1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Như?fng bí mật Nga cu??a chiến tranh Việt nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi spirou, 29/05/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Một lý do khác là tình hình bất ổn liên tục ở Trung Quốc buộc Bắc Kinh phải tập trung giải quyết các khó khăn nội bộ. Cooper cho rằng: "Liên Xô dường như vẫn cố sử dụng ảnh hưởng của mình theo hướng tìm kiếm một giải pháp chính trị (mặc dù chúng ta thấy rõ là chưa thích hợp)". Thiệt hại của Mỹ chưa lớn đến mức làm cho Chính quyền Mỹ mất hết tính năng động và cơ hội để tìm ra một giải pháp trên cơ sở những "mục tiêu hạn chề?, nhưng không trên cơ sở giành thắng lợi quân sự. Kết cục là, việc hoãn đàm phán đến mùa thu có thể đưa Hà Nội đến một quyết định trì hoãn thêm vài tháng nửa nhằm biến cuộc chiến Việt Nam thành một vấn đề trong bầu cử của Tổng thống 1968. Khi kết thúc bản báo cáo của mình, Cooper đưa ra một kết luận đáng chú ý rằng: "Hơn bao giờ hết, một điều thực tế cấp bách là chúng ta không có bất cứ một sự lựa chọn nào khác mà phải tiếp tục gây sức ép nhằm đạt được một giải pháp chính trị cho cuộc chiến".
    Tuy không biết liệu báo cáo của Cooper có đến tay các nhận vật trong giới lãnh đạo chóp bu của Chính quyền Johnson, ngoài ông Harriman hay không, nhưng đã có nhũng ý kiến khác nhau bên trong các quan chức cao cấp ở Washington. Đặc biệt, ngày càng có nhiều ý kiến nghi ngờ về hiệu quả của chiến lược "gây sức ép có mức độ" đối với Bắc Việt Nam, được coi là một bộ phận của chính sách "vừa đánh vừa đàm". Một vài người đề xưởng chiến lược giờ đây coi nó là phản tác dụng, vì nó làm tăng quyết tâm của Bắc Việt Nam chống lại sức ép của Mỹ, và tăng cường ý chí giành thắng lợi quân sự của Hà Nội đối với Mỹ. Trong số những người hoài nghi chính sách với Việt Nam có William Bundy, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao phụ trách vấn đề Viễn Đông, và John Mc Naughton, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
    Nhưng Chính quyền Johnson vẫn chưa sẵn sàng từ bỏ chiến lược của mình và vẫn nuôi hy vọng Liên Xô sẽ giúp Mỹ đi đến giải pháp đàm phán cho cuộc chiến này. Ví dụ, vào tháng tư, Canada gợi ý rằng cả hai bên một lần nữa thoả thuận tôn trọng khu phi quân sự dọc theo Vĩ tuyến 17. Điều này có thể đưa tới việc xuống thang chiến tranh. Bộ Ngoại giao đã sử dụng ý tưởng này đưa ra việc hai bên cùng rút quân ra xa cách khu vực này 10 dặm. Sáng kiến mới này cơ bản tương tự như sáng kiến của Cooper nêu trong báo cáo.
    Theo Cooper, đây sẽ là bước đầu tiên tiến đến đàm phán về việc tiếp tục xuống thang chiến tranh và đạt đến một hiệp định toàn diện. Sáng kiến của Bộ Ngoại giao Mỹ được một số các quan chức Mỹ hoan nghênh. Harriman dự kiến sẽ gặp gỡ một đại diện của Đại sứ quán Liên Xô để giải thích về đề nghị này. Trong một báo cáo gửi Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ, ông giải trình "Trước hết cần phải làm cho Liên Xô thấy rằng việc cùng rút quân khỏi khu phi quân sự là một đề nghị nghiêm túc, và phải thúc đẩy Liên Xô dùng ảnh hưởng của mình thuyết phục Hà Nội xem xét kỹ đề nghị này và có phản ứng tích cực". Harriman cũng đã gặp một nhà ngoại giao Liên Xô để chuyển đề nghị trên của Mỹ về Matxcơva. Sau. đó, nhà ngoại giao Liên Xô này nói rằng Kremlin đã thấy rõ mặt công khai của những cố gắng của Mỹ. Tuy nhiên, ngay ngày hôm sau, 21 tháng 4, Nhà máy điện Hải Phòng lần đầu tiên bị ném bom. Sau đó, nhà ngoại giao Liên XÔô này vô cùng thất vọng đối với một hành động như vậy (hỏi Harriman): "Giờ đây, làm thế nào mà Matxcơva có thể bảo đảm với Bắc Việt Nam rằng Mỹ quan tâm một cách nghiêm túc đến việc xuống thang chiến tranh?".
    Không chỉ Liên Xô mới thấy bối rối về tính thiếu nhất quán trong chính sách của Mỹ. Trong một bức điện gửi về Washington, Đại sứ Thompson đã yêu cầu chính phủ ông phải xem xét "trong bối cảnh hiện nay, việc tiếp tục các biện pháp vì hoà bình ở Việt Nam liệu có thực sự tăng cường khả năng đàm phán vì hoà bình không".
    Bức điện của Thompson dựa trên cuộc trao đổi quan điểm với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh George Brown về chuyến thăm Matxcơva sắp tới của ông ta. Cuộc viếng thăm này tạo ra một cơ hội mới cho Washington để tranh thủ sự ủng hộ của Matxcơva về các hoạt động vì hoà bình của Mỹ. Nhưng vị Đại sứ Mỹ này hoài nghi liệu hành động như vậy có thể tạo ra được những điều kiện thuận lợi hay không. Ông khẳng định: Trong bối cảnh hiện tại, tôi tin rằng Liên Xô đã nắm bắt được những gì chúng ta đưa ra, và cơ hội thắng lợi rất mong manh. Điều đó có thể rất tai hại và làm tăng mối hoài nghi của Liên Xô về tính trung thực của Mỹ. Do vậy, việc chúng ta phải cố gắng lôi kéo họ vào cuộc là hoàn toàn đúng đắn". Thompson thừa nhận rằng Liên Xô có thể gây sức ép đối với Bắc Việt Nam qua việc đe doạ cắt giảm hoặc
    thực sự cắt viện trợ vũ khí cho họ. Nhưng Đại sứ Mỹ khuyến cáo rằng một biện pháp như vậy có thể đẩy Bắc Việt Nam về phía Bắc Kinh, trái ngược với mục tiêu của Liên Xô ở Đông Nam Á. Như vậy, sáng kiến hoà bình của Mỹ là phản tác dụng vì Hà Nội coi nó không chỉ như một thủ pháp tuyên truyền mà còn là dấu hiệu của sự tuyệt vọng.
    Đồng thời, Thompson cũng phê phán việc Mỹ leo thang chiến tranh. Ông không xem nó là lời giải của bài toán Cuộc chiến Việt Nam. Đại sứ Mỹ nói: "Trên thực tế, tôi tin chắc rằng ít nhất trong thời gian sắp tới, từng đợt tăng cường ném bom sẽ làm giảm đi các cơ hội để bên kia chấp thuận đàm phán. Không một chính phủ nào muốn ngồi vào đàm phán trực tiếp trong khi phía bên kia tăng cường sử dụng vũ lực chống lại họ".
    Thompson đề nghị tăng cường mạnh mẽ lực lượng Mỹ ở Nam Việt Nam, kết hợp với giảm ném bom miền Bắc hoặc tập trung tấn công các đường tiến quân vào Nam của Bắc Việt Nam. Ông kết luận: "Điều này khác hàn với ý kiến cho rằng tôi có thể gợi ý hơn là qua George Brown để tiếp tục làm rùm beng lên vì hoà bình ở Matxcơva. Ông ta phải làm cho Liên Xô thấy rõ quyết tâm của Mỹ muốn việc này được hoàn tất".
    Mối hoài nghi của Thompson có thể được củng cố vì ông thấy rõ các nhà lãnh đạo Liên Xô đang xem" xét chính sách đối ngoại riêng của mình, đặc biệt là sau chuyến viếng thăm Matxcơva của đoàn đại biểu Bắc Việt Nam. Rõ ràng là tiến trình này không chỉ liên quan đến vấn đề Việt Nam mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ quan hệ Xô-Mỹ. Đó chính là lý do tại sao Dobrynin được triệu hồi về nước để tham khảo ý kiến hồi cuối tháng 4. Ông ta thổ lộ với Thompson sau khi về đến Matxcơva rằng ông ta biết Chính phủ Liên Xô có ấn tượng mạnh mẽ về Việt Nam nhưng không nhận định mức độ đó như thế nào cho đến khi tham khảo ý kiến ông.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mỹ biết chắc rằng chính sách này được Điện Kremlin xem xét lại, qua một nhà ngoại giao Liên Xô ở Washington. Trong một buổi chiêu đãi tại Đại sứ quán Liên Xô ngày 27 tháng 4, Tướng Valentin Meshchẹryakov, Tùy viên quân sự Liên Xô, thông báo cho phía Mỹ biết rằng việc Mỹ leo thang chiến tranh đã buộc Ban lãnh đạo Liên Xô phải đánh giá lại tình hình. Tin tức của ông tướng Liên Xô này có thể không trấn an được Chính quyền Johnson. Meshcherykov nói bóng gió rằng Hội đồng tướng lĩnh Liên Xô đã đề nghị tăng cường các hoạt động quân sự của Liên Xô để hỗ trợ Bắc Việt Nam. Các biện pháp trả đũa được cho là Matxcơva dự định thực hiện bao gồm việc từ chối phê chuẩn Công ước lãnh sự với Mỹ và ngừng vô thời hạn việc thực hiện một Hiệp định hàng không. Theo Meshcheryakov, Dobrynin người sẽ trở lại Washington vào đầu tháng 5 có thể bị giữ lại Matxcơva tới khoảng ngày 10 tháng 5, đó là điều kiện để Brezhnev chỉ thị cho vị Đại sứ Liên Xô tại Mỹ này theo đường lối cứng rắn mới và "để đảm bảo chắc chắn rằng ông đã hiểu các quan điểm của Liên Xô". Giới quân sự Liên Xô cũng đòi hỏi rằng tất cả các bước tiến tới hoà hoãn đều bị đình lại và tăng cường viện trợ cho Bắc Việt Nam. Những bước này, theo Tuỳ viên quân sự Liên Xô, sẽ trở nên rõ ràng trong vòng hai hoặc ba tuần tới và ngay cả chính quyền Sài Gòn cũng cảm thấy ảnh hưởng của chúng, Meshcheryakov khẳng định là "ông ta nói hoàn toàn nghiêm túc và không hề đe doạ xuông. Mỹ hẳn không đánh giá thấp quyết tâm của Liên Xô muốn duy trì củng cố Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, ngay cả khi xảy ra đối đầu?.
    Song, các nhà vạch chính sách của Mỹ thấy rõ một số thực tế khác lại mâu thuẫn với những nhận xét của viên tướng Liên Xô nói trên. Theo hồ sơ nhân vật của CIA, mười ngày trước đó, Averell Harriman đã gặp gỡ Yuri Zhukov, "một trong những nhà báo nổi tiếng của Liên xồ, một người tin cậy của giới lãnh đạo Kremlin". Tuy Zhukov đã kịch liệt lên án thái độ của Mỹ trong vòng hội đàm Kosygin-Wilson, và bác bỏ việc thuyết phục Liên Xô làm người trung gian trong Cuộc chiến Việt Nam, nhưng ông ta ủng hộ việc nhanh chóng chấm dứt chiến tranh và bảo đảm với đồng nghiệp rằng "điều Kosygin đã tuyên bố ở Luân Đôn vẫn còn hiệu lực".
    Tuy nhiên, vì khả năng Liên Xô giữ quan điểm cứng rắn, chính quyền Johnson cho rằng Mỹ phải cố gắng làm giảm căng thẳng ở Matxcơva, thăm dò lập trường của Liên Xô, làm rõ cho Kremlin các mục tiêu của Mỹ ở Việt Nam. Chuyến thăm của Brown đến Matxcơva vào tháng 5 là nhằm mục đích này.
    Ngay trước chuyến viếng thăm của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh, ông Rusk hỏi ý kiến ông Thompson về hoạt động của Mỹ nên như thế nào đối với chuyến thăm này. Đại sứ Thompson giải thích rằng Matxcơva vẫn chưa hoàn tất việc xem xét đánh giá lại chính sách, nên khó có thể đề xuất xem Brown nên hoạt động theo phương hướng nào. Tuy nhiên, Thompson tính rằng điều đó có lợi cho Brown là cần phải hướng chú ý của các đối tác Liên Xô vào (sức ép mạnh nhất đối với chính quyền" xuất phát từ quan điểm của phái "Diều hâu?. "Có thể ông ta không nắm được đường hướng có lợi nhất. Điều này sẽ làrn cho Liên Xô thấy rằng trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thắng lợi quân sự đối với Bắc Việt Nam là không thể có được và cho rằng họ sẽ sử dụng ảnh hưởng của mình để đạt cho được việc dần dần giảm: các hoạt động quân sự từ hai phía".
    Bức thông điệp của Rusk gửi cho Luân Đôn gồm cả những đề nghị của Đại sứ Thompson. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Rusk yêu cầu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh, chuyển lời tới các nhà lãnh đạo Liên Xô rằng Mỹ sẵn sàng xếp sắp lại lợi ích của Liên Xô trong khi vẫn đảm bảo toàn vẹn cho chế độ của Bắc Việt Nam. Chính phủ cũng thừa nhận rằng các hoạt động quân sự của Mỹ chống Bắc Việt Nam gây ra nhiều khó khăn cho Chính phủ Liên Xô. Nhưng Liên Xô cũng phải thừa nhận quyền lợi của Mỹ trong khi vẫn bảo toàn chế độ ở Nam Việt Nam và khả năng cho người Nam Việt Nam lập chính phủ riêng của mình. Rusk tuyên bố. "Chắc chắn là nếu chúng ta và Liên Xô đều công nhận quyền lợi quan trọng của nhau ở đây thì chúng ta phải tìm ra một phương thức nào đó tách riêng hai miền Bắc, Nam về mặt quân sự?. Theo Rusk, Washington vẫn sẵn sàng ngừng các hoạt động quân sự chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà "vào bất cứ lúc nào", nhưng Hà Nội phải có hành động đáp ứng lại cử chỉ thiện chí đó. Rusk yêu cầu Brown thúc đẩy Liên Xô thăm dò giới lãnh đạo Bắc Việt Nam sẽ phản ứng như thế nào đối với các đề nghị của Mỹ, bao gồm toàn bộ các sáng kiến trước đây đã được điều chỉnh.
    Để đảm bảo cho tiến trình đánh giá lài tình hình ở Matxcơva có kết quả thuận lợi, Chính quyền Jonhson quyết định ngừng ném bom trong phạm vi 10 dặm thuộc Hà Nội.
  3. werty98

    werty98 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    8.186
    Đã được thích:
    5.586
    Vừa tìm cách vote sao cho nick nhưng không được, mong bác thông cảm tiếp tục up tiếp nhé.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Quyết định này phần nào là kết quả của tâm lý lo ngại ngày càng tăng trong nội bộ chính quyền về các hoạt động quân sự của Mỹ chống Bắc Việt Nam. Mặc dù trên thực tế, sáng kiến của Mỹ chỉ là một việc làm xoa dịu tình hình mà không có một ảnh hưởng nào đáng kể đối với tiến trình chiến tranh, một số quan chức Mỹ vẫn cho đây là việc làm có lợi ít nhất là trong thời gian trước mắt. Harriman ủng hộ mạnh mẽ việc ném bom trong khi cho rằng việc này có thể khuyến khích những người ủng hộ Kosygin với những hành động mềm dẻo hơn. Harriman yêu cầu Bộ Ngoại giao Mỹ phải chỉ thị ngay cho Đại sứ Thompson tìm gặp quan chức cao cấp nhất của Liên Xô, đặc biệt là Gromyko hoặc ít ra là Thứ trưởng Kuznetsov, để thông báo bí mật cho Liên Xô về quyết định này và việc Chính quyền Mỹ mong muốn Liên Xô dùng ảnh hưởng của mình thuyết phục Hà Nội ngồi vào bàn đàm phán. Ngược lại, Harriman khuyến cáo: "Chúng ta cần phải biết rằng không có sự tiếp cận của chúng ta, quyết định của Liên Xô nhất định sẽ là một quyết định theo đường lối cứng rắn đối với vấn đề Việt Nam". Thompson ở Matxcơva cũng nhất trí với ý kiến của Harriman. Trong công điện ngày 18 tháng 5, Rusk thông báo cho Đại sứ Thompson về quyết định ngừng ném bom nói trên và nhấn mạnh rằng quyết định này có thể được thực hiện sau cuộc oanh kích vào nhà máy điện Hà Nội, nhưng có thể Chính quyền Mỹ sẽ bỏ qua mục tiêu này. Rusk hướng dẫn Thompson các thông báo bí mật cho phía Liên Xô về việc hạn chế ném bom này. Rusk tin tưởng: "Những hành động mà chúng ta đang tính toán sẽ ngầm làm cho Liên Xô thấy hưởng hành động sắp tới của chúng ta là kiềm chế trong nhiều tháng việc tấn công hàng loạt các mục tiêu quân sự quan trọng nhằm đạt được các khả năng làm thay đổi thái độ của Hà Nội, các nỗ lực và lợi ích của Liên Xô?. Rusk nói rằng trong tương lai Washington dự định không ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20, nếu không có mục tiêu quân sự mới hoặc các mục tiêu cũ không tiếp tục hoạt động. Theo ý kiến đề xuất của Harriman, Rusk yêu cầu Thompson liên hệ với các quan chức cao cấp nhất của Liên Xô, Gromyko hoặc ít nhất cũng là Kuznetsov nhằm thông báo cho Kremlin biết về quyết định này.
    Thompson "nhiệt liệt hoan nghênh" kế hoạch trên. Ông thấy quyết định này phù hợp với nhận định của mình rằng các hoạt động quan hệ của Mỹ phải gắn liền với việc giành phần thắng ở Nam Việt Nam, và các hoạt động quân sự ở phía Bắc vĩ tuyến 20 phải giảm tối đa và theo đúng những đòi hỏi ở Nam Việt Nam. Trong bối cảnh này, Thompson coi việc ném bom những mục tiêu còn lại trong phạm vi Hà Nội trước khi ngừng oanh kích hạn chế trên đây có hiệu lực là việc làm "bất lợi", đặc biệt là trong trường hợp các cuộc oanh kích này trùng hợp với những chuyến viếng thăm Matxcơva của Brown. Vì Liên Xô "đang tiến gần đến những quyết sách quan trọng không chỉ đối với Việt Nam mà trong quan hệ với Mỹ". Thompson thấy cần đề nghị Tổng thống Jonhson gửi một bức thư ngắn cho Kosygin. Nhưng mãi đến khi các mục tiêu nói trên ở Hà Nội bị oanh tạc thì Thompson mới nhận được bức thư này, và lập tức chuyển tới cho lãnh đạo Liên Xô "trước khi Liên Xô quyết định chính sách và các cam kết đối với Việt Nam". Thompson luôn tin rằng "Kosygin ủng hộ việc có giải pháp cho cuộc chiến và bức thư này sẽ giúp ông ta và đồng sự quyết định vấn đề".
    Những diễn biến tình hình nghiêm trọng đầu tháng 6 có nguy cơ làm đổ bể những cố gắng "xoa dịu? các nhà lãnh đạo Xô Viết và tác động đến quá trình xác định chính sách của Liên Xô. Tình hình căng thẳng nghiêm trọng giữa các nước Ảrập và Ixraen ở Trung Đông đã bùng nổ thành chiến tranh. Sáng ngày 5 tháng 6, quân đội Ixraen mở cuộc tấn công bất ngờ và xoá sổ lực lượng không quân Ai Cập. Cuộc chiến chấm dứt trong vòng 6 ngày với việc Ixraen chiếm các vùng đất ở Ai Cập, Syria, và Jordan. Điều này làm căng thẳng quan hệ Đông-Tây, và đặc biệt là quan hệ Xô-Mỹ. Tuy không có nước nào muốn thay đổi chính sách và bạn đồng minh, nhưng cả hai nước đều thấy rõ nhu cầu phải tìm ra một giải pháp hoà bình cho vấn đề Trung Đông.
    Ngoài ra, có một sự kiện khác không kém quan trọng và quy mô nhỏ hơn cuộc xung đột Trung Đông thông lại có ảnh hưởng tiềm tàng đối với quan hệ Xô-Mỹ. Ngày 3 tháng 6, báo Pravda đưa tin rằng trước đấy một ngày, máy bay Mỹ đã tấn công một tàu buôn Liên Xô "Turkestan" ở ngoài khơi thuộc cảng Cẩm Phả, phá hỏng tầu và làm bị thương hai thuỷ thủ. Trong một Công hàm gửi Washington, Chính phủ Liên Xô tuyên bố rằng cuộc tấn công này là sự "vi phạm thô bạo" quyền tự do trên biển, ?omột hành động ăn cướp" với "những hậu quả lâu dài". Chính phủ Liên Xô kiên quyết đòi nghiêm trị những kẻ phạm tội trong cuộc tấn công nói trên, và đòi Mỹ phải đảm bảo những hành động tương tự không xẩy ra.
    Tờ Pravda còn đăng bài bình luận với tựa đề "Những kẻ khiêu khích đùa với lửa". Đại sứ quán Mỹ ở Liên Xô đã điện báo cáo nội dung chính của bài báo về Bộ Ngoại giao Mỹ, và nhận xét rằng mặc dù giọng văn rất gay gắt song tờ ''Pravda nói bóng gió cho thấy Liên Xô chỉ coi việc trên của Mỹ là một sự kiện riêng lẻ chứ không phải là một biểu hiện leo thang chiến tranh. Đại sứ quán Mỹ kết luận: "Sự kiện này buộc Liên Xô phải đương đầu với những lời buộc tội rằng Liên Xô không đủ quyết tâm để thách thức Mỹ. Do đó, việc Liên Xô quyết định công khai hoá vấn đề trên có thể muốn tránh đương đầu với những lời buộc tội của dư luận về sự câu kết Xô-Mỹ và Liên Xô đầu hàng Mỹ, cũng như nhiều khó khăn khấc có thể xảy ra về mặt đối nội khi bưng bít sự kiện trên".
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhưng dù thế nào đi nữa thì Matxcơva cũng đã quyết định thể hiện thái độ phản ứng quyết liệt đối với Mỹ. Một công hàm trên của Liên Xô chỉ đổ thêm dầu vào lừa. Washington tỏ thái độ rất lấy làm tiếc về việc chiếc tàu buôn Turkestan bị hư hỏng và một số thuỷ thủ bị thương, nhưng nhấn mạnh rằng Chính phủ Mỹ có những tin tức khẳng định máy bay Mỹ không gây ra thiệt hại đó. Lời đáp này ngụ ý rằng pháo phòng không của Bắc Việt Nam có thể phải chịu trách nhiệm về việc này.
    Ngày 6 tháng 6, tờ Pravda đăng tải một thông cáo mới của Liên Xô bác bỏ lời biện giải của Mỹ về sự kiện trên và cho đó là một mưu đồ để trốn tránh trách nhiệm về vụ tấn công thô bạo này. Liên Xô tuyên bố rằng cuộc oanh tạc xảy ra giữa ban ngày, vào lúc trong cảng không có một chiếc tầu nào. "Không hề nghi ngờ rằng máy bay Mỹ đã nhằm trúng tàu Turkestan mà bắn và bỏ bom". Bản thông cáo phê phán ý kiến của Mỹ nói rằng các hoạt động trên không của Mỹ tấn công các mục tiêu trên không của Việt Nam tất yếu tạo ra hiểm hoạ đối với giao thông quốc tế tự do trên biển. "Việc Mỹ can thiệp chống Việt Nam là hành động vi phạm trắng trợn nhất đối với tất cả các chuẩn mực luật pháp quốc tế và là một tội ác chống loài người".
    Kremlin rõ ràng đã thắng điểm trước Kỳ họp toàn thể của Đảng Cộng sản Liên Xô để hoàn thiện việc tái xem xét chính sách dài dòng của Ban lãnh đạo Liên Xô. Kỳ họp được tổ chức vào giữa tháng 6 và đặc biệt tập trung vào việc xem xét các vấn đề chính sách đối ngoại. Washington quan tâm đến kết quả Hội nghị này cua Đảng Cộng sản Liên Xô, và lo ngại trước giọng điệu khá cứng rắn trong các văn kiện chính thức. Theo yêu cầu của Rusk, Thompson đã chuẩn bị một báo cáo phân tích về bản tuyên bố của kỳ họp, và bày tỏ mối lo ngại trước mắt, Mỹ có thể lại rơi vào bối cảnh chiến tranh Lạnh thực sự. Đối với các nhà làm chính sách của Mỹ thì rõ ràng là trong Bộ Chính trị Liên Xô ngày càng có nhiều các nhà lãnh đạo thực dụng, chịu tuân phục các thành viên có tư tưởng chính thống hơn.
    Trong khi tiếp tục xem xét để xác định chính sách, Kremlin tuyên bố Thủ tưởng Kosygin sẽ tham gia phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp quốc chuyên bàn về cuộc khủng hoảng Trung Đông. Tin này làm náo loạn Washington, vì đó sẽ là cuộc viếng thăm Mỹ đầu tiên của một số nhà lãnh đạo Liên Xô, dưới thời Tổng thống Johnson nó mở ra một thời cơ lớn cho Tổng thống gặp gỡ và đàm phán với Kosygin nhiều vấn đề về quan hệ giữa hai nước cũng như vấn đề quốc tế. Matxcơva nhấn mạnh rằng Kosygin sẽ đến thăm Liên Hiệp Quốc chứ không phải đến thăm Mỹ, nhưng điều này không làm nản lòng các cố vấn của Tổng thống Johnson.
    Các nhà ngoại giao Mỹ ở Matxcơva là những người đầu tiên quan tâm đến các mục tiêu được đưa ra trong cuộc viếng thăm của Kosygin. Ngày 6 tháng 6, Đại diện John Guthrie đã báo cáo về Washington thành phần đoàn đại biểu Liền Xô đến dự họp Đại hội đồng Liên Hiệp quốc. Ông cho rằng đoàn này có "rất ít người" là chuyên gia về vấn đề Trung Đông. Những người vắng mặt là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vladimir Semenov chịu trách nhiệm theo dõi khu vực này, và danh sách chỉ gồm có hai cán bộ trung cấp của Bộ Ngoại giao. Mặt khác, Guthrie nhấn mạnh rằng phái đoàn gồm các quan chức chuyên gia về các lĩnh vực khác chứ không phải về vấn đề Trung Đông. Đại diện Mỹ kết luận: "Thành phần đoàn đại biểu Liên Xô có thể chuẩn bị hội đàm song phương với Mỹ, có thể bàn về các chủ đề không hề liên quan gì đến vấn đề Trung đông. Việc phiên dịch cấp cao Viktor Sukhodrev đi cùng đoàn đã minh chứng cho điều đó?.
    Guthrie cho rằng nếu Kosygin thậm chí không gặp Tổng thống Mỹ thì chuyến viếng thăm của ông vẫn có thể vẫn rất có lợi. "Kosygin chưa bao giờ đến Mỹ, về nhân cách ông ta có thể rút ra kết luận từ những gì nhìn thấy ở Mỹ tốt hơn cả Khrushchev hoặc bất kỳ đồng sự nào của ông ta trong bộ ba lãnh đạo. Chúng ta hy vọng điều này không bị mất đi vì các hoạt động tuyên truyền cứng rắn của Kosygin mà chúng ta đã thấy khi xem xét lập trường hiện tại của Liên Xô".
    Những phân tích đánh giá của Guthrie được khẳng định qua các cuộc tiếp xúc bí mật với các nhà ngoại giao Liên Xô trước khi Kosygin đến Mỹ. Ngày 14 tháng 6, Walt Rostow, Phụ tá về vấn đề an ninh quốc gia của Tổng thống đến thông báo cho Johnson về một cuộc gặp gỡ giữa Giám đốc Cơ quan thông tin của Mỹ Carl Rowan và Tuỳ viên báo chí Đại sứ quán Liên Xô ở Washington-Oleg Kalugin. Oleg Kalugin nói với Carl Rowan sứ mạng chính của Kosygin ở Mỹ là "thúc đẩy sự ủng hộ của Liên XÔ đối với các nước Ảrập"-nhưng nhiệm vụ thứ hai của ông là thảo luận tay đôi với Tổng thống Mỹ."
    Dẫu việc Kosygin đến Mỹ có tạo ra những cơ hội gì đi nữa thì Chính quyền Mỹ cũng phải đối mặt với những vấn đề lúc đầu có vẻ là không thể giải quyết được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô không muốn đến Washington để gặp Tổng thống Mỹ, vì ông đến Mỹ một cách chính thức để tham dự họp Đại Hội đồng Liên Hợp quốc, chứ không để hội đàm với Johnson. Trong khi nói chuyện với Rowan Kalugin bóng gió rằng có thể là khó khăn cho Kosygin khi phản đối Washington vì Trung Quốc và thế giới Ảrập chắc chắn sẽ rất hoài nghi về bước đi này.''''
    Về phần mình, Johnson sẽ không tự hạ uy tín của mình mà vội vã trở về New York để gặp gỡ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Do lo ngại cuộc gặp này không thành; các cố vấn của Tổng thống đã cố gắng thuyết phục ông đây là một cơ hội lớn và cần dàn xếp về vấn đề nơi gặp.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Như thông lệ, Averell Harriman kiên trì thuyết phục Johnson thấy mặt lợi của hội đàm cá nhân với Kosygin về vấn đề Việt Nam. Trong báo cáo về ?onhững cuộc hội đàm có thể với Kosygin về giải pháp Việt Nam", Hạrriman lập luận: "Việc gặp gỡ của Tổng thống với Kosygin tạo ra cơ hội duy nhất để tiến tới hội đàm vì một giải pháp hoà bình ở Việt Nam, vì sự hợp tác trực tiếp hay gián tiếp của Liên Xô là mấu chốt để tiếp tục các cuộc hội đàm".
    Tuy chính quyền Johnson thường bỏ qua ý kiến của Harriman nhưng lần này nhận định của ông được Dean Rusk ủng hộ mạnh mẽ. Ngày 17 tháng 6, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ gửi cho Tổng thống một báo cáo, trong đó nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất phải xem xét đối với Tổng thống là làm gì đối với cuộc gặp gở Kosygin? Rusk thông báo cho Tổng thống Mỹ rằng hầu như tất cả cá nhân vật chủ chốt trong chính quyền Mỹ (Mc.Namara, Mcholas Katzenbach, Cyrus Vance, Bundy, Walt Rostow, Thompson, Harry Mc.Pherson) đều cho rằng có thể có thiệt hại lớn về chính trị đối với Tổng thống nếu Kosygin trở về Matxcơva mà không có cuộc gặp gỡ giữa hai người.
    Rusk lưu ý Johnson rằng nhiều lần Tổng thống đã thề "sẽ đi bất cứ đâu, gặp bất cứ ai", vì mục đích hoà bình. "Nếu mọi người biết rằng Tổng thống đã từ chối gặp Kosygin ở New York thì chúng tôi tin là Tổng thống khó tránh khỏi sự phê phán quyết liệt ở trong nước-chưa kể đến dư luận quốc tế nói chung". Rusk khuyên rằng Tổng thống nên đi đến khu vực New York. Để tránh mất uy tín của mình, Johnson có thể gặp Thống đốc các bang, thông báo trước về cuộc gặp như vậy. Rusk kết luận: ?oNếu Tổng thống đồng ý với chúng tôi rằng gặp gỡ Kosygin là điều quan trọng trước khi ông ta rời Mỹ, thì tốt hơn cả là thu xếp cho cuộc gặp để khỏi phải đương đầu với sức ép của Liên Hợp quốc hay Quốc hội Mỹ".
    Kosygin cũng không kém phần quan tâm đến cuộc gặp với Tổng thống Mỹ-Tuy chúng tôi không có thông tin trực tiếp cụ thể nào, song những hoạt động của các quan chức Liên Xô trong khi ông ta đang ở Mỹ đã chứng tỏ điều này. Khi nói chuyện riêng không chính thức với một quan chức Nhà Trắng, Tham tán Đại sứ quán Liên Xô Yulii Vorontsov đã đề cập đến việc Liên Xô rất quan tâm đến khả năng tổ chức một cuộc gặp cấp cao. Nhưng Tham tán Liên Xô chỉ rõ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô không thể vượt "khoảng cách chính trị 220 dặm" đến Washington vì sợ các nước Ảrập phê phán. "Nếu Tổng thống Mỹ có thể đến New York hoặc ngoại vi New York" thì có thể tổ chức cuộc gặp gỡ một cách dễ dàng. Khi được hỏi về phạm vi "ngoại vi New York", Vorontsov không hề phản đối một nơi xa như Philadelphia. Ngoài ra, Vorontsov còn khẳng định rằng: "Kosygin là một nhà lãnh đạo thẳng thắn và bộc trực và sẵn sàng bàn luận về hàng loạt các vấn đề đáng quan tâm, không chỉ vấn đề Trung Đông?.
    Một báo cáo khác thông qua cuộc "gặp gỡ cấp cao thu nhỏ" về mối quan tâm của Liên Xô cũng được gửi từ New York về Washỉngton. Một thành viên của phái đoàn Liên Xô tại Liên Hợp quốc Svened Evteev hỏi một thành viên trong phái đoàn Mỹ liệu có cuộc gặp giũa Kosygin và Tổng thống Mỹ hay không. Vì câu hỏi không được trả lời nên Evteev đã nói rằng nếu cuộc họp không được tổ chức thì đó là sai lầm của Mỹ.
    Bộ Ngoại giao Mỹ tổng hợp các báo cáo đi đến kết luận rằng mục đích chính của Kosygin trong gặp gỡ Johnson nhằm thăm dò thái độ của Johnson và qua "cuộc gặp mặt đối mặt" bổ xung thêm vào đánh giá của ông ta về nhà lãnh đạo nước Mỹ. Mặt khác, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô không thể chỉ hạn chế trong khuôn khổ một cuộc gặp đơn thuần. Chắc chắn, ông ta đã sẵn sàng thảo luận nhiều vấn đề quốc tế cũng như vấn đề Việt Nam. Bộ Ngoại giao Mỹ không hề có tin tức gì về việc Kosygin có thể sẽ nói tới ?onhững vấn đề rất mới mẻ" về Đông Nam Á. Khi được gọi về Mỹ để tham khảo ý kiến, Đại sứ Thompson cũng đồng ý về điểm này.
    Trong khi các cuộc thảo luận (về thực chất cuộc hội đàm có thể diễn ra giữa các nhà lãnh đạo Liên Xô và Mỹ), đang diễn ra ở Washington thì vấn đề mấu chốt của việc này vẫn chưa được giải quyết. Ngày 22 tháng 6, sau khi Kosygin đến New York, Rusk đã gặp ông và đề nghị nơi có thể gặp gỡ được là căn cứ: không quân Mc.Guire ở bang New Jersey. Kosygin từ chối thẳng thừng. Rusk lập luận rằng căn cứ này là nơi an toàn và yên tĩnh với những phương tiện cần thiết. Đồng thời, Johnson còn dự kiến có cuộc nói chuyện ở California, do vậy, ngay sau khi gặp gỡ, Johnson có thể bay từ căn cứ đến Califorma. Nhưng những lý lẽ của Rusk không thuyết phục được Kosygin. Còn đối với Kosygin thì điều quan trọng là phải xem xét dư luận chung. Kosygin biện lý rằng "Người ta có thể xem xét việc chúng ta làm là chỉ để phô trương", "Có thể họp ở một nơi khác ở ngoài căn cứ này". Tuy Kosygin không bác bỏ khu vực đó nhưng ông nhấn mạnh rằng theo ý kiến của ông thì "Tổng thống Mỹ cũng không muốn gặp tại một căn cứ quân sự", "Cả hai nước đều đang phấn đấu cho một giải pháp hoà bình, nên chỉ cần có một buồng họp trong khoảng bốn giờ hay thậm chí một phòng khách sạn cũng đủ?. Kosygin nhấn mạnh rằng nếu chọn cặn cứ quân sự trên làm nơi họp bàn thì thiên hạ có thể cho là Mỹ muốn phô trương cho ông ta những súng ống và tên lửa Mỹ.
    Quan điểm của Kosygin không phải là không có lý. Các nhà lãnh đạo Liên Xô phải lường trước được phản ứng của Hà Nội và Bắc Kinh đối với một cuộc họp vì hoà bình lại tổ chức ở một căn cứ quân sự Mỹ. Rõ ràng là việc định nơi gặp gỡ hội đàm có thể sẽ làm nảy sinh những lời lên án về việc thông đồng giữa Mỹ và Liên Xô và khó có thể tiên đoán được phản ứng của các đồng minh của Liên Xô sẽ ra sao. Kosygin càng không thể làm ngơ trước phản ứng của các thành viên Bộ Chính trị, như nhà tư tưởng Mikhail Suslov-người bảo vệ tính thuần khiết của chủ nghĩa cộng sản và cảnh giác cách mạng rất cao.
    Cuối cùng, nơi được thoả thuận chọn làm địa điểm gặp gỡ là Glassboro-một thành phố nhỏ thuộc bang New Jersey, nơi ít người Mỹ biết đến chứ đừng nói là một người Liên Xô. Trong một vài ngày, Glassboro trở thành trung tâm chú ý của thế giới, và vĩnh viễn đi vào lịch sử quan hệ Xô-Mỹ: Trong khi việc chuẩn bị cho cuộc gặp gở ở Glassboro được tiến hành khẩn trương thì Kosygin tham dự phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc. Ngày 19 tháng 6, Kosygin đọc bài diễn văn chủ yếu là cuộc khủng hoảng ở Trung Đông. Mặc dù vậy, vấn đề Việt Nam cũng được ông chú ý. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô lặp lại những lời tố cáo và lên án Mỹ tiến hành chiến tranh chống Việt Nam. Ông lên án Washington muốn áp đặt một chế độ đối với nhân dân Việt Nam theo những tham vọng của "bè lũ đế quốc nước ngoài" và nhấn mạnh rằng con đường duy nhất để giải quyết vấn đề là phải rút quân đội Mỹ ra khỏi khụ vực này. Nhưng trước hết, Mỹ phải chấm dứt ngay và không điều kiện việc ném bom bắn phá miền Bắc việt Nam. Kosygin khẳng định: "Không một tuyên bố nào về việc sẵn sàng tìm giải pháp hoà bình cho vấn đề Việt Nam có sức thuyết phục, nếu điều này không được thực hiện. Các tuyên bố của Mỹ không được trái với những hành động của Mỹ". Kosygin một lần nữa bày tỏ mối quan ngại của ông và các đồng nghiệp rằng cuộc chiến ở Việt Nam đã làm tăng thêm nguy cơ của "một cuộc đồi đầu quân sự lớn giữa các cường quốc" nhằm ám chỉ giữa Liên Xô và Mỹ.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Theo một nhà ngoại giao Mỹ, tuy lời lẽ diễn văn mạnh mẽ nhưng bài diễn văn không tạo được "điều gì mới mẻ". Đồng thời, nó xác định vị thế đàm phán của Kosygin về vấn đề Việt Nam trong các cuộc hội đàm với Tổng thống Johnson. Một dấu hiệu khác về quan điểm của Liên Xô mà Rusk phát hiện được, trong tiệc chiêu đãi Gromyko trước khi có cuộc gặp gỡ ở Glạssboro. Chủ đề Việt Nam thực tế được đưa ra sau bữa tiệc tối, khi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ hỏi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô liệu có thể áp dụng các bước sau đây để đưa cuộc xung đột ở Đông Nam Á đi đến kết thúc được không: hội đàm tay đôi, một Hội nghị Geneve mới, hội đàm dưới sự giám sát của Liên Hợp quốc, và v.v... Gromyko lần đầu tiên lên tiếng thông qua phiên dịch: ông ta nói rằng quan hệ giữa hai bên có thể tạo ra những bước tích cực. Nhưng cần phải tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho các cuộc hội đàm và điều này có nghĩa là phải ngừng ném bom vô điều kiện đối với miền Bắc Việt Nam. Gromyko nói thêm rằng Liên Xô không đàrn phán thay Hà Nội. Ông ta nhắc lại nhiều lần rằng: "Cách duy nhất để tìm ra giải pháp là phải chấm dứt vô điều kiện việc ném bom mà không đếm xỉa đến việc Rusk phàn nàn về việc quân đội Bắc Việt Nam thâm nhập vào miền Nam giữa những đợt ngừng ném bom và tập trung quân Bắc Việt Nam gần khu phi quân sự. Rõ ràng là Gromyko chỉ nói có mức độ vì có mặt nhà lãnh đạo Liên Xô là người có quyền nói chi tiết hơn về vấn đề này. Nhưng đồng thời Gromyko cũng chỉ rõ quan điểm của Liên Xô đã được định ra ở Matxcơva từ tháng 6 năm 1967 có tính đến thái độ của Việt Nam.
    Bắc Việt Nam không ủng hộ sáng kiến hoà bình. Sau cuộc viếng thăm của Phạm Văn Đồng đến Matxcơva vào hồi tháng 4, Hà Nội không hề thay đổi việc từ chối duy trì mối quan hệ với Mỹ, không theo lời kêu gọi của Liên Xô. Shcherbakov báo cáo nêu rõ trong khi nói chuyện, các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam đều trả lời nhát gừng rằng những lời khuyên của Liền Xô đang được nghiên cứu, song cần phải chờ thời điểm thích hợp thì mới đưa ra sáng kiến ngoại giao hoặc chính trị. Hà Nội không thấy trước được thời điểm đó trong tương lại gần nên không có hy vọng Bắc Việt Nam có phản ứng đối với một sáng kiến nào của Mỹ, hoặc với một cử chỉ nào từ phía các nước thứ ba. Bất chấp những tình hình đó, Matxcơva vẫn hy vọng thuyết phục các đồng chí Việt Nam của họ ngồi vào bàn đàm phán.
    Ngày 23 tháng 6 năm 1967, lần đầu tiên Johnson và Kosygin gặp nhau. Hầu hết các cuộc hội đàm của hai người tập trung vào các vấn đề quan hệ song phương và tình hình ở Trung Đông. Ngay trong phiên họp đầu, Johnson đã cố lôi kéo Kosygin vào việc đàm phán về Việt Nam. Nhưng không có kết quả. Sau khi nghe lập luận của Tổng thống Mỹ trong việc ủng hộ ném bom Bắc Việt Nam, Kosygin chuyển chủ đề bàn sang những vấn đề về Trung Đông.
    Nhưng Kosygin không phải muốn lảng tránh vấn đề mà còn phải đòi trả lời của Hà Nội. Khi gặp lại sau bữa trưa, Kosygin tự đề cập đến tình hình ở Đông Dương. Ông tâm sự rằng trước khi tham gia cuộc hội đàm này, ông đã gặp Phạm Văn Đồng ở Hà Nội để hỏi xem ông ta có thể làm được gì khi gặp Tổng thống Mỹ nhằm làm chấm dứt chiến tranh. Trong bữa trưa, ông đã nhận được câu trả lời của Hà Nội.
    Nội dung trả lời của Phạm Văn Đồng là chấm dứt ném bom và Bắc Việt Nam lập tức sẽ ngồi vào bàn đám phán. Kosygin kêu gọi Tổng thống nên tôn trọng lời đề nghị này. Ông nhấn mạnh rằng câu trả lời trên "lần đầu tiên tạo cơ hội đàm phán trực tiếp với Hà Nội mà không nguy hiểm gì cho Mỹ". Nhà lãnh đạo Liên Xô cố gắng làm tiêu tan sự bi quan thực sự của Johnson. Ông đưa ra ví dụ của Pháp đã tiến hành chiến tranh ở Algéne suốt bảy năm và rồi cũng chấm dứt trên bàn đàm phán. Ông ta khẳng định rằng cuộc quyết chiến sẽ còn tiếp tục trong nhiều năm nữa nếu cần thiết. "Và Tổng thống Mỹ có thể làm được gì?", "Tổng thống có thể tiếp tục chiến tranh mười năm hoặc lâu hơn nữa, giết chết nhiều thanh niên ưu tú của dân tộc".
    Kosygin ca ngợi lòng dũng cảm của quân đội Mỹ và so sánh với những thanh niên Liên Xô "trong những hoàn cảnh tương tự cũng dũng cảm chiến đấu không quản hy sinh". Kosygin nhắc lại rằng, mặc dù vậy, đã đến lúc phải chấm dứt chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán, và Tổng thống Mỹ có thể thấy những gì sẽ xảy ra.
    Một trong những lập luận mạnh nhất trong việc ủng hộ đề nghị này có thể là việc ông đề cập đến Trung Quốc. Nhà lãnh đạo Liên Xô quả quyết rằng: bằng việc tiếp tục chiến tranh, Johnson "đang thực sự giúp Trung Quốc thực hiện được những mưu đồ xấu xa nhất của họ". Cuối cùng, Kosygin nhấn mạnh "tính cấp bách" của đề nghị này và thúc giục Johnson cân nhắc lại và chuẩn bị trả lời trong hai này tời để Kosygin có thể chuyển về cho Hà Nội trước lúc rời Mỹ.
    Rõ ràng là Johnson xem xét đề nghị của Kosygin với một cảm giác lẫn lộn. Tuy có thể được khích lệ bởi quan tâm của Kosygin đối với một giải pháp hoà bình cho cuộc chiến tranh đối với tình hình thế giới nói chung và quan hệ Xô-Mỹ nói riêng, song Johnson dường như không hào hứng về việc Mỹ có lập trường mới đối với Bắc Việt Nam như Kosygin đề.nghị, đặc biệt là vì Kosygin không đảm bảo kết quả diễn ra. Lần cuối cùng, Johnson cố thuyết phục Kosygin hứa ủng hộ Mỹ trên bàn đàm phán. Nhưng Kosygin chỉ đồng ý chuyển đề nghị của Mỹ cho Hà Nội và nhắc lại lập trường của Liên Xô rằng Liên Xô không thể quyết định vấn đề này "một cách độc lập mà không có ý kiến của Bắc Việt Nam".
    Mặc dù rất bi quan Johnson nói rằng ông ?onghiên cứu bức thông điệp của Hà Nội rất kỹ lưỡng". Ông đã thảo luận thông điệp này với Rusk và Mc.Namara. Rusk gợi ý chuyển cho Kosygin, cùng với thư trả lời Hà Nội, một thông điệp miệng mà trong đó Johnson sẽ thừa nhận trách nhiệm cực kỳ đặc biệt của Mỹ và Liên Xô về các vấn đề liên quan đến hoà bình. Bức thông điệp này sẽ thông báo cho Kosygin biết rằng Washington sẵn sàng chấm dứt ném bom như là một bước tiến tới hoà bình. Nhưng Mỹ cũng sẽ bảo lưu quyền "hoàn toàn tự do hành động" nếu các cuộc hội đàm không đem lại hoà bình, hoặc nếu Hà Nội kéo dài các cuộc đàm phán để giành lợi thế quân sự cho mình. Chính phủ Mỹ có thể nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất là Kosygin và Johnson không hiểu lầm nhau và không có vấn đề gì nghi ngờ giữa hai người?.
    Trong cuộc gặp gỡ với Kosygin ngày 25 tháng 6, Johnson đã thông báo về vấn đề này cùng thư trả lời Hà Nội. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô tỏ vẻ hài lòng với lời đáp rằng Mỹ sẵn sàng chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam, và nhấn mạnh sau khi chấm dứt ném bom phải lập tức đàm phán giữa đại diện của Mỹ và Bắc Việt Nam ở Giơnevơ, Matxcơva, Vientiane hoặc bất kỳ một nơi nào đó thích hợp. Theo bức thư trả lời này, nhũng cuộc đàm phán phải đi liền với việc cả hai bên cùng hạn chế các hoạt động quân sự ở miền Nam, như việc chấm dứt đưa quân miền Bắc vào miền Nam, và việc đưa các lực lượng của Mỹ và của Nam Việt Nam Bắc tiến.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Việc Kosygin hài lòng với kết quả các cuộc đàm phán với Tổng thống Mỹ thể hiện rõ trong lời kết của ông. Ông tuyên bố. "Tổng thống Mỹ có thể yên tâm rằng dù tình hình và dư luận chung như thế nào, Liên Xô luôn mong muốn hoà bình. Liên Xô không muốn đối đầu với Mỹ ở bất cứ đâu và hai nước không hề có xung đột ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Mỗi khi có tình hình nghiêm trọng nổi lên ở đâu, hai nước cần phải bàn bạc". Kosygin không thể bỏ lỡ một dịp may nào để vạch rõ bản chất nguy hiểm trong chính sách của Trung Quốc. Ông cho rằng: "Mỹ không nên tin vào những kẻ đang cố tình tạo ra những bất hoà giữa hai nước chúng ta. Bắc Kinh rõ ràng đang là một trong những kẻ đó". Khi ông ta viết thư cho Tổng thống Mỹ, thực tế đã có một số người muốn làm gia tăng vấn đề vướng mắc giữa hai nước. Ông ta không loại trừ khả năng xảy ra việc này. Sau cùng, Tổng thống Mỹ đã thấy những trò mà họ đã tạo dựng lên ở Bắc Kinh có liên quan tới chuyến đi của ông ta đến New York; Bắc Kinh nói rằng ông ta đến đây để bán rẻ một vài người, nhưng rõ ràng cả ông và Tổng thống Mỹ chẳng bán đứng hay phản bội bất kỳ ai.
    Những lời lẽ này bộc lộ một cách rõ ràng những mục tiêu chính của Kosygin trong hội đàm với Tổng thống Mỹ. Thực tế, Kosygin cũng như các đồng nghiệp của ông ở Matxcơva rất quan tâm xem xét các quan hệ đang dần dần cải thiện giữa hai nước mặc dù lúc này bối cảnh thế giới hoàn toàn không thuận lợi ở trong nước, một nền kinh tế Liên Xô trì trệ đòi hỏi phải tranh thủ cho được các thành tựu công nghệ Mỹ đưa vào phát triển các ngành công và nông nghiệp Liên Xô, và nảy sinh nhu cầu phải hợp tác với Mỹ trong lĩnh vực văn hoá và khoa học. Trong nền chính trì quốc tế, mục tiêu của Kremlin còn phức tạp hơn nhiều. Chắc chắn là Liên Xô mong muốn tránh đối đầu với Mỹ, vì họ thấy rõ hiểm hoạ mà nó tạo ra. Nhưng điều này không có nghĩa là Liên Xô từ bỏ kế hoạch giành ưu thế đối với "bè lũ đế quốc" trong cuộc đấu tranh trong phạm vi toàn thế giới. Do đó, Liên Xô cố gắng giành lợi thế đối với Mỹ và cố tăng cường ảnh hưởng của mình ở nhiều khu vực trên thế giới bằng việc khai thác tối đa những điểm yếu của đối thủ và ngăn chặn khả năng lợi dụng các yếu điểm của Liên Xô. Vào cuối những năm 60, một yếu điểm của Liên Xô là cuộc xung đột với Trung Quốc. Vì các nhà lãnh đạo Liên Xô sợ có sự liên minh giữa Washington và Bắc Kinh, nên Liên Xô kiên quyết ngăn chặn sự xích lại gần nhau giữa Trung Quốc với Mỹ.
    Do đó, chiến lược của Liên Xô gồm hai mục tiêu mâu thuẫn nhau. Tranh thủ viện trợ của Mỹ để giải quyết các vấn đề đối nội, mặt khác cố giành lợi thế đối với Mỹ trong cuộc tranh giành quyền lực trên phạm vi quốc tế, và không để Mỹ lợi dụng những yếu điểm của Liên Xô. Tại Hội nghị ở Glassboro, Kosygin đã tích cực hoạt động thẹo những mục tiêu này.
    Tổng thống Johnson cũng quan tâm làm rõ lập trường của Liên Xô về nhttng vấn đề quốc tế khác nhau, và các cuộc hội đàm với Kosygin đã giúp Tổng thống làm được điều này. Nhưng vấn đề chính là Việt Nam, đặc biệt là vai trò của Liên Xô trong vấn đề Việt Nam vẫn không được sáng tỏ. Việc Johnson kêu gọi Hà Nội không hề được phía Bắc Việt Nam đáp lại cũng như toan tính của Tổng thống tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô trong việc tìm giải pháp cho Cuộc chiến Việt Nam không thành công.
    Khi xem xét lập trường của Hà Nội, khó có thể có sự thay đổi nào khác. Nhưng Kosygin có thông báo cho Mỹ biệt về lập trường của Bắc Việt Nam không? Chắc chắn là ông ta đã thông báo. Ông ta không hề giấu giếm Tổng thống Mỹ về việc ông ta đã liên hệ với Phạm Văn Đồng trước khi diễn ra cuộc gặp gỡ ở Glassboro. Các tài liệu của Liên Xô đã xác nhận sự liên hệ nói trên. Kosygin có thể đã thổi phồng tầm quan trọng đề nghị của Bắc Việt Nam và không để ý đến cơ sở gốc rễ của nó đã được Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội tổng hợp phân tích. Đại sứ quán Liên Xô báo cáo rõ ràng là Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam không muốn đàm phán với Mỹ vào mùa xuân và mùa hè 1967.
    Một khả năng khác không thể loại trừ là Kósygin chỉ thăm dò khi nói với Johnson rằng một khi chấm dứt ném bom thì Hà Nội lập tức sẽ ngồi vào bàn đàm phán. Ý đồ của ông ta có thể nhằm thuyết phục Mỹ chấm dứt ném bom bằng việc hứa hẹn sẽ sớm đi đến bàn đàm phán; và nhằm thuyết phục được Hà Nội đồng ý đàm phán khi chấm dứt ném bom. Dù vậy, trong tháng giêng và tháng hai, "cánh cứa đi tới hoà bình vẫn bị đóng chặt". Dù cuộc gặp gỡ Glassboro có lợi như thế nào đi nữa trong các quan hệ quốc tế, thì vấn đề Việt Nam không có gì thay đổi.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương VII-Con đường dẫn đến Paris
    Nửa sau của năm 1967 là một giai đoạn khó khăn đối với cả Mỹ và Việt Nam. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam không thể tiếp tục cùng với quy mô và cường độ như trước, vì cả hai bên tham chiến hầu như đã cạn kiệt ý chí và sức lực hòng tránh tổn thất và hoang mang. Kết cục cuộc chiến giờ đây phụ thuộc vào sự lựa chọn sáng suốt giữa những khả năng hiện hữu và các nguy cơ không thể tránh khỏi.
    Phương cách lô-gich để thoát khỏi sự bế tắc về quân sự vào mùa thu năm 1967 là đàm phán hoà bình trên cơ sở một số thoả hiệp ít bất hợp lý hơn đối với cả hai bên tham chiến. Nhưng mặc dù thấy rõ nhu cầu phả đạt được giải pháp đó, cả Washington và Hà Nội đều không sẵn sàng từ bỏ hy vọng giành thắng lợi về mặt quân sự. Các nhà lãnh đạo ở cả hai nước dường như chỉ cố gắng tìm cho được một cơ hội giành thắng lợi dù mong mah nhất nhằm tiêu diệt kẻ thù bằng cuộc tấn công toàn diện.
    Vị thế của Mỹ không chắc chắn bằng vị thế của Bắc Việt Nam. Mỗi ngày chiến tranh qua đi mà không giành được thắng lợi quyết định càng làm mất dần sự ủng hộ trong nước đối với việc Mỹ tham chiến trong Cuộc chiến tranh Đông Dương xa xôi. Những dấu hiệu đầu tiên về quá trình diễn biến này lan truyền trong các cố vấn thân cận nhất của Tổng thống Mỹ. Đây là những người có đầy đủ mọi thông tin để tổng hợp, tạo dựng lên toàn bộ bức tranh về Cuộc chiến ở Đông Nam Á, không chỉ là những mảnh vụn đã được đưa ra công luận nhằm tránh được các vấn đề phức tạp không đáng có xảy ra. Vào mùa thu 1967, có một người đã ủng hộ và thiết kế cuộc chiến tranh ngay từ những buổi đấu, đã từng hàng ngày, hàng giờ chỉ đạo tiến trình chiến tranh và tên tuổi người này chỉ đứng sau tên tuổi Tổng thống để phát lệnh- chiến đấu trong suốt Cuộc chiến tranh Việt Nam thì nay đứng trên tuyến đầu của những người phản đối cuộc chiến này. Người đó chính là bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert S.Mc Namara.
    Sự vỡ mộng của Mc Namara về cuộc chiến tranh, việc ông bất mãn với những thành tựu của Mỹ trong cuộc chiến chống những người Cộng sản Việt Nam và ông hiểu rõ những âm mưu hòng đập tan ý, chí của Bắc Việt Nam bằng bom đạn là vô bổ, tất cả những điều này đã làm ông tin rằng cần phải từ bỏ những mục đích quân sự và chuyển cuộc chiến thành cuộc đấu tranh chính trị có hoặc không có đàm phán. Tháng 8 năm 1967, ông ta đã đưa ra một số biện pháp nhằm dần dần hạn chế sự tham gia và nhằm cuối cùng chấm dứt can dự của Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam.
    Những lập luận của Mc Namara trái ngược với các báo cáo lạc quan của quân đội Mỹ về triển vọng của cuộc chiến. Trong suốt mùa hè và mùa thu năm 1967, tham mưu trưởng liên quân Mỹ cũng như các tướng lĩnh Mỹ ở Việt Nam trong đó có William C.Westmoreland đang trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến đã thuyết phục chính quyền và nhân dân Mỹ rằng Mỹ đang lập nên những bước tiến triển mạnh mẽ "cho cuộc chiến tranh, rằng bất kỳ báo cáo nào nói tình hình bế tắc đều là "một chuyện hoang tưởng hoàn toàn" và rằng thắng lợi cuối cùng đã nằm trong tầm tay chúng ta".
    Những lập luận của các tướng lĩnh Mỹ có sức thuyết phục hơn lý lẽ của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã mệt mỏi với chiến trận. Họ không những thuyết phục được Johnson, những người luôn tỏ ra quá hăng hái, mà còn cả những gì được gọi là những người thông thái, các cựu chiến binh của nền chính trị và ngoại giao Mỹ. Những người này theo yêu cầu của Tổng thống đã họp lại trong hai ngày đầu tiên của tháng 11 để bàn về chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Dean Acheson, cựu ngoại trưởng Mỹ, Tướng lục quân Omar Bradley, cựu chiến binh của Chiến tranh thế giới II; George Ball và Mc George Bandy, đều là thành viên của chính quyền Johnson, Anthlr Dean, nhà đàm phán trong Cuộc chiến tranh Triều Tiên; cựu Bộ trưởng Bộ Tư pháp Abe Fortas-bạn thân của Tổng thống; và cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Robert Murphy-tất cả đều nói với Tổng thống Johnson rằng ông cần phải giữ vững lập trường và bác bỏ bất cứ một gợi ý nào về từ bỏ cuộc chiến tranh.
    Chỉ có Averell Harriman vẫn giữ im lặng, mặt lạnh như tiền trong lúc "bày tỏ sự nhất trí này", muốn thể hiện ý kiến bảo lưu nghiêm túc của mình về cuộc chiến. Theo Clark Clofford-một luật sư và bạn thân của Tổng thống, sau là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khi Mc Namara từ chức thì chỉ khi thảo luận về khả năng đàm phán, Harnman kiên quyết tỏ thái độ ủng hộ một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột ông nói đàm phán là "tất yếu và cần thiết".
    Harriman là một trong những người ở Washington nghi ngờ sâu sắc về tính hiện thực trong chính sách tiếp tục tham chiến của Mỹ.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Vào mùa hè và mùa thu năm 1967, như thường lệ, ông quan tâm đến từng dấu hiệu về những cuộc hội đàm có thể được tiến hành với Hà Nội, coi sự ủng hội của Matxcơva là một phần chủ yếu của tiến trình giải quyết cuộc xung đột. Ngay sau cuộc gặp gỡ Glassbore, ông nhận được tin tình báo cho biết Bắc Việt Nam đã rút bốn trung đoàn chủ lực ra khỏi khu vực phía Nam khu phi quân sự. Trong một báo cáo gửi cho Rusk, Harriman nhận định rằng đây là dấu hiệu Hà Nội bắt đầu quá trình giải quyết xung đột và đề nghị chỉ thị cho Đại sứ Mỹ ở Matxcơva tìm gặp ngay Gromyko để làm rõ hành động trên và yêu cầu lãnh đạo Liên Xô "tìm hiểu chính xác hơn về ý nghĩa của việc rút quân nói trên". Ít lâu sau, Harriman kiến nghị rằng Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ nên sử dụng chuyến thăm của Gromyko đến Liên Hợp quốc như một cơ hội "để thuyết phục Liên Xô hợp tác tìm kiếm giải pháp với Bắc Việt Nam".
    Nỗ lực của những người như Harriman cũng như sự nhất trí ở Washington đang bị xói mòn dần dần đã thúc đẩy chính quyền Johnson chấp nhận những biện pháp phi quân sự mới nhằm giải quyết cuộc xung đột này. Trong khi không từ bỏ hy vọng giành chiến thắng trên chiến trường, Washington cố gắng giải quyết xung đột bằng biện pháp ngoại giao. Ngày càng có nhiều biện pháp đáp ứng được đòi hỏi của thời đại và của tình hình, chứ không phải những biện pháp tuyên truyền nhằm làm dịu dư luận trong và ngoài nước. Trong những tháng cuối năm 1967, một số biện pháp nữa được tiến hành, một thông qua các nhà khoa học Pháp là Raymond Anbrae và Herbert Marcovich do Henry Kissinger móc nối liên hệ, và một giáo sư Trưởng Đại học Harvard, còn biện pháp khác thực hiện thông qua những người Rumani. Cũng giống như những toan tính trước đây, các biện pháp này không đạt được kết quả gì.
    Mặc dù không đạt được thắng lợi thực sự nào trong quan hệ với Hà Nội, song những nỗ lực của Washington suốt mùa hè và mùa thu năm 1967 đã thể hiện sự chuyển biến dần dẩn về lập trường của Mỹ theo hướng đàm phán với Bắc Việt Nam. Sự chuyển biến này phản ánh tình hình chiến sự ở Việt Nam cũng như không khí chính trị ở trong nước, và ngay cả các thành viên trong chính quyền Johnson cũng ngày càng nhận ra rang không thể thuyết phục Việt Nam ngồi vào bàn đàm phán mà không đáp ứng được một số điểm trong hàng loạt các điều kiện đặt
    ra cho các cuộc hội đàm.
    Một thay đổi trong lập trường của Mỹ được phản ánh qua Bài diễn văn của Tổng thống tại San Antonio, Texas ngày 29 tháng 9 năm 1967. Trong khi đưa ra những nguyên nhân chiến tranh và lý do để Mỹ tham chiến, Bài diễn văn còn đề cập đến một đề nghị hoà bình là mấu chốt trong sáng kiến của Mỹ đã được truyền đi qua Kissinger. Việc Tổng thống tuyên bố công khai có thể nâng ý nghĩa quan trọng của nó trong con mắt của Bắc Việt Nam.
    Tại San Antonio, Johnson cố gắng thuyết phục nhân dân Mỹ rằng có "một tiến triển" ở miền Nam Việt Nam. Ông quả quyết: "Có tiến bộ trong bản thân cuộc chiến tranh, tiến bộ vững chắc trong cuộc chiến mà chúng ta đang theo đuổi...". Theo Tổng thống thì ********* đã chịu thất bại trên toàn miền Nam. Ông khẳng định rằng: ?oCác chiến dịch năm ngoái đã đẩy lùi kẻ thù khỏi nhiều căn cứ của chúng. Thắng lợi quân sự hầu như trong tay Hà Nội trong năm 1965, thì giờ đây về tay chúng ta. Gông cùm ********* đối với nhân dân đã bị đập tan".
    Trong khi tuyên bố thắng lợi như vậy, Johnson đã chuyển đề nghị hoà bình của mình đến cho Hà Nội mà chẳng bao lâu sau đã thành "Công thức San Antonio". Ông ta nói: "Như chúng ta đã nhiều lần nói cho Hà Nội biết trọng tâm thực sự của vấn đề là: Mỹ sẵn sàng chấm dứt mọi hoạt động ném bom bắn phá Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân nếu việc này lập tức đưa đến đàm phán xây dựng. Tất nhiên, chúng ta cho rằng trong tiến hành đàm phán, Bắc Việt Nam sẽ không lợi dụng việc hạn chế hoặc ngừng ném bom nói trên".
    Thế là Johnson đã từ bỏ lời thề rằng ông sẽ không đánh đổi việc ném bom Bắc Việt Nam chỉ để lấy việc đàm phán. Washington cũng điều chỉnh đáng kể lập trường của mình đối với việc Bắc Việt Nam thâm nhập vào Nam Việt Nam trong khi ngừng ném bom. Giờ đây, các nhà lãnh đạo Mỹ không đòi hỏi việc thâm nhập này phải chấm dứt. Đoạn, Johnson nói: ?oChúng ta... cho rằng... Bắc Việt Nam sẽ không lợi dụng việc ngừng ném bom" có ngụ ý rằng Mỹ sẵn sàng đồng ý với khối lượng và quy mô thâm nhập như thường lệ, nhưng không được tăng hơn. Sau đó, Clark Clifford đã khẳng định điều này trong phiên họp Thượng viện Mỹ hồi tháng 1 năm 1968, khi ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Khi ông Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hoà hỏi câu: "Không được lợi dụng việc ngừng ném bom" có nghĩa là Bắc Việt Nam dừng tất cả mọi hoạt động quân sự của họ? Clifford trả lời rằng: "Các hoạt động quân sự của họ sẽ tiếp tục ở Nam Việt Nam cho tới khi có một cuộc ngừng bắn được thực hiện. Họ sẽ tiếp tục vận chuyển như thường lệ những hàng hoá, đạn dược và con người vào Nam Việt Nam. Tôi cho rằng chúng ta sẽ tiếp tục duy trì lực lượng của mình và yểm trợ họ (chính quyền Sài Gòn) trong suốt thời kỳ đó. Vậy thì điều tôi sắp nói-theo ngôn ngữ của Tổng thống Mỹ-quả quyết rằng họ sẽ không lợi dụng việc ngừng ném bom nói trên".

Chia sẻ trang này