, tiết trời êm đẹp. Có tới 50 chiếc máy bay tiêm kích và ném bom của đối phương bay thành từng tốp xuất hiện trên bầu trời. Lúc 6 giờ 30 phút, pháo binh đối phương bắt đầu bắn phá với toàn bộ sức mạnh hỏa lực. Đạn pháo gầm rít trên đầu. Hàng loạt đạn rơi gần chỗ chúng tôi. Thật là khủng khiếp. Đội quan sát dùng tất cả mọi cách để phát hiện ra pháo binh đối phương nhưng không có kết quả, vì những máy bay ném bom giội bom xuống, còn máy bay tiêm kích thì bắn quét vào bộ đội ta. Đối phương thắng lợi trên khắp mặt trận.
    7 giờ 45 phút.
    Thật khủng khiếp. Những tiếng rền và nổ gợi lên cảnh địa ngục. Tình huống rất là gay go nặng nề. Tình cảnh tồi tệ, chúng tôi bị vây rồi. Nếu đêm mà trời tối thì cứ phải nằm giữ đội hình trong các hào giao thông. Binh lính chán nản. Tình hình chúng tôi kém sút, rối ren, phức tạp
    8 giờ 30 phút.
    Pháo binh đối phương vẫn không ngừng bắn phá vào các đơn vị chúng tôi. Chui vào đâu cũng không có lối thoát, đạn nổ khắp nơi. Lối thoát của chúng tôi chỉ ở Bơ-đi-xát-va[5].
    14 giờ 40 phút.
    Trận đánh diễn ra ác liệt. Bao nhiêu người bị giết và bị thương, chúng tôi không biết... Bắn phá vẫn không ngớt.
    21 tháng Tám.
    Nhiều máy bay của không quân Xô - Mông oanh tạc các trận địa chúng tôi, pháo binh cũng làm chúng tôi suốt ngày lo lắng. Sau các trận ném bom và pháo bắn, bộ binh đối phương leo lên xung phong. Số bị giết ngày một tăng. Đêm tối, máy bay địch ném bom vào các đơn vị hậu cần.
    22 tháng Tám - 9 giờ 30 phút.
    Bộ binh đối phương bắt đầu xung phong, súng máy của họ bắn rất mạnh. Chúng tôi bị nguy ngập hẳn rồi, sợ quá. Khí sắc mọi người xấu hẳn. Khi tất cả các sĩ quan bị chết, tôi được cử làm đại đội trưởng. Việc này làm tôi lo lắng quá đỗi và suốt đêm không ngủ được.?
    Cuộc đời và cuốn nhật ký của Pha-cư-ta đến đây cũng chấm dứt.
    Trong quân đội Nhật hồi đó có chú ý đặc biệt đến việc nhồi sọ tư tưởng cho bọn binh lính được phái đi đánh nhau với Hồng quân Bọn chúng mô tả quân đội ta là quân đội còn lạc hậu về mặt kỹ thuật, chiến đấu giống như quân đội Sa hoàng ngày xưa trong thời đại chiến tranh Nga - Nhật năm 1904 - 1905. Vì vậy, những điều binh lính Nhật đã trông thấy trong các trận đánh tại sông Khan-khin Gôn khi xe tăng, pháo binh, không quân và bộ binh ta hiệp đồng chặt chẽ tiến hành tấn công, đã làm chúng bị hoàn toàn bất ngờ.
    Binh lính Nhật bị mê hoặc rằng, nếu bị bắt làm tù binh thì thế nào chúng cũng bị xử bắn, và trước hết sẽ bị hành hạ, tra tấn đến sống dở chết dở. Phải nói là, kiểu tác động tinh thần quân Nhật trong thời kỳ đó cũng đã đạt được mục đích nhất định.
    Song, lối tuyên truyền, tác động ấy đã bị thực tế làm cho sụp đổ. Tôi còn nhớ, tảng sáng một ngày tháng 8, người của ta dẫn đến chỗ tôi ở đài quan sát một tù binh Nhật, mặt mũi bị muỗi đốt sần sùi. Tên này bị các trinh sát viên của trung đoàn I.I. Phê-điu-nin-xki bắt được trong bãi cói.
    Tôi hỏi ai đã làm tội tình hắn như vậy, và hắn bị hãm ở đâu mà đến nỗi thế. Hắn trả lời là từ chiều hôm qua cấp trên bắt hắn cùng với những binh sĩ khác bí mật mai phục ngoài bãi cói để quan sát những hành động của quân Nga, nhưng lại không cấp cho bọn chúng màn chống muỗi. Đại đội trưởng của hắn ra lệnh không được động đậy để đối phương không phát hiện ra. Đêm đến, muỗi bay ra tập kích bọn chúng, nhưng chúng vẫn phải nhẫn nhục chịu muỗi đốt và ngồi cho đến sáng, không được động đậy để khỏi lộ.
    - Đến khi người Nga kêu lên tiếng gì đó và giơ súng lên - tên tù binh thuật lại - tôi bèn giơ hai tay lên, vì không thể chịu cảnh khổ nhục này hơn nữa.
    Chúng tôi cần lấy tin quân Nhật ở khu vực bắt được tên tù binh ấy. Muốn cho hắn cung khai, tôi lệnh rót cho hắn nửa cốc rượu vốt-ca. Tôi ngạc nhiên xiết bao, thấy hắn nhìn đến cốc rượu, nói rằng:
    - Xin ngài hớp cho một ngụm, tôi sợ bị đầu độc. Cha tôi có mình tôi là người con trai độc nhất, ông ta lại có cả một cửa hàng bách hóa, nên tôi là người độc nhất được thừa kế gia sản của ông ta.
    Đồng chí phiên dịch của ta nhận xét là theo cẩm nang cấp trên trao cho các binh sĩ Nhật, thì binh sĩ Nhật phải chết một cách can đảm, miệng hô ?oBan-dai[6]?. Tên tù binh khẽ cười đáp :
    - Cha tôi dặn là tôi phải cố sống mà trở về nhà.
    Ngày 30-8-1939, chúng ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn quân 6 Nhật xâm nhập vào biên giới nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ. Đồng chí Kh. Chôi-ban-xan lúc đi thăm các đơn vị bộ đội ta đã chân thành cảm ơn các chiến sĩ, những người Xô-viết đã lấy máu mình để chứng minh lòng trung thành với nghĩa vụ quốc tế. Đòn đánh trả quyết liệt của bộ đội Xô - Mông, trận tiêu diệt chưa từng thấy những lực lượng tinh nhuệ của cả một tập đoàn quân Nhật đã buộc các giới cầm quyền Nhật lúc đó phải xem xét lại những quan điểm của chúng về sự hùng cường và khả năng chiến đấu của các lực lượng vũ trang Liên Xô, nhất là tinh thần kiên cường của các chiến sĩ Xô-viết.
    Ủy viên nhân dân quốc phòng K.E. Vô-rô-si-lốp viết trong nhật lệnh ngày 7-11-1939: ?oVẻ vang thay các chiến sĩ và cán bộ đã tham gia chiến đấu trong khu vực sông Khan-khin Gôn. Tinh thần dũng cảm và anh hùng, quyết tâm hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chiến đấu của các đồng chí tham gia chiến đấu ở khu vực sông Khan-khin Gôn rất xứng đáng được hoan nghênh?.
    Đảng Cộng sản và đội ngũ đảng viên ở tiền tuyến (tổ chức Đảng của tập đoàn quân) là linh hồn của những hành động anh hùng của các chiến sĩ chúng ta. Các đảng viên cộng sản đã nêu những tấm gương dũng cảm, cổ vũ các chiến sĩ xông lên lập chiến công.
    Tôi muốn nói đến những cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị, bằng sức mạnh của tổ chức mình, bằng công tác chính trị và công tác Đảng, bằng cách chỉ huy khôn khéo, đã đẩy mạnh tốc độ tiêu diệt quân Nhật, làm rạng rỡ Hồng quân Liên Xô.
    Tôi thành tâm nhớ đến đồng chí chính ủy sư đoàn M.X. Ni-ki-sép. Là một cán bộ lãnh đạo sáng suốt, một đảng viên có nguyên tắc tính rất cao, đồng chí đã khéo léo làm công tác Hội đồng quân sự khiến cho trong bất kỳ tình huống phức tạp và căng thẳng nào cũng không hề nảy sinh những hoài nghi và bất hòa trong hàng ngũ chúng tôi. Và tất cả chúng tôi, những người đã tham gia chiến đấu tại Khan-khin Gôn, đau buồn sâu sắc khi được tin đồng chí hy sinh trong thời kỳ đầu cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại ở U-crai-na, ở đấy đồng chí giữ chức ủy viên Hội đồng quân sự của tập đoàn quân 5 thuộc Phương diện quân Tây-nam.
    Không thể quên những chiến công anh hùng của các phi công Xa.V. Xmu-skê-vích, X.I. Grít-xê-vét, V.M. Da-ba-lu-ép, G.P. Tráp-chen-cô, V.M. Xcô-ba-ri-khin, V.G. Ra-khốp và những đồng chí khác đã nêu những điển hình về lòng dũng cảm và trí can trường.
    Một hôm trong khi truy kích tốp máy bay Nhật, đồng chí lái máy bay tiêm kích X.I. Grít-xê-vét, hai lần Anh hùng Liên Xô, phát hiện thấy trong đội thiếu máy bay của đồng chí Anh hùng Liên Xô V.M. Da-ba-lu-ép, người chỉ huy của mình. Sau khi bắn một loạt đạn vào máy bay quân địch đang rút chạy, đồng chí ngừng đuổi đánh chúng và bắt đầu tìm kiếm chiếc máy bay bị mất tích.
    Đồng chí lượn vòng quanh khu vực mới công kích và nhận ra chiếc máy bay đó trên bãi cỏ thuộc vùng đất đai quân Nhật.

    [4] Dân địa phương Nội Mông ở phía tây dãy Đai-khin-gan gần biên giới Xô - Mông - ND.
    [5] Thiên đường - ND.
    [6] xung phong - ND
  3. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Lúc bay là xuống thấp, X.I. Grít-xê-vét trông thấy V.M Da-ba-lu-ép bên cạnh chiếc máy bay. Có lẽ , xảy ra tai nạn nào đây. Làm thế nào bây giờ? Mặc dù hạ cánh xuống vùng sau lưng địch là một việc tối nguy hiểm, X.I. Grít-xê-vét vẫn không ngần ngại hạ quyết tâm: dẫu thế nào cũng phải cứu bằng được đồng chí chỉ huy của mình. Gương ?ocảm tử cứu bạn? đó chúng ta đã có từ thời Xu-vô-rốp.
    Người phi công gan dạ và rất bình tĩnh đó đã khéo đỗ máy bay xuống một bãi đầy hố bom. Anh lái máy bay tới ngay chỗ V.M. Da-ba-lu-ép và đỡ đồng chí ấy vào trong buồng lái chiếc máy bay chỉ có một chỗ ngồi của mình. Xong, anh cho máy bay quành lại ngược gió và cất cánh bay cao, chở cả hai người bình an trở về sân bay của mình trước mắt bọn địch đang ngây người dõi theo.
    Trong một trận trinh sát chiến đấu chống Nhật, chi đội của thiếu tá I.L. Ca-xpê-rô-vích bị hỏng một chiếc xe ?oGát?. Chiến sĩ lái xe Ti-mô-khin không chịu rời xe, anh ở lại bãi chiến đấu cố sửa chỗ bị hỏng. Bọn Nhật nhận thấy những hành động can đảm đó của chiến sĩ ta, quyết định bắt sống đồng chí. Ti-mô-khin đã chiến đấu như một chiến sĩ xô-viết chân chính. Tuy bị thương nặng, đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu.
    Thiếu tá I.L. Ca-xpê-rô-vích, chỉ huy chi đội, bất chấp mọi tình huống khó khăn lúc bấy giờ, đã có một quyết định rất táo bạo: phải cứu cho được người chiến sĩ của mình. Sau khi lệnh cho tập trung pháo bắn thẳng vào những hỏa điểm quân Nhật, đồng chí đã triển khai đại đội và dẫn đại đội tấn công quân địch. Đồng chí ngồi trên xe bọc sắt, lái thật nhanh tới chỗ xe của Ti-mô-khin và móc xe kéo về. Khi trở về nơi đóng quân, Ti-mô-khin cảm động ứa nước mắt, cảm ơn người chỉ huy và các đồng chí đã liều mình cứu anh
    khỏi cái chết khó còn cách nào tránh khỏi.
    - Tôi tin chắc là các bạn không quên tôi, không bỏ tôi trong lúc hoạn nạn, - anh nói trước khi đi bệnh viện, - và điều trị xong, tôi sẽ trở về ngay với các bạn, các bạn thân mến ạ
    Thượng úy phi công Anh hùng Liên Xô V.Ph. Xcô-ba-ri-khin trong một trận đánh không cân sức đã lao máy bay mình vào máy bay tiêm kích Nhật, cứu được thượng úy V.N. Bu-xơ, đồng đội của mình, và sau khi diệt chiếc máy bay tiêm kích ấy, lại tham chiến ngay với 2 máy bay khác. Các phi công Nhật nhận ra là chúng đang phải đương đầu với một địch thủ như thế nào, nên đã cho vòng máy bay, bay về hướng sân bay của chúng. Mặc dù máy bay của mình bị hỏng, V.I. Xcô-ba-ri-khin vẫn lái được về sân bay an toàn. Sau khi hạ cánh, người ta thấy trên máy bay của đồng chí còn dính những mảnh vỡ của máy bay tiêm kích Nhật.
    Đặc biệt nổi lên trong các trận không chiến là thượng úy Anh hùng Liên Xô V.G. Ra-khốp. Ngày 29-7, đồng chí đã mặt giáp mặt với một phi công đại tài và đầy kinh nghiệm của Nhật. V.G. Ra-khốp lượn vòng lao vào đánh địch. Trong quá trình trận đánh, phi công Nhật Ta-kê-ô đã thi thố hết cả nghệ thuật của hắn, nhưng cuối cùng V.G. Ra-khốp vẫn bắn cháy được chiếc máy bay của Ta-kê-ô. Phi công Nhật nhảy dù ra khỏi máy bay và, khi nhận ra là dù của hắn rơi xuống địa hạt Mông Cổ, hắn định tự vẫn, nhưng đã bị bắt làm tù binh.
    Được các cán bộ Hồng quân đối xử tốt, và sau khi hết những nỗi lo sợ, Ta-kê-ô xin được gặp đồng chí phi công của ta đã đánh giỏi và bắn rơi chiếc máy bay của hắn. Lúc V.G. Ra-khốp bước đến, tên phi công Nhật cúi gập người xuống chào, chúc mừng người chiến thắng.
    Với lòng biết ơn, tôi nhớ đến nhiều đồng chí cán bộ đã cộng tác với tôi trong thời gian ấy. Lúc đầu chiến sự ở khu vực sông Khan-khin Gôn, I.I. Phê-điu-nin-xki làm trợ lý của trung đoàn trưởng, phụ trách về mặt quản lý kinh tế. Khi cần một cán bộ chỉ huy trung đoàn bộ binh cơ giới 24, I.I. Phê-điu-nin-xki được đề cử trước tiên. Và chúng tôi đã không nhầm. Trong mọi trường hợp khó khăn, I.I. Phê-điu-nin-xki đã biết tìm ra cách giải quyết đúng đắn và đến khi bộ đội ta bắt dầu tổng tấn công, trung đoàn do đồng chí chỉ huy đã chiến đấu thắng lợi.
    Lúc kết thúc chiến sự tại sông Khan-khin Gôn, I.I. Phê-điu-nin-xki được cử làm sư đoàn trường sư đoàn 82. Trong thời kỳ đầu cuộc Chiến tranh giữ nước, sư đoàn 82 đã chiến đấu rất ngoan cường trên hướng Mô-gia-ích, và nguyên sư đoàn trưởng I.I. Phê-điu-nin-xki đã chỉ huy quân đoàn bộ binh chiến đấu thắng lợi trên mặt trận tây-nam.
    Lữ đoàn trưởng Mi-kha-in I-va-nô-vích Pô-ta-pốp là trợ lý của tôi. Đồng chí đảm nhiệm công tác lớn là phụ trách việc tổ chức hiệp đồng các binh đoàn và các binh chủng và, khi chúng ta bắt đầu tổng tấn công, Mi-kha-in I-va-nô-vích được ủy nhiệm lãnh đạo mũi đột kích chủ yếu bên cánh phải của mặt trận. Đặc điểm của M.I. Pô-ta-pốp là tính tình điềm đạm. Không một việc gì làm đồng chí nổi nóng. Thậm chí ngay trong những lúc tình huống phức tạp, đáng lo ngại, đồng chí vẫn hết sức bình tĩnh và cái đó rất có lợi cho bộ đội. Trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, khi chỉ huy tập đoàn quân 5 của Phương diện quân Tây-nam, đồng chí vẫn giữ được tác phong ấy.
    Công tác thông tin liên lạc trong chiến đấu và chiến dịch giữ một vai trò quyết định. Vì vậy tôi muốn dùng những lời tốt đẹp nói về đại tá A-lếch-xây I-va-nô-vích Lê-ô-nốp. Trong bất cứ điều kiện nào, đồng chí vẫn bảo đảm thông tin liên lạc không bị gián đoạn trong khi chỉ huy bộ đội.
    Tôi đã đề cập tới việc tổ chức công tác Đảng và công tác chính trị trong các đơn vị chúng ta. Các tổ chức Đảng đã có những đóng góp to lớn vào việc giải quyết các nhiệm vụ chiến đấu. Đứng hàng đầu là những đồng chí chủ nhiệm chính trị, chính ủy sư đoàn[7] Pi-ốt I-va-nô-vích Gô-rô-khốp, chính ủy trung đoàn Rô-man Páp-lô-vích của quân đoàn đặc biệt, A-lếch-xây Ba-bi-chúc, bí thư ủy ban đảng[8] Mi-khai-lô-vích Pô-mô-gai-lô, chính ủy I-van Va-xi-li-ê-vích Da-cô-vô-rốt-nưi.
    Đặc biệt nổi lên trong số cán bộ chính trị các binh đoàn là chính ủy trung đoàn Va-xi-li An-đrây-ê-vích Xư-chếp chính ủy lữ đoàn cơ giới bọc thép 9, trước kia là công nhân luyện kim ở U-ran. Va-xi-li An-đrây-ê-vích giúp đồng chí lữ đoàn trưởng được nhiều việc và trong những tình huống phức tạp, đã nhiều lần đẫn đầu các đơn vị, nêu gương dũng cảm lôi cuốn các đơn vị xông lên lập chiến công. Trong những năm Chiến tranh giữ nước vĩ đại, khi làm ủy viên Hội đồng quân sự tập đoàn quân, đồng chí đã thực hiện các nhiệm vụ trao cho với một ý chí vẫn can trường như vậy.
    Các cán bộ quân y ngày đêm lao động khẩn trương trong những điều kiện dã ngoại phức tạp, đã chăm sóc sức khỏe và cứu sống các chiến sĩ và cán bộ chúng ta, mà cũng không phải chỉ cứu sống cán bộ và chiến sĩ chúng ta. Các đồng chí tỏ ra có lòng nhân đạo cao độ đối với các tù binh Nhật bị thương.
    Tôi còn nhớ mãi buổi gặp gỡ giáo sư M.V. A-khu-tin. Một hôm các đồng chí báo cáo cho tôi là giáo sư M.V. A-khu-tin mổ nhiều nên đang bị mệt quá sức, gần như đứng không vững. Đồng chí lại đang ra lệnh lấy máu của mình tiếp cho một cán bộ bị thương. Tôi gọi điện thoại nói chuyện với đồng chí và khuyên nên lấy máu của một bác sĩ khác trẻ hơn. Giáo sư M.V. A-khu-tin đáp lại cụt lủn:
    - Tôi không còn thời gian tìm loại máu thích hợp.
    Và sau khi đề nghị đừng ngăn cản đồng chí, đồng chí liền tiếp ngay máu của mình cho người bị thương. Giáo sư M.V. A-khu-tin đã nghiên cứu tổ chức một mạng lưới điều trị thương binh chia thành giai đoạn rất tốt. Đồng chí đã góp phần giúp đỡ to lớn cho các cán bộ quân y của quân đội Mông Cổ anh em. Làm việc 15 - 18 giờ trong một ngày đêm, đồng chí quan tâm nhiều đến việc đào tạo và bổ túc cho các bác sĩ phẫu thuật. Tôi nghĩ mình không nhầm, nếu nói rằng ai đã làm việc và học tập cạnh giáo sư M.V. A-khu-tin ắt là lĩnh hội được nhiều trong khoa phẫu thuật.
    Dưới sự lãnh đạo của đồng chí, nhà phẫu thuật trẻ tuổi có tài năng A.A. Vít-snép-xki đã trường thành vượt bậc, nay là một viện sĩ công huân lớn ở trong nước và ở cả ngoài nước.
    Bộ đội Mông Cổ hoạt động trong khu vực sông Khan-khin Gôn đã hiệp đồng chặt chẽ với bộ đội Xô-viết. Tôi được dịp thấy tận mắt tập thể các chiến sĩ dũng cảm và những cán bộ Mông Cổ. Cho phép tôi nhắc đến tên tuổi những đồng chí xuất sắc nhất. Đó là các đồng chí chiến sĩ Ôn-dơ-vôi, đồng chí lái xe bọc thép Khai-an-khiếc-va, các pháo thủ cao xạ Chun-tem, Găm-ba-xu-ren, ky sĩ Khéc-lô. Bộ tham mưu Quân đội nhân dân Cách mạng Mông Cổ đứng đầu là đồng chí chính ủy quân đoàn G L. Khơ-va-xu-ren, Phó Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Mông Cổ đã tiến hành một công tác sáng tạo lớn lao.
    Đài kỷ niệm những anh hùng đã hy sinh tại Khan-khin Gôn có khắc những dòng chữ thật xứng đáng:
    ?oVinh quang đời đời thuộc về các chiến sĩ anh hùng Quân đội Liên Xô và những chiến sĩ dũng cảm của Quân đội nhân dân Cách mạng Mông Cổ đã hy sinh trong những trận đánh với quân xâm lược Nhật tại khu vực sông Khan-khin Gôn cho tự do và độc lập của nhân dân yêu chuộng hòa bình Mông Cổ, cho hòa bình và an ninh của các dân tộc, chống sự xâm lược của bọn đế quốc?.
    Để ghi nhớ công lao to lớn của các chiến sĩ Xô-viết, Chính phủ Liên Xô đã tặng thưởng cho 70 đồng chí danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Các phi công X.I. Grít-xê-vét, Ya.V. Xmu-skê-vích, G.Ph. Tráp-chen-cô được tặng thưởng Huân chương sao vàng Anh hùng Liên Xô lần thứ hai.
    Khi chấm dứt chiến sự tại khu vực sông Khan-khin Gôn, bộ tư lệnh và tham mưu cụm quân (cuối tháng 10-1939) trở về đóng tại U-lan Ba-to - thủ đô nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ. Trước kia tôi mới biết Mông Cổ qua sách báo, ngày nay được dịp tìm hiểu gần gũi đất nước này.
    Thật vui mừng biết bao khi nhớ lại mối tình chân thành mộc mạc của nhân dân Mông Cổ, tình cảm nồng hậu và lòng tin sâu xa của họ đối với Liên Xô. Tôi đến bất cứ chỗ nào, trên các quảng đường hay trong nhà, trong các cơ quan hay đơn vị bộ dội, đâu đâu cũng thấy có treo chân dung Lê-nin ở một vị trí danh dự nhất và người dân Mông Cổ nào nói đến Lê-nin cũng tỏ lòng kính yêu sâu sắc.
    Các chiến sĩ chúng ta thường đến thăm các bạn bè Mông Cổ và các đồng chí Mông Cổ đều có mặt cùng với chúng ta trong các cuộc diễn tập, các buổi tập bài và thi đấu thể thao. Chúng tôi cố sức truyền đạt cho các đồng chí kinh nghiệm thu hoạch trong những trận chiến đấu trước đây.
    Nhân dân Mông Cổ rất tôn kính và yêu mến Khoóc-lô-ghin Chôi-ban-xan. Tôi được làm thân với đồng chí hồi tháng 8, đồng chí đến sở chỉ huy của tôi đóng trên núi Kha-ma đa-ba. Kh. Chôi-ban-xan là một người xuất chúng, có tấm lòng rất nồng nhiệt, một người bạn trung thành của Liên Xô. Khoóc-lô-ghin Chôi-ban-xan là một chiến sĩ quốc tế chân chính, đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát-xít. Tôi được gặp đồng chí lần cuối trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại, nhân dịp đồng chí mang quà của nhân dân Mông Cổ tặng các chiến sĩ Hồng quân ngoài tiền tuyến.

    [7] Tổ chức của Quân đội Liên Xô trong thời kỳ này có phân biệt giữa cấp và chức:
    - Về cán bộ chỉ huy có những cấp: trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng, sư đoàn trưởng, quân đoàn trưởng, tư lệnh tập đoàn quân bậc 1 và bậc 2.
    - Về cán bộ chính trị có những cấp: chính ủy trung đoàn, chính ủy lữ đoàn, chính ủy sư đoàn.
    Ví dụ như: Cấp lữ đoàn trưởng nhưng có thể giữ những chức: lữ đoàn trưởng, sư đoàn trưởng và quân đoàn trưởng. Cấp chính ủy sư đoàn nhưng có thể giữ những chức: chủ nhiệm chính trị tập đoàn quân, ủy viên Hội đồng quân sự tập đoàn quân, ủy viên Hội đồng quân sự quân khu, ủy viên Hội đồng quân sự phương diện quân. Sau này, khi phong quân hàm sự phân biệt về cấp và chức dễ theo dõi hơn, cấp là cấp quân hàm,còn chức là chức vụ phụ trách - ND.
    [8] Trong quân đội Liên Xô từ cấp sư đoàn trở lên có cơ quan gọi là ủy ban Đảng phụ trách công tác nội bộ của Đảng, không có cấp ủy Đảng - ND.
  4. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Chúng tôi thấy rõ, đồng chí Yum-gia-ghin Xê-đen-ban, Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Mông Cổ là người có uy tín rất lớn trong nhân dân. Đồng chí có học thức cao sâu và thông minh, đã làm việc nhiều năm bên cạnh Kh. Chôi-ban-xan và các đồng chí ủy viên khác trong Ban Chấp hành trung ương Đảng. Sau khi Kh. Chôi-ban-xan mất, Yu. Xê-đen-ban đã lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong nhiều năm, thực hiện thắng lợi việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
    Nói trước lên một tí, tôi muốn nhấn mạnh sự giúp đỡ mà nhân dân Mông Cổ đã đưa lại cho Liên Xô trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại chống nước Đức phát-xít.
    Riêng trong năm 1941, các chiến sĩ Xô-viết đã nhận của nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ 140 toa xe quà tặng các loại, tổng số trị giá 65 triệu tu-grích. Ngân hàng nước ngoài nhận được 2,5 triệu tu-grích, và 10 triệu đô-la Mỹ, 300 kg vàng. Với số tiền ấy đóng được 53 xe tăng, trong đó có 32 xe tăng T-34, ngoài thành xe có ghi những tên tuổi vẻ vang của Xu-khê Ba-to và những anh hùng khác của nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ. Nhiều xe trong số đó đã chiến đấu thắng lợi với quân Đức, các xe ấy thuộc biên chế của lữ đoàn xe tăng 112 thuộc tập đoàn quân xe tăng cận vệ đã tiến đến tận Béc-lanh.
    Ngoài xe tăng ra, những lực lượng không quân Liên Xô còn được chuyển thuộc cả phi đội ?oA-rát Mông Cổ?[9]. Phi đội này gia nhập vào thành phần của trung đoàn không quân cận vệ Oóc-san 2. Phi đội ?oA-rát Mông Cổ? kết thúc chặng đường chiến đấu thắng lợi của mình tại vùng Cơ-ních-béc, khi đang ở trong biên chế của Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 3.
    Năm 1941 - 1942, Hồng quân còn nhận được quà tặng 35.000 ngựa và số ngựa ấy đã bổ sung ngay cho các đơn vị kỵ binh Liên Xô.
    Trong suốt quá trình cuộc Chiến tranh giữ nước, Kh. Chôi-ban-xan, Yu. Xê-đen-ban và những người hoạt động nhà nước khác thường dẫn đầu những người lao động nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ đến thăm các chiến sĩ vẻ vang của chúng ta. Mỗi lần đi thăm như vậy lại càng thắt chặt thêm tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc Liên Xô và Mông Cổ.
    Đại sứ Liên Xô ở nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ I.A. I-va-nốp đã làm nhiều việc trong thời kỳ chiến sự xảy ra ở Khan-khin Gôn. Nhờ có sự quan tâm của đồng chí mà bộ đội ta không bao giờ gặp khó khăn về tiếp tế lương thực. I.A. I-va-nốp được nhân dân Mông Cổ, những người lãnh đạo Nhà nước và Đảng tôn trọng. Bản thân đồng chí cũng đã hết lòng giúp đỡ lại bằng cả lời nói và việc làm.
    Mùa đông, bộ đội ta sau khi trở về doanh trại đã tiến hành tổng kết các cuộc chiến đấu vừa qua. Thật vui mừng nhận thấy các chiến sĩ và cán bộ đã trưởng thành lên biết bao. Những chiến sĩ và cán bộ chỉ huy ưu tú được phái tới những đơn vị chưa trực tiếp tham chiến để truyền đạt kinh nghiệm rút ra từ những trận đánh với quân đội Nhật. Công tác chính trị bảo đảm huấn luyện chiến đấu của bộ đội được cải tổ lại một cách kiên quyết.
    Tất cả những công việc trên, nói chung, đã đem lại những kết quả thiết thực trong việc chuẩn bị và sẵn sàng chiến đấu của bộ đội Không phải ngẫu nhiên mà các binh đoàn ở trên đất Mông Cổ trong những năm 1939 - 1940, được điều động sang vùng Pốt-mô-xô vi-ê năm 1941, đã chiến đấu với quân Đức vượt quá mọi sự khen ngợi.
    Đầu tháng 5-1940, tôi nhận được lệnh của Mát-xcơ-va trở về Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng để đi nhận công tác khác.
    Khi tôi đến Mát-xcơ-va thì đúng lúc công bố nghị quyết của Chính phủ phong quân hàm cấp tướng cho các cán bộ cao cấp của đồng quân. Tôi là một trong ba người được phong đại tướng.
    Mấy ngày sau, tôi được I.V. Xta-lin trực tiếp gặp và cử giữ chức tư lệnh Quân khu đặc biệt Ki-ép.
    Trước kia, tôi chưa được gặp I.V. Xta-lin, nên lúc đến gặp và dự buổi tiếp đãi này, tôi bị xúc động mạnh.
    Ngoài I.V. Xta-lin ra, trong phòng còn có M.I. Ca-li-nin, V.M. Mô-lô-tốp và những đồng chí ủy viên khác của Bộ Chính trị.
    Chào hỏi xong, I.V. Xta-lin châm lửa vào tẩu thuốc, hỏi ngay:
    - Đồng chí đánh giá quân Nhật như thế nào?
    - Binh sĩ Nhật chiến đấu với chúng tôi tại Khan-khin Gôn được huấn luyện tốt, nhất là lối đánh giáp lá cà, - tôi đáp - Chúng có kỷ luật, linh hoạt và ngoan cường trong chiến đấu, đặc biệt là trong phòng ngự. Bọn chỉ huy sơ cấp được huấn luyện rất tốt và chiến đấu ngoan cố, mù quáng. Thông thường, bọn chỉ huy sơ cấp không chịu bắt làm tù binh, và không chịu dừng lại trước ?oHa-ra-ki-ri[10]?. Số sĩ quan, nhất là sĩ quan cao cấp và trên nữa, được huấn luyện tồi, kém chủ động và có khuynh hướng hành động một cách máy móc.
    Còn nói về tình trạng kỹ thuật của quân đội Nhật, tôi thấy nó còn lạc hậu. Những xe tăng Nhật, giống như kiểu MC-1 của chúng ta, đã quá lỗi thời. Trang bị của chúng kém và chạy không được xa.
    Cũng phải nói là lúc bắt đầu chiến cuộc, không quân Nhật đã đánh được không quân của ta. Khi ta chưa tiếp nhận máy bay ?oChai-ca? cải tiến và I-16 thì máy bay của chúng có hơn máy bay của ta. Song, đến khi tổ phi công Anh hùng Liên Xô dẫn đầu là I.V. Xmu-skê-vích bổ sung đến, thì quyền khống chế trên không lại thuộc hẳn về ta.
    Điều cần chú ý là chúng ta đã đụng độ với các đơn vị tinh nhuệ gọi là đơn vị thiên hoàng của quân đội Nhật.
    I V Xta-lin rất chú ý nghe tất cả, sau đó hỏi:
    - Bộ đội ta chiến đấu ra sao?
    - Bộ đội chính quy của ta chiến đấu tốt. Đặc biệt là sư đoàn cơ giới 16 do Pê-tơ-rốp chỉ huy và sư đoàn bộ binh 57 do M.V. Ga-la-nin chỉ huy từ Da-bai-can đến chiến đấu rất giỏi. Sư đoàn bộ binh 82 ở U-ran đến, thời gian đầu, chiến đấu kém. Biên chế của sư đoàn có những chiến sĩ và cán bộ chỉ huy trình độ huấn luyện chưa tốt. Sư đoàn ấy được triển khai và bổ sung trước lúc lên đường sang Mông Cổ.
    Các lữ đoàn xe tăng, đặc biệt là lữ đoàn xe tăng 11 do lữ đoàn trưởng Anh hùng Liên Xô M.P. Ya-cốp-lép chỉ huy, chiến đấu rất giỏi, nhưng các xe tăng BT-5 và BT-7 rất dễ bị bốc cháy. Nếu như trong tay tôi không có 2 lữ đoàn xe tăng và 3 lữ đoàn cơ giới bọc thép, chắc là chúng tôi không thể hợp vây và tiêu diệt tập đoàn quân 6 của Nhật nhanh như vậy. Tôi thấy, chúng ta cần phát triển mạnh bộ đội xe tăng và cơ giới trong các lực lượng vũ trang.
    Pháo binh của ta về mọi mặt đều hơn pháo binh Nhật, nhất là khi bắn. Nói chung, bộ đội ta chiến đấu giỏi hơn quân Nhật khá nhiều.
    Bộ đội Mông Cổ sau khi tiếp thụ kinh nghiệm, được rèn luyện và được các đơn vị Hồng quân chi viện, đã chiến đấu tốt, nhất là tiểu đoàn xe bọc thép của Quân đội Mông Cổ chiến đấu trên núi Ba-in Xa-gan. Cần nói là kỵ binh Mông Cổ đã nhiều lần bị máy bay và pháo binh địch tập kích và bị thiệt hại nặng.
    I.V. Xta-lin lại hỏi:
    - Cu-lích, Páp-lốp và Vô-rô-nốp đã giúp đồng chí ra sao?
    - Vô-rô-nốp giúp được nhiều trong việc đặt kế hoạch pháo bắn và tổ chức vận chuyển đạn dược lên phía trước. Còn nói về Cu-lích, tôi không thể nêu lên những mặt công tác nào và hữu ích của đồng chí ấy. Páp-lốp giúp các chiến sĩ xe tăng của ta, trao đổi với anh em những kinh nghiệm rút được ở Tây Ban Nha.
    Tôi chăm chú theo dõi I.V. Xta-lin, và thấy đồng chí quan tâm nghe. Tôi tiếp tục:
    - Đối với tất cả bộ đội và cán bộ chỉ huy các binh đoàn, đơn vị chúng ta và riêng đối với tôi, cuộc chiến đấu ở Khan-khin Gôn là một trường học kinh nghiệm chiến đấu lớn. Tôi nghĩ là phía Nhật, chúng sẽ rút ra những kết luận đúng đắn hơn về sức mạnh và khả năng của Hồng quân.
    - Đồng chí cho biết, bộ đội ta vấp phải những khó khăn gì ở Khan-khin Gôn - M.I. Ca-lin-nin tham gia ý kiến.
    - Khó khăn chính, - tôi nói, - là vấn đề bảo đảm vật chất - kỹ thuật cho bộ đội. Chúng ta buộc phải chuyên chở mọi thứ cần thiết cho chiến đấu và cho đời sống của bộ đội trên chặng đường dài 650 - 700 km. Những trạm cung cấp gần nhất đặt trên đất đai thuộc Quân khu Da-bai-can. Ngay như củi đốt để nấu ăn cũng phải chở xa 600 km. Xe của ta phải chạy một vòng đi về 1.300 ?" 1.400 km nên tốn rất nhiều xăng, mà xăng thì phải chở từ Liên Xô đến.
    Hội đấng quân sự Quân khu Da-bai-can và thượng tướng G.M. Séc cùng với các cơ quan đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong việc khắc phục những khó khăn đó. Muỗi cũng làm cho bộ đội ta bực mình mà ở Khan-khin Gôn có rất nhiều muỗi. Tối đến, chúng bay từng đàn đến thịt chúng ta. Bọn Nhật có những màn riêng che chở, còn chúng ta không có, và mãi sau này mới may được.
    - Theo ý của đồng chí thì chính phủ Nhật khi gây xâm lược, theo đuổi mục đích chủ yếu gì? - M.I. Ca-li-nin hỏi.
    - Mục đích trước mắt là đánh chiếm vùng đất đai nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ ở phía bên kia sông Khan-khin Gôn, rồi sau đấy cấu trúc phòng tuyến trên sông Khan-khin Gôn để yểm hộ con đường sắt thứ hai đang được dự kiến xây dựng, con đường này có tác dụng chiến lược và sẽ chạy tới biên giới miền Da-bai-can của ta ở phía tây con đường sắt cũ.
    - Bây giờ đồng chí đã có kinh nghiệm chiến đấu, - I.V. Xta-lin nói, - đồng chí sẽ phụ trách quân khu Ki-ép, và sử dụng kinh nghiệm của mình vào việc huấn luyện bộ đội.
    Thời gian ở nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ, tôi không có điều kiện theo dõi sát tiến trình những cuộc chiến đấu giữa nước Đức và khối Anh - Pháp. Tiện dịp tôi hỏi:
    - Nên hiểu tính chất hết sức tiêu cực của cuộc chiến tranh ở phía tây như thế nào, và chiến sự dự kiến sẽ phát triển sau này ra sao?
    I V Xta-lin khẽ cười, nói :
    - Chính phủ Pháp do Đa-la-đi-ê cầm đầu và chính phủ Anh do Săm-béc-lanh cầm đầu không muốn nhảy vào chiến tranh thực sự với Hít-le. Chúng vẫn nuôi hy vọng đẩy Hít-le gây chiến với Liên Xô. Năm 1939, chúng từ chối không thành lập khối chống Hít-le với chúng ta, như vậy là chúng không muốn bó tay Hít-le trong việc xâm lược Liên Xô. Nhưng không có kết quả gì đâu. Chính bọn chúng rồi sẽ phải đền tội về đường lối thiển cận ấy.
    Trở về khách sạn ?oMát-xcơ-va?, tôi mãi không ngủ được, trong lòng còn in sâu những cảm xúc về buổi nói chuyện với các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị.
    Vẻ ngoài của I.V. Xta-lin, giọng nói trầm trầm của đồng chí, những nhận xét cụ thể và sâu sắc, việc am hiểu tường tận những vấn đề quân sự, sự quan tâm của đồng chí khi nghe báo cáo, đã để lại cho tôi một ấn tượng rất tốt.


    [9] A-rát là nông dân và những người lao động trong nước Cộng hòa nhân dân MôngCổ - ND.
    [10] Tức mổ bụng tự sát ?" ND.
    -----Hết chương 7------
  5. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Chương 8
    CHỈ HUY QUÂN KHU ĐẶC BIỆT KI-ÉP
    Tôi coi việc được chỉ định làm tư lệnh một quân khu lớn nhất là một vinh dự đặc biệt và tôi đã làm tất cả để xứng đáng với lòng tin lớn lao của Ban Chấp hành trung ương Đảng và của Chính phủ đối với tôi.
    Quân khu đặc biệt Ki-ép là một trong những quân khu tiền duyên. Lúc công tác ở quân khu Bê-lô-ru-xi trong thời gian 1922 - 1929, chúng tôi, ?onhững người Bê-lô-ru-xi? đã rất quý trọng các đơn vị quân đội của quân khu Ki-ép, đã đánh giá cao công tác huấn luyện quân sự và sự trưởng thành về mặt chiến dịch - chiến thuật của đội ngũ cán bộ phụ trách các cơ quan tham mưu và các cơ quan chỉ huy ở đó.
    Tôi còn vui mừng vì tại quân khu này tôi sẽ được công tác cùng với những cán bộ quân sự và những cán bộ chính trị có kinh nghiệm. Trong số này tôi đã quen riêng nhiều người, được nghe các sĩ quan và tướng lĩnh khác cho biết về nhiều người và đã công tác cùng với một số trong nhiều năm.
    Tham mưu trưởng Quân khu đặc biệt Ki-ép hồi đó là trung tướng M.A Puốc-ca-ép. Tôi đã cùng công tác với M.A Puốc-ca-ép tại quân khu Bê-lô-ru-xi lúc đồng chí làm tham mưu trưởng quân khu. Đó là một vị tướng có kinh nghiệm và thấu hiểu toàn diện công tác của mình, một người có trình độ văn hóa cao và một sĩ quan tham mưu cỡ lớn.
    Tư lệnh pháo binh quân khu là tướng N.Đ. Ya-cốp-lép, một chuyên gia nổi tiếng về kỹ thuật và cách sử dụng pháo binh trong chiến đấu. Với tướng I.N. Mu-dư-chen-cô và tướng Ph.Ya. Cô-xten-cô, hai tư lệnh tập đoàn quân, tôi đã có dịp cùng công tác rất lâu ở sư đoàn Cô-dắc sông Đông 4. Trưởng phòng tác chiến bộ tham mưu quân khu là đại tá P.N. Rúp-xốp thì tôi đã được cơ quan trung ương của Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng giới thiệu rồi. Ít lâu sau, đại tá I-van Khri-xtô-phô-rô-vích Ba-gra-mi-an được điều động đến thay P.N. Rúp-xốp. Tôi biết I-van Khri-xtô-phô-rô-vích là một cán bộ rất chín chắn, bình tĩnh, cần mẫn và tác chiến giỏi. Chủ nhiệm hậu cần quân khu là V.E. Bê-lô-cô-xcốp là bạn thân của tôi.
    Tôi muốn dành những lời tốt đẹp để nói về đồng chí tư lệnh không quân quân khu, tướng E.X. Ptu-khin. Đó là một phi công và cán bộ chỉ huy xuất sắc, một người con trung thành của Đảng và một người đồng chí tốt.
    Sau một thời gian ngắn, tôi đã gần gũi tìm hiểu được các đồng chí có cương vị phụ trách khác của quân khu. Đó là những cán bộ chỉ huy thạo việc và có kiến thức. Nhiệm vụ công tác nào họ cũng đều hoàn thành một cách thông thạo, cẩn thận và sáng tạo.
    Nắm được tình hình quân khu rồi, tôi tự thấy bổn phận của mình là phải đến gặp đồng chí bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản U-crai-na. Sau khi thuật lại hoạt động của quân ta trong cuộc chiến đấu đánh tan tập đoàn quân 6 của Nhật tại Khan-khin Gôn và trình bày những cảm nghĩ đầu tiên của mình về quân khu, tôi đã yêu cầu được giúp đỡ về mặt bảo đảm cung cấp những tư liệu sinh hoạt cho quân khu. Tôi được tiếp đón rất niềm nở và tôi vui mừng vì mọi việc đều được thu xếp tốt đẹp cả.
    Trong tháng 6-1940 tôi đã đến thăm hầu hết các đơn vị và các binh đoàn. Sau đó cùng với bộ tham mưu quân khu đã tiến hành một cuộc diễn tập chỉ huy và tham mưu trong một cuộc hành quân dã chiến lớn với đủ các phương tiện giao thông liên lạc tới vùng Téc-nô-pôn, Lvốp, Vla-đi-mia Vô-lưn-xcơ, Đúp-nô là vùng mà một năm sau, năm 1941, quân Đức, theo kế hoạch ?oBác-ba-rô-xa?, đã tiến qua để đánh đòn đột kích chủ yếu của chúng trên đất U-crai-na .
    Cuộc diễn tập chứng tỏ rằng đứng đầu các tập đoàn quân, các binh đoàn và các cơ quan tham mưu là những sĩ quan và những tướng lĩnh trẻ có khả năng. Tuy vậy họ còn cần được huấn luyện một cách nghiêm chỉnh thêm về mặt chiến dịch - chiến thuật vì rằng họ chỉ vừa mới được đề bạt từ những cương vị thấp lên trong thời gian gần đây. Các cán bộ lãnh đạo đã được lưu ý đến vấn đề này.
    Mùa hè và mùa thu năm 1940, các đơn vị của Quân khu đặc biệt Ki-ép đã tiến hành một đợt huấn luyện chiến đấu khẩn trương. Đã tiếp thụ được những kinh nghiệm chiến thuật mà Hồng quân đã rút ra trong cuộc chiến tranh với Phần Lan và trong các trận chiến đấu với quân Nhật ở vùng sông Khan-khin Gôn. Ngoài ra, những kinh nghiệm chiến đấu của quân đội phát-xít Đức chống lại một loạt nước châu Âu cũng được nghiên cứu.
    Đến khoảng thời gian này, Thế chiến thứ hai đang diễn ra sôi sục. Từ cuối năm 1936, Đức và Ý đã ký hiệp ước thành lập ?otrục Béc-lanh - Rôm? khét tiếng bỉ ổi, còn Đức và Nhật thì đã ký ?ocông ước chống Quốc tế Cộng sản?, nói là để chống lại Quốc tế Cộng sản nhưng thực ra là để liên kết bọn xâm lược lại với nhau trong cuộc đấu tranh giành quyền bá chủ thế giới. Năm 1937, Ý đã tham gia công ước này. Cùng vào lúc ấy, Nhật đã mở lại cuộc chiến tranh nhằm thôn tính toàn bộ Trung Quốc. Năm 1938, quyền độc lập quốc gia Áo bị thủ tiêu. Đồng thời cuộc vũ trang tấn công vào Tiệp Khắc cũng đã chín muồi. Chính phủ Liên Xô kêu gọi các quốc gia yêu chuộng hòa bình: ?oĐể đến ngày mai thì có thể đã muộn rồi, nhưng hôm nay vẫn còn thời gian hành động tập thể nếu như tất cả các quốc gia, đặc biệt là các đại cường quốc, đều có một lập trường rõ ràng, kiên quyết đối với vấn đề chung sức cứu vãn hòa bình?.
    Những đề nghị của Liên Xô đã không được chấp nhận.
    Tại các hội nghị nổi tiếng một cách đáng buồn ở Muy-ních trong ngày 29 - 30 tháng 9-1938, Anh và Pháp đã thỏa thuận giao cho Đức vùng Xu-đét để ?ocứu vãn hòa bình vào phút cuối cùng?. Phái đoàn Tiệp Khắc chờ đợi quyết định về số phận nước mình ở ngoài lề hội nghị, còn Liên Xô thì không được mời dự. Chúng ta đã chuẩn bị giúp đỡ Tiệp Khắc, bộ đội không quân và xe tăng của chúng ta đã ở tư thế sẵn sàng chiến đấu; gần 40 sư đoàn đã được tập trung trong các vùng kế cận biên giới phía tây. Nhưng các giới cầm quyền hồi đó của Tiệp Khắc đã khước từ sự giúp đỡ này vì họ đã lựa chọn con đường đầu hàng nhục nhã. Ngày 16-3-1939, Đức chiếm đóng Pra-ha. ?oViệc hòa giải? với Hít-le đã đưa tới hậu quả tự nhiên của nó.
    Một sự chuyển biến như vậy của tình hình, mà Liên Xô đã nhiều lần vạch ra từ trước, đã đặt ra cho Anh và Pháp một câu hỏi là: nếu Hít-le, mà họ đang xúi bẩy tấn công sang phía đông, lại bất thình lình quay về đánh phía tây thì sao? Thế là lại diễn ra vòng mới những cuộc thương lượng, những cuộc gặp gỡ và những cuộc hội họp nhằm làm cho Hít-le khiếp sợ trước khả năng có một sự liên minh quân sự với Liên Xô. Trong lúc yêu cầu Liên Xô giúp đỡ trong trường hợp Đức xâm lược thì Đa-la-đi-ê và Săm-béc-lanh lại không chịu đảm nhận bất kỳ một nghĩa vụ nghiêm chỉnh nào.
    Các cuộc thương lượng năm 1939, kể cả các cuộc thương lượng giữa các phái đoàn quân sự ba nước mà chúng tôi sẽ nói tới dưới đây, đều đã bế tắc.
    Tóm lại, nếu nói đến châu Âu là phải nói đến áp lực của Hít-le và tính tiêu cực của Anh và Pháp. Nhiều biện pháp và đề nghị của Liên Xô nhằm xây dựng một hệ thống an ninh tập thể có hiệu lực đều đã không được các nhà lãnh đạo các nước tư bản chủ nghĩa ủng hộ. Và điều này cũng là tự nhiên thôi. Toàn bộ sự phức tạp, trái ngược và sự bi thảm của tình thế đã sản sinh ra từ chỗ các giới cầm quyền ở Anh và ở Pháp mong muốn đẩy cho Đức và Liên Xô chạm trán với nhau.
    Khi mà bom còn chưa nổ trong nhà riêng của họ thì các lợi ích giai cấp của bọn đồng minh xưa kia trong cuộc đấu tranh chống lại Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên đã dẫn tới một thái độ: lùi bước trước Hít-le. Đa-la-đi-ê và Săm-béc-lanh ảo tưởng rằng họ sẽ thành công trong việc làm đảo lộn được tất cả kịp thời, chạy thoát được khỏi bức tường phát-xít màu nâu đã nghiêng ngả và sắp đổ sập, thậm chí họ còn tưởng rằng, đến phút cuối cùng sẽ xô được nó sang phía Liên Xô. Thậm chí, đến ngày 1-9, khi Đức đã tấn công Ba Lan rồi mà Anh và Pháp, đồng minh của Ba Lan, trên thực tế, vẫn không hề nhúc nhích tí nào tuy họ có tuyên chiến với Đức.
    I-ốt, tham mưu trưởng tác chiến thuộc bộ chỉ huy tối cao của Đức, đã công nhận trước tòa án Nu-rem-be rằng : ?oNếu chúng tôi không bị đánh bại ngay trong năm 1939 thì chỉ là vì khoảng 110 sư đoàn của Anh và của Pháp, đóng đối diện với 23 sư đoàn Đức lúc chúng tôi đang đánh nhau với Ba Lan đã hoàn toàn án binh bất động ở phía tây?.
    Chính phủ quý tộc Ba lan đã khước từ sự giúp đỡ của Liên Xô. Họ ?ocảnh giác? xây dựng những tuyến phòng thủ và chiến lũy ở phía đông để chuẩn bị chiến tranh với Liên Xô trong khi đó thì quân đội Hít-le lại từ phía tây, phía bắc và phía nam tiến vào và đã nhanh chóng chiếm đoạt được các kho vũ khí. Dù những người yêu nước Ba Lan đã chiến đấu rất anh hùng, quân Đức vẫn vây hãm được quân đội Ba Lan vào trong một cái ?ochảo? lớn. Thế chiến thứ hai tiếp diễn trên một quy mô ngày càng lớn.
    Trong thời gian đáng báo động này, Hồng quân chúng ta như thế nào?
    Tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng (tháng 3-1939) đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng, nguyên soái Liên Xô K.E. Vô-rô-si-lốp đã báo cáo rằng, so với năm 1934 quân số của chúng ta đã tăng hơn gấp đôi và trình độ cơ giới hóa quân đội đã tăng 260%. Đồng chí đã nêu ra những số liệu tổng quát về hỏa lực của các quân đoàn bộ binh, hỏa lực này không thua kém hỏa lực của các quân đoàn Đức hay Pháp. Kỵ binh tăng một lần rưỡi và được tăng cường đáng kể (bình quân là 35%) về đại bác, trung liên, đại liên và xe tăng. Tổng số xe tăng cũng tăng gần 2 lần và hỏa lực của nó tăng gần 4 lần. Pháo tầm xa, các hệ thống pháo bắn nhanh, đặc biệt là pháo chống tăng và pháo của chiến xa đều được tăng cường. Nếu trong năm 1934, toàn bộ lực lượng không quân của chúng ta có thể chở 2.000 tấn bom trong một chuyến bay thì bây giờ đã mang được một khối lượng bom 280% lớn hơn. Không phải chỉ máy bay khu trục mà cả máy bay phóng pháo đều có khả năng bay nhanh trên 500 km/h và bay cao tới 14.000 - 15.000m.
    Trong báo cáo về công tác của Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản (b) Liên Xô đọc trước Đại hội lần thứ XVIII của Đảng, đánh giá nguy cơ của một cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa mới, I.V. Xta-lin đã nói rằng, tuy trước sau vẫn thực hành một đường lối chính trị nhằm giữ gìn hòa bình, nước ta đã đồng thời triển khai một công tác quan trọng nhất nhằm tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu của Hồng quân và Hạm đội của chúng ta. Và trên thực tế, đúng là như vậy.
    Trong ngành nghiên cứu sử học của ta thường biến mất những tài liệu rất quan trọng liên quan đến người và thời gian phát biểu hoặc in các tài liệu đó. Đôi khi một số ý nghĩ và lập luận về những năm trước chiến tranh rút ra tử những tài liệu gián tiếp và các công trình nghiên cứu phụ lại được xem như là những phát kiến mới, mặc dù những ý nghĩ, lập luận và ngay cả đến những việc thực ấy vốn đã sẵn có trong các sách rất dễ tìm thấy ở thư viện.
    Nói riêng, những văn kiện của các Đại hội Đảng thời gian ấy có nhiều tư liệu lịch sử phong phú nhất phản ánh một công tác to lớn mà Đảng và nhân dân ta đã tiến hành trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tiện đây xin nói là những văn kiện ấy không phải do những cá nhân mà là do hàng trăm, hàng ngàn chuyên gia thông thạo - những người đã tham khảo hàng núi tư liệu thực tiễn - nghiên cứu kỹ trước khi đưa một con số nào đó vào một bản báo cáo quan trọng.
    Đương nhiên là phát biểu tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng, đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng đã không thể nêu ra những con số tuyệt đối thể hiện sự hùng cường của quân đội. Nhưng tại những cuộc thương lượng của các phái đoàn quân sự ba nước Liên Xô, Anh và Pháp trong tháng 8-1939 - những cuộc thương lượng này tất nhiên là những cuộc thương lượng bí mật - thì những số liệu cụ thể đã được dẫn ra.
    Những cuộc thương lượng này rất đáng được chú ý. Tại đây đã thể hiện rõ ràng là, Chính phủ Liên xô nghiêm túc và thực sự muốn xây dựng cho được một hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu, đã thiết thực, sẵn sàng tiến tới rất nhiều trong vấn đề đó Chính phủ Liên Xô đã trực tiếp ủy nhiệm cho các đại biểu quân sự của mình ?oký kết một công ước quân sự về các vấn đề tổ chức việc vũ trang phòng vệ của Anh, Pháp và Liên Xô chống xâm lược ở châu Âu?.
    Nhưng có điều chúng ta phải nói thẳng ra là Anh và Pháp đã cử những nhân vật thứ yếu đến thương lượng, đã thế những người này đến thương lượng lại không phải với lòng thành thật quan tâm đến việc xây dựng cho được một sự hợp tác quân sự mà chỉ là để ?obắt mạch?, ?othăm dò?, mà thôi. Trong một chỉ thị mật gửi phái đoàn Anh, người ta đã không giấu giếm rằng, chính phủ Anh ?okhông muốn nhận lấy cho mình những nghĩa vụ cụ thể nào? có thể ?obó chân bó tay? mình. Phái đoàn được ủy nhiệm tiến hành thương lượng ?orất chậm rãi?, ?otiếp xúc một cách dè dặt? với người Nga, và, trong vấn đề hiệp ước quân sự thì ?ocố gắng giới hạn được bao nhiêu hay bấy nhiêu trong những điều khoản chung chung mà thôi?.
    Xin trích dẫn một số đoạn trong các biên bản hồi đó, những đoạn nói lên khả năng chiến đấu của lực lượng quân đội mà chúng ta sẵn sàng triển khai tại vùng biên giới phía tây đất nước mình.
    BIÊN BẢN PHIÊN HỌP
    CỦA CÁC PHÁI ĐOÀN QUÂN SỰ LIÊN XÔ, ANH VÀ PHÁP
    Ngày 15 tháng 8 năm 1939
    Phiên họp bắt đầu lúc 10 giờ 07 phút,
    kết thúc lúc 13 giờ 20 phút.
    Tư lệnh tập đoàn quân B.M. Sa-pô-sni-cốp: Tại phiên họp trước của các phái đoàn quân sự, chúng ta đã nghe trình bày kế hoạch triển khai quân đội Pháp ở phía tây. Theo đề nghị của các phái đoàn quân sự Anh, Pháp và được sự ủy nhiệm của phái đoàn quân sự Liên Xô, tôi xin trình bày kế hoạch triển khai các Lực lượng vũ trang của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết tại biên giới phía tây nước mình.
    Để chống lại một cuộc xâm lược ở châu Âu, Hồng quân tại phần đất ở châu Âu của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết sẽ triển khai và huy động ra mặt trận:
    120 sư đoàn bộ binh, 16 sư đoàn kỵ binh, 5.000 súng lớn (trong đó có cả pháo nòng dài và lựu pháo) từ 9.000 đến 10.000 xe tăng, từ 5.000 đến 5.500 máy bay chiến đấu (không kể máy bay trợ chiến), tức là những máy bay tiêm kích và máy bay ném bom.
    Trong số lượng này, không kể đến những đơn vị quân đội tại các khu vực đã được củng cố, những đơn vị phòng không, những đơn vị biên phòng, những đơn vị dự bị để chuẩn bị bổ sung và những đơn vị hậu cần.

  6. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Không đi miên man vào các chi tiết về cách tổ chức Hồng quân, tôi xin nói ngắn gọn là: mỗi sư đoàn bộ binh của lục quân gồm 3 trung đoàn bộ binh và 2 trung đoàn pháo binh. Quân số của một sư đoàn thời chiến là 19.000 người.
    Mỗi quân đoàn gồm 3 sư đoàn và có lực lượng pháo binh của mình là 2 trung đoàn (đô đốc Đrắc-xơ hội ý với tướng Hây-vút rồi đề nghị cho một sĩ quan sẽ ghi lại nội dung thông báo của tư lệnh tập đoàn quân B.M. Sa-pô-sni-cốp và đề nghị này đã được chấp nhận).
    Các tập đoàn quân gồm một số quân đoàn - từ 5 đến 8 quân đoàn, đều có lực lượng pháo binh, không quân và xe tăng riêng của mình.
    Các đơn vị thuộc những khu vực đã được củng cố có thể sẵn sàng chiến đấu trong khoảng thời gian từ 4 đến 6 tiếng đồng hồ sau khi có báo động chiến đấu.
    Liên Xô có những khu vực đã được cửng cố khắp dọc toàn bộ biên giới phía tây của mình từ biển Lê-đô-vít đến Biển Đen.
    Việc tập kết một tập đoàn quân được thực hiện xong trong vòng từ 8 đến 20 ngày. Mạng lưới đường sắt không những cho phép tập kết được một tập đoàn quân đến biên giới trong khoảng thời gian vừa nói mà còn cho phép thực hiện việc chuyển quân dọc theo mặt trận. Dọc biên giới phía tây chúng tôi có từ 3 đến 5 tuyến đường bộ với một chiều sâu là 300 km.
    Hiện nay chúng tôi có một số lượng đầu máy xe lửa lớn và mạnh cùng những toa xe chở hàng nhiều gấp đôi trước đây. Các đoàn xe lửa của chúng tôi có sức trọng tải lớn hơn trước hai lần. Vận tốc của đoàn tàu cũng đã được nâng cao hơn.
    Chúng tôi có một lực lượng đáng kể xe hơi vận tải và những tuyến đường bộ cho phép thực hiện việc tập trung vận tải bằng xe hơi dọc theo mặt trận...
    Bây giờ tôi xin trình bày ba cách hành động chung có thể có của các lực lượng vũ trang Anh, Pháp và Liên Xô trong trường hợp có xâm lược ở châu Âu. Phái đoàn quân sự Liên Xô đã duyệt y ba cách hành động này.
    Cách thứ nhất là trong trường hợp khối xâm lược tấn công nước Anh và nước Pháp.
    Trong trường hợp này Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết sẽ huy động một lực lượng vũ trang bằng 70% tổng số lực lượng vũ trang mà Anh và Pháp sẽ trực tiếp đưa ra chống lại kẻ xâm lược chủ yếu là Đức. Tôi xin nói rõ điểm này. Ví dụ như nếu Pháp và Anh huy động 90 sư đoàn bộ binh ra trực tiếp chống Đức thì Liên Xô sẽ huy động 63 sư đoàn bộ binh, 6 sư đoàn kỵ binh với một số lượng pháo, xe tăng, máy bay tương ứng, cộng khoảng gần 2 triệu người tất cả...
    Hạm đội miền Bắc Liên Xô sẽ tuần tiễu ở gần bờ biển của Phần Lan và Na Uy, ngoài vùng biển thuộc các nước này, phối hợp với hạm đội của Anh - Pháp... Hạm đội Ban-tích của Liên Xô có thể triển khai tuần tiễu, mở rộng hoạt động của tàu ngầm và thủy lôi ven bờ biển Đông Phổ và Pô-mê-ra-ni. Những tàu ngầm thuộc Hạm đội Ban-tích của Liên Xô sẽ ngăn cản việc vận chuyển nguyên liệu công nghiệp từ Thụy Điển sang cho kẻ xâm lược chủ yếu.
    (Tư lệnh tập đoàn quân B.M. Sa-pô-sni-cốp trình bày kế hoạch hoạt động đến đâu thì đô đốc Đrắc-xơ và tướng Hây-vút ghi lại tình huống đến đấy lên những tấm giấy vẽ dày mà họ có sẵn bên mình).
    Cách thứ hai cần có hoạt động quân sự là khi Ba Lan và Ru-ma-ni bị xâm lược.
    Liên Xô chỉ có thể tham gia chiến tranh khi Pháp và Anh đã thỏa thuận được với Ba Lan và nếu có thể cả với Lít-va cũng như với Ru-ma-ni về việc để cho quân đội của chúng tôi hoạt động qua hành lang Vi-len-xki, Ga-li-xi và Ru-ma-ni...
    Trong trường hợp này, Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết sẽ huy động một lực lượng quân sự bằng 100% tổng số lực lượng vũ trang mà Anh và Pháp sẽ huy động ra trực tiếp chống Đức. Chẳng hạn, nếu Pháp và Anh huy động 90 sư đoàn bộ binh ra chống Đức thì Liên Xô cũng huy động 90 sư đoàn bộ binh, 12 sư đoàn kỵ binh cùng một lực lượng pháo, máy bay và xe tăng tương ứng.
    Nhiệm vụ của hải quân Anh và Pháp vẫn là những nhiệm vụ như đã nói trong cách thứ nhất...
    Ở phía nam, Hạm đội Biển Đen của Liên xô, sau khi đã ngăn chặn không cho các tàu ngầm của kẻ xâm lược và của những lực lượng hải quân khác đột nhập vào cửa sông Đa-nuýp, sẽ phong tỏa Bô-xpha không cho hạm đội tàu nổi và tàu ngầm của kẻ thù tiến vào Biển Đen.
    Cách thứ ba: Cách này được dự kiến cho trường hợp khi kẻ thù chính sử dụng lãnh thổ của Phần Lan, E-xtô-ni-a và Lát-vi-a tiến hành xâm lược Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết.
    Trong trường hợp này, nước Pháp và nước Anh phải tham gia ngay vào cuộc chiến tranh chống lại xâm lược hay khối xâm lược.
    Gắn bó với Anh và Pháp bằng các hiệp ước, Ba Lan nhất thiết phải đứng lên chống Đức và để cho quân đội của chúng tôi tiến qua hành lang Vi-len-xki và Ga-li-xi theo như các chính phủ Anh và Pháp đã thỏa thuận với chính phủ Ba Lan.
    Ở trên đã nói rằng, Liên Xô sẽ triển khai 120 sư đoàn bộ binh, 16 sư đoàn kỵ binh, 5.000 súng hạng nặng, từ 9.000 đến 10.000 xe tăng, từ 5.000 đến 5.500 máy bay. Trong trường hợp này Pháp và Anh phải huy động một lực lượng bằng 70% lực lượng vừa nói của Liên Xô và bắt đầu có ngay những hoạt động tích cực chống lại kẻ xâm lược chủ yếu.
    Hạm đội quân sự Anh - Pháp cũng phải tiến hành những hoạt động như đã nói trong cách thứ nhất.
    BIÊN BẢN PHIÊN HỌP
    CỦA CÁC PHÁI ĐOÀN QUÂN SỰ LIÊN XÔ, ANH VÀ PHÁP
    Ngày 17 tháng 8 năm 1939
    Phiên họp bắt đần từ 10 giờ 07 phút,
    Kết thúc lúc 13 giờ 43 phút.
    Nguyên soái K.E. Vô-rô-xi-lốp (chủ tọa phiên họp). Tôi xin tuyên bố: phiên họp của các phái đoàn quân sự bắt đầu.
    Trong phiên họp ngày hôm nay, chúng ta sẽ nghe thông báo về các lực lượng không quân của Liên Xô. Nếu không có vấn đề gì khác tôi xin mời tư lệnh tập đoàn quân bậc 2, tư lệnh các lực lượng không quân của Hồng quân công nông Nga Lốc-ti-ô-nốp phát biểu ý kiến.
    Tư lệnh tập đoàn quân A.D. Lốc-ti-ô-nốp: Tổng tham mưu trưởng Hồng quân, tư lệnh tập đoàn quân bậc 1 Sa-pô-sni-cốp trong báo cáo của mình tại đây đã nói rằng, trên chiến trường Tây Âu, Hồng quân sẽ triển khai từ 5.000 đến 5.500 máy bay chiến đấu. Số lượng này là lực lượng không quân tuyến một, không kể lực lượng dự trữ.
    Trong số máy bay này 80% là máy bay hiện đại có các tốc độ bay như nhau: máy bay tiêm kích - từ 465 đến 575 km/h và hơn nữa, máy bay ném bom - từ 465 đến 575 km/h. Sức bay xa của máy bay ném bom - từ 1.800 đến 4.000 km. Sức tải bom: từ 600 kg trên các máy bay kiểu cũ đến 2.500 kg...
    Tỷ lệ giữa máy bay ném bom, máy bay tiêm kích và máy bay trực thuộc các đơn vị là như sau: máy bay ném bom - 55%, máy bay tiêm kích - 40% và máy bay trực thuộc các đơn vị - 5%.
    Các xí nghiệp sản xuất máy bay của Liên Xô lúc này đang làm việc một ca, chỉ có một số làm việc hai ca, và cung cấp cho các nhu cầu cần thiết trung bình được 900 - 950 máy bay chiến đấu trong một tháng, không kể máy bay dân dụng và máy bay huấn luyện.
    Do nạn xâm lược đang lan rộng ở châu Âu và ở phía đông, ngành công nghiệp máy bay của chúng tôi đã có những biện pháp cần thiết để mở rộng sản xuất đáp ứng thật đầy đủ những nhu cầu của chiến tranh...
    Những binh đoàn cơ bản của không quân sẵn sàng chiến đấu trong vòng từ 1 đến 4 tiếng đồng hồ sau khi có lệnh báo động, còn các trung đoàn trực ban thì thường xuyên sẵn sàng chiến đấu.
    Trong giai đoạn đầu của chiến tranh, lực lượng không quân sẽ hoạt động đúng theo những kế hoạch đã được vạch ra của Bộ Tổng tham mưu. Nguyên tắc chung cho hoạt động của không quân sẽ được xác định theo nguyên tắc tập trung cố gắng của tất cả các phương tiện, trên mặt đất cũng như trên không, vào hướng đột kích chính. Do đó hoạt động của không quân sẽ phối hợp chặt chẽ với các đơn vị mặt đất trên trận địa và trên chiều sâu của chiến dịch.
    Những mục tiêu của máy bay ném bom và sinh lực địch và hàng loạt căn cứ quân sự quan trọng của chúng. Ngoài ra lực lượng đó sẽ nhận nhiệm vụ đánh vào cả những căn cứ quân sự ở sâu trong hậu phương địch. Không quân Xô-viết không đặt ra cho mình nhiệm vụ oanh tạc vào thường dân.
    Bên cạnh việc hiệp đồng chặt chẽ với các phương tiện phòng không khác - pháo cao xạ và những phương tiện tương tự - để bảo vệ hàng loạt căn cứ quân sự, tuyến đường sắt và đường bộ quan trọng, các nơi tập kết lục quân và không quân, bảo vệ các thành phố lớn, lực lượng máy bay tiêm kích còn có nhiệm vụ chiến đấu với không quân địch và bảo đảm cho các hoạt động chiến đấu của lực lượng máy bay ném bom và máy bay cường kích trên chiến trường trong sự hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng đó.
    Nguyên soái K.E. Vô-rô-xi-lốp: Xin mời thống chế Béc-nét phát biểu ý kiến.
    Thống chế Béc-nét: Nhân danh các phái đoàn của Pháp và của Anh tôi xin cảm ơn tướng Lốc-ti-ô-nốp đã trình bày bản thông báo của mình một cách chính xác. Nghị lực mà tính tổ chức mà Liên Xô dựa vào để đạt được những thành tựu xuất sắc như vậy trong việc xây dựng lực lượng không quân của mình đã gây ra cho tôi một ấn tượng mạnh mẽ....
    Những người viết sử và những người viết hồi ký thích đặt câu hỏi: ?oNếu,... thì sẽ thế nào??. Quả thật là, nếu như các chính phủ Anh và Pháp ngay từ năm 1939 đã muốn liên kết lực lượng quân sự của mình với Liên Xô để chống lại kẻ xâm lược như chúng ta đã đề nghị thì số phận châu Âu sẽ khác...
    Tháng 3-1940, Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản (b) Liên Xô họp hội nghị. Cuộc họp này có ý nghĩa to lớn đối với sự tiếp tục phát triển hơn nữa các lực lượng vũ trang chúng ta. Hội nghị đã tổng kết cuộc chiến tranh với Phần Lan. Cuộc thảo luận thật là sâu sắc, chế độ huấn luyện quân sự và giáo dục quân đội đã được đem ra phê phán nghiêm khắc, vấn đề nâng cao một cách đáng kể khả năng chiến đấu của bộ binh và hạm đội đã được đặt ra.
    Giữa tháng 4, theo chỉ thị của Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương, Tổng Hội đồng quân sự đã họp hội nghị mở rộng. Những người tham gia cuộc chiến tranh với Phần Lan, những cán bộ lãnh đạo bộ máy quân sự trung ương, các quân khu và các tập đoàn quân đã được mời dự cuộc họp này. Hội nghị đã đi đến kết quả là xác định được những nguyên tắc quan trọng nhất trong việc huấn luyện quân sự cho quân đội cho phù hợp với yêu cầu của tình thế. Theo quyết định của Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản (b) Liên Xô và của Chính phủ, một ủy ban đặc biệt đứng đầu là các đồng chí A.A. Giơ-đa-nốp và N.A. Vô-đơ-nê-xen-xki đã tiến hành kiểm tra công tác của Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng. Ủy ban đã yêu cầu cơ quan trung ương của ngành quân sự tăng cường một cách đáng kể toàn bộ công tác nhằm củng cố lục quân, không quân và hạm đội. Dựa vào chỉ thị của Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản (b) Liên Xô và dựa vào các ý kiến của Tổng Hội đồng quân sự, Bộ ủy viên nhân dân quốc phòng đã ban bố chỉ lệnh ?oHuấn luyện quân sự và chính trị cho quân đội trong mùa hè năm 1940?.
    Thực chất những đòi hỏi mà giữa năm 1940 Đảng và Chính phủ đã đề ra cho các lực lượng vũ trang của chúng ta là gì?
    Căn cứ vào những kết luận về cuộc chiến tranh Liên Xô - Phần Lan và nhất là vào tính chất các hoạt động quân sự của cuộc chiến tranh thế giới đã bắt đầu, nhiệm vụ đặt ra một cách nghiêm chỉnh và toàn diện là: hôm nay huấn luyện cái gì ngày mai cần thiết trong chiến tranh. Tất cả các quân chủng, binh chủng đều bắt đầu được cải tổ lại những biện pháp nghiêm túc nhằm củng cố chế độ một thủ trưởng, trật tự và kỷ luật trong quân đội đã được đề ra. Mệnh lệnh của Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng đòi hỏi các chỉ huy và phụ trách tất cả các cấp cũng như các cơ quan tham mưu phải sửa đổi chế độ huấn luyện và giáo dục quân đội theo quan điểm phù hợp với đòi hỏi của chiến tranh. Phải huấn luyện cho quân đội gần gũi với những điều kiện của thực tế chiến đấu, luyện tập cho cán bộ và chiến sĩ có sức khắc phục được những sự căng thẳng kéo dài về thể chất, tiến hành những buổi tập chiến thuật cả ban ngày lẫn ban đêm, trong mọi thời tiết, có nghĩa là phải tính đến yếu tố bất ngờ, tuân thủ nguyên tắc luôn luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Chỉ lệnh đòi hỏi các cán bộ chỉ huy binh chủng hợp thành phải nghiên cứu sâu sắc khả năng và đặc tính chiến đấu của các binh chủng khác để biết phối hợp với họ trong mọi hình thức chiến đấu hiện đại.
    Cùng với đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự quân khu Vla-đi-mia Ni-cô-lai-ê-vích Bô-ri-xốp, các cán bộ phòng huấn luyện và phòng tác chiến, chúng tôi đã sinh hoạt ở dưới các đơn vị suốt cả mùa hè. Chúng tôi chú ý chủ yếu đến việc huấn luyện dã chiến cho các cán bộ, các cơ quan tham mưu và cho bộ đội tất cả các quân binh chủng.
    Tháng 9-1940, đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô đã đến kiểm tra quân đội quân khu (X.K. Ti-mô-sen-cô được cử làm Ủy viên nhân dân quốc phòng ngày 8-5-1940).
    Từ 22 đến hết 24 tháng 9, kiểm tra công tác huấn luyện chiến thuật của sư đoàn bộ binh số 41 tại vùng Ra-va Ru-xcai-a. Cuộc diễn tập dã chiến hai bên có cả không quân của quân khu tham gia. Pháo binh của sư đoàn bộ binh 41 học tập rất tốt.
    Từ 25 đến hết 27 tháng 9, sư đoàn 99 diễn tập. Sư đoàn đã đạt kết quả loại giỏi và được tặng Huân chương Cờ Đỏ. Pháo binh của sư đoàn được tặng cờ đỏ luân lưu của pháo binh Hồng quân. Từ 27 tháng 9 đến hết ngày 4 tháng 10, diễn tập dã chiến của các cơ quan tham mưu thuộc quân đoàn bộ binh 37, quân đoàn bộ binh 6, lữ đoàn xe tăng 36 và sư đoàn bộ binh 97. Các cơ quan tham mưu đều tỏ ra có năng lực tổ chức cao và có thái độ sáng tạo trong công tác, bảo đảm cho bộ tư lệnh có được mọi điều kiện để liên tục điều khiển được quân đội trong một tình huống phức tạp và biến đổi nhanh chóng.
    Do đạt được kết quả huấn luyện hạng giỏi, cơ quan tham mưu của quân đoàn bộ binh 37 được tặng Cờ Đỏ luân lưu của Bộ Tổng tham mưu Hồng quân còn đồng chí tư lệnh quân đoàn X.M. Côn-đru-xép và đồng chí tham mưu trưởng Men-đrốp được thưởng đồng hồ vàng. Nhiều cán bộ chỉ huy đã nhận được những tặng phẩm quý giá.
    Gần một năm sau những cuộc diễn tập này, quân đoàn bộ binh 37 cũng như các sư đoàn bộ binh 41, 99 và 97 đã chiến đấu với những đội quân tinh nhuệ của bọn phát-xít. Chiến sĩ và cán bộ những binh đoàn này đã chiến đấu dũng cảm trong những ngày đầu khó khăn nhất của chiến tranh.
    Phải nói rằng những cuộc kiểm tra diễn tập có các đồng chí lãnh đạo quân sự cao cấp tham dự đã có rất nhiều tác dụng giáo dục và động viên. Đồng chí X.K. Ti-mô-sen-cô am hiểu cặn kẽ việc huấn luyện quân sự cho chiến sĩ và cho các đơn vị, đồng chí rất thích công việc này. Từ khi đồng chí được cử làm Ủy viên nhân dân quốc phòng, theo yêu cầu của Đảng, một phương hướng đúng đã được vạch ra để huấn luyện quân sự cho quân đội, đó là phương châm huấn luyện những gì cần thiết cho chiến tranh. Chúng tôi bắt đầu chăm lo đặc biệt nhiều tới công tác quân báo và việc lợi dụng địa hình trong chiến đấu tiến công cũng như trong chiến đấu phòng ngự.
    Chúng tôi không ngừng giáo dục cho chiến sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan rằng, phân đội và đơn vị chỉ trở thành một lực lượng gây khủng khiếp cho quân thù khi toàn thể cán bộ và chiến sĩ của chúng ta được huấn luyện chu đáo. Nhân vấn đề này, tôi trân trọng nhớ tới đồng chí cục trưởng cục tuyên truyền chính trị quân khu, chính ủy sư đoàn Ê-phim Ta-ra-xô-vích Pô-gi-đa-ép. Đồng chí đã làm được nhiều việc có ích trong lĩnh vực giáo dục huấn luyện quân đội.
    Tôi chỉ nhắc tới một cuộc kiểm tra mà đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô đã tiến hành trong quân khu.

  7. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Những cuộc diễn tập kiểm tra như vậy, bộ tư lệnh quân khu đã tiến hành nhiều trong năm 1940 và vì vậy không phải ngẫu nhiên mà trong những ngày đầu tiên của chiến tranh, bộ đội Phương diện quân Tây-nam đã chiến đấu thành thạo và dũng cảm, giáng cho quân thù những đòn đáng kể.
    Cuối tháng 9-1940, Bộ Tổng tham mưu thông báo cho biết là, theo chỉ thị của Ban Chấp hành trung ương Đảng, một hội nghị cán bộ cao cấp của quân đội sẽ được triệu tập họp ở Mát-xcơ-va trong tháng 12. Tôi được giao nhiệm vụ báo cáo về ?oTính chất các chiến dịch tấn công hiện đại?. Ngoài ra còn trù tính tiến hành một cuộc diễn tập chiến dịch - chiến lược lớn và tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy quân ?oxanh?. Đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng yêu cầu tôi phải đệ trình dự thảo báo cáo lên đồng chí ấy trước ngày 1-11.
    Vấn đề phải trình bày thì phức tạp mà nơi trình bày lại là một hội nghị cao cấp, cho nên trong suốt một tháng ròng tôi phải dành nhiều thời gian ngày đêm chuẩn bị bản báo cáo ấy. Đồng chí I-van Khri-xtô-phô-rô-vích Ba-gra-mi-an, trưởng phòng tác chiến cục tham mưu quân khu đã giúp tôi nhiều trong công việc này.
    Dự thảo báo cáo của tôi đã được báo cáo lên đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng trước ngày đã định. Và hai tuần sau đồng chí Tổng Tham mưu trưởng K.A. Mê-rét-xcốp đã gọi điện thoại cho biết dự thảo báo cáo của tôi đã được lãnh đạo thông qua và tôi cần chuẩn bị sẵn sàng để phát biểu.
    Hội nghị đã họp cuối tháng 12-1940. Tham gia hội nghị này có các đồng chí tư lệnh các quân khu và các tập đoàn quân, các đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự và tham mưu trưởng các quân khu và các tập đoàn quân, các đồng chí chí hiệu trường tất cả các học viện quân sự, các giáo sư và tiến sĩ khoa học quân sự, các đồng chí cục trưởng các cục ở trung ương, và các đồng chí cán bộ lãnh đạo trong Bộ Tổng tham mưu. Các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản (b) Liên Xô đã tham dự hội nghị trong suốt thời gian họp.
    Nhiều bản báo cáo quan trọng đã được trình bày. Đại tướng I.V. Tiu-lê-nép đã chuẩn bị một báo cáo quy mô ?oVề tính chất của một chiến dịch phòng ngự hiện đại?. Bám sát vấn đề, đồng chí đã không vượt quá phạm vi chiến đấu phòng ngự của một tập đoàn quân và không nêu ra những đặc điểm của công tác phòng ngự chiến lược hiện đại.
    Tư lệnh không quân của Hồng quân, trung tướng P.V. Rư-cha-gốp đặc biệt nổi tiếng ở Tây Ban Nha, đã trình bày báo cáo ?oKhông quân trong tấn công và trong chiến đấu giành quyền làm chủ trên không?. Đây là một bản báo cáo có nội dung phong phú.
    Trung tướng A.K. Xmiếc-nốp báo cáo về vấn đề ?osư đoàn bộ binh trong tấn công và phòng ngự?.
    Tổng Tham mưu trưởng, đại tướng K.A. Mê-rét-xcốp báo cáo về các vấn đề tổng quát trong công tác chuẩn bị chiến đấu và chiến dịch của Hồng quân. Đồng chí đã đặc biệt nhấn mạnh tình trạng chưa được huấn luyện đầy đủ của các cán bộ chỉ huy cao cấp và của các cơ quan tham mưu mọi cấp. Lúc đó tình trạng này phần nào là hậu quả của việc đề bạt hàng loạt những cán bộ trẻ và chưa được huấn luyện đầy đủ về mặt chiến dịch - chiến thuật và công tác tham mưu lên những cương vị công tác cao hơn.
    Bản báo cáo của tư lệnh Quân khu Bê-lô-ru-xi, thượng tướng Đ G. Páp-lốp ?oVề vấn đề sử dụng các binh đoàn cơ giới trong chiến dịch tấn công hiện đại? đã được mọi người chú ý. Vấn đề này lúc đó là một vấn đề mới và lớn. Trong bản báo cáo rất có lý lẽ của mình, đồng chí Đ.G. Páp-lốp đã khéo léo chứng minh rằng, các quân đoàn xe tăng và cơ giới có khả năng cơ động và có sức mạnh thọc sâu lớn mà lại ít bị hỏa lực của pháo và của máy bay sát thương hơn các binh chủng khác.
    Báo cáo của tôi ?ovề tính chất các chiến dịch tấn công hiện đại? cũng đã được mọi người lắng nghe. Những đồng chí tham dự hội nghị đã đưa ra nhiều ý kiến bổ sung và nhận xét phê phán quý giá .
    Tất cả các đồng chí đã tham gia thảo luận và cả đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng trong báo cáo tổng kết của mình đều nhất trí rằng, nếu phát-xít Đức gây ra chiến tranh chống lại Liên Xô thì chúng ta sẽ phải đương đầu với một quân đội mạnh nhất của phương Tây. Hội nghị đã nhấn mạnh rằng quân đội này có binh chủng xe tăng, xe bọc thép, bộ đội cơ giới và không quân hùng mạnh và có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức và chỉ huy một cuộc chiến tranh hiện đại.
    Tất cả các đồng chí đã phát biểu ý kiến đều cho là cần phải tiếp tục xây dựng các binh đoàn xe tăng và cơ giới cỡ sư đoàn, quân đoàn để có lực lượng tương đương với quân đội Đức. Hội nghị cũng đã nói nhiều đến việc cải tổ và vũ trang lại cho không quân, cho các đơn vị phòng không và chống tăng và cả việc cơ giới hóa sức kéo pháo để nâng cao tính cơ động của pháo binh, làm cho pháo có thể đi qua được những nơi không có đường.
    Nói chung, Hội nghị đã chứng tỏ rằng tư tưởng - lý luận quân sự Xô-viết cơ bản đã xác định được đúng những phương hướng chủ yếu trong sự phát triển của nghệ thuật quân sự hiện đại. Cần phải đưa được lý luận đó càng nhanh càng tốt vào thực tiễn chiến đấu của quân đội. Dựa vào các kết luận của Hội nghị, ít lâu sau đã đề ra nhiều biện pháp tiếp tục nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội các quân khu biên giới và hoàn thiện nghệ thuật công tác tham mưu. Các quân khu đã tổ chức đợt huấn luyện và diễn tập mới về chiến dịch - chiến lược, đã vạch kế hoạch bảo vệ biên giới quốc gia, đã củng cố thêm tính tổ chức trong quân đội.
    Sau hội nghị một ngày, lẽ ra có một cuộc tập trận lớn nhưng bất thình lình chúng tôi được triệu tập đến gặp đồng chí I.V. Xta-lin.
    I.V. Xta-lin đã tiếp đón chúng tôi một cách khá lạnh lùng, hơi khẽ gật đầu chào chúng tôi rồi mời ngồi vào bàn.
    Đồng chí trách X.K. Ti-mô-sen-cô đã kết thúc hội nghị mà không hỏi ý kiến đồng chí về bản báo cáo tổng kết của Ủy viên nhân dân quốc phòng. X.K. Ti-mô-sen-cô đã trình bày lại rằng đồng chí đã gửi dự thảo báo cáo tổng kết của mình lên I.V. Xta-lin rồi và nghĩ là I.V. Xta-lin đã đọc bản dự thảo ấy rồi mà không có nhận xét gì.
    - Lúc nào các đồng chí bắt đầu tập trận? - I.V. Xta-lin hỏi.
    - Sớm mai, - X.K. Ti-mô-sen-cô trả lời.
    - Thế thì tốt, các đồng chí cứ tập trận đi, sau đó đừng giải tán ngay các đồng chí tư lệnh. Ai đóng vai bên ?oxanh? ai đóng vai bên ?ođỏ??
    - Đại tướng Giu-cốp chỉ huy quân ?oxanh? (bên Tây) còn thượng tướng Páp-lốp chỉ huy quân ?ođỏ? (bên Đông).
    Sớm hôm sau, cuộc tập trận lớn về chiến dịch - chiến lược bắt đầu Những sự kiện có thể xảy ra tại biên giới phía tây trong trường hợp Đức tấn công Liên Xô đã được lấy làm cơ sở cho tình huống chiến lược.
    Lãnh đạo cuộc tập trận này là đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-eô và đồng chí Tổng Tham mưu trưởng K.A. Mê-rét-xcốp. Các đồng chí đó ?ođóng vai? tư lệnh hướng chiến lược tây-nam. Ứớc định rằng bên ?oxanh? (Đức) là bên tấn công còn bên ?ođỏ? (Hồng quân) là bên phòng ngự.
    Mục đích cơ bản của cuộc tập trận về chiến lược quân sự là kiểm tra lại xem những điểm chủ yếu trong kế hoạch bố trí và hoạt động của quân đội trong thời kỳ đầu chiến tranh có thiết thực và hợp lý hay không?
    Cần phải nêu công lao của Bộ Tổng tham mưu: những hoạt động chiến tranh mới nhất của quân đội phát-xít Đức ở châu Âu đã được phản ánh trên một mức độ đáng kể trong tất cả các tài liệu chuẩn bị cho cuộc tập trận này.

  8. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Trên hướng chiến lược phía tây, cuộc tập trận đã diễn ra trên một mặt trận từ Đông Phổ đến Pô-li-xi-ê. Lực lượng hai bên: bên Tây (bên ?oxanh?) có hơn 60 sư đoàn, bên Đông (bên ?ođỏ?) có trên 50 sư đoàn. Hoạt động của lục quân được những lực lượng mạnh của không quân yểm hộ.
    Trong cuộc tập trận này đã để cho quân bên Đông nhiều lần sa vào những tình huống bi đát. Những tình huống ấy rất giống với tình huống xảy ra ngày 22-6-1941, khi Đức phát-xít tấn công Liên Xô...
    Lúc kết thúc cuộc diễn tập, đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng đã lệnh cho tư lệnh các bên - cho Đ.G. Páp-lốp và tôi - tiến hành phân tích kiểm điểm riêng, nhận xét những thiếu sót và những nhân tố tích cực trong hoạt động của các bên dự tập.
    I.V. Xta-lin đề nghị tiến hành cuộc kiểm điểm phân tích chung tại điện Crem-lanh và mời những cơ quan lãnh đạo Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu, các đồng chí tư lệnh và tham mưu trưởng các quân khu tới họp. Ngoài đồng chí I.V. Xta-lin ra, còn có các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị tham dự.
    Tổng Tham mưu trưởng, đại tướng K.A. Mê-rét-xcốp báo cáo lại diễn biến của cuộc tập trận. Khi đồng chí nêu ra những số liệu về tương quan lực lượng hai bên và về ưu thế của bên ?oxanh? trong thời kỳ đầu cuộc diễn tập, đặc biệt là về xe tăng và không quân, I.V. Xta-lin đã khó chịu vì thất bại của bên ?ođỏ?, đồng chí ngắt lời K.A. Mê-rét-xcốp và nói:
    - Không được quên rằng, trong chiến tranh không phải chỉ đa số số học là quan trọng mà cả nghệ thuật của cán bộ chỉ huy và của quân đội cũng là quan trọng.
    Sau khi nêu ra một vài nhận xét nữa, I.V. Xta-lin hỏi:
    - Đồng chí nào muốn phát biểu?
    Đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô lên tiếng. Đồng chí đã báo cáo về sự trưởng thành của các tư lệnh và tham mưu trưởng quân khu về mặt chiến dịch - chiến thuật nêu lên lợi ích rõ ràng của hội nghị và của cuộc tập trận về mặt chiến lược vừa qua.
    - Sang năm huấn luyện 1941, - X.K. Ti-mô-sen-cô nói, - quân đội sẽ có thể được chuẩn bị một cách có chủ đích hơn,có tổ chức hơn, vì rằng đến lúc đó quân ta sẽ được bố trí xong tại những khu vực đóng quân mới.
    Sau đó thượng tướng Đ.G. Páp-lốp phát biểu ý kiến. Đồng chí mở đầu bằng việc đánh giá cuộc hội nghị vừa qua.
    - Nguyên nhân những hoạt động bất lợi của quân bên ?ođỏ? là ở đâu? - I.V. Xta-lin hỏi.
    Đ G. Páp-lốp định đánh trống lảng bằng cách nói đùa rằng trong khi tập vẫn thường xảy ra như vậy. Rõ ràng là câu nói bông này không làm vừa lòng I.V. Xta-lin. Đồng chí liền nhận xét:
    - Tư lệnh một quân khu phải nắm vững nghệ thuật chiến tranh, phải biết tìm ra những giải pháp đúng trong bất kỳ tình huống nào, nhưng trong cuộc tập trận vừa rồi ở đồng chí thiếu những cái đó. Còn ai có ý kiến nữa không?
    Tôi xin nói.
    Sau khi đã nêu lên giá trị to lớn của những cuộc tập trận như vậy đối với việc nâng cao trình độ chiến dịch - chiến lược của cơ quan chỉ huy cao cấp, tôi đề nghị nên tiến hành những cuộc tập trận này nhiều hơn nữa mặc dù tổ chức tập trận như vậy là rất phức tạp. Tôi nói :
    - Để nâng cao trình độ quân sự của các tư lệnh và cán bộ tham mưu các quân khu và các tập đoàn quân, cần phải tổ chức những cuộc diễn tập lớn ở ngoài trời về công tác chỉ huy và tham mưu với các phương tiện giao thông liên lạc dưới sự lãnh đạo của đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng và của Bộ Tổng tham mưu.
    Sau đó tôi đã đề cập đến việc xây dựng những khu vực được củng cố ở miền Tây Bê-lô-ru-xi
    - Theo tôi, ở miền Tây Bê-lô-ru-xi các tuyến được củng cố nằm quá gần biên giới và như vậy là nằm ở thế chiến đấu cực kỳ bất lợi đặc biệt là ở vùng đất lồi Bê-lô-xtốc. Quân thù có thể từ Bre-xtơ và Xu-van-ca đánh vào hậu phương toàn bộ cánh quân ta ở Bê-lô-xtốc. Ngoài ra do có chiều sâu không lớn lắm, những tuyến được củng cố này không thể cầm cự lâu dài được vì pháo địch có thể bắn vào khắp trận địa ta. Tôi cho rằng cần phải xây dựng các tuyến được củng cố này tại một nơi nào đó ở sâu hơn nữa.
    - Thế ở U-crai-na xây dựng các tuyến được củng cố có đúng không? - Đ.G. Páp-lốp hỏi, rõ ràng là không bằng lòng vì tôi đã phê bình quân khu đồng chí ấy.
    - Tôi chưa chọn tuyến để xây dựng các tuyến được củng cố ở U-crai-na, nhưng tôi nghĩ rằng, cả ở đấy nữa cũng cần phải xây dựng các tuyến ấy ở xa biên giới.
    - Các khu vực được củng cố đều xây dựng theo các kế hoạch đã được Tổng Hội đồng quân sự phê chuẩn, và đồng chí Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng, nguyên soái B.M. Sa-pô-sni-cốp đích thân chỉ đạo công việc xây dựng cụ thể. - K.E. Vô-rô-si-lốp đột nhiên có ý kiến phản đối.
    Vì cuộc tranh luận đã bắt đầu, tôi ngừng phát biểu và ngồi xuống ghế.
    Sau đó một số tướng lĩnh có cương vị lãnh đạo đã phát biểu về một loạt những vấn đề cần thảo luận.
    Đồng chí tư lệnh không quân của Hồng quân, tướng P.V. Rư-cha-gốp đã phát biểu rất xác đáng. Đồng chí ấy đã nhấn mạnh rằng, cần phải nhanh chóng phát triển lực lượng không quân của chúng ta trên cơ sở những máy bay hiện đại nhất và phải hoàn thiện công tác huấn luyện quân sự cho phi công.
    Bài phát biểu của đồng chí Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng phụ trách vấn đề vũ trang, nguyên soái G.I. Cu-lích đã gây nên những ấn tượng kỳ lạ. Đồng chí đã đề nghị nâng quân số một sư đoàn bộ binh lên tới 16.000 ?" 18.000 người và bảo vệ chủ trương dùng ngựa kéo pháo. Xuất phát từ kinh nghiệm chiến đấu ở Tây Ban Nha, đồng chí kết luận rằng các đơn vị xe tăng phải lấy việc trực tiếp chi viện cho bộ binh làm hoạt động chủ yếu của mình và chỉ hoạt động từng đại đội và tiểu đoàn một mà thôi.
    - Hiện nay, - G.I. Cu-lích nói, - chưa nên thành lập những quân đoàn xe tăng và những quân đoàn cơ giới.
    Đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô phản đối:
    - Các cán bộ lãnh đạo quân đội đều đã thấy cần phải cơ giới hóa quân đội một cách nhanh chóng nhất. Riêng mình đồng chí Cu-lích vẫn còn luẩn quẩn trong vấn đề đó.
    I.V. Xta-lin cắt ngang cuộc tranh luận, phê phán quan điểm lạc hậu G.I. Cu-lích. Đồng chí nhận xét:
    - Trong chiến tranh bên nào có nhiều xe tăng hơn và nhiều bộ đội cơ giới hơn, bên ấy sẽ chiến thắng.
    Một ngày sau, khi đã họp phân tích xong về cuộc tập trận, tôi được triệu tập lên gặp đồng chí I.V. Xta-lin.
    Sau khi đã chào hỏi xong, I.V. Xta-lin nói:
    - Bộ Chính trí đã quyết định không để Mê-rét-xcốp làm Tổng Tham mưu trưởng nữa và cử đồng chí lên thay.
    Tôi chờ đón mọi chuyện nhưng không hề ngờ đến một quyết định như vậy, và, không biết trả lời thế nào, tôi ngồi im. Cuối cùng tôi đã nói:
    - Tôi chưa bao giờ làm công tác tham mưu cả. Tôi luôn ở đơn vị chiến đấu. Tôi không thể làm Tổng Tham mưu trưởng.
    - Bộ Chính trị đã quyết định cử đồng chí rồi - I.V. Xta-lin nói, nhấn mạnh vào tiếng ?ođã quyết định?.
    Biết rằng có không đồng ý nữa cũng chẳng ích gì, tôi cảm ơn sự tín nhiệm đó của Bộ Chính trị và nói:
    - Nhưng nếu không làm được tốt công tác Tổng Tham mưu trưởng, tôi đề nghị xin được quay trở về đơn vị chiến đấu.
    - Được chúng ta đồng ý với nhau là như vậy. Ngày mai sẽ có quyết định của Ban Chấp hành trung ương - I.V. Xta-lin nói.
    Mười lăm phút sau, tôi đến gặp đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng. Vừa mỉm cười, đồng chí vừa nói :
    - Mình biết cậu đã khước từ nhiệm vụ Tổng Tham mưu trưởng như thế nào. I.V. Xta-lin vừa nói chuyện bằng điện thoại với mình. Giờ đây cậu trở về quân khu đi và mau trở lại Mát-xcơ-va. Thượng tướng M.P. Kiếc-pô-nô-xơ sẽ được cử làm tư lệnh quân khu thay cậu nhưng đừng chờ M.P. Kiếc-pô-nô-xơ đến, có thể để tham mưu trưởng quân khu M.A Puốc-ca-ép tạm thời thay mặt tư lệnh phụ trách quân khu.
    Tôi chưa từng công tác cùng với Mi-kha-in Pê-tơ-rô-vích Kiếc-pô-nô-xơ, nhưng theo những người đã cùng làm việc với đồng chí đó nhận xét, thì đây là một sĩ quan toàn năng rất có kinh nghiệm và đã từng phục vụ trong quân đội cũ. Trong thời gian Cách mạng tháng Hai năm 1917 đồng chí đã được bầu làm Chủ tịch Hội đồng binh sĩ trung đoàn. Đồng chí vào Đảng tháng 5-1918. Từ năm 1934 đến hết năm 1939 đồng chí đã làm giám đốc Trường quân chính bộ binh Ca-dan mang tên Xô-viết tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô-viết tự trị Ta-ta-rơ. Do có thành tích chỉ huy sư đoàn bộ binh 70 trong một tình huống chiến đấu, đồng chí đã được tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Tháng 6-1940, M.P. Kiếc-pô-nô-xơ được cử làm tư lệnh Quân khu Lê-nin-grát.
    Tôi vui mừng vì Quân khu đặc biệt Ki-ép được ủy thác cho một tư lệnh xứng đáng như vậy. Đương nhiên cũng như nhiều người khác đồng chí này cũng còn chưa có đủ những tri thức và kinh nghiệm cần thiết để lãnh đạo một quân khu biên giới lớn như vậy, nhưng kinh nghiệm sống, tính cần cù và bản chất mẫn tiệp đã bảo đảm rằng Mi-kha-in Pê-tơ-rô-vích sẽ trở thành một tư lệnh ưu tú của quân đội.
    Ngay chiều hôm đó, tôi về Ki-ép để rồi lại từ đấy đi Mát-xcơ-va.
    Thành thật mà nói, tôi đã đi với một tâm trạng nặng nề. U-crai-na có thành Ki-ép cổ kính và tươi đẹp bao giờ cũng làm cho tôi ưa thích. Nhân dân U-crai-na quý trọng và tín nhiệm tôi, đã bầu tôi làm đại biểu Xô-viết tối cao U-crai-na và đại biểu Xô-viết tối cao Liên Xô. Ban Chấp hành trung ương Đảng U-crai-na đã kiên quyết giúp đỡ quân đội quân khu trong việc tổ chức các lần học tập dã chiến và công tác giáo dục cũng như trong việc tổ chức đời sống.
    Trong thời gian ngắn ngủi ở cương vị tư lệnh quân khu, tôi đã có thể đánh giá cao tinh thần cần mẫn và tính sáng tạo trong công việc của tập thể cơ quan quân khu, đặc biệt là của các đồng chí I Kh. Ba-gra-mi-an, E.X. Pơ-tu-khin, N.Đ. Ya-cốp-lép, của các tư lệnh các tập đoàn quân và các chỉ huy trưởng các binh đoàn của quân khu. Tôi tin tưởng sâu sắc vào các đồng chí này và cảm thấy rằng sẽ hoàn toàn có thể trông cậy ở họ trong những thử thách của chiến tranh.
    Từ Mát-xcơ-va, đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng đã nhiều lần gọi điện thoại cho tôi, giục tôi bàn giao nhanh công việc ở quân khu.
    Tôi lưu lại ở Ki-ép không lâu và ngày 31-1 tôi đã đến Mát-xcơ-va. Hôm sau, tôi nhận bàn giao của K.A Mê-rét-xcốp và bắt đầu nhận trách nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng.

    --------Hết chương 8------
  9. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Chương 9
    SÁT TRƯỚC CHIẾN TRANH GIỮ NƯỚC VĨ ĐẠI
    Suốt tháng 2, tôi bận nghiên cứu kỹ những công việc có liên quan trực tiếp tới sự hoạt động của Bộ Tổng tham mưu. Làm việc 15 - 16 giờ một ngày, tôi thường thường ngủ lại ở phòng làm việc. Tôi không thể nói rằng, ngay tức khắc tôi đã nắm được sự hoạt động nhiều mặt của Bộ Tổng tham mưu. Tất cả những điều đó không thể làm được ngay. N.Ph. Va-tu-tin, G.K. Ma-lan-đin, A.M. Va-xi-lép-xki, V.D. I-va-nốp, A.I. Xi-mô-na-ép, N.I. Chét-ve-ri-cốp và các đồng chí khác trong Bộ Tổng tham mưu đã giúp đỡ tôi rất nhiều.
    Chúng ta đã có những gì khi chiến tranh bắt đầu, đất nước và các lực lượng vũ trang của ta đã chuẩn bị sẵn sàng để đánh trả quân địch một cách đích đáng chưa?
    Trả lời đầy đủ cho câu hỏi quan trọng nhất này trong toàn bộ sự tổng hợp các mặt chính trị, kinh tế, xã hội và quân sự, tính đến tất cả những yếu tố chủ quan và khách quan, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu hết sức công phu. Tôi tin rằng các nhà bác học, nhà viết sử của chúng ta sẽ đảm đương được nhiệm vụ đó.
    Về phía mình, tôi sẵn sàng nói lên ý kiến, trước hết về mặt quân sự của vấn đề, theo sức và khả năng của mình, dựng lại khung cảnh chung và nêu lên những sự kiện riêng biệt của những tháng và những ngày lo âu trong nửa đầu năm 1941.
    Chúng ta hãy bắt đầu từ vấn đề chủ yếu nhất - sự phát triển kinh tế và công nghiệp, cơ sở của khả năng quốc phòng ở nước ta.
    Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1938-1942) là sự tiếp tục tất nhiên của các kế hoạch 5 năm lần thứ hai và lần thứ nhất. Mọi người đều biết rằng hai kế hoạch đó đã được thực hiện vượt mức.
    Công nghiệp trong 4 năm của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất tăng hai lần, mức định tăng trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai là 2,1 lần, thực tế đã tăng lên 2,2 lần. Lúc này Đại hội XVIII của Đảng cộng sản liên bang (b) lại quy định mức tăng sản phẩm công nghiệp trong 5 năm là 1,9 lần. Liệu có cơ sở gì để cho rằng kế hoạch đó là không thực tế, không hoàn thành được không?
    Không có. Mà ngược lại.
    Đến tháng 6-1941, so với mức đề ra cho cuối năm 1942, tổng sản lượng công nghiệp đã đạt 86%, mức chuyên chở của giao thông đường sắt ?" 90%. 2.900 nhà máy, nhà máy điện, mỏ than, mỏ kim loại và các xí nghiệp công nghiệp mới khác đã bước vào sản xuất.
    Nếu lấy vốn đầu tư tính bằng tiền, thì kế hoạch mới đã dành cho việc xây dựng các xí nghiệp mới và sửa sang các xí nghiệp cũ một khoản chi 182 tỷ rúp so với 103 tỷ rúp trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai và 39 tỷ rúp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Từ đó ta thấy rằng, tính cả giá xây dựng có đắt hơn trong những năm gần đó, chúng ta đã huy động một nguồn lực sản xuất nhiều hơn so với nguồn lực huy động trong hai kế hoạch 5 năm trước cộng lại.
    Tình hình công nghiệp nặng và đặc biệt là công nghiệp quốc phòng như thế nào? Trong bản báo cáo trước Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản liên bang về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân có nói rằng, trong quá trình thực hiện các kế hoạch trước, vì tình hình quốc tế thêm phức tạp, nên đã có những điều chỉnh quan trọng trong việc phát triển công nghiệp nặng, tăng một cách đáng kể nhịp độ đã dự tính về phát triển công nghiệp quốc phòng. Theo kế hoạch 5 năm lần thứ ba, công nghiệp nặng và công nghiệp quốc phòng, vẫn được phát triển đặc biệt nhanh chóng.
    Thực vậy, sản lượng hàng năm của toàn bộ công nghiệp trung bình tăng lên 13%, còn công nghiệp quốc phòng tăng 39%. Một loạt các nhà máy chế tạo cơ khí và các nhà máy lớn khác đã được chuyển sang sản xuất kỹ thuật quốc phòng, việc xây dựng các nhà mấy quốc phòng đặc biệt loại lớn được đẩy mạnh.
    Ban chấp hành trung ương Đảng đã giúp đỡ các xí nghiệp mới sản xuất kỹ thuật chiến tranh trong việc cung cấp nguyên liệu hiếm và các thiết bị mới nhất. Để các nhà máy quốc phòng lớn có đủ mọi điều kiện đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, Ban chấp hành trung ương Đảng đã cử các cán bộ Đảng giàu kinh nghiệm, các chuyên gia lớn với tư cách là cán bộ tổ chức tới làm việc ở các nhà máy đó. Cần phải nói rằng I.V. Xta-lin đích thân làm việc nhiều với các xí nghiệp quốc phòng, biết rõ hàng chục giám đốc nhà máy, các cán bộ Đảng, các kỹ sư trưởng, thường xuyên gặp họ, và với tính kiên quyết vốn có của mình, I.V. Xta-lin thúc giục phải thực hiện bằng được những kế hoạch đã định.
    Như vậy là, đứng về mặt kinh tế, thấy rõ nền công nghiệp quốc phòng được phát triển không ngừng và nhanh chóng, thậm chí tôi có thể nói là rất gấp.
    Thêm nữa, không được quên rằng, một là sự phát triển to lớn đó trong mức độ đáng kể đã đạt được là nhờ ở tinh thần lao động vô cùng khẩn trương của quần chúng, hai là nó diễn ra phần lớn nhờ vào sự phát triển công nghiệp nhẹ và các ngành khác trực tiếp cung cấp cho nhân dân thực phẩm và hàng hóa. Cũng cần phải hiểu thêm rằng sự phát triển của công nghiệp nặng và công nghiệp quốc phòng diễn ra trên cơ sở của nền kinh tế hòa bình, trong khuôn khổ một nước yêu chuộng hòa bình chứ không phải quân sự hóa.
    Vì vậy nếu làm mạnh và nghiêng nhiều nữa về mặt này thì sẽ là thực tế chuyển sự phát triển hòa bình của đất nước sang con đường phát triển sản xuất hàng chiến tranh, sẽ dẫn đến sự thay đổi đảo lộn cả cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, quân sự hóa nền kinh tế quốc dân, có hại trực tiếp tới lợi ích nhân dân lao động.
    Tất nhiên, đứng ở vị trí của những năm sau chiến tranh thì dễ nói rằng đối với loại vũ khí này lẽ ra phải chú trọng nhiều hơn, đối với loại kia - ít hơn. Nhưng thậm chí đứng ở vị trí đó, cũng không thể đòi phải có sự thay đổi căn bản toàn diện về kinh tế đến mức nào đó trong nền kinh tế trước chiến tranh. Tôi xin nói thêm: khi nhớ lại rằng chúng tôi, các cán bộ quân sự đã đòi hỏi ở công nghiệp như thế nào và đòi hỏi những gì trong những tháng hòa bình cuối cùng, tôi thấy là, có khi chúng tôi đã không tính hết đến tất cả những khả năng sản xuất thực tế của nền kinh tế nước ta. Mặc dù, có lẽ, đứng trên cương vị trách nhiệm của mình, chúng tôi vẫn đúng.
    Ví dụ, nhiều điều kiện khách quan đã hạn chế những đề nghị của Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng về mở rộng sản xuất hàng loạt máy bay, xe tăng, xe kéo pháo, xe hơi vận tải, phương tiện liên lạc và kỹ thuật chiến tranh khác thuộc loại mới nhất.
    Tất nhiên, trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng đã có nhiều thiếu sót, khó khăn mà chúng ta sẽ còn nói tới. Do quy mô xây dựng rộng lớn nên thiếu nhân lực lành nghề, chưa đủ kinh nghiệm sản xuất vũ khí mới và tổ chức sản xuất hàng loạt vũ khí đó. Nhu cầu về phương tiện kỹ thuật chiến đấu và vũ khí ngày càng vùn vụt vượt lên.
    Quy chế xét duyệt một loại vũ khí mới để sản xuất hàng loạt như sau:
    Thoạt tiên các loại mẫu phải qua những cuộc thí nghiệm của nhà máy có đại diện quân đội tham dự, tiếp sau là các cuộc thí nghiệm trong quân đội, và chỉ sau đó Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng mới kết luận. Chính phủ, có sự tham gia của Ủy viên nhân dân quốc phòng, các Ủy viên nhân dân công nghiệp quốc phòng và các tổng công trình sư, xét đề nghị và thông qua quyết định cuối cùng.
    Thực hiện theo quy thế đó mất khá nhiều thời gian. Có khi, trong lúc còn đang chế tạo và thí nghiệm kỹ thuật mới thì các công trình sư đã có loại mới hơn, hoàn thiện hơn, và hoàn toàn đúng theo quy luật là, trong trường hợp này, vấn đề xét duyệt vũ khí bị xếp lại cho đến khi thí nghiệm đầy đủ loại mới nhất.
    Nói chung, các nguồn lực sản xuất to lớn được xây dựng trong hai kế hoạch 5 năm trước chiến tranh và đặc biệt trong 3 năm sát trước chiến tranh đã đủ làm cơ sở cho sức phòng thủ của đất nước.
    Đứng về quan điểm quân sự, chủ trương của Đảng nhằm phát triển nhanh chóng công nghiệp ở các vùng phía đông, xây dựng các nhà máy sản xuất thời bình nhưng có thể chuyển ngay sang sản xuất phục vụ thời chiến trong một loạt các ngành chế tạo cơ khí, sản xuất dầu hỏa và hoá học, đã có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ở đây đã xây dựng ¾ tổng số các lò cao mới, cơ sở dầu lửa lớn thứ hai giữa Vôn-ga và U-ran, các nhà máy lớn luyện kim loại màu ở Trung Á, ngành công nghiệp nặng ở Viễn Đông, các nhà máy lắp ráp xe hơi, các nhà máy liên hợp sản xuất nhôm và các xí nghiệp sản xuất thép ống, thép dát, các nhà máy thủy điện.
    Trong thời gian chiến tranh, kết hợp với các xí nghiệp được di chuyển tới, miền đông nước ta đã có một cơ sở công nghiệp mới đủ đảm bảo đánh lui và đánh tan quân thù.
    Tôi muốn nói vắn tắt về tình hình dự trữ vật tư trước chiến tranh. Những lượng dự trữ này nhằm đảm bảo chuyển nền kinh tế sang kinh tế chiến tranh và nuôi quân đội trong thời gian mà nền kinh tế chưa cung ứng đầy đủ cho nhu cầu thời chiến. Từ năm 1940 đến tháng 6-1941, tổng giá trị các lượng dự trữ vật tư của Nhà nước đã được tăng từ 4 tỷ lên đến 7,6 tỷ rúp. Trong đó bao gồm lượng dự trữ các nguồn lực sản xuất, nhiên liệu, nguyên liệu, năng lượng, kim loại đen và màu, lương thực.
    Những lượng dự trữ có sát trước chiến tranh này, mặc dù khá nhỏ bé, đã giúp cho nền kinh tế quốc dân trong năm 1941, là năm có nhiều khó khăn, nhanh chóng có được nhịp độ và quy mô cần thiết để tiến hành chiến tranh.
    Như vậy là, nhịp đập của công nghiệp nặng, của công nghiệp quốc phòng là nhanh, trong những năm và những tháng sát trước chiến tranh nó đã đạt tới mức căng thẳng và đầy đủ nhất. Cả đời sống của nhà nước nói chung cũng trở nên khắc khổ hơn, dường như phải thắt lưng buộc bụng lại.
    Kỳ họp bất thường lần thứ IV của Xô-viết tối cao Liên Xô vào tháng 9-1939 đã thông qua ?ođạo luật toàn dân làm nghĩa vụ quân sự?. Theo đạo luật mới này những người 19 tuổi được gọi nhập ngũ, còn đối với những người đã tốt nghiệp trung học, tuổi nhập ngũ quy định là 18. Để nâng cao trình độ thành thạo về kỹ thuật quân sự, thời hạn tại ngũ được tăng lên: đối với các hạ sĩ quan lục quân và không quân từ 2 năm tăng lên 3 năm; đối với toàn bộ chiến sĩ không quân và chiến sĩ hạ sĩ quan bộ đội biên phòng - lên 4 năm, trên các chiến hạm và các đơn vi hải quân ?" lên 5 năm.

  10. Amore

    Amore Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Việc thực hiện nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ ba nói chung và những nhiệm vụ trong ngành công nghiệp nặng và công nghiệp quốc phòng nói riêng, cũng như nguy cơ xảy ra một cuộc tấn công quân sự vào Liên Xô đòi hỏi phải tăng thêm số lượng thời gian làm việc dành cho nền kinh tế quốc dân. Do đó, Đoàn chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô ngày 26-6-1940 ra sắc lệnh ?ovề việc chuyển sang ngày làm việc 8 giờ, tuần lễ làm việc 7 ngày, và cấm công nhân viên chức tự ý thôi việc ở xí nghiệp, cơ quan?. Đã thực hiện một hệ thống mới đào tạo công nhân lành nghề trong các trường chuyên nghiệp dạy nghề và đường sắt, các trường kỹ thuật ở các nhà máy, những trường này đào tạo hàng năm trung bình từ 80 vạn đến một triệu người.
    Cũng hồi đó, giữa năm 1940, Đoàn chủ tịch xô-viết tối cao Liên Xô đã ra sắc lệnh ?ovề trách nhiệm của xí nghiệp công nghiệp đối với việc sản xuất sản phẩm xấu và đối với việc không tuân thủ các tiêu chuẩn bắt buộc?. Những biện pháp nghiêm ngặt nhằm cải tiến sự lãnh đạo các xí nghiệp được áp dụng; kỷ luật, tinh thần trách nhiệm và nội quy được củng cố. Cơ quan nhà nước, bộ máy quản lý công nghiệp cũng có những thay đổi quan trọng, trở nên linh hoạt hơn, không còn cồng kềnh, không tập trung ở trung ương quá mức cần thiết. Bộ Ủy viên nhân dân công nghiệp quốc phòng chia thành bốn bộ mới: Bộ công nghiệp hàng không, Bộ công nghiệp đóng tàu, Bộ đạn dược, Bộ vũ khí; Bộ Ủy viên nhân dân công nghiệp cơ khí chia thành các Bộ công nghiệp cơ khí nặng, trung và tổng hợp.
    Các Bộ Ủy viên nhân dân mới (Bộ giao thông xe hơi, Bộ xây dựng, v..v...) được thành lập, có liên quan trực tiếp tới việc củng cố quốc phòng. Công tác của Hội đồng kinh tế thuộc Hội đồng các Ủy viên nhân dân Liên xô được cải tiến. Trên cơ sở của Hội đồng này đã thành lập các ủy ban công nghiệp quốc phòng, luyện kim, nhiên liệu, cơ khí, v..v... Các nhà hoạt động lớn của Nhà nước, các Phó chủ tịch Hội đồng các Ủy viên nhân dân Liên Xô - N.Đ. Vô-dơ-ne-xen-xki, A.N. Cô-xư-ghin, V.A. Ma-lư-xép, v..v... được cử làm chủ nhiệm các ủy ban.
    Tất cả những sự thay đổi đó là cần thiết để đáp ứng với khối lượng công việc ngày càng lớn, với những yêu cầu của việc chuẩn bị phòng thủ tích cực chống ngoại xâm, mà khả năng xảy mỗi tháng thêm tăng.
    Để thích ứng với điều kiện lúc đó và do có ?ođạo luật toàn dân làm nghĩa vụ quân sự?, cơ quan quân sự trung ương, các cơ quan quân sự địa phương cũng được hoàn thiện. Tại các nước cộng hòa tự trị, các tỉnh và các biên khu, thành lập các ủy ban quân sự và áp dụng quy chế hoạt động mới của các ủy ban đó.
    Những vấn đề có tính nguyên tắc và lớn trong Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng được đem ra xem xét tại Hội đồng quân sự trung ương Hồng quân. Chủ tịch Hội đồng quân sự trung ương là Ủy viên nhân dân quốc phòng, ủy viên của Hội đồng là các Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng và một ủy viên Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản liên bang. Những vấn đề đặc biệt quan trọng thường được báo cáo và quyết định với sự có mặt của I V. Xta-lin và các ủy viên khác trong Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản liên bang.
    Nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng và Chính phủ Liên Xô ngày 8-3-1941 quy định rõ việc phân công trách nhiệm trong Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng Liên Xô. Ủy viên nhân dân quốc phòng lãnh đạo Hồng quân thông qua Bộ Tổng tham mưu, các Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng và thông qua hệ thống các tổng cục và các tổng vụ. Tổng cục xe bọc thép, văn phòng Bộ, Tổng cục tài vụ, Tổng cục cán bộ và ủy ban phát minh sáng chế trực tiếp đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy viên nhân dân quốc phòng.
    Trước chiến tranh, trách nhiệm trong Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng được phân công như sau:
    - Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng, đại tướng G.K. Giu-cốp phụ trách Cục liên lạc, Cục cung cấp nhiên liệu, Tổng cục phòng không, Học viện Bộ Tổng tham mưu và Học viện M.V. Phơ-run-dê.
    - Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng thứ nhất, nguyên soái Liên Xô X.M Bu-đi-on-nưi phụ trách Tổng cục hậu cần, Cục quân y và Cục thú y của Hồng quân, ngành vật tư.
    - Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng về pháo binh, nguyên soái Liên Xô G.I. Cu-lích phụ trách Tổng cục pháo binh, Cục chống vũ khí hóa học và Học viện pháo binh.
    - Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng, nguyên soái Liên Xô B.M. Sa-pô-sni-cốp phụ trách Tổng cục công binh, Cục xây dựng công trình phòng thủ.
    - Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng phụ trách huấn luyện quân sự, đại tướng K.A. Mê-rét-xcốp làm công tác thanh tra tất cả các quân chủng, phụ trách Cục nhà trường quân sự và Cục quân huấn Hồng quân.
    - Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng, đại tướng P.V. Rư-cha-gốp, chủ nhiệm Tổng cục không quân của Hồng quân.
    - Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng, chính ủy tập đoàn quân bậc một A.I. Da-pô-rô-giét, chủ nhiệm Tổng cục tuyên truyền chính trị Hồng quân, phụ trách các cơ quan xuất bản và văn hóa giáo dục Hồng quân, Học viện quân chính V.I. Lê-nin, Học viện quân pháp và các trường quân chính.
    Tôi muốn nhắc lại rằng, người đứng đầu Bộ Tổng tham mưu Hồng quân, từ năm 1931 là nguyên soái Liên Xô A.I. Ê-gô-rốp, từ năm 1937 là nguyên soái Liên Xô B.M. Sa-pô-sni-cốp, từ tháng 8-1940 là đại tướng K.A. Mê-rét-xcốp.
    Bây giờ chúng ta xem các lực lượng vũ trang của chúng ta ở thời gian sát trước chiến tranh như thế nào. Để tiện cho người đọc và để dễ rút ra kết luận, tốt hơn là trình bày tất cả những điều đó theo trình tự: những gì nhân dân, Đảng và Chính phủ đã làm được, những gì chúng ta định làm trong thời gian tới và những gì chưa kịp làm hoặc không làm được. Tất nhiên, chỉ sử dụng một số ít tư liệu để nêu lên những nét cơ bản.
    Bộ binh. Tháng 4-1941 đã thực hiện quy chế thời chiến đối với bộ binh. Sư đoàn bộ binh - binh đoàn bộ đội hợp thành cơ bản của Hồng quân - gồm ba trung đoàn bộ binh và hai trung đoàn pháo, một tiểu đoàn chống tăng và một tiểu đoàn pháo cao xạ, một tiểu đoàn công binh và một tiểu đoàn liên lạc, các đơn vị hậu cần và cơ quan. Theo quy chế thời chiến, một sư đoàn có gần 14.500 người, 78 pháo dã chiến, 54 đại bác chống tăng và đại bác 45 mm, 12 pháo cao xạ, 66 súng cối 82 - 120 mm, 16 xe tăng loại nhẹ, 13 xe bọc thép, hơn 3.000 ngựa. Các sư đoàn bộ binh được hoàn chỉnh như vậy có thể là đơn vị chiến đấu khá cơ động và mạnh.
    Năm 1939 - 1940 và nửa đầu năm 1941, bộ binh đã có hơn 105.000 trung liên, thượng liên, đại liên và trọng liên, gần 85.000 tiểu liên. Đó là còn do việc sản xuất vũ khí bộ binh - pháo binh trong thời gian này có phần bị giảm xuống. Nguyên nhân là vì đã thôi không sản xuất các loại cũ mà sản xuất hàng loạt loại mới lại gặp khó khăn vì nó phức tạp và đòi hỏi kỹ thuật đặc biệt
    Giữa tháng 3, X.K. Ti-mô-sen-cô và tôi đề nghị I.V. Xta-lin cho phép động viên thêm quân số hậu bị dành cho các sư đoàn bộ binh để có thể cấp tốc huấn luyện theo yêu cầu chiến đấu hiện đại. Lúc đầu đề nghị của chúng tôi không được chấp nhận; chúng tôi được giải thích lại là, việc động viên quân số dự bị với quy mô đó có thể là cái cớ cho bọn Đức khiêu khích chiến tranh. Song, cuối tháng 3 đã có quyết định động viên 50 vạn chiến sĩ và hạ sĩ quan và đưa quân số đó đến bổ sung cho các quân khu vùng biên giới nhằm nâng quân số các sư đoàn bộ binh lên, dù chỉ là lên tới 8.000 người.
    Để không trở lại vấn đề này nữa, tôi xin nói ngay rằng, ít ngày sau đã có quyết định động viên 30 vạn quân hậu bị để bổ sung các quân nhân chuyên nghiệp cho các khu phòng thủ vững chắc và các quân chủng, binh chủng khác, cho pháo binh dự bị của Bộ tổng tư lệnh, cho công binh, bộ đội liên lạc; bộ đội phòng không và hậu cần của không quân. Như vậy là sát trước chiến tranh, Hồng quân đã được bổ sung thêm gần 80 vạn người. Việc tuyển quân dự định sẽ tiến hành vào tháng 5 - tháng 10 năm 1941.
    Tính đến sát trước chiến tranh, tại các quân khu vùng biên giới, trong tổng số không ít các đơn vị - 170 sư đoàn và 2 lữ đoàn - có 19 sư đoàn với quân số 5.000 - 6.000 người mỗi sư đoàn, 7 sư đoàn kỵ binh với quân số 6.000 người mỗi sư đoàn, 144 sư đoàn với quân số 8.000 ?" 9.000 người mỗi sư đoàn. Tại các quân khu phía trong, đa số các sư đoàn cũng có quân số theo biên chế giảm bớt, và nhiều sư đoàn bộ binh vừa mới được thành lập và đang bắt đầu huấn luyện.
    Bộ dội xe tăng thiết giáp. Trên kia, khi nói về công nghiệp sản xuất xe tăng của Liên Xô, tôi đã nhấn mạnh đến nhịp độ phát triển cao của nó và trình độ khá hoàn thiện về cơ cấu của các xe của ta. Tới năm 1938, so với thời gian đầu những năm 30, mức sản xuất xe tăng đã tăng hơn 3 lần. Để đáp ứng nhu cầu mới của công cuộc phòng thủ đất nước, Ban chấp hành trung ương Đảng và Chính phủ Liên Xô đã đề ra cho các công trình sư và những người sản xuất xe tăng nhiệm vụ chế tạo những xe tăng có lớp vỏ bảo vệ bằng thép khỏe hơn, súng mạnh hơn, có sức cơ động cao và sử dụng được bền hơn. Trong những năm 1939 - 1940, nhiệm vụ này được hoàn thành một cách rực rỡ.
    Các nhóm công trình sư tài giỏi dưới sự lãnh đạo của G.Ya. Cô-tin đã chế tạo xe tăng hạng nặng KV, dưới sự lãnh đạo của M.I. Cô-skin, A.A. Mô-rô-dốp và N.A. Cu-che-ren-cô đã chế tạo xe tăng hạng vừa T-34 nổi tiếng. Những người sản xuất động cơ đã chế tạo
    động cơ đi-ê-den cực mạnh V-2 cho xe tăng. Các xe tăng KV và T-34 là những xe loại tốt nhất được chế tạo sát trước chiến tranh. Và trong quá trình chiến tranh, các xe tăng này đã giữ vững ưu thế đối với những xe tăng loại tương đương của quân địch. Vấn đề là làm thế nào để nhanh chóng sản xuất nó ra hàng loạt.
    Theo chỉ thị tháng 12-1940 của Ban chấp hành trung ương Đảng, sau khi nghiên cứu tình hình sản xuất các xe tăng loại mới, Hội đồng quốc phòng đã báo cáo với Ban chấp hành trung ương Đảng rằng, do một số nhà máy không hoàn thành kế hoạch và có những khó khăn lớn trong quá trình sản xuất nên việc trang bị xe tăng KV và T-34 cho quân đội hết sức chậm. Chính phủ đã đề ra những biện pháp khắc phục. Cùng một lúc, Ban chấp hành trung ương Đảng và Hội đồng các Ủy viên nhân dân đã thông qua quyết định ?otổ chức sản xuất hàng loạt các xe tăng ở Pô-vôn-gie và U-ran?. Quyết định này có ý nghĩa đặc biệt đối với công cuộc phòng thủ đất nước.
    Từ tháng 1-1939 đến ngày 22-6-1941, Hồng quân đã được trang bị hơn 7.000 xe tăng, riêng năm 1941 nền công nghiệp đã cung cấp gần 5.500 chiếc tất cả các loại. Về xe tăng KV và T-34, tới đầu chiến tranh các nhà máy đã sản xuất được 1.861 chiếc. Tất nhiên, số lượng đó là ít. Thực tế là mãi đến 6 tháng cuối năm 1940, loại xe tăng này mới bắt đầu được đưa tới bộ đội các quân khu vùng biên giới.

Chia sẻ trang này