1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhóm dịch tuần báo The Economist online !

Chủ đề trong 'Anh (English Club)' bởi fan_fan0102, 09/05/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. _l_

    _l_ Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/05/2006
    Bài viết:
    1.498
    Đã được thích:
    0
    cái na?y hay a? nha nhưng ma? đê? la?m gi? bạn .
    Lúc đầu cũng có 1 số bạn bảo là dịch kiếm tiền nhưng mà thôi, đã kiếm được tiền chắc cũng chẳng ngồi đây
    Ne^n
    Group có blog la? đu? xa?i rô?i .
    http://360.yahoo.com/economist_group
  2. saxophone

    saxophone Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    341
    Đã được thích:
    0
    East Asian economies
    Gold from the storm
    Sau cơn mưa trời lại sáng - phần 1
    Jun 28th 2007 | HONG KONG, MANILA AND SEOULFrom The Economist print e***ion
    Ten years after Asia''s financial crisis, the region is booming again. Has it fully recovered or are economic mistakes being repeated?
    10 năm sau khủng hoảng tài chính Châu Á, khu vực này lại phục hồi mạnh mẽ. Con rồng đã thực sự tỉnh giấc hay những sai lầm cũ đang bị lặp lại?
    [​IMG]

    IT IS an unhappy anniversary: July 2nd 1997, the official start of the catastrophic Asian financial crisis. On that day Thailand ran out of foreign-exchange reserves trying to defend its currency from a huge speculative attack. It was forced to float the Thai baht, which promptly plunged. The meltdown quickly spread as investors pulled their money out of countries with similar economic symptoms?"especially Indonesia, Malaysia and South Korea.
    Ngày 2/07/1997 là một mốc buồn thảm trong lịch sử kinh tế Châu Á khi nó đánh dấu chuỗi khủng hoảng tài chính tàn khốc của khu vực này. Vào ngày đó, Thái Lan cạn kiệt nguồn dự trữ ngoại tệ khi cố giữ đồng Bạt khỏi các cuộc tấn công đầu cơ ồ ạt. Đồng Bạt đã phải được thả nổi và nhanh chóng tụt giá. Phản ứng dây chuyền lan nhanh khi các nhà đầu tư rút tiền tại các nước có ?otriệu chứng? kinh tế tương tự - trong đó đặc biệt có Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc.
    Hong Kong, the Philippines, Singapore and Taiwan were also hit by the maelstrom. Never before had the world seen capital flight on such a scale and speed, causing financial markets and economies to collapse. Ten years on, many believe that these economies have fully recovered. But others think East Asia may be heading for another financial shock.
    Hongkong, Philippines, Singapore và Đài Loan cũng bị cuốn vào cơn lũ xoáy. Thế giới chưa từng chứng kiến một sự chuyển dịch về vốn ở quy mô và tốc độ lớn như vậy, gây nên sự sụp đổ hoàn toàn thị trường tài chính và nền kinh tế. 10 năm qua, nhiều người tin rằng vết thương nặng nề đó đã hoàn toàn bình phục. Thế nhưng cũng có nhiều quan điểm cho rằng Đông Á đang tiềm ẩn nguy cơ của một cú sốc tài chính mới.
    The crisis of 1997 was different from earlier troubles. Unlike in Latin America, where most emerging-market crises had happened, East Asia boasted low inflation, balanced budgets and a remarkable record of almost 8% average growth over three decades. This made the shock all the more unexpected and dramatic.
    Khủng hoảng tài chính năm 1997 khác so với các cuộc khủng hoảng trước đó. Không giống như ở châu Mỹ Latin, nơi hầu hết các cuộc khủng hoảng thị trường mới nổi xảy ra, các nước Đông Á tự tin bởi có tỷ lệ lạm phát thấp, ngân sách ổn định và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao ở 8% qua 3 thập kỷ. Điều đó càng làm cho dự đoán trên (quan điểm cho rằng có sốc tài chính mới) càng thêm bất ngờ và khó trông đợi.
    Looking back, however, Asia''s flaws had been plain to see: a combination of weak financial systems, a hasty opening of economies to foreign capital and a policy of tying local currencies to the dollar. The expectation that currencies would remain fixed encouraged banks and other local firms to borrow heavily in dollars at lower interest rates than at home. As capital flooded in, these borrowings soared, as did property values and share prices.
    Tuy nhiên nhìn lại thì có thể dễ dàng nhận ra nhiều sai lầm (yếu tố gây ?osốc?) của Châu Á ?" đó là sự kết hợp hệ thống tài chính yếu kém, sự mở cửa vội vàng cho đầu tư nước ngoài và chính sách buộc chặt đồng nội tệ với đồng đô-la. Sự trông đợi các đồng tiền duy trì sự ổn định khuyến khích các ngân hàng và các công ty nội địa vay ồ ạt đô la với mức lãi suất thấp hơn đồng nội tệ. Khi vốn tuôn vào, các khoản nợ tăng vọt, điều này cũng tương tự như đối với giá trị tài sản và giá cổ phiếu.
    Much of this cheap money was squandered, as prestigious offices and swanky apartments sprouted across the region. As the dollar rose between 1995 and 1997 so did East Asian currencies, causing current-account deficits to widen. In 1996 Thailand''s deficit reached 8% of GDP. Once investors realised that this was unsustainable, capital took flight and the country''s foreign reserves dwindled.
    Một lượng lớn nội tệ bị lãng phí khi các công ty có tên tuổi và các căn hộ sang trọng mọc lên như nấm ở khắp nơi. Khi đồng đô la tăng giá giữa năm 1995 và 1997, các đồng nội tệ các nước Đông Á cũng tăng, gây ra thâm hụt dư nợ rộng khắp. Năm 1996,  thâm hụt của Thái Lan ở mức 8% GDP. Một khi nhà đầu tư nhận ra các dấu hiệu tài chính không ổn định, vốn lưu chuyển và dự trữ ngoại tệ sẽ bị thu hẹp.
    Once Thailand and others devalued, the crisis was about more than currencies. Devaluation caused foreign-currency debts to swell in local terms, resulting in widespread bankruptcies. Construction sites fell silent and their giant cranes stopped working as property bubbles burst and banks'' bad debts soared. Feeble regulation and supervision had allowed alarming mismatches between assets and liabilities, so banks started to fail, prompting yet more capital outflows.
    Khi đồng tiền Thái Lan và các đồng tiền khác mất giá, cuộc khủng hoảng không dừng lại ở vấn đề tiền tệ nữa. Sự mất giá gây gia tăng nợ ngoại tệ ở quy mô nội địa, dẫn đến phá sản lan tràn. Ngành xây dựng im hơi lặng tiếng và các cần trục của họ ngừng hoạt động khi bong bóng bất động sản bị vỡ và nợ xấu của ngân hàng tăng cao. Các quy định và giám sát lỏng lẻo cho phép các sai lệch đáng báo động trong các bảng cân đối kế toán, do vậy các ngân hàng bắt đầu vỡ nợ, báo hiệu một lượng tiền chảy ra còn nhiều hơn.
    In desperation Thailand even encouraged people to hand over their gold jewellery to be melted down to boost the central banks'' reserves (pictured above). At its low point the Indonesian rupiah had fallen by 86% against the dollar. The currencies of Thailand, South Korea, Malaysia and the Philippines were all down by 40-60%; stockmarkets suffered losses of at least 75% in dollar terms. Thailand, Indonesia and South Korea were humiliatingly forced to go cap in hand to the IMF.
    Trong thời kỳ suy thoái, Thái Lan thậm chí còn khuyến khích người dân đóng góp trang sức bằng vàng được nung chảy nhằm tăng dự trữ cho ngân hàng trung ương. Tại mức thấp nhất, đồng rupi của Indonesia giảm đến 86% so với đồng Đô la Mỹ. Các đồng tiền của Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia và Philippines giảm xuống từ 40 đến 60%. Các thị trường chứng khoán chịu thiệt hại ít nhất 75% giá trị tính theo Đô la Mỹ. Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia cực chẳng đã phải cầu cứu Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF.
    In 1998 Indonesia, Malaysia, South Korea and Thailand saw their real GDP per head shrink by an average of 11%. Many millions lost their jobs. Thailand and Indonesia, the two worst hit, suffered a slump in GDP during 1997-2002 of around 35% relative to their potential output (assuming growth at its previous pace)?"as bad as America''s output loss during its Great Depression in the early 1930s.
    Năm 1998, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thailand nhận thấy GDP thực trên đầu người bị thu hẹp trung bình 11%. Nhiều triệu người mất việc làm. Thái Lan và Indonesia, 2 nước bị ảnh hưởng nhiều nhất, chịu mức giảm GDP trong suốt từ năm 1997 đến 2002 khoảng 35% tương ứng với tổng giá trị sản phẩm tiềm năng (giả sử các năm cùng tốc độ (bước) tăng trưởng) ?" tương đương mức thiệt hại trong suốt thời kỳ Đại suy thoái những năm đầu thập kỷ 30 tại Mỹ.(còn tiếp .......)
  3. saxophone

    saxophone Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    341
    Đã được thích:
    0
    Gold from the storm 2 (Phần 2)
    Some foreigners were quick?"too quick?"to pronounce the Asian economic miracle dead. Rapid growth, they claimed, had been a sham based on governments pouring cheap money into favoured firms. Over-borrowing and over-investment had artificially boosted growth. Doomsayers predicted a decade of lost growth, as in Latin America after its 1980s debt crisis. One notorious sceptic of the Asian miracle was Paul Krugman, who had argued before the crisis that Asia''s growth was the result of ?operspiration rather than inspiration?, based on increasing inputs of capital and labour rather than productivity gains, and would therefore prove unsustainable.
    Một số người nước ngoài đã rất nhanh thông báo ?ocái chết thần bí? của nền kinh tế Châu Á. Sự tăng trưởng nhanh, họ tuyên bố, là giả tạo, dựa trên sự tiêu phí đồng nội tệ của các chính phủ vào các công ty được họ ưu ái. Sự vay mượn quá nhiều và đầu tư quá mức đã làm khuếch đại sự tăng trưởng một cách giả tạo. Những người theo quan điểm bi quan thì dự đoán nền kinh tế sẽ tăng trưởng lùi trong 1 thập kỷ, như châu Mỹ latin sau khủng hoảng nợ những năm 1980. Một người theo chủ nghĩa hoài nghi nổi tiếng ?" là Paul Krugman, người đã có tranh luận trước cuộc khủng hoảng rằng tăng trưởng của Châu Á là kết quả của quá trình ?ođổ mồ hôi, sôi nước mắt? chứ không phải là ?ocảm hứng thăng hoa?, ông dựa trên số liệu vốn đầu tư và lượng lao động ngày càng tăng trong khi sự tăng năng suất thì không tương xứng - sự bất ổn đã được khẳng định và báo trước.
    But the slump came from financial excesses, not poor productivity growth. Indeed, most estimates suggest that productivity growth in East Asia had been much higher than in other emerging or developed economies. It is true that strong growth concealed wasteful investment, inadequate bank regulation and corruption, but the chief ingredients of growth?"a high saving rate to finance investment and open markets?"remained in place.
    Tuy nhiên sự tụt dốc lại có nguồn gốc từ bội chi tài chính, chứ không phải từ hiệu suất tăng trưởng nghèo nàn. Thực tế, hầu hết các dự đoán cho rằng hệ số tăng trưởng của Đông Á phải cao hơn nhiều so với các nước mới nổi hay các nước đã phát triển. Sự thực là tăng trưởng mạnh mẽ đó che dấu sự đầu tư lãng phí, thiếu quy định chặt chẽ trong các ngân hàng và nạn tham nhũng, còn các yếu tố then chốt của sự tăng trưởng ?" đó là lãi suất tiết kiệm cao đối với đầu tư tài chính và sự mở cửa thị trường ?" được duy trì thích hợp.
    This is one reason why most East Asian economies recovered more quickly than many expected. The IMF bail-outs also helped to restore confidence, bolstered by reforms to restructure and strengthen banking. Income per head returned to pre-crisis levels in South Korea and Malaysia by 2000; in Thailand and Indonesia it took until 2003 and 2004 respectively.
    Đó là một lý do tại sao hầu hết các nền kinh tế Đông Á hồi phục nhanh hơn trông đợi. Sự can thiệp của Quỹ tiền tệ thế giới IMF (ở đây bail-out là đưa tiền ra bảo lãnh cũng chính là việc IMF đổ một lượng tiền (Đô la Mỹ) lớn vào thị trường đang khủng hoảng, giúp các nội tệ lấy lại cân bằng, đẩy lùi lạm phát ?" đây cũng chính là mục đích hoạt động của các quỹ tiền tệ, NHNN) cũng giúp các nước lấy lại sự tự tin, ủng hộ bằng các cải tổ nhằm tái thiết và củng cố hệ thống ngân hàng. Thu nhập trên đầu người của Hàn Quốc và Malaysia trở lại mức như trước khi khủng hoảng vào năm 2000, ở Thái Lan và Indonesia chậm hơn, tức là tương ứng vào các năm 2003 và 2004.
    (Còn tiếp ......)
  4. saxophone

    saxophone Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    341
    Đã được thích:
    0
    Gold from the storm 2 (Phần 3)
    Asia vu?
    Ten years later, Asia''s financial markets are booming again and the region is once more the envy of the world. Emerging Asia has grown by an annual average of 8% over the past three years?"as fast as before the crisis. Thus it might seem there has been a full recovery. Some economic commentators believe that, thanks to all that restructuring and reform, the victims of the crisis are now more dynamic and resilient than ever. Others, however, fear another crisis is in the making. Who is right?
    Châu Á đang bị đánh giá sai?
    Mười năm sau, thị trường tài chính các nước Châu Á lại bùng nổ và vùng này lại một lần nữa làm cả thế giới phải ghen tị. Châu Á đang vươn lên thể hiện ở tỷ lệ tăng trưởng bình quân năm 8% trong 3 năm gần nhất ?" cũng tương tự như trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng lịch sử. Theo đó, có vẻ như Châu Á đã hồi phục hoàn toàn. Một số nhà bình luận kinh tế tin rằng, nhờ vào các tái thiết và cải tổ trước đây, các ?onạn nhân? (cũng chính là thủ phạm) của cuộc khủng hoảng đã năng động và có ?osức đề kháng? tốt hơn bao giờ hết. Một số khác, lại sợ rằng sẽ có một cuộc khủng hoảng nữa đang hình thành. Phía nào sẽ đúng?
    The boosters are guilty of over-optimism. The 8% average for regional growth includes China and India, which are the fastest sprinters and also have much bigger economies than they did ten years ago. The Asian Development Bank (ADB) estimates that in the five East Asian economies worst affected in 1997-98, the trend annual growth rate since 2000 has slowed by as much as two and a half percentage points, compared with 1990-96, to an average of just over 5%.
    Những người theo quan điểm ủng hộ tỏ ra sai lầm khi quá lạc quan. Mức tăng trưởng khu vực trung bình 8% bao gồm cả Trung Quốc và Ấn Độ, 2 ?ođầu tàu? nhanh nhất và cũng có quy mô kinh tế lớn hơn nhiều những gì họ đã có cách đây 10 năm. Ngân hàng phát triển Châu Á dự đoán rằng trong 5 nước bị ảnh hưởng nhiều nhất trong giai đoạn 1997-1998, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm có xu hướng giảm 2,5 % từ năm 2000, so với hơn 5% trong giai đoạn từ năm 1990 đến 1996.
    [​IMG]
    The main reason for this is that investment has not recovered. Capital spending accounted for an average of only 24% of GDP in these economies last year, down from 35% in 1995 (see chart 1). This compares with an investment rate of more than 40% in China and is little higher than in many rich economies where investment opportunities should be much lower. Before the crisis, investment was probably too high; now it is too low.
    Lý do chính đó là đầu tư vẫn chưa được hồi phục. Vốn đầu tư tính ra chỉ chiếm 24% GDP của các nước này vào năm ngoái, giảm từ 35% của năm 1995 (biểu đồ 1). Có thể so sánh tỷ lệ đầu tư đó với Trung Quốc ?" là 40%, và cao hơn chút ít so với nhiều nước giàu nơi mà cơ hội đầu tư đáng ra phải thấp hơn rất nhiều. Trước khủng hoảng, đầu tư quá cao, còn bây giờ lại quá thấp.
    Public infrastructure, particularly in Thailand and Indonesia, is worse than a decade ago and business spending has been hurt by economic and political uncertainty. Having had their fingers badly burnt, firms are still cautious about taking on debt. The ADB argues that governments could do much to change this: from investing more in education and infrastructure, to stamping down on corruption and improving the regulatory environment. For all the rhetoric about bold change, the truth is that reform has been relatively limited outside the financial sector.
    Hạ tầng công cộng, đặc biệt là ở Thái Lan và Indonesia, hiện xấu hơn 10 năm trước và sự chi phí cho kinh doanh bị ?othương tổn? gây ra do sự bất ổn về kinh tế và chính trị. Những doanh nghiệp như những con hổ bị ?ochặt? bớt móng vuốt, đã vậy lại phải thận trọng việc xử lý vấn đề nợ. ADB tranh cãi với các nước rằng họ có thể làm nhiều để thay đổi tình hình: từ việc đầu tư thêm vào giáo dục và cơ sở hạ tầng, đến việc thẳng tay với nạ tham nhũng và củng cố môi trường pháp lý (nhà nước quản lý bằng công cụ pháp luật!). Còn đối với các khoa trương về một sự thay đổi táo bạo thì sự thật là cải tổ đã tương đối bị giới hạn ngoài lĩnh vực tài chính.
    Several studies suggest that quality of governance is important for investment and growth. And sadly, some aspects of East Asian governance have worsened. The ADB uses data compiled by the World Bank to rate Indonesia, Malaysia, the Philippines, South Korea and Thailand relative to the rest of the world on six measures of governance: accountability, political stability, government effectiveness, regulatory quality, the rule of law and control of corruption. Comparing 2005 with 1996, the scores for East Asia have got worse in 22 of the 30 comparisons (ie, six measures for five countries). If international rankings are compared, these countries have fallen in 28 of the 30 comparisons. Only in South Korea did governance scores improve on more than half of the measures.
    Nhiều nghiên cứu cho rằng chất lượng của việc quản lý nhà nước là rất quan trọng đối với đầu tư và tăng trưởng. Và thật buồn là một số khía cạnh trong việc này của Đông Á lại có chiều hướng xấu đi. ADB đã sử dụng các số liệu của Ngân hàng Thế giới để xếp hạng Indonesia, Malaysia, Phillipines, Hàn Quốc và Thái Lan một cách tương đối so với phần còn lại của thế giới về 6 biện pháp quản lý nhà nước: tính minh bạch, ổn định chính trị, hiệu quả của chính phủ, chất lượng quản lý, các quy định về pháp luật và kiểm soát nạn tham nhũng. Xét năm 2005 so với 1996 thì điểm số của khu vực Đông Á có chiều hướng xấu đi trong 22 trên tổng số 30 so sánh còn nếu tính thêm các tiêu chí mang tính chất quốc tế nữa thì tỷ lệ này là 28/30. Chỉ có Hàn Quốc là có tiến bộ trong hơn một nửa số biện pháp quản lý của mình.
    Even in the financial sector more needs to be done. Banks are more resilient thanks to better internal controls and supervisory standards. Capital ratios have increased and non-performing loans have fallen sharply: in Thailand from 43% in 1998 to 8% last year. However, the healthier state of banks'' balance sheets is partly due to favourable macroeconomic con***ions, Philip Turner, of the Bank for International Settlements, points out. Strong growth and unusually low real interest rates have boosted banks'' profits. And yet risk management remains poor in some countries. Capital markets, an alternative source of funds, are underdeveloped.
    Thậm chí trong lĩnh vực tài chính thì càng cần phải thực hiện nhiều cải tổ hơn. Ngân hàng trở nên vững vàng hơn nhờ các tiêu chuẩn quản lý và giám sát nội bộ tốt hơn. Các hệ số về vốn (?) đã tăng và các khoản vay đáo hạn giảm mạnh ở Thái Lan từ 43% năm 1998 xuống còn 8% năm ngoái. Tuy nhiên, trạng thái dồi dào hơn của ngân quỹ ngân hàng một phần cũng vì các điều kiện ưu đãi vĩ mô của Ngân hàng thanh toán Quốc tế - Philip Turner chỉ rõ. Tăng trưởng mạnh và lãi suất (huy động) thực sự thấp bất thường đã làm tăng lợi nhuận của các ngân hàng. Ấy vậy mà quản lý rủi ro vẫn còn chưa được coi trọng ở một số nước. Thị trường vốn, một nguồn huy động nữa của các quỹ (đầu tư) cũng chưa được phát triển.
    (Còn tiếp .....)
  5. saxophone

    saxophone Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    341
    Đã được thích:
    0
    Gold from the storm (phần 4)
    On the external side, however, the optimists are right to say that Asia is stronger and more resilient. The region is far less vulnerable to a balance-of-payments crisis than it was ten years ago, when all the crisis-hit countries had large current-account deficits. Now they all have current-account surpluses and much less foreign debt. They also have vast foreign reserves to protect them against any future speculative attack. As a rule of thumb, a country should have enough reserves to cover its short-term foreign debt. On the eve of the crisis in June 1997 South Korea''s reserves were only one-third as big as its short-term debt; today they are twice the size. In most of the other countries, reserves are also two to three times bigger.
    Tuy nhiên, nhìn rộng hơn, những người lạc quan đã đúng khi cho rằng Châu Á đã mạnh hơn và vững vàng hơn. Khu vực này đã trở nên ít bị nhạy cảm hơn nhiều đối với khủng hoảng ?ocán cân thanh toán? như một thập kỷ trước đây, khi các nước chịu ảnh hưởng có bội chi lớn. Bây giờ họ đều có thặng dư ngân sách và phải chịu ít nợ nước ngoài hơn. Họ cũng có dự trữ ngoại tệ dồi dào để chống lại các ?ocuộc tấn công? đầu cơ. Dựa trên kinh nghiệm đi trước (của các nước và của thế giới) ?" (đây chính là quy luật ?ongón tay cái?), một nước nên có đủ lượng dự trữ để có thể giải quyết nợ ngắn hạn nước ngoài. Vào thời điểm trước khủng hoảng hồi tháng 6 năm 1997, dự trữ của Hàn Quốc chỉ bằng 1/3 nợ ngắn hạn, hiện nay con số đó đã gấp 2 lần. Tại hầu hết các nước khác, tỷ lệ dự trữ/nợ ngắn hạn đều ở mức từ 2-3 lần.
    [​IMG]
    These large war chests mean that a repeat of 1997 is unlikely. However, some economists, such as Nouriel Roubini, of Roubini Global Economics, argue that the build-up of reserves is itself creating new hazards. East Asian policymakers, says Mr Roubini, failed to learn the most important lesson of the crisis. Exchange rates are once more, in effect, tied to the dollar. This, he argues, risks creating a new, but different financial crisis?"not a balance-of-payments shock like last time, but booms and busts in asset markets.
    Quỹ dự trữ thường trực đó (war chest = quỹ dự trữ chiến tranh, quỹ dự trữ cho các tình trạng khẩn cấp) đồng nghĩa với việc sự kiện tồi tệ năm 1997 ít có khả năng xảy ra. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế, đơn cử Nouriel Roubini, thuộc Roubini Global Economics, đã tranh luận rằng việc tăng lượng dự trữ bắt buộc sẽ tạo ra các rủi ro mới. Ông cho rằng các ?onghị gật? của các nước Đông Á vẫn chưa rút ra được bài học quan trọng sau cuộc khủng hoảng. Tỷ giá hối đoái hiện hành thể hiện rằng các nội tệ vẫn gắn chặt với đồng Đô la. Điều đó, ông nhận xét, rủi ro tiềm ẩn sẽ tạo ra một cuộc khủng hoảng mới và khác biệt trong hệ thống tài chính.
    As governments try to keep their currencies cheap, developing Asia''s total reserves have jumped from $250 billion in 1997 to $2.5 trillion this year. The desire to build up reserves is understandable, but they are now excessive. Asian economies'' policy of tracking the dollar and the consequent rapid increase in reserves, argues Mr Roubini, is leading to excessive growth in money and cre***, inflationary pressures and asset bubbles in shares and housing. This, he concludes, will eventually lead to vulnerabilities similar to the massive capital inflows, cre*** boom, overheating and bubbles that preceded the 1997 crisis.
    Vì chính phủ các nước cố giữ cho đồng tiền của họ ở giá thấp, dự trữ của các nước đang phát triển ở Châu Á đã nhảy từ 250 tỷ USD vào năm 1997 lên 2500 tỷ USD vào năm nay. Mong muốn tăng cường lượng dự trữ là có thể lý giải, nhưng chúng đã đi quá xa. Chính sách kinh tế các nước Châu Á khi chạy theo đồng Đô la và hệ quả là tăng dự trữ, theo như Roubini, là dẫn đến sự tăng thái quá lượng tiền trong các nhà băng, gây áp lực về lạm phát và tạo bong bóng trong thị trường chứng khoán và bất động sản. Điều đó, ông kết luận, cuối cùng sẽ dẫn đến tình trạng nguy kịch của nền kinh tế tương tự như chuyển vốn vào (nền kinh tế) ồ ạt, bùng nổ tín dụng, bong bóng xuất hiện trên thị trường CK và sốt bất động sản trước khi xảy ra khủng hoảng năm 1997.
    His grim prediction is based on the ?oimpossible trinity?: an economy cannot control domestic liqui***y and manage its exchange rate if its capital account is open. If it holds down its currency, foreign-exchange inflows will boost money growth. The central bank can try to ?osterilise? the impact of bigger reserves by selling securities to mop up the excess liqui***y. The snag is that bond sales will tend to push up interest rates and so attract yet more capital inflows. Mr Roubini believes that the room for sterilisation by Asian central banks is severely limited and so rising reserves mean even greater excess liqui***y.
    Dự đoán ?otàn nhẫn? đó dựa vào nguyên tắc ?obộ ba bất khả?: nền kinh tế không thể điều tiết tính thanh khoản trong nội địa và quản lý tỷ giá hối đoái của nó nếu như mở cửa thị trường vốn. Nếu một nước nào đó giảm giá đồng nội tệ, luồng ngoại tệ chảy vào sẽ đẩy mạnh tăng trưởng tiền tệ. Ngân hàng TW có thể cố gắng ?ohạn chế? ảnh hưởng của việc lượng dự trữ tăng lên bằng cách bán trái phiếu để giảm lượng tiền dự trữ (excess liqui***y is a con***ion in which the amount of reserve funds is higher than that which a bank is allowed to hold). Vết nứt dần lộ ra khi việc bán trái phiếu sẽ dẫn đến đẩy cao lãi suất tiết kiệm và do đó càng thu hút nhiều vốn chảy vào hơn nữa. Roubini tin rằng phạm vi cho việc điều tiết này là rất hạn chế và do đó càng dự trữ nhiều thì càng đồng nghĩa với rủi ro càng lớn.
    (Còn tiếp.......)
  6. saxophone

    saxophone Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    341
    Đã được thích:
    0
    Gold from the storm (phần 5)
    The big difference
    However, these economies may be able *****stain today''s policies for longer than Mr Roubini expects. This is because many of the economic characteristics he describes?"such as fixed exchange rates, massive current-account surpluses and asset-price bubbles?"certainly apply to China, but not to most of the smaller East Asian economies. To begin with, the chief victims of the crisis have let their currencies appreciate against the dollar by much more than China has. Only Hong Kong still pegs to the dollar. The South Korean won has risen by 42% since 2002 and the Thai baht by 28%. China accounts for most of the increase in Asian reserves. Since December 2004 the combined reserves of Indonesia, Malaysia, the Philippines, South Korea and Thailand have risen by only one-third; China''s have doubled.
    Sự khác biệt lớn
    Tuy vậy, các nước này có thể duy trì chính sách của họ lâu hơn Roubini trông đợi. Đó là bởi vì nhiều đặc điểm kinh tế ông miêu tả, chẳng hạn như tỷ lệ lãi suất cố định, thặng dư ngân sách quá lớn và bong bóng trên thị trường ?" chỉ đúng với Trung Quốc, chứ không thể áp đặt cho hầu hết các nền kinh tế Đông Á nhỏ hơn. Để bắt đầu, các ?onạn nhân? chính của cuộc khủng hoảng phải điều chỉnh đồng tiền của họ tăng giá hơn trước so với đồng Đô la ở mức nhiều hơn Trung Quốc đã làm. Chỉ có Hồng Kông vẫn ghìm giá so với Đô la Mỹ. Đồng won của Hàn Quốc đã tăng giá 42% từ năm 2002 và tỷ lệ này đối với đồng Bạt Thái Lan là 28%. Trung Quốc chiếm phần lớn lượng tăng dự trữ của Châu Á. Từ tháng 12 năm 2004, lượng dự trữ kết hợp của Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan chỉ tăng 1/3 trong khi đó của Trung Quốc đã tăng gấp đôi.
    Second, the common claim that these economies have big current-account surpluses, which proves their currencies are undervalued, is much exaggerated. China has a big surplus, but of the former ?ocrisis countries? only Malaysia has a large surplus (11% of GDP). South Korea, Thailand and Indonesia have an average surplus of less than 1% of GDP (see chart 2). Indeed, Morgan Stanley reckons these currencies are now overvalued against the dollar.
    Thứ hai, nhận định rằng yêu cầu thông thường về việc các nước phải có thặng dư ngân sách lớn chứng tỏ rằng đồng tiền của họ mất giá là quá cường điệu. Trung Quốc vẫn có thặng dư lớn, nhưng trong các nước chịu ảnh hưởng khủng hoảng, chỉ có Malaysia là có thặng dư ngân sách lớn (11% GDP). Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia có mức thặng dư trung bình < 1% GDP (biểu đồ 2). Thực tế, Morgan Stanley tính toán đồng tiền của những nước này hiện đã mất giá so với đồng Đô la.
    Third, in most countries the build-up of foreign-exchange reserves has not hugely pushed up the growth of money and inflation. The broad-money supply in the crisis economies is up by just over 10% on average over the past year, much less than China''s 17% and well below their money growth of more than 20% in the mid-1990s. Inflation also remains tame. In its Asia and Pacific Regional Economic Outlook, the IMF concludes most emerging Asian economies are not on the verge of overheating. It sees little evidence of housing bubbles in most countries: average house prices have not risen by much more than incomes in recent years. Share prices have soared, but those gains follow sharp declines. With the notable exception of China, price-earnings ratios in East Asia remain below those in developed markets.
    Thứ ba, tại hầu hết các nước, việc tăng cường dự trữ ngoại tệ chưa đẩy cao tăng trưởng tiền tệ và lạm phát. Việc cung ứng tiền từ nước ngoài trong các nước xảy ra khủng hoảng tăng trung bình hơn 10% trong năm qua, ít hơn nhiều so với Trung Quốc ?" là 17% và thấp xa so với tốc độ tăng lạm phát 20% (money growth có thể hiểu = inflation) vào những năm giữa thập kỷ 90. Lạm phát cũng đã được chế ngự. Trong báo cáo Triển vọng kinh tế Châu Á TBD của mình, IMF đã tổng kết hầu hết các nền kinh tế mới nổi Châu Á chưa đạt đến giới hạn quá nóng. IMF cũng nhận thấy ít có dấu hiệu xảy ra bong bóng trên thị trường bất động sản tại hầu hết các nước: giá nhà trung bình không tăng nhiều so với thu nhập trong những năm gần đây. Giá cổ phiếu tăng vọt, nhưng kèm theo đó là những chu kỳ tụt dốc nhanh chóng. Với ngoại lệ đáng chú ý là Trung Quốc, tỷ số P/E (giá / thu nhập mỗi cổ phiếu) của Đông Á vẫn duy trì ở mức thấp so với các thị trường phát triển khác.
    Foreign-exchange inflows are not causing money and cre*** to explode partly because central banks'' sterilisation has been relatively successful in mopping up liqui***y. One important difference between now and the years leading up to the crisis is that the upward pressure on currencies and the increase in foreign reserves almost entirely reflects current-account surpluses and inwards foreign direct investment, not net inflows of hot money. According to David Carbon at DBS, a Singapore bank, net capital inflows into the crisis economies have averaged only 0.5% of GDP since 2004, compared with 6.5% during 1991-96.
    Luồng ngoại tệ không gây ra lượng tiền (bao gồm đang hoạt động ở thị trường ?" gọi là money, và lượng tiền trong ngân hàng ?" gọi là cre***) bùng phát một phần bởi vì  sự điều tiết của ngân hàng trung ương đã tương đối thành công trong việc giải quyết lượng dư dự trữ (excess liqui***y). Một sự khác biệt quan trọng khác giữa bây giờ và các năm trước khủng hoảng là sức ép ngày càng tăng lên các đồng nội tệ và lượng tăng dự trữ ngoại tệ hầu như phản ánh toàn bộ thặng dư ngân sách và đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thị trường nội địa, chứ không phải luồng tiền ròng đang lưu chuyển. Theo David Carbon tại DBS ?" một ngân hàng Singapore ?" luồng vốn ròng đổ vào các nước chịu khủng hoảng chỉ đạt 0,5% GDP tính từ năm 2004, so với 6,5% trong suốt từ năm 1991 đến 1996.
    Only Thailand has seen large net capital inflows and last year it ran into trouble. Inflation started to rise, leading the central bank to lift interest rates. This pulled in yet more capital and pushed up the exchange rate. In December, to stem the rise of the baht and regain control of liqui***y, the government made a bungled attempt to slap a tax on inward portfolio investment. The stockmarket plunged. In most of the other small Asian economies, however, central banks have not been deluged by net inflows of short-term capital. This may be why countries have been able to sterilise large amounts of foreign reserves without attracting yet more capital.
    Chỉ Thái Lan có luồng vào vốn ròng lớn và năm ngoái đã gây cho nước này không ít rắc rối. Lạm phát tăng, dẫn đến NH trung ương phải nâng lãi suất. Điều này đã lại kéo về thêm lượng vốn và lại đẩy tỷ giá hối đoái tăng lên. Trong tháng 12, để ngăn chặn sự tăng giá của đồng Bạt và lấy lại kiểm soát lượng dư dự trữ, chính phủ Thái Lan đã thiếu cân nhắc cố đánh thuế vào các khoản mục đầu tư vào nội địa. Thị trường chứng khoán tụt dốc không phanh. Tuy nhiên tại hầu hết các nước Châu Á nhỏ khác, ngân hàng trung ương chưa bị ?otràn ngập? các luồng vốn đầu tư nước ngoài ngắn hạn. Điều đó giải thích tại sao các nước có thể điều tiết lượng lớn dự trữ ngoại tệ lớn mà không thu hút thêm vốn nữa.
    [​IMG]
    Thus neither of the two commonly held views about the victims of the Asian financial crisis ring true. The economies hit hardest by the crisis have not fully recovered: their growth remains much slower than before 1997. But nor are they awash with excess liqui***y and heading for another financial meltdown.
    Như vậy, không quan điểm nào trong 2 quan điểm trên về các nước Châu Á chịu khủng hoảng tài chính là thực sự đúng. Các nước chịu ảnh hưởng mạnh nhất vẫn chưa hồi phục hoàn toàn: tăng trưởng vẫn ở mức thấp hơn trước năm 1997. Tuy nhiên chưa nước nào bị ngập trong dư dự trữ ngoại tệ và đứng trước một thảm họa tài chính khác.
    One big change over the past decade is the emergence of China as an economic power. Other Asian economies have lost some exports to China, but it imports large amounts of capital equipment and components from within the region. China''s demand for raw materials has also pushed up commo***y prices, benefiting some South-East Asian producers. China now takes 22% of the exports of the rest of emerging Asia, up from 13% in the late 1990s. Smaller East Asian countries have seen a slight decline in their share of global trade as China''s has risen, but their exports have continued to grow rapidly. In the late 1990s, foreign direct investment in South-East Asia fell, stoking fears that China was stealing investment. However, over the past few years it has rebounded strongly. Overall, China has almost certainly been a net boost for the rest of Asia.
    Một thay đổi lớn trong thập kỷ qua đó là sự vươn lên của Trung Quốc, trở thành một thế lực kinh tế mới. Các nước Châu Á khác đã bị mất xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc, bù vào đó nước này lại nhập một lượng lớn thiết bị và phương tiện từ khu vực. Nhu cầu của Trung Quốc về nguyên liệu đã làm tăng giá nguyên vật liệu, làm lợi cho một số nhà sản xuất ở Đông Nam Á. Trung Quốc hiện đang chiếm đến 22% kim ngạch xuất khẩu của phần còn lại Châu Á, tăng từ 13% vào những năm cuối thập kỷ 90. Các nước nhỏ hơn bị thu hẹp thị phần thương mại toàn cầu khi Trung Quốc vươn lên, nhưng xuất khẩu của họ lại tăng nhanh. Vào những năm cuối thập kỷ 90, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực Đông Nam Á giảm, dấy lên lo ngại rằng Trung Quốc sẽ lấy mất phần đầu tư này. Tuy vậy, trong các năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài lại phục hồi mạnh mẽ. Rốt cục, Trung Quốc hầu như chắc chắn là đầu tàu kinh tế thúc đẩy tăng trưởng cho phần còn lại của Châu Á.
    Nevertheless, the fear of losing competitiveness relative to China has played a big role in these countries'' reluctance to allow their exchange rates to appreciate any more rapidly. If China allowed its currency, the yuan, to rise, they would have less need to intervene.
    Tuy vậy, lo ngại về việc đánh mất tính cạnh tranh liên quan đến việc Trung Quốc thể hiện một vai trò to lớn trong sự miễn cưỡng chấp nhận của các nước khác sẽ cho phép tỷ giá hối đoái tăng còn nhanh hơn. Nếu Trung Quốc cho phép đồng Nhân dân tệ tăng giá, họ sẽ chỉ cần can thiệp ít hơn.
    (Còn tiếp.....)
  7. saxophone

    saxophone Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    341
    Đã được thích:
    0
    Gold from the storm (phần 6 - kết)
    Wrong lessons
    Could China be the source of the next crisis? China was less affected in 1997-98, thanks to strict capital controls. Indeed, by not devaluing its currency it helped to prevent a worsening of the financial contagion. But China, more than its neighbours, may have drawn the wrong lesson?"namely the need to keep its exchange-rate stable and to build up massive reserves. China''s monetary policy has been overly lax and low interest rates on bank deposits have encouraged a huge shift of money into its stockmarket. Thus Mr Roubini''s diagnosis of Asia does apply to China.
    Bài học sai lầm
    Trung Quốc có thể trở thành nguồn gốc cho cuộc khủng hoảng tiếp theo? Trung Quốc đã ít bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng 97-98 nhờ vào chính sách kiểm soát vốn chặt. Sự thật là bằng cách không để tụt giá đồng Nhân dân tệ, TQ đã giúp tránh sự lây lan phản ứng khủng hoảng tài chính dây chuyền. Nhưng TQ rút ra được nhiều bài học sai lầm hơn các nước khác ?" cụ thể là giữ tỷ giá hối đoái ổn định và tăng lượng dự trữ ngân sách dồi dào. Chính sách nới lỏng tiền tệ của Trung Quốc và lãi suất tiền gửi thấp đã thúc đẩy một lượng tiền lớn vào thị trường chứng khoán. Do đó chẩn đoán của Roubini về Châu Á không áp dụng được cho Trung Quốc.
    If China''s share-price bubble burst, the economic consequences in China?"and among its neighbours?"would probably be mild, since Chinese share-ownership is relatively low. Nervous investors might pull money out of other Asian stockmarkets, but large foreign reserves should prevent serious capital flight.
    Nếu bong bóng TT chứng khoán ở TQ vỡ, hậu quả về kinh tế ở Trung quốc và các nước lân cận ?" sẽ không nặng nề, bởi vì phần vốn chủ sở hữu Trung Quốc là tương đối thấp. Các nhà đầu tư nóng vội sẽ có thể rút tiền ra khỏi thị trường chứng khoán Châu Á, nhưng lượng dự trữ ngoại tệ lớn sẽ giúp TQ tránh được sự sụp đổ nghiêm trọng trên thị trường vốn.
    Rather than shielding themselves with big reserves, East Asia''s governments should make their economies more pliable and their banks more resilient, and thus better able to cope with future volatility. They need more flexible exchange rates, which would not only prevent a further excessive build-up in reserves, but also help to shift growth towards domestic demand and away from exports. Governments must also restore business confidence and create a healthier investment environment. Asia has performed better than most people expected ten years ago. But it could have done better still.
    Không tự bảo vệ mình bằng các khoản dự trữ lớn, các nước Đông Á nên làm cho nên kinh tế của họ mềm dẻo và vững vàng hơn để đối phó với sự biến đổi trong tương lai. Họ cần có một chính sách lãi suất linh hoạt, không những tránh được phải xây dựng nguồn dự trữ quá lớn mà còn giúp chuyển dịch tăng trưởng sang thị trường nội địa, không phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu. Chính phủ các nước cũng phải củng cố sự tự tin của giới doanh nghiệp và tạo ra môi trường đầu tư lành mạnh. Châu Á sẽ thực hiện tốt hơn hầu hết những gì mọi người trông đợi từ 10 năm nay. Tuy nhiên Châu Á đã có thể làm tốt hơn như thế!
    (Hết)
  8. minhtrang86_vn

    minhtrang86_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2006
    Bài viết:
    1.147
    Đã được thích:
    0
    hic, mình nhìn thấy bạn saxphone dịch bài mà mình muốn choáng, sao dài thế không biết.
    Hiện giờ mình vẫn chưa biết anh Fan Fan ghép mình vào nhóm nào. Tuy vậy để hưởng ứng phong trào hoạt động và làm việc tích cực của mọi ngưòi mình xin phép được post bài dịch do anh Fan fan cấp nhá. đa tạ
  9. minhtrang86_vn

    minhtrang86_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2006
    Bài viết:
    1.147
    Đã được thích:
    0
    In the locust position
    Investors are pushing Japanese firms to increase shareholder value
    Trong tình trạng gian nan, khốn khó
    Các nhà đầu tư đang hối thức các công ty Nhật Bản tăng giá trị cổ đông.
    IT IS the season for shareholder meetings in Japan. The majority of publicly traded firms held their annual meetings this week?"around 1,000 of them on June 28th. The practice was originally intended to make life difficult for sokaiya, racketeers who dish dirt at the meetings of firms that do not pay them off. This year, however, Japanese managers faced an even more menacing threat: activist shareholders.
    Corporate law is actually more shareholder-friendly in Japan than in America or Britain. In theory, Japanese shareholders can vote directly on dividends and executive pay. They can even oust the entire board without cause. In practice, most Japanese investors defer to managers.
    Đó là vào đợt các cuộc họp cổ đông ở Nhật Bản. Phần lớn các hang buôn bán công khai đã tổ chức những cuộc họp thường niên- và khoảng 1.000 hãng tổ chức vào 28-6. Thông lệ này nhằm mục đích để khiển những tên tống tiền tập thể gặp nhiều khó khăn. Chúng là những kẻ tống tiền chuyên dọn rác tại những cuộc họp của các công ty nếu các công ty này nếu họ không thanh toán tiền cho chúng. Tuy nhiên năm nay các nhà quản lý Nhật Bản còn đang phải đối mặt với nguy cơ đe doạ hơn: các cổ đông là những ngưòi hoạt động chính trị.
    Luật doanh nghiệp hiện giờ thực sự rất dễ dàng cho các cổ đông ở Nhật Bản hơn là ở Mỹ và Anh. Về mặt lý thuyết, các cổ đông ở Nhật Bản có thể thanh toán trực tiếp bằng cổ tức và bằng các hình thức chỉ trả hành pháp. Học thậm chí có thể thay thế toàn bộ hội đồng quản trị mà không cần đưa ra nguyên do gì. Trong thực tế thì hầu hết các nhà đầu tư Nhật Bản đều chiều theo ý của các nhà quản lý.
    However, foreigners now own 28% of Japanese firms'''' shares. They have called on managers to use large cash reserves to increase dividends or buy back shares. Around 30 companies faced shareholder resolutions this year, almost twice last year''''s figure. Activists have also demanded revisions to articles of incorporation and the unwinding of recently established ?opoison pill? measures aimed at preventing hostile takeovers.
    Tuy nhiên các nhà đầu tư nước ngoài vẫn nằm giữ 28% cổ phần của các doanh nghiệp Nhật Bản. Họ vẫn kêu gọi các nhà quản lý sử dụng phương án dự trù tiền mặt nhằm tăng cổ tức hoặc mua lại những cổ phiếu mà mình đã bán. Khoảng 30 doanh nghiệp đang phải đối mắt với các cảm kết cổ đông năm nay, hầu hết là gấp đôi so với chỉ số năm ngoài. Các nhà hoạt động chính trị vẫn đang yêu cầu xem xét lại những bài báo về sát nhập doanh nghiệp và sự phát sinh một số nhữn phương sách độc hại mới được đưa ra gần đây nhắm vào việc tránh kiểm soát cổ phần đang tăng ồ ạt.
    The assertiveness has sent shivers through staid Japanese boardrooms. Managers fear they might lose control over boards and find their authority checked. Politicians and media demonise the activists as financial criminals who prize short-term gains over firms'''' long-term health.
    Việc quyết đoán này vẫn mang lại nhiều băn khăng cho các phòng họp báo tẻ nhạt ở Nhật Bản. Nhiều nhà quản lý lo ngại rằng họ có thể maat quyền kiểm soát hội đồng quản trị và nhận thấy rằng quyền hạn của họ vị hạn chế. Các nhà chính trị gia và phương tiền truyền thông đã biến những nhà hoạt động xã hội thành những tên tội phạm tài chính, những ngưòi muốn có được những lợi nhuận nhanh thông qua tính hình lâu dài của doanh nghiệp.
    Elsewhere activist shareholders have got firms to jettison assets or cut managers'''' pay. A senior German politician famously called them ?olocusts? in 2005. But in Japan, they are upending the tight-knit business culture to an even greater extent. This is because they are exposing many practices, such as the maintenance of large cash reserves, a reluctance to sack staff and close relationships with suppliers, buyers and cre***ors. Although these were responsible for Japan''''s post-war success, they are now seen as holding its firms back.
    After years of policy reforms and corporate restructuring that helped turn around the economy, Japanese companies have little debt and are making record profits. But strong operational management has exposed poor financial practices. Despite their hoards of cash, many firms offer shareholders meager returns. The cash and securities held by Japanese firms is equal to 16% of GDP; in America the long-term average is around 5%. And Japanese companies'''' return on equity is around 9%, compared with between 14% and 17% in America and Europe.
    Các cổ đông là những nhà hoạt động chính trị ở một số nơi khác đã nắm bắt được những công ty phải vứt bỏ tài sản hay cắt giảm chi phí của các nhà quản ly. Một nhà chính trị gia có kinh nghiệm ngưòi Đức đã gọi tình hình này là tỉnh hình khốn khó. Tuy nhiên, các nhà doanh nghiệp Nhật Bản vãn đang thúc đẩy một nền văn hoá thương mại khăng khít nhằm mở rộng thị trường. Đó là vì họ đang cố gắng đưa ra các thông lệ như duy trì khả năng dự trù tiền mặt, hạn chế sa thải nhân viên và hàn gắn mối quan hệ khăng khít với các nhà cung ứng, người mua và người cho vay. Dù rằng các cổ đông là những ngưòi hoạt động xã hội này vẫn có tinh thần trách nhiệm với những gặt hái sau chiến tranh của Nhật Bản những họ vẫn bị coi là rào cản của các công ty này.
    Sau nhiều năm cải cách và tu sửa lại đoàn thể đã giúp khôi phục lại nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhật Bản đã không mắc nhiều nợ và đã tạo ra nhiều lợi nhuận. Nhưng việc quản lý hoạt động mạnh mẽ đã để lộ ra những thông lệ tài chính yếu kém. Mặc dù họ đã dự trữ tiền mặt, nhưng nhiều công ty vẫn chỉ mang lại cho các cổ đông một khoản lợi nhuận ít ỏi. Tiền mặt và cổ phiếu do các công ty Nhật Bản nằm giữ tương đường với 16% GDP, tại Mỹ, mức nắm giữ trung bình này là vào khoảng 5%. Và lợi nhuận của các doanh nghiệp về cổ phần không lãi cố định là khoảng 9% so với 14% ở Mỹ và 17% ở Châu Âu.
    This suggests that Japanese managers could put their profits to better use, perhaps by returning more money to shareholders who could then invest it more productively. Many listed companies have book values greater than their stockmarket values?"which tends to send financial sharks into a feeding frenzy.
    Chính điều này đã gợi mở rằng các nhà quản lý Nhật Bản nên đem lới nhuận của họ để sử dụng hữu hiệu hơn, có thể bằng cách sinh lợi thêm cho các cổ đông, những ngưòi có thể đầu tư hiệu quả hơn. Rất nhiều doanh nghiệp cổ phần có giá trị tài sản lớn hơn giá trị trên thị trường chứng khoán-- điều này chắng khác gì việc tạo cơ hội cho thị trường cổ phiếu đóng băng

    Được minhtrang86_vn sửa chữa / chuyển vào 09:49 ngày 06/07/2007
  10. minhtrang86_vn

    minhtrang86_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2006
    Bài viết:
    1.147
    Đã được thích:
    0
    Steel Partners, based in America, has investments worth $4 billion in some 30 Japanese companies, including Sapporo, a brewer. At recent shareholder meetings, three companies passed poison-pill provisions to block Steel from buying controlling stakes. One such measure, adopted by Bull-Dog Sauce, in effect diluted Steel''s 10% stake to around 3%.
    After the meeting, the president''s eyes grew moist as she described how the 105-year-old condiment maker had felt it must take such action if it was to ensure its survival. This week a court ruled the dilution was acceptable, in what is seen as a test case on the legality of poison pills. Nearly 400 firms have gone ahead with such provisions since May. Other activist funds facing resistance include Ichigo Asset Management, The Children''s Investment Fund (TCI) and Dalton Investments.
    Steel Partnér tại Mỹ đã đầu tư trị giá 4 tỉ đô la Mỹ vào 30 doanh nghiệp Nhật Bản, trong đó có Sapporo, một doanh nghiệp ủ rượu. trong một cuộc họp cổ đông gần đây, 3 doanh nghiệp đã thực thi nhiều điều khoản bất lợi để ngăn cnar Steel mua giá trị tiền kiểm soát. Một phương sách như vậy đa được Bull-Dog Sauce chấp nhận, thực tế đã làm mất đí 10% tiền dấn vốn xuống còn 3%.
    Sau cuộc họp, vị chủ tịch này đã rớt nước mắt khi bà miêu tả làm thể nào mà một công ty chế biến đồ gia vị 105 tuổi này lại cảm thấy rằng mình nên làm như vậy nếu công ty muốn duy trì khả năng tồn tại. Tuần quan, một phiên toà đã phán xét rằng việc cắt giảm này có thể chấp nhận được , tại đó nó được coi như một bài kiểm tra về tính hợp pháp của điều khoản này. Gần 400 công ty đã đưa ra những điều khoản nhu vậy kể từ tháng 5. Một số nhà hoạt động xã hội khác vẫn khư khư chống đối như Quản lý tài sản Ichigo. quỹ đầu tư phát triển trẻ em và đầu tư Dalton.

Chia sẻ trang này