1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Như?fng bí mật Nga cu??a chiến tranh Việt nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi spirou, 29/05/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mặc dù ý định thật sự là gì đi chăng nữa, nhân dân Liên Xô chấp nhận việc tuyên truyền về quân tình nguyện như giá trị bề ngoài của nó và viết thư gửi các nhà lãnh đạo bày tỏ việc họ sẵn sàng tới Việt Nam. Bộ Quốc phòng Liên Xô thông báo với Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô rằng trong năm 1966 họ đã nhận được 750 đơn của các sĩ quan và hạ sĩ quan Liên Xô đề nghị được tới Việt Nam với tư cách là quân tình nguyện. Do vậy mà vấn đề quân tình nguyện chủ yếu được sử dụng như một thủ đoạn tuyên truyền, như một phương tiện để gây sức ép với Mỹ, và trong một chừng mực nào đó như một làn khói che mắt việc gửi các cố vấn Liên Xô tới Việt Nam.
    Trong khi Liên Xô tăng cường viện trợ cho Bắc Việt Nam đến năm 1968 đã trở thành nước cung cấp vũ khí, đạn dược và trang thiết bị, thì ảnh hưởng của họ đối với Hà Nội không gia tăng ở mức độ tương xứng. Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn còn rất mạnh. Trung Quốc là một đồng minh lâu đời của chế độ Hồ Chí Minh, đã từng giúp ********* trong Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất chống Pháp. Trung Quốc đã từng gửi vũ khí, thực phẩm và cố vấn cho ********************** và có toàn quyền để chia sẻ với họ thắng lợi Điện Biên Phủ năm 1954.
    Sau Cuộc kháng chiến chống người Pháp kết thúc, Trung Quốc cung cấp cho nhà nước Cộng sản non trẻ ở Bắc Việt Nam sự giúp đỡ cần thiết để cung củng cố chính quyền của mình và tích lũy các phương tiện cần thiết để chống lại chế độ Sài Gòn (và người ủng hộ là Mỹ). Đầu năm 1960, chính Trung Quốc đã cung cấp khối lượng viện trợ lớn, kể cả vũ khí và trang thiết bị quân sự cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chứ không phải Liên Xô. Vào cuối năm 1964, Trung Quốc đã cung cấp cho đồng minh Bắc Việt Nam 457 triệu đôla trị giá hàng viện trợ (48%), trong khi Liên Xô là 370 triệu đôla hay 40%.
    Khi Cuộc chiến tranh bắt đầu leo thang năm 1965, Trung Quốc tiếp tục là nước dẫn đầu về viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo đánh giá của Liên Xô, từ năm 1955 đến 1965 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã cung cấp cho Việt Nam 511,8 triệu rúp viện trợ kinh tế (khoảng 569 triệu đôla). Trong tổng số này, 302,5 triệu rúp (336 triệu đôla) được cung cấp dưới dáng các khoản viện trợ.
    Mặc dù năm 1958 Trung Quốc để mất vi đứng đầu trong việc viện trợ, nhưng họ tiếp tục cung cấp một khối lượng lớn viện trợ cho Bắc Việt Nam. Chẳng hạn, Bắc Kinh là nguồn cung cấp chủ yếu ngoại tệ mạnh cho Mặt trận Giải phóng Dân tộc. Năm 1966, Trung Quốc gửi cho ********* 20 triệu đôla, năm 1967 khoản viện trợ này lên đến 30 triệu đôla. Và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiếp tục cung cấp thực phẩm và vũ khí cho Bắc Việt Nam.
    Không kém phần quan trọng, là việc Trung Quốc tiếp tục duy trì sự có mặt quân sự trên lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các đơn vị quân đội Trung Quốc được triển khai ở một số tỉnh Bắc Việt Nam theo một hiệp định được bí mật kí giữa hai nước vào năm 1965. Quy mô lực lượng này được đánh giá ở mức từ 60.000 đến 100.000 người vào giữa năm 1967. Phần lớn lực lượng này là các đơn vị ?okỹ sư đường sắt? hay các đơn vị ?okỹ sư thông thường? cũng như các đơn vị hỗ trợ quân sự. Nhưng cũng có một số quân chính quy chịu trách nhiệm về phòng không của các tỉnh phía Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra, Trung Quốc còn phân ba trung đoàn máy bay chiến đấu MiG-17 bảo vệ lãnh thổ Bắc Việt Nam chống lại sự xâm nhập có thể xảy ra của máy bay Mỹ.
    Những trung đoàn đầu tiên của Trung Quốc được đưa tới Bắc Việt Nam năm 1965. Việc triển khai quân đội Trung Quốc này đã cho phép Bắc Việt Nam, sau khi Mỹ đưa quân đế miền Nam Việt Nam, tập trung quân chiến đấu tại miền Nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khi đó các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam hiểu rõ rằng sự có mặt của quân đội Trung Quốc chứa đựng nguy cơ về sự phụ thuộc lớn vào Bắc Kinh, đặc biệt là vì số lượng quân Trung Quốc và quân Việt Nam tại các tỉnh Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gần như tương đương. Hà Nội phản đối những lời đề nghị của Trung Quốc gửi thêm quân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tới lãnh thổ Việt Nam.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Những nhân tố khác xác định vị thế mạnh mẽ của Trung Quốc tại Bắc Việt Nam: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phụ thuộc vào sự cộng tác của Trung Quốc để có sự viện trợ từ các nước khác, kể cả Liên Xô. Bởi vì khối lượng lớn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa khác phải đi qua lãnh thổ Trung Quốc (theo một nguồn tin Trung Quốc, mỗi tháng từ 8 tới 9 ngàn tấn hàng hóa được chuyển tới Việt Nam Dân chủ Cộng hòa qua ga đường sắt ở Pinhxiang. Hà Nội phải thận trọng để không bị cắt đứt kênh phân phối này bằng cách không làm hỏng mối quan hệ với ?ongười láng giềng khổng lồ phương Bắc?. Và chắc chắn sự gần gũi về mặt địa lý đã đóng một vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa hai nước, vì Trung Quốc là người hàng xóm bên cạnh của Bắc Việt Nam.
    Tuy nhiên sự gần gũi về mặt địa lý và sự viện trợ của Trung Quốc hẳn đã không thể có tầm quan trọng như vậy đối với các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam, từ phi cũng có sự liên hệ gần gũi về ý thức hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Các nhà cộng sản Việt Nam chia sẻ với những người đương nhiệm Trung Quốc quan điểm về cuộc xung đột ở Đông Nam Á và về tình hình quốc tế, về vai trò của Phong trào cộng sản trên thế giới và về những Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, về việc giảm tình trạng căng thẳng và về những triển vọng của sự chung sống hòa bình giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
    Thái độ ủng hộ Trung Quốc mạnh mẽ phổ biến trong các nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khi các chính trị gia, những người thông cảm với Liên Xô đã bị cách chức trong giai đoạn bất hòa giữa Mátxcơva và Hà Nội vào đầu những năm 60, thì những nhà lãnh đạo có xu hướng ủng hộ Trung Quốc đã đủ mạnh để vượt qua thiên hướng của một số Ủy viên Bộ Chính trị Việt Nam về cách tiếp cận được chia sẻ đồng đều hơn đối với hai đồng minh. Xu hướng này đã được thể hiện trong sự tuyên truyền tương đối phong phú của Trung Quốc ở Bắc Việt Nam. Trong khi đó việc tuyên truyền của Liên Xô chỉ giới hạn ở những cuộc triển lãm và những bộ phim được chiếu trong dịp những ngày lễ lớn. Những chiến sĩ chống Liên Xô của Trung Quốc vẫn tiếp tục, mặc dù có những phản đối mạnh mẽ của Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội. Các nhà ngoại giao và các quan chức khác của Trung Quốc được hưởng nhiều tự do hơn so với các đồng nghiệp Xô Viết. Các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã liên tục đến Bắc Kinh để xin ý kiến Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai về những vấn đề quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhìn chung, theo một kết luận không lấy gì làm dễ chịu của Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội: ở miền Bắc Việt Nam hiện nay có nhiều sự thông cảm đối với Trung Quốc hơn là đối với Liên Xô. Những người Xô Viết thei kịp với những diễn biến trong các mối quan hệ Bắc Việt Nam-Trung Quốc. Họ để ý đến mọi dấu hiệu của sự bất hòa đó cho những lợi ích riêng của họ. Mátxcơva đầu tiên nhận được những dấu hiệu như vậy từ năm 1965 qua báo cáo của các nhân viên ngoại giao và các nhà báo về sự phật ý đang tăng lên ở Hà Nội với chính sách của cộng sản Trung Quốc. Theo báo cáo này, các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam đã bắt đầu nghi ngờ về những mục đích đầu tiên của Bắc Kinh ở Đông Nam Á. Sự thay đổi thái độ của các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể giải thích bằng những diễn biến mới trong các mối quan hệ giữa Liên Xô và Bắc Việt Nam. Hợp tác với Mátxcơva sẽ tạo cho Hà Nội một cơ hội để thoát khỏi sự bảo trợ quá đáng của Trung Quốc và có một vị trí độc lập hơn trong quan hệ giữa Bắc Việt Nam và Bắc Kinh. Mặc dù sự chuyển hướng này trong chính sách của Bắc Việt Nam không hứa hẹn một thành công ngay lập tức với các nhà lãnh đạo Xô Viết, nhưng Liên Xô đã sẵn sàng chiếm lấy điều đó.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Kremlin trông đợi vào một nhóm các nhà chính trị thực dụng trong giới lãnh đạo Bắc Việt Nam, họ là những người không hài lòng với ảnh hưởng mạnh mẽ của Trung Quốc ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và mong muốn có được một chính sách mang tính dân tộc cao hơn. Liên Xô đã đuợc thông báo rằng, nhóm đó đang tồn tại ở Hà Nội và thực sự bao gồm những nhân vật lỗi lạc như Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp với sự ủng hộ ngầm của Hồ Chí Minh. Liên Xô cũng có được một số người ủng hộ mình trong số các công chức bậc trung và bậc thấp và cũng như trong số các viên chức của Đảng, họ là những người chống lại đường lối theo chiều hướng của Trung Quốc và sẵn sàng ủng hộ những chuyển hướng theo Liên Xô. Rõ ràng là Liên Xô không thể sử dựng sức ép trực tiếp đối với các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam do sợ bị mất họ. Thay vào đó, Liên Xô đã sử dụng những biện pháp tinh tế hơn để theo đổi hai mục tiêu có liên quan đến nhau.
    -Giúp đỡ các nhà lãnh đạo Việt Nam có được một vị trí độc lập hơn (từ Trung Quốc) trong chính sách đối ngoại và đối nội của họ.
    -Lôi kéo các đồng chí Việt Nam theo ?omột tình hữu nghị và hợp tác hơn nữa? với Liên Xô.
    Để đạt được những mục tiêu này, Kremlin đã huy động mọi sức mạnh tuyên truyền của mình. Trong rất nhiều cuộc gặp giữa các quan chức Liên Xô và Bắc Việt Nam cũng như trong các cuộc hội đàm ở cấp cao, Mátxcơva tranh thủ mọi cơ hội để ?ovạch mặt bản chất xảo trá? của Bắc Kinh và khuyến khích Hà Nội thực hiện những bước đi độc lập trong phạm vi chính sách đối ngoại. Liên Xô cố gắng đưa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào cuộc xung đột bằng cách để Hà Nội tự thảo luận với Bắc Kinh về những vấn đề viện trợ cho Việt Nam, đặc biệt là việc vận chuyển viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa qua lãnh thổ Trung Quốc.
    Những nỗ lực của Liên Xô nhằm thúc đẩy sự bất hòa giữa Trung cộng và Bắc Việt Nam đạt tới đỉnh cao trong cuộc ?o*****************? do một phe nhóm thân Mao trong tầng lớp lãnh đạo Trung Quốc gây ra.
    Hà Nội rất lo lắng trước cuộc đấu đá giành quyền lực ở Bắc Kinh và về những ý đồ củ Trung Quốc lôi kéo Việt Nam tham gia vào cuộc đấu đá này. Năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cử một Ủy viên đến Bắc Kinh để đánh giá tình hình ở Trung Quốc và những hậu quả của nó đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Những kết quả của chuyến đi tìm hiểu thực tế này đã cảnh báo các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam, họ lo sợ rằng thắng lợi sắp đến nơi của Mao có thể dẫn đến sức ép của Trung Quốc đối với Hà Nội tăng lên. Báo cáo cũng báo dộng về một nhóm các nhà chính trị Việt Nam lỗi lạc trước kia, những người đã chống lại chính sách của Hà Nội đề ra đầu những năm 60 và đã bị cách chứ và bất đồng quan điểm. Nhóm này quyết định ủng hộ mong muốn của Lê Duẩn nhằm hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc ở trong nước và ngăn cản sự thống trị của những nhân vật ủng hộ Trung Quốc trong giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
    Những thành viên của nhóm đối lập này trông chờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô đối với những nỗ lực của họ. Trong cuộc gặp với các quan chức Liên Xô, những người Việt Nam này đã đề nghị những người bạn Xô Viết gây sức ép để Hà Nội cắt sự ủng hộ không có hiệu quả trong các kế hoạch của Bắc Kinh ở Đông Nam Á. Họ cũng cảnh báo rằng việc gây sức ép đó nên được thực hiện một cách cẩn thận, không xúc phạm đến lòng tự trọng của các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam, và không nên lặp lại những sai lầm như Khruschev đối với Tito và người Anbani. Những người không theo trào lưu chung của Đảng cũng chỉ ra rằng tốt hơn là Liên Xô nên giữ một lời kêu gọi bằng văn bản cho Hà Nội để thực hiện những quan điểm của phía Liên Xô. Vì đây là những bước đi thực tế nên giới lãnh đạo Việt Nam sẽ có thể phải theo. Mátxcơva cố nhiên là công nhận những lời đề nghị này nhằm kéo Việt Nam khỏi Trung Quốc.
    Do nhận thức được sự ủng hộ có bảo đảm của Mátxcơva và nhận thức được cuộc cạnh tranh giữa hai siêu cường cộng sản nhằm giành lấy ảnhhưởng ở Đông Nam Á, giới lãnh đạo Việt Nam coi đây là một cơ hội duy nhất để ?obắt cá hai tay?. Hà Nội sẵn sàng duy trì những mối quan hệ hữu nghị với cả hai đối thủ và do đó sẽ nhận được tất cả sự ủng hộ có thể từ những nhà ?oxét lại? Xô Viết cũng như là ?obành trướng? Bắc Kinh.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhiều nhà phân tích Hoa Kỳ đã tranh cãi về triển vọng này thậm chí trước khi Mỹ leo thang chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa? triển vọng này quá rõ ràng đối với các đại sứ Mỹ ở Đông Nam Á, và được thể hiện trong các dự báo mà họ gửi về Washington đầu năm 1965. Cộng đồng tình báo Mỹ cũng dự báo rằng Liên Xô và Trung Quốc sẽ cạnh tranh để giúp đỡ Việt Nam và như vậy sẽ đem lại cho Hà Nội một cơ hội để có được nhiều viện trợ hơn từ cả hai nước.
    Mặc dù, trên thực tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã coi dự báo này là đúng, nó phức tạp hơn nhiều so với điều mà Washington dự báo. Chính sách này không chỉ đơn giản là kết quả của sự tính toán chính xác mà nó còn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi lòng tin sắt đá của những người Cộng sản Việt Nam và bởi những quan điểm của họ về một cuộc đấu tranh chống ?ođế quốc Mỹ?. Như Douglas Pike đã nhận xét, trong suốt cuộc chiến tranh, những người Cộng sản Việt Nam đã duy trì một quan điểm ?ocứng rắn một cách cực đoan và bảo thủ? đối với kẻ thù của họ ở phía Nam. Và đối với những đóng góp của họ cho ?otiến trình cách mạng thế giới? và với trách nhiệm của các nước xã hội chủ nghĩa khác đối với họ? ?oMỗi một quốc gia cộng sản, dù lớn hay nhỏ-lời của một nhà lý luận Cộng sản Hà Nội-đều có cả lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế. Và để giải quyết những vấn đề này, một nước nhỏ (như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) phải được tự do quyết định những lợi ích và nghĩa vụ của nó mà không nên bị ép buộc phải thực hiện bởi một quốc gia lớn hơn (như Liên Xô hoặc Trung Quốc). Tuy nhiên một số quốc gia nhỏ cũng có quyền trông đợi sự giúp đỡ từ những nước lớn. Như vậy, lời tuyên bố này đã xác định rằng Liên Xô (và Trung Quốc) phải giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dưới danh nghĩa vô sản quốc tế nhưng cũng với tinh thần như vậy-họ không thể đưa ra những đòi hỏi đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vì như vậy là vi phạm đến quyền tự quyết. Có một câu hỏi đặt ra là trong khái niệm này thì đâu là sự tính toán thực tế và đâu là niềm tin trung thực. Hòa quyện lại với nhau, cả hai điều này hình thành nền móng trong chính sách đối ngoại của nươc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai khái niệm này cũng đã khẳng định hành vi cư xử của Bắc Việt Nam với Liên Xô. Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội đã mô tả hành vi cư xử này của Bắc Việt Nam như là một cách tiếp cận ?odân tộc chẹp hòi? đối với vài trò của Liên Xô trên vũ đài quốc tế và ở Việt Nam.
    Miêu tả xa hơn về cách tiếp cận này, Đại sứ quán Liên Xô giải thích rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác như là ?omột hậu phương của Việt Nam?. Giới lãnh đạo Bắc Việt Nam tin tưởng rằng, chỉ có Đảng Lao động Việt Nam mới có thể đánh giá đúng mức tình hình ở Đông Nam Á và có thể tìm ra những phương pháp thích hợp để giải quyết vấn đề Việt Nam, do đó tất cả các nước xã hội chủ nghĩa phải có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp của Hà Nội. Nói một cách khác, theo quan điểm của Liên Xô, Bắc Việt Nam đang chứng minh cho thấy đó là một nước độc lập và cứng đầu.
    Thái độ này của Liên Xô được thể hiện ở hầu hết các khu vực trong các mối quan hệ Liên Xô-Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Do đó, giới lãnh đạo Bắc Việt Nam đã phải miễn cưỡng thông báo với các đồng nghiệp Liên Xô những thông tin về tình hình chính trị ở Việt Nam và Đông Dương. Họ giấu giếm thực trạng các vấn đề nội bộ của Đảng Lao động và các diễn biến trong mối quan hệ giữa Hà Nội với Bắc Kinh. Hà Nội không muốn chia sẻ với Mátxcơva về những kế hoạch tác chiến hoặc những quan điểm của họ về những biện pháp khả thi để giải quyết cuộc xung đột. Để đáp lại những thắc mắc dai dẳng của Mátxcơva về các kế hoạch tác chiến của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1967, Phạm Văn Đồng thậm chí còn trả lời rằng Bắc Việt Nam không có những kế hoạch tác chiến đó vì họ hành động theo tình hình đang diễn ra.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Không còn nghi ngờ gì nữa, sự giấu giếm của Hà Nội bị ảnh hưởng bởi nỗi e ngại về việc gây nguy hại đến các mối quan hệ với Trung Quốc. Nhưng một đặc tính kiên trì trong thái độ của Bắc Việt Nam vẫn giữ nguyên thậm chí sau khi tình hữu nghị giữa hai nước châu Á này xấu đi. Do vậy, các nhà ngoại giao của Liên Xô ở Bắc Việt Nam kết luận rằng ?oMặc dù có biểu hiện của sự bất hòa nghiêm trọng giữa Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhưng điều đó thực sự không có nghĩa là giữa Việt Nam và Liên Xô đã tự khôi phục lại được mối quan hệ hợp lý.
    Mátxcơva cũng không hài lòng với thái độ của Bắc Việt Nam đối với vấn đề hợp tác kinh tế và quân sự. Đối với viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam như là một nghĩa vụ quốc tế đối với ?oNhân dân Việt Nam anh hùng?, Hà Nội đã sử dụng nguồn viện trợ này một cách đặc biệt cho lợi ích riêng của nó. Giới lãnh đạo Việt Nam tận dụng mọi cơ hội để đề nghị các đồng chí Xô Viết mở rộng sự giúp đỡ, nhưng Hà Nội đã không đáp lại sự quan tâm của đồng minh một cách đúng mực, họ từ chối xem xét đến những lợi ích và hiểm họa của người bạn đồng minh của mình và từ chối đáp lại một cách tích cực những yêu cầu của Liên Xô đưa ra.
    Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhận được rất nhiều thiết bị công nghiệp, các loại máy móc, mô tơ điện và xe tải. Hầu hết các thiết bị này có thể được sử dụng để tái thiết các nhà máy, các nhà máy điện, nhà ga xe lửa và những cánh đồng bị bom Mỹ phá hoại. Và Hà Nội đã liên tục kêu cứu viện trợ bổ sung những thiết bị trên. Nhưng chỉ một phần viện trợ được sử dụng cho việc thái thiết. Phần còn lại thì được dự trữ để sử dụng lâu dài. Những chiến thuật này của Việt Nam không có ý nghĩa đối với Liên Xô bởi vì những hàng viện trợ này người Liên Xô không dùng đến nữa, thậm chi chúng còn là loại hàng mà Liên Xô bỏ đi không thương tiếc. Hàng viện trợ được cất giữ ngoài trời, không xa các nhà ga và bến cảng, vì lý do thời tiết nên chúng nhanh chóng trở thành đống sắt gỉ, thế nhưng nhu cầu về hàng viện trợ thêm thì vẫn còn. Theo số liệu của Đại sứ quán Liên Xô, 26 triệu rúp (hơn 29 triệu đôla) giá trị thiết bị công nghiệp không dùng đến đã bị chất đống ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào cuối năm 1966.
    ?oNhững người bạn? Việt Nam đã không còn tiết kiệm đối với viện trợ quân sự của Liên Xô. Họ yêu cầu Mátxcơva cung cấp nhiều tên lửa, đạn pháo và thiết bị rada hơn nhưng lại quá lãng phí chúng. Các chuyên gia quân sự Liên Xô ghi nhận những vụ việc này, ví dụ như trong một lần Việt Nam phóng tên lửa phòng không mà họ không chuẩn bị những dữ liệu cần thiết, đơn giản chỉ để doạ máy bay Mỹ, mà gọi những lần phóng tên lửa như vậy là ?osự thực hiện những nhiệm vụ chiến thuật?, song chẳng qua chỉ là việc lãng phí một cách thái quá.
    Bộ đội Bắc Việt Nam đã vi phạm những quy định về lưu trữ đối với vũ khí quân sự của Xô Viết và phớt lờ lời khuyên của Liên Xô về việc sử dụng các thiết bị này. Cả hai vấn đề trên đã dẫn tới việc hỏng hóc vũ khí. Một chuyên gia quân sự Liên Xô phàn nàn rằng, mặc dù Việt Nam được trang bị các loại rađa tốt, nhưng do các tư lệnh quân đội từ chối sử dụng đúng chỉ dẫn của các chuyên gia Xô Viết nên đã làm giảm thín hiệu quả của hệ thống phòng không của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
    Các quan chức Việt Nam tìm cách thanh minh những vụ việc trên bằng việc đổ lỗi cho các loại vũ khí Liên Xô không hoàn thiện. Họ đưa ra những lời đồn đại rằng Liên Xô trang bị cho Việt Nam những loại vũ khí và thiết bị quá hạn sử dụng mà Liên Xô không cần đến nữa. Họ hạn chế số lượng máy bay Mỹ bị bắn rơi bằng tên lửa của Liên Xô, trong khi đó những mất mát máy bay Việt Nam do Liên Xô sản xuất thì được giải thích là vì chất lượng của máy bay tồi. Đồng thời các nhà lạnh đạo Hà Nội liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của sự giúp đỡ về tinh thần và vật chất của Liên Xô, đồng thời họ đánh giá cao sự ủng hộ của Liên Xô trong cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Các quan chức Việt Nam liên tục vi phạm thoả thuận với Liên Xô về việc kiểm tra các loại vũ khí quân sự của Mỹ. Một nhóm cố vấn quân sự đặc biệt do Matxcơva phái đến Hà Nội để thực hiện mục đích này đã gặp phải rất nhiều khó khăn phần lớn do các quan chức Việt Nam gây ra: họ bịa ra rất nhiều lời biện hộ để không cho các chuyên gia Liên Xô có cơ hội để xem xét quả tên lửa này hoặc khẩu súng kia của Mỹ. Các lời giải thích chính thức đó là các viện bảo tàng và các khu triển lãm của Việt Nam cần các vật trưng bày, và rằng các địa phương ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền đối với các chiến lợi phẩm này, và rằng các chuyên gia Việt Nam cần kiểm tra các loại vũ khí thu được này. Đôi lần quan chức cấp cao của Liên Xô đã phải nêu vấn đề về việc tiếp cận các chiến lợi phẩm trong các cuộc hội đàm với Phạm Văn Đồng và Lê Duẩn nhằm giải quyết vấn đề đó. Tất cả các chuyên gia Liên Xô làm việc ở Việt Nam đã được chứng kiến sự giấu giếm và trò chơi hai mặt của các đồng chí Việt Nam. Các nhà ngoại giao và các nhà chuyên môn khác bị đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của lực lượng an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Họ sống trong một bầu không khí thiếu tin cậy và bị ngờ vực. Các quan chức của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, cố gắng ngăn chặn sự tiếp xúc giữa người Liên Xô và người Việt Nam, phía Việt Nam nghi ngờ rằng các chiến sĩ đồng mình của họ có thể thu được những tin tức bí mật bằng những kiểu gặp gỡ như vậy. Vào đầu năm 1968, Liên Xô nhận được tin về việc Bắc Việt Nam bắt giữ một số người dân vì họ đã tiết lộ tin tức bí mật cho các nhân viên ngoại giao nước ngoài. Tháng 3 năm 1968, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đưa ra một luật lệ nhằm trừng trị hoạt động phản cách mạng. Đại sứ quán Liên Xô đã phàn nàn rằng thực tế luật lệ này ?ođã làm giảm nghiêm trọng sự tiếp xúc của chúng tôi với các công dân Việt Nam, những người mà giờ đây lo sợ những hậu quả có thể xảy ra". Đồng thời nhà cầm quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng đã thực hiện những hạn chế hà khắc đối với những người Liên Xô, họ không được đi lại tự do, thậm chí ngay trong Hà Nội. Một thái độ đáng kể nhất về thái độ của Việt Nam đối với Liên Xô đã được thể hiện trong bức thư của Bộ Hàng hải thương mại Liên Xô gửi Xô Viết tối cao ngày 18 tháng 7 năm 1966. Qua việc miêu tả các hành động của người Việt Nam ở cảng Hải Phòng, Bộ này đã nói rằng lãnh đạo cảng Hải Phòng đã cố ý trì hoãn việc dỡ hàng của các tàu Liên Xô và giữ các tàu đó tại cảng bởi vì những con tàu này có thể hạn chế thiệt hại do bom gây ra đối với cảng khi Mỹ ném bom. Hơn nữa, lãnh đạo cảng Hải Phòng thường xuyên xếp những con tàu của Liên Xô gần những điểm dễ bị ném bom nhất, ví dụ như gần những khẩu pháo phòng không nhằm đảm bảo sự an toàn cho những khẩu pháo này trong các cuộc ném bom của Mỹ. Trong các cuộc tấn công không quân của Mỹ, các tàu quân sự Việt Nam sử dụng các con tàu của Liên Xô như một lá chắn trong khi họ bắn trả các máy bay của Mỹ.
    Do vậy, các mối quan hệ giữa Liên Xô và Bắc Việt Nam rất phức tạp trong giai đoạn 1965-1968. Những người Cộng sản Việt Nam hoá ra là những người đồng minh không tin cậy và ích kỷ, thường gây ra những khó khăn cho các đồng chí Xô Viết của họ. Ảnh hưởng của Liên Xô đối với chính sách của Hà Nội không tương xứng với mức độ giúp đỡ của Liên Xô đối với Bắc Việt Nam. Thực tế này không còn là điều bí mật cho cả hai phía Việt Nam và Liên Xô. Một phóng viên của Việt Nam hỏi một nhà báo của tờ Izvestiia, Mikhai Ilysnki: ?oAnh có biết, Liên Xô đóng góp bao nhiều trong tổng viện trợ cho Việt Nam và Liên Xô có được bao nhiêu ảnh hưởng đối với Việt Nam (nếu sự ảnh hưởng này có thể đo được bằng %)? Số liệu lần lượt là 75-80% và 4-5%?. Nhà báo Xô Viết trên nhận xét: ?oNếu như nhà báo Việt Nam này thổi phồng những số liệu cũ (tới 15-20%), thì số liệu về phần ảnh hưởng của Liên Xô chắc chắn là đúng.
    Matxcơva không thể tiếp tục với một mối quan hệ bất lợi như vậy được. Liên Xô cần sự ảnh hưởng lớn hơn ở Việt Nam nhằm biến những mục tiêu về chính sách đối ngoại của họ thành hiện thực, nhằm đạt tới một giải pháp thích hợp cho cuộc chiến và biến Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành một đồng minh tin cậy của Liên Xô trong Phong trào cộng sản thế giới. Mặc dù Liên Xô đang dần dần cải thiện vị trí ở đó nhờ có sự giúp đỡ đối với Bắc Việt Nam, nhưng tiến trình này vẫn đang được tiếp tục vào năm 1966-1967 lúc đó Mỹ quyết định tìm kiếm những tiếp xúc trực tiếp với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhằm tìm cách giải quyết cuộc xung đột.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương V: Hoà tan
    Chúng ta không thể hiểu rõ được vai trò của Liên Xô trong hàng loạt những nỗ lực của Mỹ trong năm 1966-1967 nhằm giải quyết Cuộc chiến ở Đông Nam Á bằng cách thúc đẩy các nhà lạnh đạo Hà Nội tham gia vào vòng thương lượng nếu như không có sự phân tích về thái độ của Hà Nội đối với các cuộc đàm phán và không có sự tìm hiểu sự hợp tác về ngoại giao giữa Liên Xô và Bắc Việt Nam. Sự hợp tác giữa hai nước là một bộ phận quyết định của liên minh Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong Cuộc chiến ở Việt Nam. Matxcơva đã phải chứng minh sự đáng tin cậy của mình không chỉ bằng cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho ?onhững người chủ chiến ở Việt Nam", bằng việc tuyên bố tình đoàn kết với Hà Nội mà còn bằng cách thực hiện những công việc tế nhị hơn nhưng không kém phần quan trọng trên danh nghĩa đồng minh của Việt Nam qua những kênh ngoại giao.
    Trên lĩnh vực hoạt động này của Liên Xô khuynh hướng cho một giải pháp hoà bình đối với cuộc xung đột của Matxcơva dường như là rõ ràng nhất. Có thể nói mục tiêu này bao trùm lên tất cả các bước đi của Kremlin, được thể hiện trong các sáng kiến riêng của Liên Xô hoặc trên danh nghĩa của những người Bắc Việt Nam. Như thường lệ, hiểm hoạ về một cuộc xung đột toàn cầu và cuộc đọ sức với Mỹ luôn nằm trong tâm trí của các nhà lãnh đạo Xô Viết. Và kết quả là, họ rất lo lắng để tránh bất kỳ một sự thay đổi của các sự kiện có thể đưa đến một thảm hoạ như vậy.
    Việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong Cuộc chiến Việt Nam đã được giới lãnh đạo Xô Viết coi như là một sự kiện chết người và Matxcơva đã lưu ý đến mọi diễn biến của sự kiện này với nỗi lo sợ. Mỹ không phải nguồn duy nhất của hiểm hoạ này. Trung Cộng cũng sở hữu loại vũ khí huỷ diệt này và việc Bắc Kinh sẵn sàng cung cấp vũ khí hạt nhân cho đồng mình Bắc Việt Nam là điều có thể xảy ra. Mặc dù khả năng này hầu như không đáng phải xem xét, nhưng Matxcơva không thể phớt lờ chuyện đó được nếu như họ mong muốn ngăn chặn sự thay đổi nguy hiểm của cuộc chiến.
    Tháng 8 năm 1967, KGB đã báo cáo với các nhà lãnh đạo Kremlin rằng Trung Quốc đã hứa cung cấp bom nguyên tử cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để tấn công căn cứ quân sự của Mỹ ở miền Nam nếu như Mỹ có ý đồ sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Tình báo Liên Xô coi chuyện đó đáng giá để thông báo với các đại diện của Mỹ ở nước ngoài về sự chuẩn bị giữa Trung Quốc và Việt Nam.
    Thật bất hạnh là không có một bằng chứng nào cho thấy các nhà lãnh đạo Liên Xô ghi nhận báo cáo của KGB và cung cấp thông tin đó cho Washington. Nhưng chính một bước đi như vậy có thể phù hợp với hai lý do:
    -Thứ nhất, nó có thể ngăn cản Mỹ sử dụng vũ khí nguyên tử nhằm cố gắng khuất phục Bắc Việt Nam và các đồng mình của họ ở miền Nam.
    -Thứ hai, thông tin của KGB có thể sẽ ngăn cản sự câu kết giữa Bắc Kinh và Washington, đây là một nỗi kinh hoàng thực sự cho giới lãnh đạo Xô Viết. Vấn đề này đã trở nên thận trọng hơn vào năm 1966-1967, khi Trung Cộng bị tê liệt do cuộc đấu tranh nội bộ giữa hai phe phái trong giới lãnh đạo. Sự câu kết giữa Mao và Mỹ có thể bênh vực phe Mao-ít trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, do đó sẽ làm mất đi những cơ hội giành chiến thắng cho các địch thủ của nó-những người có thái độ ủng hộ hoặc tối thiểu là không thể không hoà giải được đối với sự hợp tác với Liên Xô.
    Yếu tố Trung Quốc đã ảnh hưởng mạnh mẽ trong chính sách của Liên Xô để đạt được một giải pháp cho Cuộc chiến Việt Nam, đặc biệt là vì Matxcơva phải vượt qua sự miễn cưỡng, đồng ý với giải pháp ngoại giao của Hà Nội. Cuối năm 1965, Bắc Việt Nam tin rằng chỉ có một giải pháp có thể thoát ra khỏi cuộc chiến đó là phải giành thắng lợi về quân sự đối với đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền bù nhìn Sài Gòn.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tháng 12 năm 1965, Hội nghị 12, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã nhất trí huy động hơn nữa các đảng viên ********************** và tất cả nhân dân Việt Nam để ?otrong bất kỳ một hoàn cảnh nào phải đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam hoàn thành Cuộc cách mạng dân tộc dan chủ trên khắp đất nước, và tiến tới thống nhất Tổ quốc một cách hoà bình?. Có một điều là nhiệm vụ ?othống nhất đất nước một cách hoà bình? lại bị xếp cuối cùng. Giới lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt Nam đã coi việc thống nhất đất nước là kết quả của sự thành công về quân sự trong Cuộc chiến tranh chống Mỹ và là thắng lợi của cuộc cách mạng cộng sản ở miền Nam.
    Để ủng hộ cho ý tưởng này, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã soạn thảo tỉ mỉ những hành động chắc chắn, cần thiết để đạt được những mục tiêu đó. Uỷ ban này đã nhấn mạnh rằng những mục tiêu quân sự cho cuộc đấu tranh này phải là đế quốc Mỹ và quân đội bù nhìn Sài Gòn,
    ?oSự chú ý đặc biệt đối với sự phát triển toàn diện và nhanh chóng cho các lực lượng vũ trang, đặc biệt là các lực lượng quân chính quy là cần thiết. Cùng với việc phát triển cuộc chiến tranh du kích, có ba đến bốn nhóm quân chủ lực được hình thành, về lực lượng quân trù bị chiến lược được củng cố. Như vậy, giới lãnh đạo Bắc Việt Nam đã giành phần lớn sự tập trung của họ tới các biện pháp chiến tranh, hạn chế nói đến cuộc ?ođấu tranh chính trị? như là một giải pháp phụ quan trọng.
    Trong tình hình này thì những nỗ lực của Matxcơva nhằm thúc đẩy những ý tưởng về một thoả thuận với Mỹ tại bàn thương lượng đã cho thấy là vô ích. Hơn nữa, khi thảo luận những vấn đề trên với đồng nghệp Bắc Việt Nam, Matxcơva đã phải cẩn thận không làm tổn hại đến vị trí của họ ở Hà Nội. Đầu tiên, trên chính trường ngoại giao, Matxcơva phải tự mình hạn chế trong rất nhiều công việc của các đồng minh của họ, họ trông đới tới một thời điểm thích hợp để bàn bạc những cách thức cho một giải pháp hoà bình ở Đông Dương.
    Liên Xô rõ ràng đã có ảnh hưởng tới các hoạt động tiếp xúc của đoàn ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với các nước phương Tây. Các quan chức và các nhà ngoại giao Xô Viết đã khuyên các đồng nghiệp của họ ở Mỹ, Pháp, Anh và các nước phương Tây khác về lập trường của Hà Nội đối với nhiều vấn đề trong việc giải quyết cuộc chiến. Lần lượt, họ đã cung cấp cho Hà Nội tin tức về lập trường của phương Tây cũng như các tin mật từ các nguồn tin tình báo của họ. Các quan chức Bắc Việt Nam đôi khi hướng dẫn các đồng minh Xô Viết về các hoạt động cần tiến hành trong những tình huống cụ thể.
    Sự minh hoạ rõ ràng nhất về vai trò của Liên Xô trong vấn đề này nằm trong các tài liệu có liên quan đến các chính sách của Bắc Việt Nam đối với Liên Hợp quốc. Ngay từ đầu Hà Nội đã phản đối việc giải quyết cuộc chiến ở Việt Nam, nhất là những sáng kiến hoà bình cua U.Than, Tổng thư ký Liên Hợp quốc. Bắc Việt Nam đã không thừa nhận ông ta như người trung gian hoà giải.
    Trong các giai đoạn của Cuộc chiến Việt Nam rõ ràng những người cộng sản Việt Nam đã lo sợ rằng Mỹ có thể thuyết phục đa số ở Liên Hợp quốc chấp nhận cho những hành động của Mỹ ở Việt Nam, thậm chí còn cung cấp cho Washington những thứ hơn cả sự ủng hộ về tinh thần (Hà Nội khó có thể phớt lờ khả năng đó từ ví dụ rất mới trong Cuộc chiến Triều Tiên). Sau đó có lẽ những sự cân nhắc khác đã thắng thế trong chính sách của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đối với Liên Hợp quốc. Giới lãnh đạo Bắc Việt Nam có thể đã không thấy được vai trò của Liên Hợp quốc trong các diễn biến xảy ra trong tương lai ở Đông Nam Á. Hà Nội cũng mong muốn tránh sự công khai hoá trong lĩnh vực ngoại giao này (có thể xảy ra với đặc điểm của Liên Hợp quốc và vị trí của ông Tổng thư ký), và họ cũng mong muốn sử dụng những đối tác tin cậy hơn như Liên Xô, Ba Lan. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không cần Liên Hợp quốc trong các vấn đề khác. Vì thế nên các nhà lãnh đạo Việt Nam ngăn chặn Liên Hợp quốc tham gia giải quyết xung đột là rất quan trọng và họ yêu cầu Matxcơva thực hiện nhiệm vụ này.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Năm 1966, khi chính quyền Sài Gòn yêu cầu Liên Hợp quốc cử các quan sát viên độc lập tới miền Nam Việt Nam để tham dự các cuộc bầu cử, tham tán Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Matxcơva, Lê Trang đã gặp một quan chức cao cấp ở Bộ Ngoại giao Liên Xô và đề nghị Matxcơva ?ochặn đứng âm mưu của Mỹ nhằm sử dụng tổ chức này vào những lợi ích của riêng Mỹ?. Quan chức Liên Xô đó đã thông báo với đồng nghiệp Việt Nam của ông ta rằng Liên Xô đã tiến hành một số biện pháp nhất định đối với kết cục trên. Ông ta cũng nhấn mạnh rằng, Liên Xô sẽ cố gắng ngăn chặn ?othủ đoạn xúi giục này của Mỹ liên quan đến việc triển khai các quan sát viên của Liên Hợp quốc để tham dự các cuộc bầu cử ở miền Nam".
    Vài ngày trước đó, một cuộc gặp gỡ tương tự đã diễn ra giữa Đại sứ Liên Xô Shcherbakov và Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Nam Hoàng Văn Tiến. Hoàng Văn Tiến đề nghị Liên Xô ngăn chặn việc đưa vấn đề Việt Nam vào chương trình của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, thậm chí ngay cả khi đại diện của Liên Xô tại Liên Hợp quốc phải sử dụng quyền phủ quyết của mình để ngăn chặn cuộc thảo luận này. Shcherbakov hứa sẽ gửi đề nghị này về Matxcơva để xem xét.
    Vấn đề phức tạp của Liên Hợp quốc nổi lên vào tháng 10 năm đó, vụ này liên quan đến một trong những sáng kiến xuất hiện lại của U.Thant. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam, Nguyễn Duy Trinh đã hướng dẫn đại diện của Liên Xô về những bước đi mà Liên Xô nên thực hiện trong giai đoạn này. Mặc dù những chỉ dẫn của Nguyễn Duy Trinh đối với Matxcơva được trình bày dưới vỏ bọc là một lời đề nghị, nhưng chúng đã minh chứng một cách chi tiết về những biện pháp mà Liên Xô phải thực hiện nhằm ngăn chặn Liên Hợp quốc khỏi biến thành ?omột công cụ cho đế quốc Mỹ nặn ra?.
    Theo Nguyễn Duy Trinh, thì Liên Xô nên sử dụng tất cả những ảnh hưởng của họ để giải thích cho U.Thant về thái độ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đối với gợi ý của ông ta và ?ocố gắng thuyết phục ông ta phát biểu ủng hộ Việt Nam". Phía Việt Nam cho rằng, rất cần thiết để thuyết phục Tổng thư ký Liên Hợp quốc thực hiện mọi biện pháp nhằm ngăn chặn việc đưa ra bất kỳ một quyết định hoặc tuyên bố nào về Việt Nam trong khoá họp này của Đại hội đồng Liên Hợp quốc?. Cuối cùng nếu như có một văn bản như vậy về Việt Nam bị đưa ra thì Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ?onên phản đối nó một cách thích đáng?.
    Liên Xô cũng đặt những lợi ích của Hà Nội trong các mối quan hệ riêng của họ với các nước khác, Matxcơva không những thể hiện và bảo vệ quan điểm của Bắc Việt Nam mà còn tập hợp sự ủng hộ từ các nước khác nhằm tạo sức ép đối với Liên Hợp quốc về những lợi ích của Hà Nội. Điều đặc biệt hấp dẫn trong vấn đề này đó là nước Pháp dưới thời De Gaulle.
    Ngay từ đầu Cuộc chiến ở Đông Dương, Pháp đã giữ thái độ đặc biệt đối với chính sách của Mỹ trong khu vực này. Không như các nước lớn ở phương Tây như Anh, Tây Đức, De Gaulle đã không vội vàng ủng hộ những hành động của Washington dẫn tới sự leo thang trong cuộc chiến. Ngược lại, ông rất hoài nghi về một kết cục có lợi cho Mỹ. Theo số báo cáo của CIA tháng 7 năm 1966, sự hoài nghi của Pháp một phần bắt nguồn từ sự tin tưởng của De Gaulle rằng: ?oNếu như Pháp, với kinh nghiệm, mưu mẹo và kiến thức hiểu biết của họ ở khu vực này đã không thể đè bẹp những người cộng sản, thì với Mỹ dù với tất cả sức mạnh cũng không thể làm như vậy được?. Nhưng lý do khác để giải thích cho thái độ của Pháp có thể tham gia vào cuộc chiến, nếu như Bắc Kinh cảm thấy nền an ninh của họ bị đe doạ, và một sự ghen tức tự nhiên đối với thắng lợi của Mỹ ở Việt Nam (là một khả năng tự nhiên). ?oNhư một ví dụ về quyền bá chủ của Mỹ ở lời lẽ lẽ là của Pháp?.
    Dựa vào những đánh giá về lập trường của Pháp, tình báo Mỹ đã kết luận rằng Pháp ?orất nóng lòng chứng kiến sự rút quân. Pháp đủ thực tế để hiểu rằng, Mỹ với những lý do về uy tín và lợi ích riêng của mình không thể đơn giản đầu hàng trong Cuộc chiến ở Việt Nam. Bởi vậy, Pháp đã tạo ra một tình huống dẫn tới việc rút quân của Mỹ khỏi Việt Nam?. Kết quả là De Gaulle ủng hộ việc giải quyết cuộc xung đột bằng đàm phán, thậm chí khi những người cộng sản cuối cùng đã chiếm ưu thế áp đảo ở khu vực này. Pháp sẽ ủng hộ phương pháp giải quyết trên khi Pháp vẫn chiếm giữ vị trí lãnh đạo trong các cuộc đàm phán khu vực này. Pháp sẽ ủng hộ phương pháp giải quyết trên khi Pháp vẫn chiếm giữ vị trí lãnh đạo trong các cuộc đàm phán.
    Matxcơva đã nhận thức được ?ovị trí đặc biệt? của De Gaulle ở Việt Nam và sử dụng vị trí đó cho quyền lợi riêng của mình và của Bắc Việt Nam.
    Một nhà ngoại giao Xô Viết đã tâm sự với ông Lê Đức Thọ, một trong những uỷ viên có thế lực tại Bộ Chính trị Bắc Việt Nam, trong chuyến thăm Pháp sau đó vào mùa hè năm 1965 rằng: ?oNhiệm vụ chung của chúng ta (Liên Xô và Bắc Việt Nam) là thúc đẩy Pháp tiến gần đến một giải pháp cho vấn đề Việt Nam bằng cách sử dụng tất cả các kênh có thể, đặc biệt là ngoại giao?. Liên Xô đề nghị sử dụng ?oyếu tố chống Mỹ? đang hiện hữu trong đường lối ngoại giao của De Gaulle hướng đến các xu thế khác nhau của tình hình quốc tế. Bằng cách sử dụng ?oyếu tố? này, Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể làm cho Pháp giữ một vị trí quyết định hơn trong vấn đề Việt Nam. Nhằm đạt được điều này, Matxcơva theo dõi chặt chẽ động thái trong đường lối của Pháp đối với Mỹ và Cuộc chiến ở Việt Nam. Từ năm 1965 đến 1967, KGB đã chuẩn bị nhiều văn bản ghi nhớ về đánh giá của De Gaulle đối với tình hình ở Đông Dương và các hoạt động có liên quan của ông ta.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mặc cho thái độ không khoan nhượng của Hà Nội đối với một giải pháp đã được thương lượng, song Matxcơva không từ bỏ nỗ lực tìm cách giải quyết vấn đề Việt Nam bằng con đường ngoại giao. Vai trò làm ?osứ giả cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà" chỉ là một mặt trong chính sách của Liên Xô đối với cuộc xung đột này. Mặt kia kém rõ ràng hơn, đặc biệt khi tình hình cho thấy ít hy vọng thành công. Tuy nhiên, các nhà ngoại giao Xô Viết ở Hà Nội đã nhanh chóng ghi nhận những dấu hiệu thay đổi tình hình vào giữa năm 1966.
    Tin đầu tiên về việc có thể thay đổi lập trường của Việt Nam đối với các cuộc đàm phán hoà bình đến Matxcơva vào cuối năm 1965. Đại sứ Liên Xô ở Campuchia, Anatoly Ratanov đã ghi nhận trong báo cáo hàng quí rằng tình hình quân sự ở miền Nam Việt Nam dường như bất lợi cho Mặt trận dân tộc Giải phóng, cho dù về phía Mỹ cũng chẳng có hy vọng gì. Tuy nhiên, những khó khăn của những người yêu nước ở miền Nam Việt Nam và những người ủng hộ ở Hà Nội ngày tăng. Kết quả là, Ratanov lập luận, các đồng chí Việt Nam bắt đầu ?odò dẫm những khả năng có thể đàm phán, thay đổi thái độ và chiến thuật về vấn đề này?.
    Đại sứ Liên Xô đã đề cập đến việc Mặt trận dân tộc Giải phóng giờ đây đang nhấn mạnh tầm quan trọng của đấu tranh chính trị, nâng cao vai trò phong trào hoà bình, từ bỏ các kế hoạch khởi nghĩa nhân dân và đưa ra những ý kiến mới về đàm phán. Những sự phát triển này cho thấy, mặc dù chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, nhưng đã có những thay đổi trong chính sách của Mặt trận dân tộc Giải phóng về một giải pháp hoà bình. Bản báo cáo của vị Đại sứ có thể đã khuyếch trương những xu hướng này và có nhiều ý nghĩa mong mỏi hơn là phân tích, nhưng dù sao cũng phản ánh quan điểm của các quan chức Xô Viết.
    Matxcơva tiếp tục nhận được thông tin từ các nhà ngoại giao Liên Xô về nỗi lo ngại ngày càng tăng trong giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp đấu tranh. Trong báo cáo chính trị năm 1966, sứ quán Liên Xô tại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ghi nhận rằng Mặt trận dân tộc Giải phóng chỉ có thể tiếp tục cuộc chiến tranh bằng cách dựa hoàn toàn vào sự trợ giúp của miền Bắc. Về phần mình, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng không thể chịu đựng được sức ép của Mỹ nếu không có sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, mà nguồn viện trợ của họ chiếm đến hai phần ba ngân sách của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sứ quán cũng nhận thấy những khó khăn về kinh tế và những khó khăn khác đã được Hà Nội đánh giá lại chiến lược chiến tranh trường kỳ (?o5 năm, 10 năm, 20 năm? theo lời Hồ Chí Minh) và quan tâm đến các triển vọng trên các mặt trận chính trị và ngoại giao.
    Matxcơva hài lòng sử dụng các thay đổi này để đưa quan điểm của mình về một giải pháp hoà bình cho cuộc xung đột ở Việt Nam. Những cố gắng của họ trở nên dễ dàng bởi sự thật rằng từ cuối năm 1966, Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam số lượng lớn viện trợ quân sự, loại bỏ vũ khí của Trung cộng đã quá lạc hậu.
    Các nhà lãnh đạo Xô Viết bắt đầu cởi mở hơn khi khuyên các nhà lãnh đạo Việt Nam cần phải tăng cường các hoạt động ngoại giao. Họ tìm cách thuyết phục Hà Nội rằng các sáng kiến hoà bình sẽ cải thiện hình ảnh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước dư luận thế giới và đem lại cho Bắc Việt Nam vị trí chính nghĩa mà xưa nay thuộc về Mỹ. Để thuyết phục Hà Nội, Liên Xô đã sử dụng ảnh hưởng về mặt kinh tế. Hà Nội thường phàn nàn rằng viện trợ của Liên Xô không đủ và lẽ ra Matxcơva có thể gửi cho Việt Nam nhiều hơn so với trên thực tế. Mặc dù chắc chắn còn có những lý do khác ảnh hưởng đến mức độ trợ giúp của Matxcơva, nhưng sức ép đối với Hà Nội làm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đàm phán với Mỹ là điều chắc chắn xảy ra.
    Để tránh làm suy yếu vị thế của mình ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Matxcơva đã gắn sức ép của họ với sức ép của các nước xã hội chủ nghĩa khác. Liên Xô biết rằng, Hà Nội luôn tìm cách tăng viện trợ bằng cách cử các phái viên tới các nước xã hội chủ nghĩa khác để tập hợp sự ủng hộ cho cuộc đấu tranh của mình. Các nhà lãnh đạo Xô Viết đã đề xiất vai trò những người ?okiến tạo hoà bình? với các đồng minh xã hội chủ nghĩa ở châu Âu, là những nước thoải mái hơn trong việc thẳng thắn với các nhà lãnh đạo Việt Nam.
    Ví dụ, khi Bộ trưởng Bộ Nội vụ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Ung Văn Khiêm cố gắng tìm kiếm thêm viện trợ từ Đông Đức thì người Đức đã nói với ông rằng không chỉ Việt Nam mới là ?ochiến trường chống đế quốc Mỹ" mà cả Cộng hoà Dân chủ Đức cũng là ?ochiến trường" với những khó khăn riêng của họ. Vì vậy, Hà Nội không thể hy vọng nhiều vào sự trợ giúp của Cộng hoà Dân chủ Đức.
    Mặc cho những nỗ lực của Liên Xô nhằm thuyết phục các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam về việc cần thiết phải có một giải pháp qua thương lượng để giải quyết cuộc chiến, nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thoạt đầu không đáp lại. Hà Nội nhìn nhận những nỗ lực này với sự nghi ngờ nếu không nói là khinh thường. Hà Nội vẫn nuôi hy vọng giành chiến thắng bằng quân sự đối với Mỹ và vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc.
    Vị tướng xuất sắc của Bắc Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh, phụ trách Uỷ ban thống nhất của Đảng lao động đã đưa ra hai lý do khi lập luận trong buổi nói chuyện với vị đại diện ngoại giao của Liên Xô P.Privalov: ?oThật rõ ràng đối với chúng tôi trong việc có nên tiếp tục cuộc chiến đấu nữa hay không. Chúng tôi chắc chắn phải chiến đấu chống lại những kẻ xâm lược. Trả lời câu hỏi liệu có đi đến các cuộc đàm phán hay không là vấn đề còn rất khó khăn. Tình hình hiện nay không thuận lợi cho việc bắt đầu các cuộc đàm phán. Chúng tôi tạm thất bại trước người Mỹ và không có cách lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý ngồi vào bàn đàm phán. Nhưng chúng tôi vẫn không ngừng tấn công kẻ thù và giành được những thắng lợi quyết định. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi ngồi vào bàn đàm phán lúc này. Điều đó có nghĩa là sẽ mất đi mọi thứ và hơn hết là mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, nước phản đối kịch liệt các cuộc đàm phán?.
    Lời bộc bạch của nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam này đã làm cho Liên Xô ít có cơ hội theo đuổi giải pháp chính trị để giải quyết cuộc khủng hoảng. Trước tình hình này, Kremlin đã lựa chọn hành động đơn phương và thận trọng, nhưng thái độ này đã làm Washington thất vọng.

Chia sẻ trang này