1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Như?fng bí mật Nga cu??a chiến tranh Việt nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi spirou, 29/05/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. levant57

    levant57 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/10/2003
    Bài viết:
    1.520
    Đã được thích:
    1
  2. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Hổ phụ sinh cẩu nhi. Ông Đặng này có đứa con làm cho Xịa, làm bay mất lưới tình báo của ta sau 1975 ở Mỹ. Con này tên Đặng Dung thì phải.
  3. chaungoanbac

    chaungoanbac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/01/2006
    Bài viết:
    3
    Đã được thích:
    0
    Bà Dung mới ra sách mới , tìm mua về đọc rồi chữi tiếp
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Để tăng cường trọng lượng của cuộc đối thoại này với Đại sứ Liên Xô, Washington có kế hoạch phái W.Averell Harriman tới Mát-xcơ-va để thuyết phục Liên Xô đóng một vai trò tích cực hơn nữa trong các cuộc đàm phán. Tên tuổi của Harriman rất có ý nghĩa trong lịch sử quan hệ Xô-Mỹ. Kinh nghiệm về quan hệ của ông đối với người Nga ngược trở lại đầu những năm 20, khi đó với tư cách là một thương gia trẻ tuổi và là người thừa kế một trong những tài sản lớn nhất nước Mỹ, ông nhận được từ chế độ Stalin một hợp đồng khai thác mỏ mangan ở vùng Georgia của Liên Xô. Công ty Mangan của Harriman ở Georgia từng là một phần quan trọng trong kế hoạch của Liên Xô để giành được sự thừa nhận của Mỹ đối với Liên Xô thông qua quan hệ kinh tế với một nước tư bản phát triển lớn nhất thế giới.
    Harriman đến Mátxcơva lần đầu tiên vào năm 1926 để gặp gỡ những nhân vật nổi tiếng như Bolsheviks, Maxim Litvinov và Leon Trotsky. Những chuyến đi tiếp theo của ông tới Liên Xô diễn ra trong thời kì Đại chiến II, trước tiên là phái viên đặc biệt của Tổng thống Roosevelt, sau đó là Đại sứ Mỹ ở Liên Xô. Harriman đã gặp Stalin nhiều lần và có rất nhiều kinh nghiệm trong các cuộc đối phó với nhà độc tài và những người bợ đỡ ông ta. Thực sự, ông ta đã giành được sự kính trọng của Liên Xô đến mức mà tên tuổi của ông đã được gắn mãi mãi với liên minh Liên Xô-phương Tây và chiến thắng trước Hitler. Chính bản thân Stalin đã dành sự chú ý đặc biệt cho vị đại sứ Mỹ.
    Sau chiến tranh Harriman vẫn tiếp tục là nhân vật có tiếng tăm trong mối quan hệ Xô-Mỹ. Ông có quan hệ cá nhân với Khruschev và Kosygin. Ông đã gặp Kosygin khi Kosygin mới chỉ là cán bộ thừa hành của Stalin. Như Harriman đã lưu ý trong một bức thư gửi cho Tổng thống Johnson sau cuộc bầu cử năm 1964: ?oTổng thống Roosevelt, Truman và Kennedy đã sử dụng tôi như là một cú đấm quyết định trong các cuộc đàm phán đặc biệt, ngoài những trách nhiệm thông thường của tôi. Do may mắn hoặc tốt số, thành tích chiến thắng của tôi cao đáng kinh ngạc?. Vậy nên khi vấn đề tìm kiếm những kênh thông tin thích hợp đối với Liên Xô nảy sinh, Harriman tỏ ra là một ứng cử viên hợp lý để phái tới Mátxcơva và bản thân ông ta cũng đồng tính mạnh mẽ với quyết định này.
    Chinh bản thân Harriman đã nghi ngờ sự khôn ngoan trong những díu líu của Mỹ vào Việt Nam và tin tưởng vào sự cần thiết phải tìm kiếm một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột. Theo quan điểm của ông, con đường dẫn đến hòa bình ở bán đảo Đông Dương đi qua Mátxcơva. Niềm tin của Harriman dựa vào đánh giá của ông về người lãnh đạo mới của Liên Xô. Ngay sau khi Khuskchev bị mất chức, Harriman đã thổ lộ với John Mc Cloy, một người cộng sự thân cận của Johnson, rằng ông hiểu rất rõ con người Kosygin và tin tưởng thủ tướng mới của Liên Xô là người có suy nghĩ thực dụng. Điều này ám chỉ rằng Kosygin, người đang phải bận tâm với những vấn đề của nền kinh tế Liên Xô thì Cuộc chiến tranh ở bán đảo Đông Dương là một cản trở lớn, gây tổn hao tiền bạc và những phương tiện khác cho một tình trạng hỗn độn không cần thiết. Vì thế nên Harriman tin tưởng những mong muốn của Washington để giải quyết cuộc xung đột trong thời gian ngắn nhất cũng nằm trong lợi ích của Liên Xô và sẽ có ích khi duy trì những kênh thông tin đáng tin cậy với Mátxcơva và yêu cầu các nhà lãnh đạo Liên Xô giúp đỡ trong vấn đề này. Ông đã nhất trí tới Liên Xô với tư cách cá nhân để thực hiện nhiệm vụ thăm dò tình hình.
    Ông bắt đầu thảo luận vấn đề này với Đại sứ Dobrynin trong tháng 6 và nhờ Dobrynin tìm hiểu xem liệu Mátxcơva có chấp thuận chuyến đi của ông không? Cuộc đối thoại của Gromyko với Kohler và Kennan đã củng cố quyết tấm của Harriman đến thăm Liên Xô, mặc dù, như ông đã nhấn mạnh trong cuộc nói chuyện qua điện thoại với đại sứ Liên Xô, ông sẽ không tới Liên Xô, trừ khi các nhà lãnh đạo Liên Xô chào đón ông. Cuối cùng Dobrynin đã gọi điện cho Harriman ngày 1 tháng 7 năm 1965 và thông báo với ông rằng các nhà lãnh đạo Liên Xô nhất trí gặp cựu ?ophái viên đặc biệt của thời Churchill và Stalin?. Harriman không như Kennan đã không dự định có một chuyến đi tình cảm. Tuy nhiên, để đảm báo tính chất bí mật của chuyến đi, ông đã thông báo chuyến đi của mình như là một kỳ nghỉ bình thường.
    Rõ ràng việc mạo hiểm này hoàn toàn là sáng kiến của Harriman, nhưng Johnson và Rusk khi đó nói chung ủng hộ ý tưởng của vị đại sứ (chức danh chính thức của Harriman ở Bộ Ngoại giao, mặc dù ông thích gọi là ?oThống đốc?, di sản thời gian cầm quyền của ông với tư cách là thống đốc bang New York). Rusk đã xác định được mục đích chuyến viếng thăm của Harriman trong một cuộc nói chuyện của ông với Dobrynin nàgy 3 tháng 6: ?oNgoại trưởng nói rằng, ông muốn làm rõ việc không gợi ý thống đốc Harriman dự định đàm phán chính thức về những vấn đề liên quan đến Việt Nam?. Ông nói rằng: ?oThống đốc Harriman chắc chắn ý thức được quan điểm của Mỹ và thông thạo trong mối quan hệ song phương và mong muốn được thảo luận những vấn đề trên cới nhà cầm quyền Liên Xô?. Nhưng nhiệm vụ chính của ông ta-Rusk nói-là xác định thái độ của Mát-xcơ-va trong cuộc tiếp xúc giữa hai bên, có liên quan gì đến sự dính líu của Mỹ vào Cuộc chiến tranh Việt Nam.
    Cả chính quyền lẫn Harriman đều không có ý định tiết lộ mục đích thật sự của chuyến công vụ. Trước khi đại sứ khởi hành, Bộ Ngoại giao nhắc nhở ông về sự cần thiết phải ?ohạn chế sự phán đoán của giới báo chí? với chuyến đi, nhất là giới báo chí Mátxcơva ?ocàng nhiều càng tốt?. Về công khai Harriman và vợ đang đi nghỉ. Nếu xuất hiện câu hỏi liệu Harriman có dự kiến gặp các nhà lãnh đạo Liên Xô trong chuyến viếng thăm của mình hay không, thì câu trả lời ?okhông? được loại trừ, vì ?oxét đến vị trí và quan hệ quen biết cá nhân của ông với các quan chức Pháp, Liên Xô và với Chính phủ khác?. Lộ trình chuyến đi bao gồm Paris, Mátxcơva, Bờ-rúc-xen, Tây Đức, Rô-ma, Ben-gơ-rát và Luân Đôn.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 8 tháng 7, Harriman tới Paris, tại đây ông đã thảo luận mục tiêu chính chuyến đi của ông với Bộ Ngoại giao PHáp, Couve De Murville. Ngày sau khi Pháp biết bối cảnh nhiệm vụ của Harriman, Couve De Murville đã thu hút sự chú ý của vị đại sứ về vị thế khó khăn của Mátxcơva. Ông lưu ý rằng, Liên Xô ?othực sự mong muốn hòa bình nhưng không có cách nào khác để gây ảnh hưởng theo hướng này?. Họ không thể làm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thất vọng. Couve giải thích, nhưng mặt khác, họ không muốn phó mặc cuộc xung đột ngày một gia tăng cho sự rủi ro. Với những thông tin gây lo lắng này, Harriman rời Paris đi Mátxcơva ngày 12 tháng 7.
    Harriman thông báo mục đích sự có mặt ở Mátxcơva là để tham dự một liên hoan phim quốc tế, mặc dù đã nhiều năm ông chẳng bước chân vào rạp chiếu phim và chỉ nhớ được vài bộ phim trình chiếu cho Stalin sau bữa tiệc chiễu đãi ở Điện Kremlin. Như đã dự kiến trước, hành vi khác thường của thống đốc đã gây ra sự chú ý của các nhà báo, họ đã hỏi đại diện chính quyền và cả Tổng thống Johnson trong một cuộc họp báo của ông vào ngày 13 tháng 7 rằng, liệu có phải chuyến đi của Harriman tới Mátxcơva có liên quan tới vai trò của Liên Xô ở Việt Nam. Johnson nhấn mạnh rằng, Harriman đang đi nghỉ và chính quyền không phái ông đi, mặc dù Tổng thống ?onhiệt tình ủng hộ lời phát biểu của Harriman rằng: ông rất vui lòng được gặp gỡ bất cứ ai thực sự muốn gặp gỡ ông?. Không ngạc nhiên chút nào, Thủ tướng Kosygin nằm trong số người này.
    Hai cuộc gặp gỡ giữa Kosygin và Harriman đã diễn ra tại Mátxcơva vào ngày 15 và 21 tháng 7. Trong hai dịp này tờ Pravda đã đăng những thông tin ngắn về những cuộc gặp gỡ nhưng không tiết lộ chi tiết. Những bài tường thuật cho biết Harriman đang ở thăm Liên Xô với tư cách cá nhân và đã bắt đầu những cuộc trò chuyện. Tuy nhiên, không giống như những trích đoạn tẻ ngắt của tờ Pravda, những cuộc hội đàm giữa hai nhân vật này tỏ ra sống động và giàu tình cảm.
    Theo báo cáo của Harriman về Washington, Kosygin đã gây cho ông ta một ấn tượng mạnh với tư cách là một người tin tưởng vào chủ nghĩa cộng sản và thắng lợi cuối cùng của nó. Thủ tướng ?onhìn thẳng vào mắt tôi?-Harriman viết-khi ông nói về chủ nghĩa cộng sản, các phong trào giải phóng dân tộc và việc Mỹ đe dọa hòa bình thế giới. Trong khi đó phái viên của Mỹ cũng nhận thấy Kosygin thực dụng và không giáo điều. Ông vô cùng lo lắng cho sự thành công của nền kinh tế Liên Xô. Ông có những lời phát biểu chân thành và khiêm tốn về tình hình quốc tế và hiểu biết của Liên Xô về tình hình hiện nay. Tóm lại, Harriman kết luận rằng Thủ tướng có ?oniềm tin, quyết tấm và lòng dũng cảm?.
    Đề tài của những cuộc trò chuyện trải dài từ Việt Nam đến Berlin tới những vấn đề vũ khí hạt nhân và quan hệ song phương. Thủ tướng Liên Xô phàn nàn rằng Johnson đã thay đổi phương hướng sau cuộc bầu cử và lặp lại phản đối của Liên Xô phản ánh thái độ thất vọng sâu sắc của Mátxcơva đối với những diễn biến ở Việt Nam. Liên Xô đã ủng hộ theo chủ nghĩa cho Johnson trong cuộc bầu cử vừa qua, Kosygin nói, nhưng Tổng thống không được như họ trông đợi. Harriman đã cố gắng thay đổi quan điểm như vậy về Johnson và có lẽ đã thành công, vì Kosygin đã trở nên ?omỗi lúc một thân thiện bày tỏ mong muốn? được gặp Tổng thống.
    Nhưng chủ đề chính của việc thảo luận là cuộc xung đột ở Việt Nam. Kosygin đã nêu rõ rằng, tình hình Việt Nam, mặc dù chỉ bó hẹp trong phạm vi bó hẹp của nó, nhưng có ảnh hưởng đến quan hệ giữa Mátxcơva và Washington. Cho dù Kosygin có mong muốn giải quyết được vấn đề Việt Nam nhiều đến đâu đi chăng nữa, thì dẫu sao ông cũng vẫn ủng hô ý kiến của Phạm Văn Đồng và không bị thuyết phục bởi những khẳng định của Harriman rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng không có tiếng nói của nhân dân miền Nam. Rõ ràng ông rất lo ngại về vị trí tế nhị của Liên Xô và tìm cách thông tin với Harriman rằng sự chạm chán với Bắc Kinh có ảnh hưởng nghiêm trọng hơn cả đến chính sách của Liên Xô ở bán đảo Đông Dương.
    Mặc dù bác bỏ vai trò trung gian trong cuộc tranh chấp Mỹ-Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Thủ tướng Liên Xô đã bày tỏ mong muốn tích cực cho một giải pháp ở Việt Nam và việc duy trì vĩ tuyến 17 như là một đường gianh giới. Điều này cho biết rằng Liên Xô không phả đối sự tồn tại của hai Việt Nam, một trong hai sẽ tiếp tục là thể chế không xã hội chủ nghĩa và có lẽ sẽ tồn tại một lượng hạn chế lực lượng quân sự Mỹ đón trên lãnh thổ.
    Cuộc đối thoại với Kosygin đã để lại trong Harriman những cảm giác trái ngược nhau. Như ông phát biểu trong một báo cáo gửi về Washington: ?oChuyến đi tới Mátxcơva đã đạt được trong chừng mực nhất định cao hơn mức tối thiểu mà tôi mong muốn và thấp hơn mức hy vọng tối đa của tôi?. Chắc chắn việc Harriman đến thủ đô Liên Xô và những cuộc gặp gỡ của ông với Kosygin tỏ ra rất hữu ích. Như Harriman lưu ý, đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của đại diện chính quyền Johnson kể từ khi lên nắm quyền năm 1964, với một thành viên của bộ ba cầm quyền Liên Xô, trừ những cuộc nói chuyện tình cờ ở các buổi lễ tân ngoại giao. Những cuộc thảo luận này đã giúp thảo luận một số vấn đề trong quan hệ song phương và tình hình thế giới và các nhà lãnh đạo Mỹ ?ocó một số hiểu biết sâu sắc? về suy nghĩ thái đạo, và các mục tiêu đối ngoại của các nhà lãnh đạo Liên Xô.
    Điều mà Harriman còn chưa đạt được là một sự bảo đảm chắc chắn của Kremlin để gây áp lực để buộc Hà Nội phải đàm phán theo những điều kiện của Mỹ. Trợ lý đặc biệt của Mc George Bundy vẫn còn nghi ngờ về những thành công của Harriman. Điều dường như nổi bật đối với Bundy là những lời bình luận của Kosygin ?okhá thông thường? về: một danh sách sách chuẩn mực những mục tiêu giải trừ quân bị, một bài phát biểu chuẩn mực ủng hộ Phong trào giải phóng dân tộc, một cuộc trao đổi chuẩn mực về Việt Nam. Nhưng ngay cả trong tình huống này vẫn có những sắc thái hứa hẹn đối với Mỹ.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Giám đốc Cơ quan tình báo và nghiên cứu của Bộ Ngoại giao, Thomas Hughes, trích dẫn những sắc thái này trong một thông báo gửi Rusk, ?oCó tính chất gợi ý hơn cả? là những nhận xét của Kosygin rằng Mỹ cần phải ?ođề nghị trở lại một điều gì đó đối với ý kiến bốn điểm của Phạm Văn Đồng. Gợi ý như vậy ?okhông có tiền lệ trong nhận xét của các nhà lãnh đạo Liên Xô hoặc Bắc Việt Nam?. Hughes đánh giá các diễn đạt của Thủ tướng Liên Xô về Việt Nam là ?omột gợi ý nghiêm túc và không đơn giản chỉ là một cách để phủi tay khỏi những đề tài này?. Kosygin lưu ý rằng Hà Nội không loại trừ một giải pháp chính trị và rằng bốn điểm của họ đưa ra có thể được điều chỉnh.
    Trong một nghĩa rộng hơn, Hughes viết, Thủ tướng Liên Xô chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo Liên Xô sẵn sàng thảo luận với Washington bất cứ vấn đề nào có vẻ phù hợp. Một ?odanh sách chuẩn mực? những tuyên bố của Liên Xô không có nghĩa rằng nó sẽ không bao giờ được sửa đổi và một mong muốn rõ ràng của Kosygin thấy cuộc xung đột Việt Nam được giải quyết, cũng như việc ông thúc giục Mỹ gặp các nhà lãnh đạo Việt Nam bất chấp Bắc Kinh và rằng Mátxcơva sẽ tiến đến đích này. Nhưng Washington phải có những bước đi tạo điều kiện thuận lợi cho hành động của Liên Xô.
    Ý tưởng về một sự điều chỉnh của Mỹ chiếm phần lớn chủ đề cuộc nói chuyện của Harriman với Yosip Broz Tito (nhà lãnh đạo Nam Tư) khi nhà cựu đàm phán này tới Bengơrat sau các chuyến viếng thăm Mátxcơva, Bờ-rúc-xen, Bon và Roma. Tito nói với Harriman rằng ấn tượng mà ông ta có được từ các nhà lãnh đạo Mátxcơva là tình hình bán đảo Đông Dương đặc biệt khó khăn cho Liên Xô, bởi vì Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam. Tito giải thích rằng: ?oLiên Xô không thể không đoàn kết với Hà Nội vì làm khác đi sẽ tự đưa mình vào một tình thế nguy hiểm là tự cô lập mình ở Đông Nam Á và các Đảng Cộng sản ở các nơi khác?. Với tư cách là một nhà độc tài cộng sản, dù chỉ là một cá nhân độc lập, ông ta hiểu rất rõ những mối lo ngại của Liên Xô. Nếu Mỹ muốn Liên Xô giúp đỡ, Tito nhấn mạnh, trước hết cần phải ngừng ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
    Nhưng chính quyền Johnson không có xu hướng làm chậm lại những hành động quân sự chống Hà Nội. Trái lại, trong tháng 7 Mỹ đã lập kế hoạch leo thang hơn nữa trong Cuộc chiến tranh Việt Nam. Ngày Harriman gặp gỡ Kosygin cũng là ngày Johnson triệu tập một cuộc họp tại Nhà Trắng để thảo luận đề nghị của Mc Namara gửi thêm 200.000 quân Mỹ tới Việt Nam. Những cuộc thảo luận như vậy giữa chính quyền và các nhà lãnh đạo quốc hội kéo dài tới ngày 28 tháng 7, khi Tổng thống thông báo quyết định của mình tăng tổng số quân Mỹ tại Việt Nam từ 75.000 lên 125.000 và nhấn mạnh rằng lực lượng bổ sung sẽ được gửi tới Việt Nam sau nếu có yêu cầu. Không chiến chống lai Bắc Việt Nam tương tự như vậy cũng gia tăng cường độ.
    Mặc dù Kosygin đã không thể biết được những kế hoạch này khi trò chuyện với Harriman, nhưng bằng thái độ ông đã tính đến khả năng leo thang hơn nữa của cuộc chiến chiến tranh. Trong hoàn cảnh như vậy, các nhà lãnh đạo Liên Xô không thể chấp nhận bất cứ nghĩa vụ nào có liên quan tới giải pháp cho cuộc xung đột. Thêm vào đó, Liên Xô cũng biết rằng quan điểm không hòa giải của Hà Nội lại càng được củng cố thêm bởi những hành động hiếu chiến của Mỹ. Chính quyền Johnson muốn tìm kiếm sự giúp đỡ của Liên Xô trong khi lại làm suy yếu những cơ sở cho điều đó.
    Sự giận dữ của Liên Xô bộc lộ vào ngày 6 tháng 8 trong một lễ tiếp tân tại Điện Kremlin chào mừng vua Áp-gan. Bài diễn văn của Kosygin bao gồm ?onhững nhận xét không thể chấp nhận được về hành động hiếu chiến đế quốc chủ nghĩa của Mỹ tại Việt Nam? (theo báo cáo của Kohler gửi về Washington).
    Do vậy mà vào mùa xuân và mùa hè năm 1965 cuộc chiến ở bán đảo Đông Dương đã tiếp cận một thời kỳ mới, nguy hiểm hơn mặc dù có những nỗ lực để ngăn chặn những diễn tiến sự việc chết người này. Những sáng kiến hòa bình đã thất bại trong việc đưa những bên tham chiến vào bàn đàm phán. Tuy nhiên, Hà Nội và Washington còn chưa cạn kiệt sự hiếu chiến tiềm tàng của họ.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương IV: Sân sau của Việt Nam
    Trong kế hoạch chiến tranh của mình chống lại Mỹ và chế độ Sài Gòn, các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam xem sự ủng hộ mạnh mẽ của phe xã hội chủ nghĩa ?olà một điều kiện quan trọng cho thắng lợi của Cách mạng Việt Nam?. Trong bài diễn văn tháng 4 năm 1965 vạch ra những nhiệm vụ mà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt sau khi Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc, Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh rằng người Việt Nam ?ocàng được phe xã hội chủ nghĩa ủng hộ và giúp đỡ trên tất cả mọi lĩnh vực, chủ nghĩa ủng hộ và giúp đỡ trên tất cả mọi lĩnh vực, thì họ càng có khả năng giành thắng lợi mạnh mẽ và quyết định? trước những kẻ thù của họ. Một năm sau đó, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của viện trợ xã hội chủ nghĩa: ?onhững thắng lợi? của nhân dân Việt Nam không chỉ là kết quả nỗ lực riêng của họ mà còn là của sự thông cảm, sự giúp đỡ và viện trợ vô bờ bến của các nước xã hội chủ nghĩa anh em?.
    Đây không phải chỉ đơn giản là tuyên bố mang tính công thức của Hà Nội mà là một đòi hỏi khách quan của tình hình Việt Nam, mà ngay cả những nhà quan sát không có thành kiến cũng ghi nhận sự thật này trong cuộc nói chuyện của họ với các quan chức Liên Xô. Chẳng hạn, Phó trưởng đoàn Ba Lan tham dự Ủy ban kiểm soát quốc tế về Việt Nam, đã nói với một nhà ngoại giao Liên Xô ở Campuchia rằng: thắng lợi ở miền Nam Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào người Việt Nam hoặc người Mỹ mà còn vào sự ủng hộ của các nước từ bên ngoài.
    Tại Bắc Việt Nam, nhu cầu về viện trợ quân sự và kinh tế từ các nước xã hội chủ nghĩa khác xuất phát từ nền kinh tế lạc hậu chỉ có khả năng sản xuất những trang thiết bị nhỏ cho quân đội. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phụ thuộc vào các nước khác để có được tất cả vũ khí hạng nặng và hầu hết các vũ khí nhỏ và đạn dược. Việt Nam không thể tự cung cấp vũ khí tinh xảo nhất, như máy bay siêu thanh, tên lửa và rađa hoặc số lượng đầy đủ ngay cả những vũ khí đơn giản hơn. Trong khi đó cuộc chiến tranh chống lại một kẻ thù hùng mạnh như ?ođế quốc Mỹ? đòi hỏi hậu cần phải vững chắc có khả năng cung cấp mọi phương tiện để giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh. Và cần thiết phải nuôi quân và dân cũng như sửa chữa lại những thiệt hại do không kích Mỹ gây ra. Không nghi ngờ gì Hà Nội không thể giải quyết những vấn đề này nếu không có sự giúp đỡ của các đồng minh xã hội chủ nghĩa, mà chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc.
    Liên Xô đứng đầu danh sách những cung cấp viện trợ. Tính chất của viện trợ kinh tế và quân sự của Liên Xô được xác định vào mùa xuân và mùa hè năm 1965, mặc dầu hàng hóa đã được chuyển đi từ Liên Xô vào tháng giêng và tháng hai năm đó. Khối lượng hàng viện trợ của Liên Xô tăng đều đặn từ năm 1965 đến 1968. Mátxcơva gửi tới miền Bắc Việt Nam các thiết bị công nghiệp, viễn thông, xe tải, trang thiết bị y tế, công cụ máy móc, quặng sắt và các kim loại không chứa sắt. Trong khi cung cấp viện trợ cho các đồng chí Việt Nam, lúc đầu khối lượng hàng viện trợ Liên Xô ít hơn của Trung Quốc. Đến năm 1967 toàn bộ viện trợ xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ước tính đạt khoảng 1,5 tỷ rúp (hơn 1,5 tỷ đôla nếu chuyển ra đôla theo tỷ giá hối đoái chính thức của Liên Xô 1 đôla=0,9 rúp). Phần của Liên Xô là 36,8% hay 547,3 triệu rúp (608,1 triệu đôla). Thời gian trôi qua, viện trợ của Liên Xô lên tới khoảng 50% của tổng số viện trợ của xã hội chủ nghĩa và vào năm 1968 nó đã đạt tỷ lệ 524 triệu rúp (582,2 triệu đôla). Những khoản viện trợ này hoàn toàn được tài trợ thông qua các khoản cho vay tín dụng dài hạn.
    Mặc dù hàng hóa của Liên Xô rất quan trọng cho ngành công nghiệp, viễn thông và nông nghiệp, song Bắc Việt Nam vẫn quan tâm nhiều hơn đến viện trợ quân sự. Hợp tác sự giữa hai nước được sự chú ý của các nhà lãnh đạo ở Mátxcơva và Hà Nội. Liên Xô bắt đầu viện trợ cho đồng minh Việt Nam của mình vũ khí và các trang bị quân sự vào năm 1953 (năm mà nó xuất hiện trong các bản báo cáo của các quan chức Liên Xô). Số lượng viện trợ quân sự của Liên Xô trước 1965 không lớn; phần lớn viện trợ được Trung Quốc cung cấp.
    Tình hình thay đổi căn bản từ năm 1965. Liên Xô tăng cường viện trợ quân sự của họ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và dần dần trở thành nguồn cung cấp chính các vũ khí và trang thiết bị hiện đại cho Bắc Việt. Theo một bản báo cáo của Bộ Ngoại giao ngày 26 tháng 10 năm 1965: từ năm 1962 Mátxcơva đã cung cấp cho Chính phủ Bắc Việt Nam xấp xỉ 200 triệu đôla trang thiết bị quân sự, kể cả máy bay. Hơn một nửa số này đã được chuyển đến trong năm 1965.
    Trong năm 1966-1967 Mátxcơva đã lĩnh trách nhiệm cung cấp 500 triệu rúp trang thiết bị cho lực lượng quân sự Bắc Việt Nam (xấp xỉ 550,5 triệu đôla) và đạt 1 tỷ rúp trị giá hàng quân sự tính từ năm 1953. Nhưng Liên Xô thực sự vượt giới hạn này vào năm 1968, đạt con số 1,1 tỷ rúp. Năm 1968 viện trợ quân sự cho Bắc Việt Nam chiếm khoảng hai phần ba tổng số viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tính ra được 357 triệu rúp (369,7 triệu đôla).
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Liên Xô đã cố gắng đáp ứng yêu cầu của Hà Nội đối với nhiều loại vũ khí và đạn dược khác nhau. Mối quan tâm chính của Liên Xô là bảo vệ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước các đợt không kích của Mỹ và tăng cường khả năng phòng không của Bắc Việt Nam. Mátxcơva gửi tới Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tên lửa ?ođất đối không?, máy bay phản lực chiến đấu, tên lửa, súng phòng không và các trang thiết bị phòng không khác. Tin tức tình báo của Mỹ đã báo cáo những dấu hiệu đầu tiên về vũ khí của Liên Xô vào mùa hè năm 1965, mặc dầu việc xây dựng những tụ điểm phòng không xung quanh Hà Nội và những sân bay quan trọng khác của Bắc Việt Nam đã bắt đầu vào mùa xuân năm đó. Gần như ngay từ đầu các trang thiết bị phòng không của Liên Xô đã chứng tỏ hiệu quả. Ngày 24 tháng 7 năm 1975, lần đầu tiên tên lửa ?ođất đối không? do Liên Xô chế tạo đã bắn máy bay Mỹ và hạ rơi một chiếc F4C trên đường đi tấn công một mục tiêu ở phía Tây Bắc Hà Nội. Trong Cuộc chiến tranh Việt Nam, tên lửa ?ođất đối không? có tính cơ động cao và gần như đối tượng không thể phát hiện ra, chứng tỏ được tiềm lực chiến đấu chống lại lực lượng không quân Mỹ. Cùng với máy bay chiến đấu, pháo phòng không và rada, tên lửa ?ođất đối không? đã trở thành những chướng ngại vật nghiêm trọng cho kế hoạch đàn áp Bắc Việt Nam bằng những nỗ lực quân sự của Mỹ.
    Vũ khí hiện đại bản thân chúng không đáp ứng được tất cả những nhu cầu của Bắc Việt Nam. Hà Nội cũng cần những cán bộ quân sự được đào tạo tốt: những người có kinh nghiệm vận hành các vũ khí do Liên Xô cung cấp. Điều này làm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phụ thuộc vào các cố vấn Liên Xô và đòi hỏi các quân nhân Bắc Việt Nam cần phải được gửi sang Liên Xô đào tạo. Mỗi năm trong cuộc chiến tranh Việt Nam có hàng ngàn lính và sĩ quan của Việt Nam được đào tạo tại các trường quân sự của Liên Xô. Năm 1966, theo báo cáo của đại sứ quán Liên Xô, 2.600 người Việt Nam được gửi tới đào tạo tại Liên Xô để phục vụ cho ngành không quân và phòng không. Năm 1966 chương trình đào tạo đã xây dựng được đội ngũ cán bộ cho một trung đoàn phòng không và kỹ thuật viên cho một trung đoàn không quân và hàng chục phi công trong số những người dân Bắc Việt Nam tham gia quân đội nhân dân Việt Nam.
    Rõ ràng một trong số những người được đào tạo tại Liên Xô sau đó đã giữ vai trò chỉ huy các đơn vị của Mặt trận giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mátxcơva biết điều này, vì phía Việt Nam không che giấu các quan chức ngoại giao Liên Xô tại Hà Nội, việc họ gửi số lượng ngày càng lớn quân lính của mình vào miền Nam Việt Nam. Hơn nữa, quân chính quy của Bắc Việt Nam với tư cách là ?olực lượng chủ lực cơ động? đã được sát nhập vào quân đội ********* bao gồm ?obộ đội địa phương? và ?oquân du kích?. ?oLực lượng chủ lực cơ động? được trang bị súng bắn tự động và súng cối hiện đại có khả năng tham gia các hoạt động đánh chiếm, bảo vệ khu vực đất đai chiếm được. Lực lượng này chịu trách nhiệm tấn công các căn cứ quân sự, sân bay Mỹ và hoạt động ở nhiều tỉnh của miền Nam. Số quân chính quân chính quy của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại miền Nam Việt Nam, được Bộ Ngoại giao Liên Xô đánh giá vào thời điểm năm 1967, lên tới 120.000 trong tổng số hơn 300.000 quân của Mặt trận giải phóng. Vì sự có mặt của các đơn vị quân chính quy tại miền Nam không giữ được bí mật với ai cả, lại càng không giữ được bí mật đối với người Mỹ. Vì vậy, Hà Nội đã chính thức thừa nhận sự thật này vào giữa năm 1967.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tuy nhiên Mátxcơva không lấy gì làm hài lòng với thông báo này. Các nhà lãnh đạo Liên Xô hẳn đã lo ngại về vai trò của họ trong việc trang bị vũ khí hiện đại cho các đơn vị ở miền Nam. Mátxcơva muốn tránh tiết lộ một số chi tiết về quan hệ của họ đối với Bắc Việt Nam và một số chi tiết như vậy là sự tham gia của các cố vấn Liên Xô. Đã có những dự báo rằng Liên Xô sẽ gửi chuyên gia quân sự tới Việt Nam một khi cuộc xung đột Đông Nam Á mở rộng. Tháng 2 năm 1965 Bộ Quốc phòng đã cảnh báo trước về việc chuyển giao các tình báo tên lửa đất đối không của Liên Xô cho Việt Nam. Nguồn tin quân sự Mỹ cho biết các bệ phóng tên lửa ?ogần như chắc chắn sẽ phải do quân đội Liên Xô vận hành vì nguồn tin này cho rằng không có người Bắc Việt Nam nào được đào tạo để điều khiển tên lửa ?ođất đối không? (surface to air-SAM). Vì vậy khi nhận được tin tức tình báo Mỹ báo cáo vào tháng 9 năm 1965 rằng, từ 1.500 đến 2.500 quân Liên Xô có lẽ đang có mặt ở Việt Nam khi đó, chính quyền Mỹ không hề ngạc nhiên về điều này. Báo cáo này dự báo rằng phần lớn các quân nhân Liên Xô là nhân viên vận hành SAM, ngoài ra, là các chuyên gia đào tạo và hỗ trợ. Tin tức tình báo không loại trừ khả năng về sự có mặt của 150 phi công Liên Xô và nhân viên bảo trì trong các nhóm đào tạo về không quân và 300 kỹ thuật viên khác tham gia vào các hoạt động quản lý, thông tin liên lạc và phục vụ hậu cần.
    Thông tin từ nguồn tin tình báo Mỹ rất chi tiết và được củng cố thêm trong một bản báo cáo vào cuối năm 1967 của Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội. Thông tin này tính ra có 1.165 chuyên ga quân sự Liên Xô tại Việt Nam chịu trách nhiệm bảo trì các loại vũ khí khác nhau và rada. Rõ ràng những chuyên gia chủ yếu là kỹ thuật viên và nhân viên vận hành SAM. Những báo cáo này đã lưu ý rằng những chuyên gia này cũng tham gia các nhiệm vụ chiến đấu, gợi ý cho một vai trò tích cực hơn. Trong báo cáo này đại sứ quán cho biết phần lớn các chuyên gia Liên Xô là nhân viên vận hành SAM và các phi công. Nhưng vẫn có một nhóm các chuyên gia quân sự thoát khỏi sự chú ý của Mỹ.
    Cùng với các kỹ thuật viên, phi công, nhân viên vận hành SAM, Mátxcơva đã gửi tới Việt Nam một nhóm đặc biệt chịu trách nhiệm thu thập mẫu vũ khí của Mỹ trong Cuộc chiến tranh Việt Nam. Để lập kế hoạch cho sự can thiệp của mình vào cuộc xung đột, các nhà lãnh đạo Liên Xô không chỉ lưu tâm tới các lợi ích chính trị, tư tưởng mà còn lưu tấm tới các cơ hội thử nghiệm trên chiến trường những kiểu vũ khí tiên tiến nhất của Liên Xô và một cơ hội để thu thập thông tin vũ khí mới nhất của Mỹ, thông qua việc nghiên cứu chiến lợi phẩm. Nhằm mục đích này, Mátxcơva đã ký một Hiệp định với Hà Nội yêu cầu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giúp Liên Xô thu thập, đánh giá những mẫu vũ khí và trang thiết bị quân sự Mỹ và gửi một nhóm các chuyên gia quân sự tới Việt Nam. Thành viên của nhóm này có nhiệm vụ thu thập các bộ phận máy bay Mỹ bị bắn rơi và các vũ khí chiếm được, kiểm tra những trường hợp vũ khí của Liên Xô không hoạt động tốt và gửi những kết luận với những mẫu hữu ích nhất về Mát-xcơ-va. Trên cơ sở của những dữ liệu thu thập này các chuyên gia quân sự Liên Xô chuẩn bị và đưa những đề xuất để điều chỉnh các loại vũ khí của Liên Xô phù hợp với trang thiết bị của Mỹ. Hoạt động này có hiệu quả rất lớn trong hai năm đầu Liên Xô tham gia vào Cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ tháng 5 năm 1965 đến đầu năm 1967, các chuyên gia ?ođặc biệt? của Liên Xô đã chuyển về Liên Xô hơn 700 mẫu các trang thiết bị quân sự Mỹ, kể cả những bộ phận máy bay phản lực, tên lửa, rada và trang thiết bị thám ảnh. Họ chuẩn bị một số bản báo cáo phân tích các vũ khí của Mỹ. Kết quả Chính phủ Liên Xô quyết định sao chép một số kiểu vũ khí Mỹ, chẳng hạn, tên lửa đạn đạo Sparrow-3, động cơ máy bay, các thiết bị điện tử trong ngành công nghiệp của Liên Xô.
    Các chuyên gia của Liên Xô cũng tìm ra phương pháp bảo vệ Bắc Việt Nam thoát khỏi không kích của Mỹ. Mặc dù tính hiệu quả của các hệ thống phòng không Liên Xô đã được thừa nhận, các chuyên gia Liên Xô vẫn tiến hành cải tiến vũ khí này, điều chỉnh nó phù hợp với khả năng của máy bay Mỹ. Chẳng hạn như, khi Mỹ sử dụng máy bay F-111A để ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Liên Xô đã tối ưu hóa các hệ thống phòng không Dvina của họ để chúng có thể bắn rơi máy bay đang bay với tốc độ cao lên tới 3.700 km một giờ. Sự cải tiến này chứng tỏ hiệu quả ngày 30 tháng 3 năm 1968, khi một máy bay F-111A bị hệ thống phòng không Dvina bắn rơi cách Hà Nội không xa. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô Andei Grechko đã báo cáo sự kiện trực tiếp lên Brezhnev.
    Không nghi ngờ gì nữa, sự có mặt của các cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam đã chứng tỏ tính chất lập lờ trong chính sách của Liên Xô đối với Cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trong khi các nhà lãnh đạo Liên Xô đang cố gắng tạo ra một hình ảnh tìm kiếm giải pháp hoà bình sớm nhất cho cuộc xung đột, các cố vấn Liên Xô tại Việt Nam đã chứng minh điều ngược lại và đó là sự tăng cường cam kết. Do đó, Mátxcơva nóng lòng muốn tránh công khai hóa việc viện trợ và kéo sự chú ý của thế giới ra khỏi vấn đề này. Để đạt mục đích đó, Liên Xô đe dọa gửi quân tình nguyện tới Việt Nam. Nếu làm một phép so sánh, việc triển khai một số lượng hạn chế các cố vấn Liên Xô tới Việt Nam có vẻ là việc làm ít tồi tệ hơn trong hai việc.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mátxcơva lặp đi, lặp lại gửi quân tình nguyện tới Việt Nam trong suốt diễn tiến Cuộc chiến tranh Việt Nam. Sau diễn văn của Brezhnev tại Quảng trường Đỏ ngày 23 tháng 3 năm 1965, một thông cáo chung Liên Xô-Bắc Việt Nam một tháng sau đó, các nhà lãnh đạo Liên Xô đưa ý tưởng này vào một số bài phát biểu và tuyên bố của họ. Việc khẳng định thái độ sẵn sàng gửi quân tình nguyện của Liên Xô đã được nêu ra trong Đại hội lần thứ 23, Đảng Cộng sản Liên Xô và trong lời kêu gọi của Liên Đoàn thanh niên cộng sản Liên Xô vào mùa xuân năm 1966. Nhưng chiến dịch tuyên truyền rầm rộ nhất về quân tình nguyện diễn ra ngày 6 tháng 7 năm 1966, khi các nước Vácxava đưa ra một tuyên bố chung tại Bu-ca-rét biểu thị thái độ sẵn sàng gửi quân tình nguyện tới Việt Nam để ?ogiúp nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh của họ chống lại quân Mỹ xâm lược?.
    Phương Tây ghi nhận rằng đây là lần đầu tiên một cam kết như vậy về quân tình nguyện được tất cả các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu đưa ra. Trước đây chỉ có Liên Xô đã tuyên bó một cam kết như vậy cùng với Bắc Triều Tiên và Cu Ba. Tuy nhiên các nhà phân tích phương Tây đã chú ý tới sự khác biệt giữa tuyên bố Bu-ca-rét với sự dè dặt, riêng tư của các quan chức các nước xã hội chủ nghĩa và kết luận rằng ?osự dứt khoát ngày càng tăng lên của cam kết này không nhất thiết phản ánh những quyết định triển khai nó?.
    Hình như bản thân Trung Quốc và Bắc Việt Nam có sự tự kiềm chế trong vấn đề này. Cả Hà Nội và Bắc Kinh vẫn ?otương đối kín tiếng? về vấn đề quân tình nguyện. Một báo cáo của Bộ Ngoại giao trích dẫn lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng trong khi Hà Nội rất biết ơn những lời đề nghị gửi quân tình nguyện, ?Sự giúp đỡ đã được đề nghị chưa cần thiết vào lúc này. Nhưng chưa rõ liệu trong tương lai chúng tôi có cần sự viện trợ này không?.
    Các nhà phân tích phương Tây suy nghĩ về tình hình thực tế ở các nước xã hội chủ nghĩa. Việc gửi quân tình nguyện chủ yếu vẫn chỉ là một chiến dịch tuyên truyền, cho dù có sự đảm bảo công khai của các nhà lãnh đạo Cộng sản. Việc quân tình nguyện đã được đưa vào tuyên bố Bu-ca-rét theo yêu cầu của Phạm Văn Đồng, người đã gắn lời phát biểu với những đợt không kích của Mỹ vào Hà Nội và Hải Phòng. Mục tiêu chính của tuyên bố này, theo các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam, nhằm đoàn kết các nước xã hội chủ nghĩa với Việt Nam.
    Vấn đề quân tình nguyện cũng được làm rõ nhiều lần trong các cuộc đàm phán giữa các quan chức Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bắc Việt Nam nói họ cần, trước hết là vũ khí và các trang thiết bị quân sự. Về ?onguồn nhân lực?, Việt Nam có đủ người. Bằng chứng nữa về việc không có ý định gửi quân tình nguyện tới Việt Nam đã được ghi nhận vào tháng 7 năm 1966, khi Marshall Aleksei Yepishev, Tổng tư lệnh chính trị các lực lượng vũ trang Liên Xô, tiết lộ với một nhà ngoại giao phương Tây rằng Hà Nội trước đó không hề yêu cầu ?oquân tình nguyện? và Liên Xô không chuẩn bị bất cứ quân tình nguyện nào. Thay vào đó, Liên Xô có lẽ xem xét gửi thêm máy bay chiến đấu MiG và vũ khí đã chứng tỏ hữu hiệu ở Đông Nam Á.

Chia sẻ trang này