1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Như?fng bí mật Nga cu??a chiến tranh Việt nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi spirou, 29/05/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tuy nhiên về cơ bản, "Công thức San Antonio" mâu thuẫn với quyết tâm của Chính phủ Mỹ, không bỏ lỡ một cơ hội nào để giành thắng lợi về quân sự, nhưng nó thể hiện một trong những giải pháp mà các nhà lãnh đạo Mỹ đã chọn lựa vào cuối năm 1967, song đây không phải là sự lựa chọn duy nhất của Mỹ. Trong lúc đó, ở Hà Nội, Bắc Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn gay gắt. Nền kinh tế Bắc Việt Nam đang phải chịu nhũng gánh quá nặng vì nhưng nhu cầu quân sự, đã bị tàn phá nghiêm trọng vì những đợt bom của Mỹ. Quan hệ với đồng minh và nhũng người ủng hộ-không chỉ với Trung Quốc, Liên Xô mà còn với Mặt trận Dân tộc Giải phóng đang ngày càng bị tách rời độc lập hơn là các quan chức Mỹ tưởng-đang trở thành những khó khăn cho Bắc Việt Nam. Trong khi ra sức tuyên truyền vận động tranh thủ dư luận trong nước hơn cả các nhà lãnh đạo Mỹ, giới lãnh đạo Bắc Việt Nam hoàn toàn không bỏ qua nhu cầu phải quan tâm đến những nguyện vọng cơ bản của nhân dân họ.
    Tất cả các mối quan tâm này dường như thúc đẩy Hà Nội xem xét lại các kế hoạch đấu tranh chống "bè lũ đế quốc Mỹ và nguỵ bù nhìn Nam Việt Nam" và phải đi đến một giải pháp đàm phán về cuộc chiến. Nhưng cũng giống các nhà lãnh đạo Mỹ, giới lãnh đạo Bắc Việt Nam không sẵn sàng từ bỏ hy vọng giành thắng lợi về mặt quân sự. Họ không thể "lãng quên" ?ocơ hội cuối cùng" để đập tan quân thù bằng những đòn quyết định trên chiến trường. Do đó, vào mùa hè năm 1967, một trong nhũng giải pháp của Hà Nội đối với những khó khăn ngày càng nghiêm trọng trên các mặt trận đối nội, ngoại giao và quân sự là chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc Tổng tiên công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam không thể không thấy rõ rằng kế hoạch Tổng tiến công này đi ngược lại với quan điểm của các đồng minh lớn của họ là Liên Xô và Trung Quốc. Hầu như ngay từ lúc đầu, Liên Xô coi Cuộc chiến tranh Việt Nam là điều không mong muốn và cố thuyết phục Hà Nội giải quyết vấn đề trên bàn đàm phán. Trung Quốc cũng không hoan nghênh chủ trương tổng tiến công này, vì Trung Quốc cho đó là một cuộc chiến tranh hao người tốn của, một cuộc chiến tranh du kích chỉ hạn chế trong các cuộc đột kích riêng lẻ của các lực lượng không chính qùy chống lại một kẻ thù siêu cường về quân sự.
    Nhưng Hà Nội vẫn ấp ủ những Kế hoạch Tổng tiến công vì tin rằng thậm chí một thắng lợi cục bộ cũng có thể làm xoay chuyển tình hình ở miền Nam có lợi cho những người cộng sản Việt Nam, giáng một đòn chí mạng vào chế độ Sài Gòn, và buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh chống miền Bắc Việt Nam, qua đó tăng cường uy tín của Hà Nội đối với Liên Xô và Trung Quốc cũng như phong trào cộng sản quốc tế. Càng giành được nhiều thắng lợi nổi bật, những người cộng sản Việt Nam càng chiếm được nhiều lợi thế hơn.
    Hà Nội không hy vọng đánh bại Mỹ, nhưng Hà NộI có đủ lý do để hy vọng thắng lợi đập tan chế độ Sài Gòn. Lãnh đạo ********************** thể hiện tình cảm và nhận thức thống nhất trong các nỗ lực ở miền Nam; những kế hoạch Tổng tiến công là tổng hợp tất thẩy các cuộc nổi dậy đồng loạt của quần chúng "bị áp bức" ở miền Nam chống lại chế độ Sài Gòn và đế quốc Mỹ. Ở đây, nhận thức thống nhất là cơ sở vững chắc cho lý luận của những người cộng sản, xoá bỏ mọi hoài nghi về sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân đối với người đại diện cao nhất cho tự do và hoà bình là **********************. Giới lãnh đạo miền Bắc Việt Nam thậm chí tin tưởng chắc chắn rằng không thể không có sự ủng hộ này một khi họ bắt đầu Cuộc Tổng tiến công ở miền Nam. Và rõ ràng là họ đã xác định thắng lợi của toàn bộ cuộc tổng tiến công gắn chặt với sự nổi dậy của quảng đại quần chúng chống lại "chế độ bù nhìn" Sài Gòn.
    Cứ coi như giới lãnh đạo Bắc Việt Nam đã thực sự tính đến một Cuộc tổng tiến công vào đầu năm 1967. Những hoạt động tương đối thành công của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (NLF) và bộ đội chính quy của Bắc Việt Nam ở miền Nam Việt Nam đã thúc đẩy tham vọng mở rộng quy mô hoạt động quân sự, kết hợp vơi nổi dậy của quần chúng rộng rãi. Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội đã lưu ý đến thái độ này của Bắc Việt Nam và cho đó là "lạc quan "tếu?T về kết quả của cuộc chiến tranh quân sự". Các nhà ngoại giao Liên Xô không thể hiểu hết được nguyên nhân của thái độ này, vì Hà Nội đã làm Liên Xô lẫn lộn. Nhưng Đại sứ quán Liên Xô đã có đủ bằng chứng trực tiếp để dự đoán rằng không phải đến sau khi có các hoạt động quân sự mùa xuân 1968 thì mới có những thay đổi quan trọng đi đến một giải pháp cho cuộc xung đột.
    Rõ ràng là quá trình vạch Kế hoạch tổng tiến công đã được đẩy mạnh sau cái chết của ông Nguyễn Chí Thanh, một trong những quan chức cao cấp nhất của Bắc Việt Nam. Tướng Thanh, Đại diện quân sự cao cấp của Hà Nội ở Nam Việt Nam, từ 1965 đã biết rõ tình hình chiến trường hơn bất cứ một quan chức nào khác trong chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Với những hiểu biết của mình, ông đã nhiều lần hoài nghi về các Kế hoạch tổng tiến công. Ngoài ra, theo Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội, Tướng Thanh là một trong những nhà lãnh đạo Việt Nam thuộc phái thân Trung Quốc trong Đảng Lao động Việt Nam, điều đó làm ông trở thành đối thủ tất nhiên của bất kỳ một kế hoạch nào đi ngược lại học thuyết của Trung Quốc về chiến tranh nhân dân. Dù sao đi nữa, trong khoảng tháng 7 năm 1967, một Nghị quyết về cuộc Tổng tiến cong và nổi dậy đã được Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam thông qua. Và từ ngày đó, Hà Nội bắt đầu chuẩn bị cho một sự kiện đối ngoại được coi là bước ngoặt trong Chiến tranh ở Việt Nam.
    Để đạt được các mục tiêu của cuộc tổng tiến công, giới lãnh đạo Bắc Việt Nam phải tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ của các đồng minh cộng sản. Do đó, nhiệm vụ hàng đầu của các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam là phải ký kết cho được các hiệp ước tăng thêm viện trợ với Matxcơva và Bắc Kinh. Mùa thu năm 1967, một phái đoàn kinh tế do Lê Thanh Nghị dẫn đầu đã thực hiện một chuyến công tác dài ngày sang các nước bạn hữu.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Những yêu cầu mới của Bắc Việt Nam là phải làm sao cho Matxcơva thấy rằng Hà Nội đang chuẩn bị một việc đặc biệt trong các hoạt động quân sự sắp tới. Thông cáo chung được ký kết ngay sau hội đàm giữa các đại diện Bắc Việt Nam và cấp phó của Kosygin, Vladimir Norika không chỉ xác nhận viện trợ cho Bắc Việt Nam bao gồm cả viện trợ quân sự mà lần đầu tiên xác nhận viện trợ toàn diện của Liên Xô cho Hà Nội, thậm chí còn cụ thể hoá các loại viện trợ quân sự. Đáp lại những yêu cầu của Bắc Việt Nạm, Matxcơva sẽ cung cấp "máy bay, vũ khí phòng không, pháo, súng phun lửa, đạn dược và các phương tiện quân sự khác" trong năm 1968. Bản thông cáo còn nói thêm rằng Liên Xô sẽ giúp Bắc Việt Nam các phương tiện giao thông vận tải, các sản phẩm dầu mỡ, sắt thép, lương thực thực phẩm, phân bón, thuốc men và các hàng hoá khác "cần thiết cho sự tăng cường khả năng quốc phòng của Bắc Việt Nam và phát triển nền kinh tế quốc dân của Bắc Việt Nam".
    Một tuyên bố công khai về việc ủng hộ toàn diện như vậy là chưa từng có đối với Matxcơva trong quan hệ với các đồng minh và bạn bè của Liên xô. Điện Kremlin muốn tránh để lộ khối lượng và quy mô giúp đỡ "bạn bè", nhưng việc Liên Xô cung cấp cho họ vũ khí và phương tiện quân sự là việc mà ai cũng biết. Có thể là qua việc thừa nhận thực tế này, cũng như ý muốn khuyến cáo Mỹ một cách gián tiếp những ý đồ nghiêm trọng của Bắc Việt Nam đã làm Chính phủ Liên Xô thấy phải cụ thể hoá bản chất của viện trợ quân sự cho Bắc Việt Nam.
    Ngay sau khi hiệp định viện trợ kinh tế được ký kết giữa Liên Xô và Bắc Việt Nam, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Lê Duẩn đã tới thăm Matxcơva và gặp gỡ các nhà lãnh đạo Liên Xô. Một trong những cuộc gặp gỡ của ông ở Điện Kremlin diễn ra ngày 31 tháng 10, và có mặt của cả 3 nhà lãnh đạo cao nhất Liên Xô là Leonid Brezhnev, Alexei Kosygin và Nikolai Podgornyi. Nội dung cuộc gặp gỡ này đến nay chưa ai biết nhưng có thể đoán chừng là nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam đã cho các nhà lãnh đạo Liên Xô biết đánh giá của mình về tình hình ở Việt Nam.
    Không thể cho rằng ông Lê Quẩn đã tiết lộ hết các kế hoạch của Bắc Việt Nam. Bản chất của quan hệ giữa Hà Nội với Matxcơva không cho phép bộc lộ hết như vậy. Nhưng ông có thể đã cố làm cho Liên Xô thấy rõ rằng đòn quyết định cuối cùng có thể đập tan sự kháng cự của kẻ thù. Và các nhà lãnh đạo Liên Xô có thể đã hiểu được tác động của một việc làm như vậy nhằm tiến gần đến kết thúc Chiến tranh ở Việt Nam.
    Vào cuối năm 1967, rõ ràng là Hà Nội đã chuẩn bị lực lượng cho một đòn quyết định ở Nam Việt Nam, vì tháng 1 năm 1968, giới lãnh đạo Bắc Việt Nam đã nhóm họp Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam để chính thức thông qua kế hoạch của họ. Kỳ họp thứ 14 của Đảng Lao động Việt Nam đã kết luật rằng các nỗ lực của Mỹ ở Việt Nam đã lên tới đỉnh cao. Theo nhưng người cộng sản Việt Nam, từ những thời điểm đó trở đi, người Mỹ có khả năng chiếm được những vị thế quyết định và họ có thể từ bỏ nhưng sáng kiến của mình. Kỳ họp trên đã xác định rằng những người cộng sản Việt Nam đã giành thắng lợi cả về chiến lược lẫn sách lược. Ban lãnh đạo cộng sản tuyên bố rằng tình hình giờ đây đang có lợi cho các lực lượng của nhân dân Việt Nam và thuận lợi cho một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh cách mạng. Kỳ họp trên đã thông qua một nghị quyết phải bắt đầu Tổng tiến công và nổi dậy trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968.
    Hà Nội thấy rõ được ba khả năng xảy ra của cuộc Tổng tiến công trong dịp Tết 1968. Tại kỳ họp trên, các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã nói về thắng lợi hoàn toàn và kết thúc chiến tranh, nhưng họ cũng biết chắc điều này không thể xảy ra. Hơn thế nữa, họ dường như sẵn sàng chấp nhận những kết quả khiêm tốn hơn nhiều, như việc giành ưu thế trên hầu hết các khu vực của Nam Việt Nam trong khi chiến tranh vần tiếp tục và lực lượng chống cộng sản được củng cố. Nhưng Hà Nội cũng không loại trừ khả năng xấu thứ ba, Mỹ sẽ tăng cường lực lượng và xâm lược miền Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia. Kỳ họp trên cũng tuyên bố dù sao thì những người cộng sản Việt Nam cũng quyết tâm tiếp tục tấn công quân sự cho tới khi nào đánh bại kẻ thù.
    Một sự kiện đáng nhớ xảy ra trước khi tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy ở Nam Việt Nam. Khi sắp bước sang năm 1968, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam Nguyễn Duy Trinh đã xuất hiện trong buổi tiếp đoàn đại biểu Mông Cổ tại Hà Nội. Sau khi đề cập tới "thắng lợi của Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống bọn xâm lược Mỹ", ông Trình đã nói đến vấn đề giải pháp cho cuộc xung đột. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam nhấn mạnh rằng: "Chính phủ Mỹ nói rằng họ muốn đàm phán với Hà Nội nhưng không hề được đáp ứng. Nhưng nếu Chinh phủ Mỹ thực sự muốn đàm phán, thì trước tiên Mỹ phải ngừng vô điều kiện ném bom và các hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Narn Dân chủ Cộng hoà. Sau khi Mỹ ngừng vô điều kiện cáo cuộc ném bom và các hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ đàm phán với Mỹ về những vấn đề liên quan".
    Các nhà quan sát tham dự buổi tiếp ngay lập tức đã nắm bắt được sắc thái mới trong những nhận xét chính thức trên của nhà lãnh đạo Việt Nam này. Lần đầu tiên Hà Nội trả lời đầy đủ trong bản tuyên bố về những cuộc hội đàm có thể thực hiện với Mỹ. Sự hiện diện của ông Phạm Văn Đồng trong buổi lễ đứng sau ông Trinh và mỉm cười đầy ý nghĩa dường như đã làm tăng thêm phần quan trọng cho những lời nhận xét của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Và đài Hà Nội sau đó đã phát đi bản tuyên bố của ông Trinh bằng tiếng Anh trên băng tần sóng ngắn quốc tế nhằm đảm bảo chắc chắn là Mỹ nhận được tin này. Rõ ràng Washington không biết nên đánh giá lời tuyên bố của ông Trinh như thế nào. Chính quyền Johnson còn đang đợi kết quả cuộc tiếp xúc với Bắc Việt Nam thông qua người Rumani. Nhưng cố gắng này không có kết quả. Thậm chí trước khi việc này kết thúc, Bắc Việt Nam đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, vì vậy sau này Washington đã kết luận rằng lời tuyên bố của ông Trinh chẳng là cái gì ngoài mục đích tuyên truyền.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Lời kết luận này không hề sai sự thật. Ngay sau khi ông Trinh xuất hiện trong cuộc tiếp đón đoàn Mông Cổ, một nhà ngoại giao Liên Xô ở Bắc Việt Nam, Sergei Devilkovskii đã gặp Trương Công Đồng, một thành viên của Phái đoàn đại diện thường trú của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ở Hà Nội. Ông Đồng thừa nhận rằng tuyên bố của ông Trinh chỉ nhằm mục đích tuyên truyền mà thôi, mặc dù nó đã được thêu dệt dưới hình thức mới. Quan điểm của Bắc Việt Nam về cơ bản vẫn như trước. Nếu Mỹ ngừng ném bom Bắc Việt Nam, Bắc Việt Nam vẫn không ngừng viện trợ cho cho miền Nam. Hà Nội không đưa ra lời hứa hẹn nào về việc này. Các hoạt động quân sự ở miền Nam sẽ vẫn tiếp tục. Theo ông Đồng, lời tuyên bố của ông Trinh là một "trò tuyên truyền" gửi đến cho phía Mỹ để đáp lại những ?otrò tuyên truyền" mà Johnson đã dành cho phía Bắc Việt Nam.
    Cuộc gặp gỡ này tái khẳng định những ý đồ của những người Cộng sản Việt Nam đầu 1968 là tập trung cho một cuộc tấn công chính trị. Ông Đồng đã lưu ý với Devilkovskii một thực tế là Hà Nội và các đồng minh ở miền Nam giờ đây coi các cuộc hội đàm với Mỹ là không thực tế. Ông Đồng cho rằng: "Các cuộc hội đàm sẽ bắt đầu khi Mỹ giáng đòn chí tử đối với chúng tôi hoặc khi chúng tôi đánh bại. Mọi vấn đề sẽ được giải quyết trên chiến trường". Mặc dù tuyên truyền như vậy, nhưng Hà Nội vân mong muốn không phá bỏ những khả năng đi đến đàm phán bất cứ lúc nào nếu cuộc tấn công quân sự thất bại.
    Do đó, vào đầu năm 1968, Cuộc chiến Việt Nam đã đi đến bước ngoặt và cuộc Tổng tiến công Tết 1968 đã trở thành sự kiện có tính quyết định. Không hề nghi ngờ gì rằng cuộc tấn công này không bất ngờ đối với Mỹ. Ngay từ đầu Mỹ tham gia Cuộc chiến Việt Nam-hàng năm, mùa khô là thời gian tăng cường các hoạt động quân sự của ********* và các lực lượng Bắc Việt Nam chống lại quân Mỹ và quân nguỵ. Ông Westmoreland cùng giới tình báo và quân sự đã sớm dự đoán được hoạt động của Cộng sản Việt Nam sau hoặc trong dịp Tết Nguyên đán. Nhưng không một người Mỹ nào thấy trước được tầm cỡ và quy mô đặc biệt, tác động tâm lí của cuộc Tổng tiến cống Tết 1968. So với tinh thần lạc quan bao trùm trong các thành viên của chính quyền Johnson và giới quân sự Mỹ suốt mùa thu năm 1967 thì ảnh hưởng của cuộc tiến công này thật là to lớn hơn nhiều.
    Cuộc Tổng tiến công bắt đầu vào ngày 31 tháng 1, lớn chưa từng thấy về số lượng của Cộng sản Việt Nam cũng như về phạm vi hoạt động. Các lực lượng vũ trang của Mặt trận Dân tộc Giải phóng được sự hỗ trợ của Bắc Việt Nam, đã đồng loạt tấn công trên một trăm thành phố và thị xã gồm cả Thành phố Sài Gòn, 39 trong 44 thành phố thuộc tỉnh và 71 thị trấn thuộc quận, huyện. Các mục tiêu bao gồm cả các cơ quan quan trọng nhất của Chính phủ, các cơ sở quân sự, các căn cứ quân sự và nhiều trung tâm chỉ huy của Mỹ.
    Việc Mặt trận Dân tộc Giải phóng tấn công vào Sài Gòn, một thành phố được coi là không bị ********* đánh vào, đã để lại một ấn tượng to lớn không chỉ ở Mỹ mà còn trên toàn thế giới. Dinh Tổng thống và Bộ tổng chỉ huy liên quân đã bị các đơn vị đặc công ********* vây hãm trong nhiều giờ. Tại khu vực, Sài Gòn, Bộ chỉ huy ********* đã huy động tới 35 trung đoàn cho cuộc tấn công này. Các lực lượng Cộng sản nhỏ hơn đã chiếm giữ Thành phố Huế, Cố đô của Việt Nam, trong suốt 35 ngày.
    Tuy các lực lượng của Mỹ và Nam Việt Nam đã đập tan được cuộc Tổng tiến công của Cộng sản và giành lại quyền kiểm soát đối với hầu hết các thành phố, thị xã và các khu vực khác, nhưng đòn tấn công tháng 2 và tháng 3 tháng 1968 là không thể bù đắp lại được đối với Mỹ. Hà Nội và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam có thể chịu thất bại về quân sự, nhưng họ đã giành được thắng lợi quan trọng về tâm lí, tư tưởng. Họ đã chứng tỏ cho thế giới và quan trọng nhất là cho nhân dân Mỹ biết rõ rằng nhưng báo cáo của Mỹ về quân sự đã bóp méo tình hình thực tế ở Việt Nam. Rằng, dù Mỹ và đồng minh đã hy sinh nhiều nhân tài, vật lực, nhưng cuộc chiến tranh còn lâu mới kết thúc. Thực tiễn này đã làm phương hại nghiêm trọng uy tín của chính quyền Johnson. Nhiều năm sau Clifford đã nhận xét: ?oThiệt hại Tết Mậu Thân 1968 là sự mất lòng tin của công chúng Mỹ đối với giới lãnh đao Mỹ. Cuộc Tổng tiến công Tết 1968 đã làm phương hại chính quyền Johnson ở những nơi mà nó cần đến sự ủng hộ, nhất là ở Quốc hội và công chúng Mỹ...".
    Tuy vậy, cái giá phải trả cho thắng lợi này của Cộng sản Việt Nam cũng vô cùng to lớn. Hà Nội đã mất đi hơn 50.000 cán bộ quân sự ưu tú. Quan trọng hơn nữa là Cuộc Tổng tiến công không đẩy được một cuộc nổi dây ở miền Nam. Thất bại to lớn này thể hiện yếu điểm của Cộng sản Việt Nam ở Nam Việt Nam và đập tan luận điệu của Hà Nội cho rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là Cuộc chiến tranh nhân dân chống lại chế độ Sài Gòn được "Chủ nghĩa đế quốc Mỹ" giúp đỡ. Như mọi người đều biết rõ, hầu hết nhân dân miền Nam đều chán ghét chiến tranh và ghê tởm chế độ Thiệu phản dân chủ tham nhũng.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mặc dù trên thực tế, hậu quả của sự kiện Tết 1968 đã tạo ra những thay đổi tình hình, nhưng cả Washington lẫn Hà Nội đều không ai sẵn sàng hành động một cách tích cực. Chính quyền Johnson bị chia rẽ, phân hoá nghiêm trọng. Phái này muốn mở rộng quy mô cuộc chiến tranh bằng cách đánh chiếm lãnh thổ Bắc Việt Nam cũng như những tiền đồn Bắc Việt Nam ở Campuchia, Lào và muốn tang cường mạnh mẽ sức mạnh quân sự ở đây. Phái kia lại lập luận rằng vấn đề Cuộc chiến tranh Việt Nam không thể giải quyết bằng các biện pháp quân sự; rằng cần phải ngừng ném bom lãnh thổ Bắc Việt Nam và bắt đầu hội đàm với Hà Nội; và nhân dân Mỹ sẽ không ủng hộ việc đẩy mạnh chiến tranh hơn nửa.
    Bản thân Tổng thống Johnson cũng do dự. Trọng tâm cuộc đấu lí trong chính quyền Mỹ đã trở thành nội dung bài diễn văn trên truyền hình của Tổng thống Mỹ dự định đọc vào cuối tháng ba. Bản thảo đầu tiên phản ánh quan điểm cứng rắn, đưa ra đủ lý do phải gửi thêm quân cho Westmoreland và huy động các lực lượng dự bị. Không hề có việc đề cập đến việc ngừng ném bom hoặc đề nghị đàm phán.
    Nhưng Tổng thống Mỹ vẫn tiếp tục xem xét đánh giá lại tình hình trong suốt tháng ba. Trong một cuộc họp khác, bác bỏ hoàn toàn lập trường đưa ra trong tháng 11 năm 1967, các cố vấn Tổng thống đã tuyên bố phản đối cuộc chiến tranh. Ảnh hưởng của việc này thế nào, Tổng thống Mỹ không bộc lộ cho đến cuối tháng 11 năm 1967.
    Giới lãnh đạo Bắc Việt Nam trải qua một quá trình xem xét, đánh giá tình hình không kém phần phức tạp, mặc dù không hề có một bằng cớ cụ thể nào ở Hà Nội về việc này. Nhưng kết quả những tháng đầu của cuộc Tổng tấn công đòi hỏi phải xem xét lại chính sách của Bắc Việt Nam đối với cuộc chiến tranh. .
    Ảnh hưởng của việc không giành được mọi thắng lợi quyết định trong dịp Tết 1968 đã làm cho Ban lãnh đạo Bác Việt Nam có một thay đổi trong việc huy động các lực lượng của họ cho một chiến dịch kéo dài hơn nữa trong vòng "ba hoặc bốn tháng?. Đến cuối tháng 2, Bộ chỉ huy Cộng sản Việt Nam ở miền Nam đã quyết đình giảm mức độ hoạt động quân sự xuống chỉ còn là các hoạt động nhỏ của các đơn vị du kích hoặc quấy phá đối phương. Cuộc chiến hầu như đã trở lại mức độ trước đây.
    Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 còn chỉ ra cho giới lãnh đạo Bắc Việt Nam thấy rằng chỉ bám vào một giải pháp quân sự ở Việt Nam là không thể chấp nhận được. Đã đến lúc phải vận dụng chiến lược "Vừa đánh vừa đàm", nghĩa là vừa hội đàm trên bàn đàm phán, vừa tấn công vũ trang chống kẻ thù trên chiến trường. Theo các nhà hoạch định chính sách của Bắc Việt Nam, sự kết hợp đánh và đàm này có thể đưa đến thắng lợi, nếu chỉ dùng nguyên biện pháp quân sự không thể đạt được thắng lợi trong cuộc chiến tranh này.
    Sách lược "Vừa đánh vừa đàm? được Hà Nội đưa ra trước tháng 3 năm 1968. Trong một bài diễn văn trước Hội nghị cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng hồi tháng 4 năm 1966, Tướng Nguyễn Văn Vịnh đã thừa nhận rằng: "Tình hình sắp tới có thể đưa đến đàm phán. Tuy nhiên, ngay cả khi có đàm phán, thì đàm phán cũng phải được tiến hành đồng thời với tấn công kẻ thù trên chiến trường. Trong khi đàm phán, chúng ta sẽ tiếp tục chiến đấu chống kẻ thù một cách mạnh mẽ hơn (điều này có thể cho thấy rằng miền Bắc vẫn tiến hành đàm phán trong khi miền Nam tiếp tục chiến đấu, và rằng miền Nam cũng tham gia đàm phán trong khi đang chiến đấu). Những người chịu trách nhiệm chiến đấu thì tiếp tục chiến đấu, và nhân tố quyết đinh thắng lợi là chiến trường.
    Các quan chức Bắc Việt Nam không hề giấu giếm Liên Xô về ý đồ của họ sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh quân sự ở miền Nam trong khi tiến hành đàm phán với Mỹ. Việc họ khẳng định dù bắt đầu đàm phán vẫn sẽ không làm thay đổi tiến trình chiến tranh ở miền Nam đã phản ánh nhận định của các nhà làm chính sách của Hà Nội rằng sự kết hợp hai phương thức đấu tranh này có thể đưa lại thắng lợi cho Bắc Việt Nam. Ban lãnh đạo Cộng sản Việt Nam hoãn việc thông qua sách lược "vừa đánh vừa đàm" cho tới sau những đợt công kích đầu tiên của cuộc Tổng tiến công Tết 1968 đã thể hiện hy vọng mong manh vào thắng lợi quân sự của Hà Nội. Các nhà nghiên cứu của Đảng Cộng sản Liên Xô tại Hà Nội đã kết luận rằng: "''Các đòn chiến tranh và cuộc chiến tranh chính trị của các đồng chí Việt Nam ở miền Nam trong "mùa khô" thứ ba đã không giành được những kết quả tối đa như đã tính toán. Chính phủ và quân đội Sài Gòn không hề bị xoá sổ, về cơ bản Mỹ vẫn giữ được chỗ dựa, cơ sở chính trị ở miền Nam Việt Nam; các điều kiện để Mặt trận Dân tộc Giải phóng và đồng minh giành chính quyền không được tạo ra và Mỹ đã giành được những khả năng tương đối lớn trong việc mặc cả về chính trị". "Những kết quả này một lần nữa chỉ cho hai bên tham chiến thấy rõ không thể giải quyết vấn đề Việt Nam bằng chiến tranh?.
    Việc thừa nhận thực tế này là kinh nghiệm đau đớn cho cả hai bên. Có thể không bao giờ có một thời gian lí tưởng cho đàm phán trong một bối cảnh tình hình như Việt Nam, cũng như trong hầu hết các tình huống có thể đàm phán khác. Trong một báo cáo gửi Tổng thống Johnson hồi giữa tháng ba, trong khi nhận định về tính khống nhất quán trong các nhà chính trị ở cả Washington và Hà Nội, Arthur Goldberg-Đại sứ Mỹ tại Liên Hợp quốc viết: ?oNếu mọi việc về mặt quân sự diễn biến trôi chảy, thì xu hướng tất yếu sẽ xem việc đàm phán là không cần thiết. Ngược lại, nếu mọi việc về mặt quân sự diễn biến xấu, thì có khuynh hướng xem đàm phán ?olà bất lợi". Goldberg khẳng định rằng thời cơ đàm ohán đã đến và chính quyền Mỹ phải nắm bắt cho được thời cơ đó.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhiều cố vấn thân cận của Tổng thống đã lập luận và thuyết phục ông phải thay đổi giọng bài diễn văn ngày 31 tháng 3. Tổng thống đã quyết định nói với nhân dân Mỹ không phải về "thử thách nghiêm trọng" của cuộc Tổng tiến công của Cộng sản Việt Nam, không nói về phản ứng thích hợp của Mỹ mà nói về "triển vọng hoà bình ở Việt Nam và Đông Nam Á". Hơn thế nưa, Tổng thống còn ra một tuyên bố mạnh mẽ cho thấy những dấu hiệu quan trọng đối với nền chính trị của nước Mỹ.
    Ngay khi mọi người biết rằng Johnson có thể đưa ra một số các biện pháp quyết định để đi vào đàm phán với Bắc Việt Nam, Hariman gợi ý Mỹ nên quan hê trước với các nhà lãnh đạo Liên Xô nhằm tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ trong các cuộc hội đàm với Hà Nội là điều rất có lợi. Hariman thừa nhận rằng: "Thật khó có thể dự đoán được kết cục của những cuộc đàm phán với các nhà lãnh đạo Liên Xô nhưng tôi hài lòng nhận thấy rằng việc thông báo trước cho họ biết bất kỳ tuyên bố nào và đàm thoại với họ càng nhiều vấn đề càng tốt, điều đó có thể gây được ảnh hưởng có lợi đến quan điểm và hành động tương lai của họ". Và ông đã kết luận: "Khi xem xét các mối nghi ngờ tồn tại giữa Hà Nội và Washington, chúng ta cần tranh thủ những ảnh hưởng bên ngoài trong việc tìm kiếm một giải pháp và không ai có tác động hiệu quả bằng Liên Xô". Theo lời khuyên của Harriman, ngay trước khi đọc diễn văn ngày 31 tháng 3 của mình, Johnson đã giải thích đề nghị của ông cho đại sứ Liên Xô Dobrrynin biết và nhấn mạnh những cố gắng vì hoà bình. Một thời gian ngắn sau đó ông đã đọc diễn văn trên truyền hình toàn quốc.
    Tổng thống Mỹ đã nhấn mạnh nguyện vọng "phải tìm được cơ sở cho đối thoại hoà bình". Ông nhắc lại đề nghị ở San Antonio và lưu ý rằng Hà Nội đã bác bỏ đề nghị đó. Vì hy vọng một sáng kiến mới của Mỹ có thể đưa đến hội đàm sớm, Johnson đơn phương tuyên bố xuống thang chiến tranh. Tổng thống nói: "Tới nay, tôi đã ra lệnh cho các máy bay, tàu chiến Mỹ không tiến hành một cuộc tấn công nào chống Bắc Việt Nam, trừ khu vực phía Bắc khu phi quân sự". Ông chỉ rõ rằng khu vực mà Mỹ sẽ chấm dứt tấn công sẽ bao gồm gần 90% dân số Bắc Việt Nam và hầu hết lãnh thổ của Bắc Việt Nam.
    Johnson hứa rằng ngay cả việc ném bom hạn chế cũng chấm dứt nếu Bắc Việt Nam đáp lại sáng kiến này của Mỹ. Ông nhắc lại một lần nữa: ?oMỹ sẵn sàng phái các đại diện của mình đến bất kì diễn đàn nào, vào bất kì lúc nào, để đàm phán về các biện pháp đưa cuộc chiến tranh bẩn thỉu này đến kết thúc". Khi cừ đại diện riêng của mình đến đàm phán, Tổng thống đã chọn Averell Harriman và Đại sứ Mỹ ở Matxcơva Llewellyn Thompson, vừa từ Matxcơva về để tham kiến. Johnson kết thúc bài diễn văn bằng lời tuyên bố làm mọi người giật mình rằng ông sẽ không tiếp tục theo đuổi và cũng không chấp nhận Đảng của ông tiến cử làm Tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa. Ông sẽ không tham gia chiến dịch tranh cử Tổng thống để giành toàn bộ thời gian của mình phục vụ những nhu cầu của đất nước.
    Bài diễn văn ngày 31 tháng 3 của Johnson có tiếng vang lởn trên thế giới. Tại Màtxcơva, tờ Pravda số ra ngày 2 tháng 4 đưa tin về bài diễn văn, giọng điệu bài bình luận của tờ báo này rất thận trọng, dè dặt. Bài báo mô tả bài diễn văn của Tổng thống Mỹ là một "bằng chứng mới về thất bại hoàn toàn của chính sách của Mỹ ở Việt Nam". Đối với việc Johnson không tham gia chiến dịch tranh cừ Tổng thống, Pravda cho rằng điều đó có thể vẫn chỉ là một kiểu "vận động bầu cử". Trên chính trường nước Mỹ, đã nhiều lần các ứng cử viên Tổng thống từ chối việc tiến cử của các Đảng, nhưng sau đó lại lao vào chiến dịch tranh cừ mạnh mẽ hơn".
    Tờ báo Izvestiia, cũng tỏ ra hoài nghi về tuyên bố của Johnson. Trong khi thừa nhận việc ngừng ném bom là một bước tiến đáng hoan nghênh, tờ báo này vẫn khuyến cáo rằng không hề có một bảo đảm nào cho việc tiếp tục ngừng ném bom nói trên.
    Sự thận trọng của báo chí Liên Xô phản ánh thái độ của Kremlin đối với sáng kiến mới của Mỹ. Các nhà lãnh đạo Liên Xô rõ ràng vẫn hoài nghi về tính trung thực của những bước đi của Mỹ. Dobrynin đã hỏi Harriman liệu quyết định của Tổng thống Mỹ là quyết định tối hậu hay không và tại sao ông ta lại chọn đêm 31 tháng 3 để tuyên bố chút. sách của ông ta đối với Việt Nam. Vài tuần sau đó, Dobrynin đã giải thích cho Eugene Rotow, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ phụ trách vấn: đề chính trị rằng: "Vẫn còn nhiều hoài nghi và do dự trong Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô đối với việc nếu Mỹ có thực sự quan tâm đến một giải pháp chính trị ở Việt Nam... hay không??.
    Matxcơva có đủ lí do để lo lắng. Trước hết, những sáng kiến vì hoà bình của Mỹ trước đây đều đi đôi với một đợt leo thang chiến tranh mới của Mỹ. Trong những trường hợp như vậy, mọi cố gắng của Liên Xô thuyết phục Hà Nội ngồi vào đàm phán đều trở thành vô tác dụng. Trong khi nói chuyện với Harriman, Dobrynìn đặc biệt lưu ý đến cuộc hội đàm đáng buồn của Kosygin ở Luận Đôn tháng 2 năm 1967.
    Thứ hai là, những hoài nghi của Liên Xô có thể bắt nguồn từ thực tế năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống ở Mỹ. Hầu hết các nhất nghiên cứu Liên Xô đều có chung quan điểm rằng Việt Nam sẽ là vấn hàng đầu trong chiến dịch vận động tranh cử Tổng thống và họ ngờ rằng các nhà chính trị Mỹ thay đổi lập trường về cuộc chiến tranh chỉ vì cuộc bầu cừ này. Những vấn đề về lập trường của Johnson về cuộc chiến tranh trước bầu cử năm 1964 là bằng chứng cho các nhà lãnh đạo Liên Xô thấy những lời lẽ khoa trương trước bầu cử không nhất thiết thể hiện trung thực chính sách sau bầu cử, do đó, những thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Việt Nam có thể là không trung thực.
    Cuối cùng là tuyên bố của Johnson không phản ánh được thay đổi mạnh mẽ vì thái độ của Mỹ so với chính sách của Mỹ trước đây đối với Việt Nam. Tuy vào tháng ba ấy, Tổng thống Mỹ đã đồng ý gửi quân sang Việt Nam ít hơn nhiều so với số lượng mà các cố vấn của ông đề nghị và đảm bảo giảm mức độ thù địch và đưa ra một hình thức mới mà sau này người ta gọi là "Việt Nam hoá chiến tranh", nhưng ông ta không hề thay đổi chiến lược căn bản của cuộc chiến tranh và sang tháng tư thậm chí còn kín đáo ra lệnh cho quân đội Mỹ phải "đánh mạnh trong khi tiến hành đàm phán".
    Các nhà Lãnh đạo Liên Xô đã lưu ý mặt tích cực trong tuyên bố của Johnson và cho rằng không loại trừ khả năng Mỹ thậm chí còn tiến xa hơn nếu Hà Nội bắt đầu ngồi vào đàm phán-sẽ ngững toàn bộ việc ném bom Bắc Việt Nam. Đây chính là thoả hiệp chính mà Bắc Việt Nam luôn thúc giục Liên Xô thuyết phục Mỹ. Hơn nữa, bằng việc cử hai chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Liên Xô là Harriman và Thompson làm những người đàm phán chính trong các cuộc hội đàm với Bắc Việt Nam, Chính phủ Mỹ muốn nói lên một điều rằng Mỹ sẵn sàng xem xét đến quyền lợi của Liên Xô trong giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Tuy Liên Xô muốn tránh đưa ra công khai về vai trò của họ trong vấn đề Việt Nam, nhưng họ vẫn tích cực tìm kiếm một giải pháp có lợi cho tham vọng của Liên Xô ở Đông Nam Á và hy vọng sẽ có vai trò trong việc quyết định tương lai của khu vực này.
    Dobrynin đã nêu rõ mối quan tâm của Liên Xô trong khi nói chuyện với Harriman ngày 1 tháng 4: Ông giải thích rằng Matxcơva sẽ không chống lại bất kì một hoạt động nào của Mỹ ở miền Nam Việt Nam một khi Mỹ "để cho Bắc Việt Nam yên thân". Điều đáng quan tâm không kém là ngay sau khi bàn bạc với Harriman về ?okhu vực quyền lợi" của Matxcơva và Washington, Dobrynin liền xoay sang vấn đề quan hệ Mỹ-Trung và hỏi "Liệu đã có tiến triển nào mới trong vấn đề đó". Đối với Liên Xô, nhân tố Trung Quôc luôn đóng vai trò trong vấn đề Việt Nam.
    Trong khi Nhà Trắng thấy phản ứng của Liên Xô phần nào có thể chấp nhận được thì phản ứng của của Hà Nội "không lường được". Đáng ngạc nhiên hơn là phản ứng này được thể hiện sớm hơn rất nhiều so với dự kiến. Ngày 3 tháng 4, đài Bắc Việt Nam đã phát đi lời tuyên bố với Chính phủ Mỹ như sau: "Tuy nhiên, về phần mình, Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố sẵn sàng phái các đại diện của mình đến bàn đàm phán, với điều kiện Mỹ chấm dứt vô điều kiện việc ném bom và các hoạt động chiến tranh khác chống Bắc Việt Nam để các cuộc hội đàm có thể bắt đầu?.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mức độ phản ứng nhanh của Hà Nội đối với các sáng kiến vì hoà bình của Mỹ dường như đã làm ngạc nhiên không chỉ Washington mà còn cả Mạtxcơva, trừ Bắc Kinh là người chủ trương tiếp tục chiến tranh. Có nhiều khả nàng là Hà Nội đã không thông báo cho Liên Xô biết trước về quyết định của họ sẽ tiến hành đàm phán với Mỹ. Việc không tham kiến này là không bình thường đối với giới lãnh đạo Bắc Việt Nam. Nhưng rõ ràng Matxcơva cho rằng việc này đã được chuẩn bị. Ngoài các nhận xét, đánh giá của Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội về những thay đổi chiến lược của Bắc Việt Nam và ý đồ muốn trì hoãn các cuộc hội đàm với Mỹ đến sau mùa xuân 1968, Kremlin chắc chắn đã có các tin tình báo của các nhà ngoại giao Liên Xô khẳng định chiều hướng phát triển đó. Ngay từ 16 tháng 2 năm 1968, Cơ quan tình báo Liên Xô (KGB) đã báo cáo Kremlin về việc Giơi lãnh đạo Bắc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã thực hiện các biện pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam trong năm 1968. Tài liệu này vẫn được giữ bí mật và chúng tôi không biết các biện pháp này như thế nào. Nhưng chính sự tồn tại của tài liệu này đã khẳng định rằng Ban lãnh đạo Liên Xô biết được đôi điều về các ý đồ của bạn Việt Nam.
    Hơn thế nữa, Matxcơva rõ ràng biết rõ về nội tình Ban lãnh đạo cao nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động. KGB đã cung cấp cho Kremlin nội dung các cuộc thảo luận của Bộ chính trị Bắc Việt Nam trong những ngày từ 2 đến 6 tháng 4, bàn về phản ứng của Bắc Việt Nam đối với bài diễn văn của Johnson ngày 31 tháng 3. Do đó, Ban lãnh đạo Liên Xô đã hiểu được chiều hướng tư duy của Hà Nội đối với đề nghị của Tổng thống Mỹ.
    Cộng đồng tình báo Mỹ cố gắng phân tích làm rõ thực chất chính sách của Bắc Việt Nam trên cơ sở những sự kiện thực tế của tình hình. Theo CIA, Hà Nội tin rằng họ có thể giành được thắng lợi quân sự mặc dù cái giá phải trả rất cao. Bắc Việt Nam còn hy vọng sẽ đập tan ý chí hiếu chiến của kẻ thù. CIA lập luận rằng, trong hoàn cảnh đó, những người Cộng sản Bắc Việt Nam coi việc kiên định trên bàn đàm phán kết hợp chặt chẽ với liên tục gây sức ép quân sự trên chiến trường sẽ tạo ra khả năng đưa đến kết quả có lợi cho họ. CIA kết luận rằng Hà Nội thực sự muốn đàm phán và không hề muốn kiếm cớ để từ bỏ việc thiết lập được các quan hệ với Mỹ.
    Tình báo Mỹ cũng đánh giá thái độ của hai đồng minh lởn nhất và những nước ủng hộ Bắc Việt Nam đối với tiến trình đàm phán, nhưng họ có thể cố chỉ rõ cho Bắc Việt Nam thấy lợi thế của việc phải thể hiện tính năng động hơn nữa về mặt ngoại giao. Các nhà nghiên cứu Bộ Ngoại giao lạc quan cho rằng: "Thậm chí nếu Matxcơva không thuyết phục được Hà Nội đáp ứng lại bài diễn văn của Tổng thống thì ít ra Bắc Việt Nam cũng biết rằng họ có thể tin cậy hoàn toàn vào sự ủng hộ của Liên Xô đối với bước tiến này".
    Đối với Trung Quốc, ảnh hưởng đối với chính sách của Bắc Việt Nam được CIA đánh giá là giảm đi một cách căn bản. Trung Quốc chỉ có hai cách gây sức ép đối với Bắc Việt Nam. Họ có thể cắt cung cấp gạo và bột mì, nhưng Hà Nội có ít nhất ba tuần dự trữ gạo và Liên Xô có thể cung cấp gạo: bằng đường biển cho họ. Hoặc Trung Quốc có thể triệu hồi các trung đoàn lao động quốc tế của họ khỏi Bắc Việt Nam-nhưng việc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc có thể làm những lực lượng này không còn có vai trò quan trọng nữa. CIA báo cáo rằng tất cả các quan
    chức Bắc Việt Nam đều đồng ý việc Trung Quốc không thể áp đặt ý chí của họ đối với Bắc Việt Nam một cách có hiệu quả. Họ thậm chí còn nói Trung Quốc là một "đại cường quốc!?.
    Tuy cả Washington và Hà Nội đều tuyên bố quyết tâm đi đến đàm phán, nhưng họ cùng phải đương đầu với một khó khăn to lớn đang có nguy cơ trở thành một cản trở chính không thể vượt qua nổi trên đường đi đến đàm phán. Đó là việc lựa chọn nơi gặp gỡ. Nhưng gợi ý ban đầu của Mỹ và Bắc Việt Nam đều bị bác bỏ. Mỹ phản đối họp ở Phnôm Pênh. Hà Nội không chấp nhận họp ở Geneve vì gợi nhớ về những hậu quả không tốt lành của Hội nghị 1954 về Đông Dương. Sau đó Mỹ đề nghị bốn nơi sau: Vientiane, Rangoon, Djakasta hoặc New Dehli. Sau một thời gian Hà Nội im lặng, ngày 11 tháng 4 hãng thông tấn Liên Xô TASS thông báo rằng Bắc Việt Nam muốn gặp tại Vac-sa-va, thủ đô Ba Lan.
    Thủ đô Ba Lan dường như có thể được một số thành viên trong chính quyền Mỹ chấp nhận, trong đó có Harriman và Cyrus Vance (người đã thay Lìewellyn Thompson làm người đại diện đàm phán của Mỹ cùng với Harriman). Harriman coi đề nghị này như "một cái tát vào mặt Trung Quốc". Ông ta lập luận rằng các nước Đông Âu "rất sợ cuộc chiến này kết thúc" cũng vì một nguyên nhân họ không muốn thấy đối đầu giữa Mỹ và Liên Xô", và đó là lý do xác đáng để chọn Vác-sa-va làm nơi gặp gỡ.
    Nhận thấy rõ sự miễn cưỡng của Tổng thống Mỹ khi chấp nhận Vác-sa-va làm nơi hội đàm, Harriman quyết định gọi cho Johnson và thử xem có thể thuyết thuyết phục được Tổng thống không, nhưng Johnson vẫn không thay đổi ý kiến. Ông ta tuyên bố, tới chừng nào ông còn ở cương vị Tổng thống, nước Mỹ sẽ không đi đến Vác-sa-va để đàm phán. Ông ta muốn chọn một nơi hoàn toàn trung lập và có đường thông tin liên lạc thuận lợi. Để đáp lại sự khẳng định của Harnman rằng đàm phán ở một nước Cộng sản chẳng phiền toái gì cho ông, Tổng thống phản đối lại lập tức rằng điều đó làm ông khó chịu. Ông nói: "Tôi không muộn họp ở bất kỳ nơi nào ở Vác-sa-va, Tiệp Khắc hoặc bất kỳ ở một nước Đông Âu khác. Tôi nghĩ nơi đó phải là ở châu Á, một lãnh thổ trung lập nào đó. Chúng ta không bị sai khiến thông qua cái loa TASS của Liên Xô!. Trong trường hợp này, Tổng thống Mỹ đã nghe theo lời khuyên của Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Ellsworth Bunker và trợ lý an ninh quốc gia, một người theo đường lối cứng rắn, ông Walt Rostow.
    Rostow đã giải thích động cơ của Johnson trong một bức điện gửi cho Rusk. Rostow viết: "Điều rõ ràng là Tổng thống coi nơi họp là một vấn đề mấu chốt và vấn đề đấu trí có thể ảnh hưởng xấu đến nội dung của các cuộc hội đàm. Tất cả mọi người phải thấy rõ chủ trương về nơi gặp gỡ là vấn đề do Tổng thống quyết định, không một ý kiến nào có giá trị nếu chưa qua Tổng thống xem xét và kiểm tra".
    Cuộc tranh luận về nơi gặp gỡ kéo dài là nguy cơ đe doạ ngay cả trước khi xảy ra các cuộc hội đàm. Rõ ràng là Matxcơva đã theo dõi một cách chặt chẽ những diễn biến tình hình giữa Mỹ và Bắc Việt Nam trong tháng 4 và thấy rõ sự bế tắc về vấn đề nơi gặp. Kremlin biết ý đồ của Hà Nội không từ bỏ các mục tiêu quân sự, đặc biệt là vì Bắc Việt Nam không hề giấu giếm ý đồ của mình. Thậm chí, ông Phạm Văn Đồng trong hai lá thư ngày 30 tháng 3 và ngày 10 tháng 4 còn yêu cầu Liên Xô viện trợ thêm.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Do sợ những hy vọng mong manh vì một giải pháp hoà bình ở Việt Nạm bị tan vỡ, các nhà lãnh đạo Liên Xô tích cực tìm kiếm một giải pháp có thể chấp nhận được cho vấn đề chọn nơi gặp gỡ. Có thể Vác-sa-va là do Kremlin gợi ý cho Bắc Việt Nam. Thực tế, đề nghị này do hãng TASS công bố đã chứng tỏ được giả thiết trên. Ngày hôm sau 12 tháng 4, Chính phủ Ba Lan, có thể được Liền Xô khuyến khích, đã tuyên bố sẵn sàng tạo những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho các cuộc gặp gỡ giữa Mỹ và Bắc Việt Nam được diễn ra một cách tốt đẹp.
    Bất chấp việc Mỹ đã nói rõ lập trường của mình về nơi gặp mà Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ thông báo cho Dobrynin theo chỉ thị của Johnson, trong một cuộc nói chuyện với Harnman, Đại sứ quán Liên Xô một lần nữa đã cố thuyết phục Mỹ thay đổi quan điểm, và Nhà Trắng chấp nhận nơi gặp là Vác-sa-va. Dobrynin bảo đảm rằng một đoàn đại biểu Nam Việt Nam có thể được hoan nghênh ở Ba Lan.
    Trong khi đó, Matxcơva tiếp tục tìm kiếm một nơi thay thế thích hợp khác. Các nhà lãnh đạo Liên Xô hẳn đã nhận thấy rằng một thành phố duy nhất có thể làm nơi gặp gỡ mà cả Mỹ và Bắc Việt Nam không tính đến là Paris. Theo quan điểm của Liên Xô, thủ đô nước Pháp của De Gaulle có thể là nơi lý tưởng cho các cuộc hội đàm. Tổng thống Pháp đã từ lâu là người phê phán Mỹ dính líu vào Đông Nam Á và được Hà Nội tôn trọng. Hơn thế nữa, Bắc Việt Nam tiếp tục duy trì quan hệ với Pháp và đại diện là ông Mai Văn Bộ đã được cử sang Pháp nhằm tiếp tục giữ quan hệ đó.
    Liên Xô rõ ràng đã cho rằng giữ liên hệ giữa Matxcơva và đoàn Bắc Việt Nam ở Paris dễ dàng hơn ở bất cứ thủ đô châu Á nào mà Mỹ đưa ra. Ở Pháp, Liên Xô có đại sứ là ông Valrrian Zorin, một nhà ngoại giao dày dạn đã từng nổi tiếng ở Mỹ. Điều này có thể giải quyết được vấn đề thông tin liên lạc giữa Mỹ và Bắc Việt Nam, không kể đến Pháp. Matxcơva có thể cũng hy vọng rằng Washington sẽ không bác bỏ thẳng thừng nơi họp là Paris, dù quan hệ vẫn còn căng thẳng giữa Johnson và De Gaulle. Paris có thể là nơi lựa chọn tốt nhất. Đúng lúc Matxcơva bắt đầu gợi ý thăm dò chọn nơi gặp là Paris đối với Bắc Việt Nam, Pháp không có gợi ý rõ rằng. Có thể điều này xảy ra sau khi Mỹ không chấp thuận Vác-sa-va. Phản ứng đầu tiên của Washington đối với gợi ý về Paris là không rõ ràng. Khi Arthur Goldburg nhận xét với Rusk rằng việc bỏ Paris không đưa vào trong danh sách của Mỹ có thể tự nó khiến Hà Nội phải chọn Paris và đặt chính quyền Mỹ vào "thế lúng túng?. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ cũng nhất trí với ý kiến này. Trong trường hợp như vậy "hầu như không thể giải thích li do tại sao chúng ta không chấp nhận, nhất là khi các quan chức của Nam Việt Nam đã tuyên bố rõ ràng với báo chí rằng Nam Việt Nam chấp thuận Paris". Do đó vào giữa tháng tư, khi Rusk thông báo cho Walt Rostow về nhận xét của Goldburg, chính quyền Mỹ đã không coi Paris là một lựa chọn có thể được.
    Mặt khác, Harriman đã nhanh chóng nhận thấy những lợi thế chọn thủ đô Pháp làm nơi gặp gỡ cho Mỹ và Bắc Việt Nam. Ông lưu ý trong một bản tin của hãng UPI rằng Ngoại trưởng Pháp Couve De Mawill đề nghị chọn Paris làm nơi hội đàm và đã viết thư thuyết phục Rusk ủng hộ đề nghị đó. Harriman lập luận: "Trước khi bác bỏ việc chọn Paris, tôi hy vọng cần phải cân nhắc những lợi thế của Paris, dường như đã rõ rằng rằng người Pháp từ De Gaulle trở xuống đều muốn những quan hệ đầu tiên này thành công, ít nhất là đi đến thoả thuận từ các quan hệ sang các cuộc hội đàm". Ông lưu ý Rusk rằng các quan chức Pháp rất có ích trong việc khuyến khích thúc đẩy các mối liên hệ hoà bình giữa các bên tham chiến. Ông đi đến kết luận: "Nếu Hà Nội thể hiện sẵn sàng muốn đi đến Paris, tôi không nghĩ có một lí do "thoả đáng" để chúng ta không chấp nhận điều đó".
    Tình báo Mỹ ủng hộ việc chọn Paris làm nơi gặp gỡ. Ngày 1 tháng 5, CIA đã báo cáo Nhà Trắng về lập luận của một trong những quan hệ bí mật rằng "Cuối cùng thì các cuộc hội đàm sẽ xảy ra ở Paris". Theo quan hệ này, "Paris là một nơi gặp gỡ tuyệt vời vì hai lí do: Trước hết là Bác Việt Nam có thể chấp nhận nó, vì họ biết rằng việc De Gaulle chống Mỹ có thể bảo đảm bất kỳ cuộc hội đàm nào ở Pháp cũng sẽ được thực hiện trong một bầu không khí và những điều kiện có lợi cho Bắc Việt Nam". Thứ hai, một số Việt kiều sống ở Pháp có thể tham gia vào hội đàm với tư cách đại diện không thuộc Mặt trận dân tộc Giải phóng của "Chính phủ Quốc gia" là thành phần thứ ba trong các cuộc hội đàm.
    Năm ngày sau đó, nhằm khuyến khích chính quyền tán thành quyết định đến Paris, CIA đã đưa ra thêm nhiều lập luận ủng hộ việc lựa chọn Paris. Báo cáo của CIA đã làm cho De Gaulle quan tâm đến thắng lợi của các cuộc gặp ban đầu giữa hai đoàn đại biểu và nguyện vọng của ông ta muốn chọn thủ đô nước Pháp làm nơi gặp gỡ cho các cuộc hội đàm tiếp theo. Các báo cáo tình báo đánh giá rằng các quan chức Pháp có thể sẽ giữ vai trò tương đối trung lập trong một quá trình hội đàm vì lí do nhằm tạo cho De Gaulle một cơ hội làm người trung gian hoà giải. CIA cũng chỉ rõ rằng cảnh sát Pháp có khả năng duy trì trật tự an ninh cần thiết cho các cuộc hội đàm.
    Trong khi chính quyền Mỹ đang xem xét các ý kiến về việc lựa chọn Paris, Liên Xô đã mở đường đưa đến một giải pháp cho vấn đề này. Ngày 2 tháng 5, Lê Duẩn gặp Tham tán Sứ quán Liên Xô tại Hà Nội, V.Chivilev và thông báo cho ông rằng các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam, sau khi xem xét, tham khảo ý kiến của Liên Xô, dự định đề nghị chọn Paris làm nơi gặp gỡ đàm phán. Lê Duẩn nói: "Ở Hà Nội, mọi người đều biết rõ ràng rằng các đồng chí Liên Xô đã tiến hành một số việc với Pháp về vấn đề này, và ngược lại họ cũng thuận ý chọn Paris làm nơi gặp gỡ".
    Lê Duẩn nói rõ những thuận lợi của Paris. Thứ nhất là, đoàn đại biểu Bắc Việt Nam ở đó sẽ có thuận lợi giữ liên hệ chặt chẽ với Matxcơva. Và khi xem xét mối quan hệ giữa Pháp và Nam Việt Nam, bất kì sự kiện nào ở Paris cũng có thể nhanh chóng gây ra một phản ứng nào đó ở Sài Gòn. Thậm chí, thực tế khi Mỹ và Bắc Việt Nam ngồi ở bàn đàm phán có thể làm suy yếu thế mạnh của ?obè lũ bù nhìn". Kết thúc câu chuyện, Lê Duẩn yêu cầu Chính phủ Liên Xô thuyết phục Mỹ chấp thuận Paris làm nơi hội đàm. Nhưng Matxcơva không cần thiết phải làm như vậy. Ngay sau khi Hà Nội tuyên bố đề nghị ngày 3 tháng 5 gặp gỡ tại Paris và tên của nhà đàm phán chính-ông Xuân Thuỷ, Nhà Trắng đã chấp nhận.
    Ngày hôm đó, Tổng thống Johnson đã thông báo cho báo chí rằng ông gửi một bức thư thông điệp cho Hà Nội chấp nhận ngày bắt đầu đàm phán, ngày 10 tháng 5 và nơi gặp gỡ là Paris. Ông bày tỏ hy vọng rằng thoả thuận này sẽ dẫn đến hoà bình ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, Tổng thống còn khuyến cáo rằng đây mới chỉ là bước đầu, "còn rất nhiều khó khăn, trở ngại phía trước".
    Liên Xô tỏ ra lạc quan hơn. Họ coi việc bắt đầu đàm phán là một thắng lợi về ngoại giao và một dấu hiệu đáng hy vọng và khẳng định rằng cuộc xung đột nguy hiểm trong nhiều năm qua đã đe doạ an ninh thế giới này cuối cùng sẽ được giải quyết. Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội chỉ rõ: "Không chỉ hành động như một người hoà giải chính thức mà Liên Xô còn đã tạo ra cơ hội quan trọng cho cả hai bên cùng ngồi vào đàm phán và bắt đầu các cuộc đàm phán chính thức. Liên Xô không ngừng nỗ lực thuyết phục dư luận thế giới và Chính phủ các nước tán thành việc chấm dứt oanh tạc miền Bắc Việt Nam và gây sức ép đối với Mỹ. Đồng thời Liên Xô đã làm cho các đồng chí Việt Nam thấy rõ năm 1968 là năm thuận lợi nhất vì nhiều lý do để thúc đẩy tiến trình đi đến một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam".
    Rõ ràng các nhà lãnh đạo Liên Xô rất phấn kích khi đã vượt qua bao chướng ngại trên con đường dẫn đến Paris. Nhưng không một ai ở Washington, Matxcơva hoặc Hà Nội có thể đoán trước được con đường dẫn đến hoà bình còn lâu dài và khó khăn như thế nào.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương VIII-Cuộc đàm phán ?ođầy hóc búa?
    Những cuộc đàm phán đầu tiên giữa đại diện hai nước tham chiến dường như đã kháng định sự nghi ngờ của Tổng thống Johnson là đúng. Trước khi phái đoàn Mỹ rời Washington đi Paris, Tổng thống đã gặp huấn thị và nhắc lại sự nghi ngờ của mình đối với tương lai của cuộc đàm phán. Tổng thống nói với Harriman và các thành viên trong đoàn rằng: "Chúng ta sắp đàm phán, tôi vui mừng vì điều đó, nhưng tôi không quá hy vọng. Tôi nghĩ đàm phán sẽ hóc búa, đầy hóc búa...".
    Mặc dù các phiên họp sơ bộ diễn ra trôi chảy và thậm chí hy vọng đạt được tiến bộ quan trọng, nhưng khi hội đàm chính thức vào ngày 13 tháng 5 tại Khách sạn Majestic Paris-nơi mà Gestapo đã dùng làm căn cứ chỉ huy trong suốt Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, thì niềm lạc quan đã biến thành mây khói. Các nhà đàm phán của cả hai bên đã công kích lẫn nhau, cả Harriman và Xuân Thuỷ đều không nhận được chỉ thị phải mềm dẻo, phù hợp trong đàm phán.
    Do vậy, Rusk đã nhấn mạnh với Harriman rằng sứ mệnh của ông ta ở Paris chỉ tập trung tìm ra những gì Bắc Việt Nam chuẩn bị làm để đáp lại kế hoạch ném bom hạn chế của Mỹ. Không có cuộc đàm phán nào mà Mỹ chịu nhân nhượng. Đại diện Mỹ ở bàn Hội nghị hầu như chấp hành nghiêm túc chỉ thị từ Washington. Các chỉ thị này nói rõ mục tiêu cơ bản của đàm phán là: "Dàn xếp với đại diện Bắc Việt Nam đàm phán ngay và đi vào những vấn đề thực tế tìm kiếm hoà bình ở Việt Nam. Trong quá trình dàn xếp phải làm cho phía Việt Nam hiểu rõ Mỹ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam là có điều kiện, chứ không phải là sự thất thế quân sự của Mỹ". Cuối cùng muốn nói rằng Hà Nội chấp nhận tôn trọng vùng, khu phi quân sự, không đưa thêm linh Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam và chứng nhận hoà giải tham gia đàm phán với Nam Việt Nam tức Chính phủ Sài Gòn.
    Hà Nội không đi nhanh hơn Washington. Việc Hà Nội cử Xuân Thuỷ làm trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị Paris cho thấy Hà Nội ít hy vọng giải quyết nhanh một số vấn đề cơ bản. Đảng Lao động Việt Nam chọn Xuân Thuỷ là việc làm thận trọng.
    Các nhà ngoại giao xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội nghi ngờ rằng việc cừ Xuân Thuỷ đến Paris chứng tỏ Hà Nội chỉ mong làm vừa lòng Bắc Kinh-người kịch liệt phản đối đàm phán với Hoa Kỳ mà khắp thủ đô Hà Nội ai cũng biết. Xuân Thuỷ, đã từng làm Chủ tịch Hội hữu nghị Việt-Trung và là cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ông bị mất chức khi quan điểm thân Trung Quốc chưa phải là phổ biến ở Bắc Việt Nam. Mặc dù sau này Xuân Thuỷ trở thành người có quan điểm dân tộc hơn là thân Trung Quốc nhưng việc Xuân Thuỷ được cử làm Trưởng đoàn đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể làm yên lòng Trung Quốc. Quyết định phái Xuân Thuỷ đến Paris, Hà Nội đạt được hai mục đích. Trước hết là tránh được sự rủi ro không cần thiết trong quan hệ với đồng minh khổng lồ Trung Quốc. Thứ hai là dựa vào sự cứng rắn không thoả hiệp của ông để tìm hiểu ý đồ của Washington đối với Hội nghị Paris. Vì vậy cuộc đàm phán đã nhanh chóng đi vào bế tắc-chỉ gặp nhau hai lần trong một tuần và chủ yếu là để luận chiến và tuyên truyền. Cả hai bên đều bám giữ quan điểm của mình, không có dấu hiệu thoả hiệp. Harriman đọc một bải diễn văn chứa đầy chỉ thị của Tổng thống Johnson, yêu cầu Bắc Việt Nam phải có những bước đi đáp lại việc ngừng ném bom từng phần của Mỹ. Xuân Thuỷ đáp lại bằng một bài điển văn dài hơn tố cáo sự xâm lược của Mỹ. Các cuộc đàm phán kéo dài lê thê không mang lại kết quả chỉ-tập trung chọc tức lẫn nhau: Chất lượng thông tin của các cuộc đàm phán không còn, giới báo chí ở Paris chạy toán loạn để săn tin. Các quan chức ở Washington bắt đầu thất vọng với kết quả đàm phán. Họ lại còn thất vọng hơn khi nghe tin chính quyền Bắc Việt Nam mở một cuộc tấn công mới vào lính Mỹ ở Đường 9 Nam Lào. Chính quyền Washington bắt đầu phải tính đến biện pháp trả đũa các hoạt động leo thang quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
    Không khí giới lãnh đạo Mỹ thất vọng về kết quả đàm phán của Hội nghị hoà bình Paris mà ở Matxcơva giới lãnh đạo cao nhất của Liên Xô cũng rất quan tâm đến diễn biến của tình hình. Báo chí-luôn là cái loa tuyên truyền của Kremlin-đã thay đổi giọng điệu từ lạc quan, thận trọng sang ngày càng nghi ngờ. Một ngày trước khi diễn ra cuộc "trao đổi chính thức giữa phái đoàn Mỹ và phái đoàn Bắc Việt Nam, báo Pravda đăng một bài dài về cuộc đàm phán sắp diễn ra cùng với tiểu sử của Harriman và Xuân Thuỷ. Bài báo này cung cấp cho độc giả những chi tiết về cuộc đàm phán, phản ánh vai trò quan trọng của Kremlin vượt qua mối quan tâm của độc giả.
    Tuy nhiên, gần đến ngày đàm phán, giọng điệu của Pradva thay đổi. Ngày 17 tháng 5, Pradva lưu ý độc giả rằng hai phiên họp đầu tiên đã chẳng mang lại được lí do "để tin tưởng vào thái độ thiện chí của các nhà lãnh đạo Mỹ, sẵn sàng không leo thang xâm lược Việt Nam". Hai ngày sau, báo Pradva lại đăng một bài chỉ trích gay gắt và thậm chí nghi ngờ thái độ của phái đoàn Mỹ. Bài báo viết: "Rõ ràng thái độ của Mỹ là muốn cuộc đàm phán càng dài càng tốt để có thời gian chuẩn bị cho các hoạt động quân sự với quy mô lớn hơn và khi đó họ mới lấy lí do "thái độ không thoả hiệp" của Việt Nam để ném bom trở lại trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và cố gắng giành lại thắng lợi bằng quân sự".
    Bài báo do Yun Zhuko viết đã thể hiện sự hoài nghi sâu sắc nhất của Ban lãnh đạo Liên Xô. Matxcơva lo ngại rằng sự bế tắc trong đàm phán có thể làm đổ vỡ toàn bộ tiến trình tìm kiếm một giải pháp hoà bình ở Việt Nam. Tuy Matxcơva công khai lên án Mỹ, nhưng giới lãnh đạo Liên Xô cũng thấy rằng Hà Nội cũng phải chịu trách nhiệm về sự bế tắc này. Họ nắm chắc diễn biến tình hình trong các cuộc hội đàm và trước hết Bắc Việt Nam đã rõ từng chi tiết về các cuộc đàm phán với nhóm đàm phán của Harriman. Chính Harriman còn có các nguồn tin khác vì sau khi đến Paris, ông đã cố gắng bằng mọi cách để duy trì quan hệ với Matxcơva qua Đại sứ quán Liên Xô. Do tin rằng chỉ có Liên Xô mới có thể giúp Mỹ tìm cách giảng hoà với Bắc Việt Nam, Harriman trước lúc đến Paris đã xác định trách nhiệm phải tranh thủ sự ủng hộ của Liền Xô qua đối thoại với Đại sứ Liên Xô Dobrynin ở Washington. Chẳng hạn, ngày 8 tháng 4 khi Dobrynin nhấn mạnh Chính phủ Liên Xô muốn có một giải pháp hoà bình ở Nam Việt Nam thì Harriman "đã cố gắng thuyết phục ông ta rằng Liên Xô phải thực sự ra tay nhằm giành được mục tiêu trên". Về vấn đề này, trước khi đến Paris, trong bữa cơm trưa với Đại sứ Liên Xô ngày 5 tháng 5, Harriman đã nói thẳng thắn rằng phía Mỹ cần đến sự hợp tác của Liên Xô.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tại Paris, Harriman làm nhiệm vụ liên lạc giữa đoàn Mỹ và đại sứ quán Liên Xô. Ngày 18 tháng 5, đúng ngày diễn ra các cuộc trao đổi giữa hai phái đoàn, ông đã liên hệ với Đại sứ quán Liên Xô, mời Đại sứ Zorin đến trụ sở đoàn Mỹ gặp gỡ, làm việc. Sau đó hai ngày, Zorin trả lời sẽ chờ Harriman đến Đại sứ quán Liên Xô làm việc chứ không đến Đại sứ quán Mỹ. Sergei Bogomcov, Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Liên Xô đã thông báo cho phái đoàn Mỹ như vậy và giải thích rằng trưởng đoàn Bắc Việt Nam thường đến Đại sứ quán Liên Xô làm việc với Zorin do vậy cũng mong trưởng phái đoàn Mỹ cũng làm như thế.
    Harriman từ chối việc này. Ông ta không muốn đến trình diện bất cứ một đại sứ nào khác và cho biết Đại sứ Anh và đại sứ các nước khác tới thăm ông ta, do đó mong rằng đại sứ Zorin sẽ tới trong một vài ngày tới. Nhưng Zorin viện cớ đang có các cuộc gặp khác, và mời Harriman tới Đại sứ quán Liên Xô.
    Trò mèo vờn chuột này tiếp diễn trong hai ngày cho tới lúc cả hai ông nhất trí gặp nhau tại Tư dinh Đại sứ Mỹ Slivor, ngày 19 tháng 5. Valentin Oberemko, Tham tán trong Sứ quán Liên Xô đã đến làm việc với Harriman để dàn xếp cho cuộc gặp này và tìm hiểu tình hình các cuộc hội đàm sau phiên khai mạc. Trưởng đoàn đàm phán Mỹ đã tỏ rõ thất vọng về "sự thiếu chính xác, sai trái trong các tuyên bố của phía Bắc Việt Nam đang biến các cuộc hội đàm thành một hoạt động tuyên truyền". Harriman hy vọng sẽ sớm có thể tiếp tục bàn tới các vấn đề mấu chốt, "nhưng phía Bắc Việt Nam vẫn ngạo mạn một cách quá đáng".
    Lời đáp của Oberemko nói rõ vai trò quan trọng của Liên Xô đối với các cuộc hội đàm. Ông ta nhấn mệnh: "Việc đề xướng các cuộc đàm phán khởi đầu một tiến trình không thể đảo ngược được, phía Bắc Việt Nam cũng thấy rõ điều này và quyết tâm thực hiện một cách nghiêm tức". Ngay lập tức, Harriman sừ dụng tuyên bố này để khẳng định vai trò của Liên Xô trong việc thúc đẩy các cuộc hội đàm tiến triển. "Liên Xô giữ mốt vai trò chủ chốt trong các cuộc đàm phán" và "ông ta không tin rằng các cuộc đàm phán sẽ thắng lợi nếu thiếu sự hỗ trợ của Liên Xô. Do đó, Harriman hy vọng sẽ quan hệ chặt chẽ với các đại diện của Liên Xô" ở Paris.
    Sau đó Harriman đã giải thích rõ các mục tiêu của Mỹ tại các cuộc hội đàm. Ông nói rằng để thuyết phục cả hai ông Kosygin và Dobrynin, ông đã nghiên cứu "kĩ lưỡng" cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và thấy tuy còn nhiều mâu thuẫn nhưng có thể chấp nhận được. Ông cho biết Chính phủ Mỹ mong muốn trong các cuộc đàm phán liên quan đến tương lai của Nam Việt Nam, phải có phía chính quyền Sài Gòn tham dự. Harriman còn lo ngại Bắc Việt Nam vẫn tiếp tục chuyển lực lượng ở mức độ ngày càng cao vào miền Nam và chưa thấy có dấu hiệu kiềm chế nào từ phía Hà Nội.
    Cuộc gặp gỡ đầu tiên này đã xác định được những đường hướng chính cho cuộc hội đàm giữa các đại diện Mỹ và Zorin. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Harriman, theo chỉ đạo của Matxcơva, Zorin không có tuyên bố gì mới về lập trường đã quá rõ của Liên Xô đối với các cuộc hội đàm. Mục tiêu chính của ông ta là phải tìm hiểu cho được đánh giá tình hình của Washington và chính quyền Johnson sẵn sàng đi tới đâu trong cuộc hội đàm với Hà Nội, khi các đại diện Mỹ lên án thái độ cứng rắn của Bắc Việt Nam và việc Bắc Việt Nam tăng cường quân đội vào miền Nam sau khi Mỹ ngừng ném bom từng phần Zorin nói thẳng tưng rằng lập trường của Bắc Việt Nam là "Rõ ràng và kiên định". Thực chất, sẽ không thể có một bước tiến triển nào trong đàm phán nếu Mỹ không ngừng vô điều kiện việc ném bom Bắc Việt Nam. Zorin nhấn mạnh rằng về phần mình, Chính phủ Liên Xô hiểu rõ và ủng hộ việc đó. Đại sứ Liên Xô khẳng định lại điều này nhiều lần còn Harriman vẫn kiên định lập trường.
    Đối với Mỹ, quan hệ đầu tiên này với Liên Xô dường như không có kết quả lắm. Tuy nhiên, Harriman cũng thấy được một số dấu hiệu đáng khích lệ. Chẳng hạn như việc Zorin không bác bỏ khả năng tiếp tục gặp gỡ Harriman. Thực vậy, ông ta đồng ý nhũng quan hệ này cần được đuy trì và vạch ra chương trình quan hệ. Ông nói có vẻ rất vui khi gặp riêng Harriman và chỉ rõ Oberemko và Bogomolov là những kênh liên lạc khác. Harriman còn có một cơ hội nữa để gợi ý tổ chức các cuộc gặp bí mật giữa các phái đoàn Mỹ và Bắc Việt Nam, "có thể có phía Liên Xô tham dự, nếu họ muốn". Vì không được lệnh từ Matxcơva về việc này, Zorin không nói gì và cho rằng điều đó thật "xa vời". Nhưng đối với phía Liên Xô, ý kiến này của Harriman là một khả năng có thể thực hiện được nhằm giải quyết bế tắc trong đàm phán và do đó sẽ được coi là một giải pháp tích cực.
    Cuộc trao đổi đầu tiên giữa Zorin và Harnman có vẻ như đã được Matxcơva cân nhắc kĩ. Kremlin chỉ thị cho Zorin phải duy trì quan hệ với đoàn Mỹ, như Zorin đã thừa nhận trong cuộc trao đổi thứ hai của ông với Harnman, ngày 25 tháng 5 tại Đại sứ quán Liên Xô. Tinh thần của cuộc trao đổi này khác xa so với những gì xảy ra tại dinh Đại sứ quán Mỹ Shivew. Theo Harnman báo cáo thì "Zorin có phần ít tranh luận hơn và ít ra cũng lắng nghe một cách nhã nhặn". Mặc dù ông Zorin tuyên bố rằng lập trường của Liên Xô về những vấn đề chính trị của các cuộc hội đàm này vẫn kiên định trước sau như một, nhưng ông cũng tỏ ra quan tâm hơn đến lập luận của Harriman về những cuộc gặp gở bí mật giữa phía Bắc Việt Nam và Mỹ và cách nhìn nhận của Mỹ về các biện pháp có đi có lại của phía Bắc Việt Nam đối với việc Mỹ ngừng ném bom. Về khả năng tổ chức các cuộc hội đàm bí mật giữa người đại diện của hai đoàn đàm phán, Zorin hỏi thêm về thành phần của những cuộc gặp gỡ đó, liệu các cuộc họp này có thể bao gồm cả hai hay ba đoàn từ các phía đến tham dự hay không?
    Bàn về vấn đề đáp ứng lại và kiềm chế của Hà Nội càng khó khăn hơn, vì mỗi bên đều tái khẳng định lập trường của mình về vấn đề này mà không hề có sự điều chỉnh đáng kể nào. Harriman đề cập đến bài diễn văn 31 tháng 5 của Johnson và nhắc lại mục đích của Mỹ muốn bàn về một cuộc ngừng ném bom, chứ không phải để tuyên bố chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Ông ta cũng lưu ý các đồng nghiệp phía Liên Xô rằng về các tuyên bố của Bắc Việt Nam hồi tháng tư chứng tỏ Hà Nội đã hiểu sự việc theo nghĩa trên. Theo quan điểm của Harriman, phía Bắc Việt Nam đã đi chệch hướng các cuộc Hội đàm tại Paris.
    Zorin tỏ ra quan tâm đặc biệt đến tuyên bố của Harnman rằng: Mỹ hy vọng có một dấu hiệu kiềm chế từ phía Hà Nội và Mỹ không yêu cầu có một tuyên bố chính thức đáp lại-điều này phía Bắc Việt Nam nhất định sẽ phản đối. Đại sứ quán Liên Xô nói rằng phía Mỹ đã không nói trực tiếp vấn đề này cho phía Bắc Việt Nam biết. Harriman nói tới tính chất công khai của các cuộc trao đổi chính thức đã ngăn ông ta không làm việc đó. Nhưng ông ta hứa sẽ thông báo cho đoàn Bắc Việt Nam có thể làm một điều gì đó "bằng hoạt động hoặc bằng lời nói" thể hiện sự kiềm chế của mình đáp lại những biện pháp đơn phương của Mỹ.
    Cuộc trao đổi tại Đại sứ quán Liên Xô chứng tỏ Matxcơva đang tích cực tìm kiếm giải pháp thoả hiệp tại Paris. Kremlin rõ ràng đã cho Hà Nội biết ý tưởng tổ chức các cuộc gặp bí mật giữa khai phái đoàn Mỹ và Bắc Việt Nam, cũng như việc kiềm chế hành động. Khi liên lạc với phía Bắc Việt Nam, các nhà lãnh đạo Liên Xô chắc chắn đã đề cập tới nguy cơ kéo dài vô tận các cuộc đàm phán, lưu ý Hà Nội về lới khuyến cáo của Harriman về ấn tượng không thuận lợi có thể ảnh hưởng đến công chúng Mỹ, và về ý đồ của chính quyền Johnson muốn tái ném bom toàn bộ Bắc Việt Nam.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Có thể những lập luận này thuyết phục được phía Bắc Việt Nam. Hai quyết định quan trọng của Hà Nội gửi cho đại diện có thế lực nhất-ông Lê Đức Thọ, đồng ý tổ chức các cuộc gặp bí mật giữa hai phái đoàn-có thể đó là kết quả của việc gây áp lực đối với Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam từ phía các đồng chí của họ ở Kremlin. Các nhà lãnh đạo Liên Xô đã khẩn trương thông báo cho Đại sứ của mình ở Paris về những thay đổi này trong lập trường của Hà Nội. Chỉ hai ngày sau cuộc gặp đầu tiên với Harriman tại Đại sứ quán Liên Xô, Zorìn đã trả lời: Không, khi Harriman hỏi liệu Zorin có cho việc tổ chức các cuộc hội đàm là "quá sớm" hay không. Harriman đề nghị đại sứ Liên Xô thông báo cho phía Bắc Việt Nam biết về việc đó để xem phản ứng của Việt Nam thế nào. Zorin cho rằng các cuộc hội đàm kín có thể diễn ra cùng với các cuộc gặp gỡ công khai mà họ "không thể trì hoãn được".
    Lời lẽ và ý tứ của Đại sứ Liên Xô thận trọng. Zorin nói: ?oTheo ý kiến cá nhân tôi, phản ứng của họ (Bắc Việt Nam) vào thời điểm này có thể là tiêu cực... nhưng với kinh nghiệm ngoại giao của mình, ngài thống đốc chắc thấy rằng tình hình đang thay đổi và có thể sau này phản ứng của họ sẽ tích cực tuỳ thuộc vào sự tiến triển của các cuộc hội đàm công khai".
    Zorin hầu như không thể chỉ đưa ra "ý kiến cá nhân của mình" về vấn đề này. Được đề bạt lên một chức vụ quan trọng trong bộ máy ngoại giao của Liên Xô dưới thời Stalin, ông không quen với việc có ý kiến riêng và truyền đạt cho các nhà ngoại giao nước ngoài mà không được cấp trên cho phép. Ông là một nhà ngoại giao của "Viện Molatov", một người thừa hành nghiêm túc các quyết định của lãnh đạo. Và Harriman đã biết điều này rất rõ.
    Trong một cuộc trao đổi không chính thức với Dobrynin tại nhà ở phố N, Washington ?oCon sâu già" này (đồng nghiệp ở Washington thường gọi Harriman với cái tên này vì ông thường đặt ra những câu hỏi hóc búa và những nhận xét khó chịu) đã hỏi đồng nghiệp Liên Xô tại sao Chính phủ Liên Xô không bố trí một người khác nhạy cảm hơn Zorin ở Paris..". Trong báo cáo về cuộc trao đổi này, Harriman còn nói rõ: "Tôi nói cho ông ta rằng tôi hối tiếc việc Liên Xô không bố trí một người "tân tiến" hơn Zorin ở Paris...". Như vậy Harriman chắc chắn đã nhận thấy tuyên bố thận trọng của Zorin là đáng hy vọng.
    Do những thay đổi điều kiện trong các cuộc Hội đàm Matxcơva rõ ràng đã muốn Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam quyết định cử Lê Đức Thọ đến Paris cùng đàm phán với Xuân Thuỷ. Khác hẳn với mục đích ban đầu của Bắc Việt Nam chỉ duy trì đàm phán suông, Cộng sản Việt Nam giờ đây có ý muốn chuyển hội đàm tay bo ?ogợi ý và bác bỏ", sang thành các cơ hội để đàm phán, nhượng bộ lẫn nhau. Với cương vị Uỷ viên Bộ chính trị **********************; không giống như Xuân Thuỷ, Lê Đức Thọ là người có khả năng ra quyết định và trong một số trường hợp có thể gây ảnh hưởng đối với lập trường của Hà Nội về các cuộc hội đàm.
    Tuy Matxcơva biết rằng lãnh đạo Bắc Việt Nam coi các cuộc đàm phán chỉ là một phần của chiến lược chung "vừa đánh vừa đàm" của họ, nhưng phía Liên Xô cũng có tin về việc Bắc Việt Nam muốn đàm phán. Đầu tháng giêng năm 1968, Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội đã báo cáo rằng trong giai đoạn đầu đàm phán, phía Việt Nam cố đạt được việc Mỹ ngừng ném bom và các hành động chiến tranh khác chống Bắc Việt Nam cùng với việc rút hết lực lượng hải quân và không quân Mỹ ra khỏi Việt Nam. Giai đoạn này phải có các cuộc tiếp xúc trù bị giữa hai phía Bắc việt Nam và Mỹ nhằm xác định rõ toàn bộ phạm vi vêu cầu đàm phán. Các cuộc hội đàm sau đó có thể bắt đầu có sự tham gia của đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng mền Nam (NLF) và chế độ Sài Gòn ở giai đoạn sau. Cuối cùng thì tiến trình này có thể được kết thúc với một hội nghị theo kiểu Hội nghị Geneve để có bảo đảm quốc tế về giải pháp cho Cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
    Dẫu mối hoài nghi của Matxcơva với quyết tâm của Bắc Việt Nam theo đuổi kế hoạch này như thế nào đi nữa; thì việc cử Lê Đức Thọ đến Paris có thế đã xua tan những nghi kị đó. Khi dừng chân tại Matxcơva trên đường đến Paris, Lê Đức Thọ đã được Kosygin đón tiếp thể hiện rõ quan tâm của Liên Xồ đối với sứ mệnh của ông ta. Cuộc gặp gỡ ba ngày sau khi Kosygin gửi thư cho Tổng thống Johnson. Trong đó Kosygin dùng lời lẽ mạnh mẽ và dứt khoát để mô tả việc khơi đầu các cuộc đàm phán chính thức giữa các đại diện của Mỹ và Bắc Việt Nam là một khả năng thực tế để tìm ra giải pháp cho tình hình hiện tại ở Việt Nam với mục đích chấm dứt cuộc chiến đẫm máu kéo dài nhiều năm qua ở Việt Nam. Kosygin nói rằng: "Nhân dân trên toàn thế giới mong đợi những kết quả tích cực của các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam tại Paris, và kết quả đó gắn liền với triển vọng làm giảm tình hình quốc tế căng thẳng".
    Sau khi bày tỏ lo ngại rằng sự trì trệ trong đàm phán, có thể đưa đến việc Mỹ tiếp tục ném bom phá hoại Bắc Việt Nam, Kosygin đã chỉ trích việc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã lưu ý Tổng thống Mỹ rằng Chính phủ Liên Xô đã ?ohơn một lần" bày tỏ ý kiến của mình là ?oviệc Mỹ chấm dứt toàn bộ và vô điều kiện ném bom và các hành động chiến tranh khác chống Bắc Việt Nam có thể mở ra con đường tới giải pháp hoà bình". Theo quan điểm của Kosygin thì việc ném bom là "trở ngại chính chặn đường tiến của hội đàm Paris".
    Phần tiếp lá thư của Kosygin đã gây nhiều tranh cãi trong nội bộ chính quyền Johnson, nhất là trong số các cố vấn Tổng thống. Kosygin viết: "Tôi và các đồng nghiệp của mình tin rằng-và chúng tôi có cơ sở để nói điều đó, "việc Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom và các hoạt động chiến tranh khác liên quan đến Bắc Việt Nam", có thể đưa đến sự khai thông tình hình, mở ra triển vọng đạt tới một giải pháp hoà bình cho cuộc chiến". Kosygin đảm bảo với Washington rằng một biện pháp như vậy sẽ "không thể gây hậu quả ngược lại đối với Mỹ, không thiệt hại về quyền lợi lẫn uy tín quốc tế của Mỹ". Kosygin kết thúc lời kêu gọi Washington của mình với một thông điệp rằng theo yêu cầu của Harriman, Chính phủ Liên Xô đã khuyến cáo các đại diện của phía-Việt Nam về lợi ích của các "cuộc đàm phán không chính thức giữa Mỹ và Bác Việt Nam, vì Matxcơva tin rằng "tất cả các hình thức quan hệ trao đổi giữa hai bên phải được tận dụng".
    Chắc chắn lá thư này là kết quả các cuộc Hội đàm giữa Kosygin với Lê Đức Thọ. Có thể trong các cuộc hội đàm này, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã thông báo cho Lê Đức Thọ về các cuộc trao đổi ở Paris, giữa Zorin và Harriman và đã làm rõ được quan điểm của Hà Nội về triển vọng đi tới một giải pháp cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Phải chăng Bắc Việt Nam chắc chắn sẽ không phản bác các cuộc hội đàm nghiêm chỉnh với phía Mỹ một khi việc ném bom chấm dứt nên ban lãnh đạo Liên Xô đã quyết định gây sức ép mạnh mẽ và đòi Washington chấm dứt ném bom.

Chia sẻ trang này