1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Như?fng bí mật Nga cu??a chiến tranh Việt nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi spirou, 29/05/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tuy nhiên, Johnson chưa hẳn tin ngay những tín hiệu đó của Matxcơva, Johnson viết trong nhật ký rằng: "Tôi vẫn nhớ rõ đảm bảo Matxcơva cuối năm 1965 rằng nếu chúng tôi ngừng ném bom Bắc Việt Nam trong mười hai hoặc hai mươi ngày thì điều tốt lành sẽ đến. Trên cơ sở đó, chúng ta đã ngừng ném bom không phải trong mười hai hay hai mươi, mà ba mươi bảy ngày nhưng không hề có gì tốt đẹp xảy ra... cái mà Matxcợva nói lúc này là điều họ đã không nói ra hai năm rưỡi trước đây. Cả Rusk và Rostow đều nhất trí vơi Johnson về việc này. Trong cuộc gặp của Tổng thống với các cố vấn về chính sách đối ngoại ngày 9 tháng 6, Rusk đã mô tả bức thông điệp của Kosygin là "khó hiểu?. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ cần phải làm rõ hơn, thậm chí phải đảm bảo chắc chắn rằng Hà Nội "sẽ làm một việc gì đó cụ thể để đáp lại việc Mỹ ngừng ném bom?.
    Lập luận này mâu thuẫn với lập luận của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Clark Clifford, Harriman và Vance (lúc này cả Harriman và Vance đã đề nghị Washington). Clifford coi lá thư của Liên Xô là: "Một cử chỉ tích cực có thể đặt Matxcơva đúng chỗ để phát huy tác dụng". Ông đề nghị Tổng thống "hãy vui vẻ nhận thư" và tuyên bố ngừng ném bom trên toàn lãnh thổ Bắc Việt Nam, nói rõ cho cả Matxcơva và Hà Nội biết rằng nếu phía Bắc Việt Nam không có hành động đáp lại tượng ứng thì Mỹ sẽ huỷ bỏ lệnh ngừng ném bom. Clifford thay đổi căn bản quan điểm về chiến tranh từ khi ông được bổ nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông tin rằng việc ném bom không thể kết thúc chiến tranh. ?oMuốn chấm dứt chiến tranh thì phải dàn xếp với Liên Xô để họ sử dụng ưu thế của mình mà Mỹ không có-buộc Hà Nội phải chấm dứt chiến tranh". Đối với việc ngừng ném bom ba mươi bảy ngày của Mỹ, ông cho rằng bối cảnh tình hình đã thay đổi và không cần phải có việc đó sớm như vậy.
    Trong khi thảo luận về cách đáp lại lời đề nghị của Matxcơva, không một ai ủng hộ Clifford. Harriman đồng ý với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ rằng lá thư này của lãnh đạo Liên Xô là "cực kỳ quan trọng" và việc Mỹ có phản ứng tích cực đáp lại đảm bảo của Kosygin "có thể là một bước khai thông tình hình", nhưng ông ta không dám đương đầu chống lại ý kiến của Tổng thống Johnson vì thấy rõ vị trí, vai trò của mình và thái độ của Tổng thống đối với Rusk. Nhưng sau này trong một báo cáo "hoàn toàn mang tính chất cá nhân", ông ta cho rằng phản ứng như vậy của chính quyền Mỹ lúc đó trước bức thông điệp của Kosygin đã làm mất đi cơ hội đạt được một giải pháp có thể chấp nhận được đối với Bắc Việt Nam vào hè 1968.
    Johnson trả lời Kosygin rất dè dặt. Ông ta thông báo cho Kosygin biết Mỹ sẵn sàng chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam chỉ khi nào được thông báo các bước giảm các hoạt động vũ lực của Bắc Việt Nam. Tổng thống đảm bảo với Kosygin rằng ông ta rất vui lòng bàn bạc trực tiếp các vấn đề trên với Chính phủ Liên Xô. Ông viết: "''Nếu ngài khẳng định với chúng tôi rằng sẽ không có một hậu quả xấu nào về mặt quân sự đối với các lực lượng của Mỹ và đồng minh của Mỹ, thì chúng tôi sẵn sàng chấp nhận tuyên bố của ngài và sẽ ban bố những mệnh lệnh cần thiết".
    Ngày 11 tháng 6, Rusk chuyển thư phúc đáp của Johnson cho đại sứ Liên Xô, Dobrynin. Sự thất vọng của Liên Xô đối với một bức thư như vậy mãi sau này mới được biết qua cuộc trao đổi giữa Dobrynin với các nhà ngoại giao Mỹ rằng Matxcơva hy vọng có lời đáp tích cực hơn của Washington. Dobrynin cho biết Liên Xô hy vọng Chính phủ Mỹ sẽ chấp nhận lời đề nghị của Kosygin. Khi trao đổi với Lewellyn Thompsom ngày 13 tháng 6, Dobrynin cho rằng Mỹ đã bỏ lỡ một cơ hội. Hoàn toàn thận trọng để không sa vào thế phải làm trung gian hoà giải và ông nhấn mạnh trong trường hợp này, "họ đã đi quá xa". Trong khi Thompson bao biện cho sự nghi ngại của Tổng thống Johnson vì những ấn tượng không tốt sau những lần ngừng ném bom trước đây, Dobrynin chỉ rõ sự khác biệt giữa lá thư mới nhất của Kosygin với những thông điệp trước đây của Liên Xô. Dobrynin cho biết tuyên bố của ông !à "bản viết tay của người đứng đầu Chính phủ và hơn nữa ông ra lời tuyên bố đó dưới danh nghĩa Chính phủ Liên Xô".
    Người ta có thể tự hỏi liệu Ban lãnh đạo Liên Xô có các mục tiêu kín đáo nào, nhằm thuyết phục Mỹ đồng ý ngừng ném bom vô điều kiện, ngoài ý muốn thường thấy của Liên Xô là thúc đẩy các kế hoạch của các "bạn" Việt Nam.
    Tại một cuộc gặp gỡ với Tổng thống Mỹ ngày 9 tháng 6 để thảo luận lá thư của Kosygin, Charles Bohlen cho rằng nếu Mỹ ngừng ném bom toàn Bắc Việt Nam thì sẽ làm tăng vị trí, vai trò của Liên Xô đối với Hà Nội và cho phép Liên Xô có lập trường quyết định hơn đối với Hà Nội.
    Bohlen giãi bày suy nghĩ này, với Dobrynin vài ngày sau đó xin ý kiến của Dobrynin thế nào. Ông nói với Dobrynin rằng ông cảm thấy điều mà Liên Xô đang cố tỏ cho Mỹ biết rằng Liên Xô cam kết với Bắc Việt Nam chủ yếu vì các cuộc tấn công của Mỹ đối với Bắc Việt Nam, nếu các cuộc tấn công hoàn toàn chấm dứt thì trách nhiệm của Liên Xô trong vấn đề này có thể sẽ giảm đi đáng kể. Dobrynin tán thưởng về kinh nghiệm của Bohlen về các vấn đề Liên Xô và tránh trả lời trực tiếp câu hỏi của Bohlen. Tuy nhiên, trong cuộc tráo đổi với Harriman ngày 22 tháng 6, Dobrynin tỏ ra tin tưởng nhà ngoại giao lão thành này hơn đồng nghiệp trẻ khác và đã nói gần giống như lời của Bohlen rằng: "Chính phủ Liên Xô có thể dễ dàng nói rõ ý kiến của mình hơn đối với Bắc Việt Nam khi việc ném bom đã chấm dứt hoàn toàn".
    Bằng việc không chấp nhận lời đảm bảo của Kosygin, Chính phủ Mỹ đã làm Liên Xô mất đi uy tín đối với Hà Nội. Nhưng rõ ràng những suy nghĩ đó mới chỉ là một phần của bài toán. Toàn bộ sự thật là Liên Xô muốn giải quyết chiến tranh ở mức độ ít nhiều có thể chấp nhận phù hợp theo cách nhìn nhận của họ, với tình hình thế giới và thế của Liên Xô cũng như phù hợp với các kế hoạch của Hà Nội. Các cuộc hội đàm ở Paris thể hiện hy vọng thực hiện được những mục tiêu đó mà không ngại phải chịu những tổn thất lớn hơn nữa.
    Khi Johnson từ chối ngừng ném bom, vì sợ rằng hành động này của Mỹ sẽ làm Bắc Việt Nam thất vọng, đồng thời hy vọng tìm được một thoả hiệp nào đó thì Matxcơva vội vã thuyết phục Hà Nội không bỏ cuộc. Ngày 13 tháng 6 trong thư gửi Hà Nội, các nhà lãnh đạo Liên Xô đã khẳng định lại tầm quan trọng của các cuộc hội đàm ở Paris để đi đến một giải pháp hoà bình cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Thời điểm quyết định phụ thuộc vào mặt trận ngoại giao và quan trọng là phải hiểu rõ cách làm thế nào để giải quyết vấn đề Việt Nam. Kremlin đã dành cho các đồng chí Việt Nam toàn bộ sức mạnh quốc tế của Liên Xô để đạt được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao càng sớm càng tốt. Các nhà lãnh đạo Liên Xô còn viết trong lá thư đó rằng Harriman đã nhấn mạnh đến nhu cầu đàm phán các vấn đề nằm ngoài vấn đề ngừng ném bom của Mỹ như vấn đề phi quân sự (DMZ), lịch trình đôi bên cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và việc Chính phủ Sài Gòn tham gia vào các cuộc hội đàm.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hà Nội đáp lại lời kêu gọi của Matxcơva chẳng lấy gì mặn mà hơn phản ứng của Washington. Như Đại sứ quán Liên Xô báo cáo rằng phải mất gần một tháng sau mới có trả lời của Hà Nội, trong đó không hề có "một luận điểm nào mang tính xây dựng nhằm đạt tới một giải pháp hoà bình cho vấn đề Việt Nam phù hợp với tình hình thuận lợi hiện nay". Báo cáo này còn kết luận rằng Ban lãnh đạo Liên Xô có thể đã không đánh giá hết được vai trò quan trong của các khía cạnh chính trị trong giải pháp đó.
    Cũng theo các nhà ngoại giao Liên Xô tại Hà Nội cho biết thì nhân tố Trung Quốc tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc vạch chính sách của Bắc Việt Nam. Phản ứng của Bắc Kinh đối với các cuộc Hội đàm ở Paris không hề có dấu hiệu tích cực nào. Rõ ràng, Hà Nội đã nhất trí phải ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ mà không hề hỏi ý kiến phía Trung Quốc trước. Thậm chí, sau khi Bắc Việt Nam tuyên bố sẵn sàng đàm phán, trong cuộc viếng thăm Bắc Kinh của lãnh đạo Bắc Việt nam hồi tháng 4 năm 1968, phía Trung Quốc còn nói rằng, chưa phải lúc, Việt Nam ngồi vào đàm phán với Mỹ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh: "Chúng ta đã quá vội đi đến nhân nhượng?.
    Khi các cuộc Hội đàm bắt đầu ở Paris, thì Bắc Kinh phủ nhận các cuộc hội đàm này. Bào chí Trung Quốc đều bỏ qua những tin về hội đàm và lớn tiếng phê phán Pháp đã bố trí tổ chức các cuộc hội đàm. Đồng thời Bắc Kinh đã tiến hành biện pháp thực tế nhằm phá hoại giải pháp cuộc chiến ở Đông Nam Á.
    Ban lãnh đạo Trung Quốc đã gây sức ép buộc Hà Nội từ bỏ quyết tâm đàm phán bằng việc tạo ra những khó khăn cho hàng loạt lĩnh vực hoạt động của Bắc Việt Nam. Họ ngăn trở việc cung cấp viện trợ của Liên Xô cho Bắc Việt Nam, tiến hành các hoạt động khiêu khích đối với các tàu Liên Xô ghé các cảng của Trung Quốc trên đường đến Bắc Việt Nam và gây khó dễ cho Bắc Việt Nam qua lãnh thổ Trung Quốc. Số các vụ khiêu khích như vậy trước đây đã xảy ra, nhưng nay tăng lên đáng kể. Theo báo cáo của Đại sứ quán Liên Xô tại Trung Quốc hồi tháng 5 và tháng 6, phía Trung Quốc đã giữ lại trên lãnh thổ của mình khoảng tám trăm toa xe lửa chở vũ khí và trang thiết bị quân sự và khoảng bảy đoàn tàu hoả đặc biệt chở tổ hợp phòng không cho Bắc Việt Nam.
    Rõ ràng, hành động này nhằm vào Liên Xô và Hà Nội vì ban lãnh đạo Trung Quốc cho rằng Matxcơva phải chịu trách nhiệm đối với những hành động của Bắc Việt Nam trong việc đàm phán với Mỹ. Việc chặn các tàu vận tải Liên Xô đến Việt Nam, đi cùng với hoạt động khiêu khích tại biên giới Xô-Trung, nơi đã xảy ra ngày càng nhiều cuộc xung đột, từ chín mươi vụ trong tháng giêng, tháng hai năm 1968, lên một trăm sáu mươi tư vú trong tháng 5.
    Ngoài các kế hoạch ngăn trở Bắc Việt Nam ngồi vào hội đàm với Mỹ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc còn ra sức lợi dụng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Bắc Kinh bắt đầu mở rộng các quan hệ riêng rẽ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng, thuyết phục các nhà lãnh đạo Mặt trận tiếp tục "trường kỳ kháng chiến". Matxcơva cũng có tin về âm mưu của
    Bắc Kinh tổ chức các đơn vị người Hoa ở Nam Việt Nam nhằm đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở đây.
    Đồng thời Ban lãnh đạo Trung Quốc cố gắng tiếp tục thuyết phục các bạn Bắc Việt Nam rằng, đàm phán với Mỹ là sai lầm và nguy hiểm. Tháng 10 năm 1968, khi triển vọng đi đến một Hiệp định và việc Mỹ ngừng ném bom sắp có kết quả tại Hội đàm Paris, một quan chức cao cấp Trung Quốc đã nói với một đồng nghiệp Việt Nam tại Bắc Kinh rằng Trung Quốc coi việc đó là "sự thoả hiệp giữa Việt Nam và Mỹ, một thất bại nghiêm trọng và tổn thất to lớn đối với nhân dân Việt Nam". Ông ta so sánh việc đó với Hiệp định Geneve 1954 và tuyên bố rằng Việt Nam "cần phải cho phép Mỹ tái ném bom và tấn công trên lãnh thổ Việt Nam". Theo phía Trung Quốc, Mỹ sẽ phải giảm bớt các cuộc không kích bắn phá Bắc Việt Nam để giảm căng thẳng tình hình ở miền Nam.
    Đại sứ quán Liên Xô ở Bắc Kinh đã báo cáo, phân tích lý do tại sao lãn đạo Trung Quốc kiên quyết chống lại các cuộc Hội đàm tại Paris. Theo báo cáo thì việc tiếp tục Cuộc chiến ở Việt Nam cho phép Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục đặt Trung Quốc trong tình trạng căng thẳng, nhân dân càng sợ chiến tranh xâm lược. Đại sứ quán Liên Xô kết luận rằng về mặt tư tưởng, một giải pháp cho Cuộc chiến Việt Nam sẽ giáng một đòn mạnh vào chiến lược quân sự "trường kỳ kháng chiến" của Mao và có thể dẫn đến làm suy sụp các tư tưởng khác của "Người cầm lái vĩ đại". Theo những người Mao-ít, về mặt chiến lược, cuộc chiến tranh ở Việt Nam sẽ làm suy yếu cả Mỹ và Liên Xô, và làm tăng cơ hội đối đầu quân sự trực tiếp giữa hai đối thủ chính của Trung Quốc. Ngoài ra, Đại sứ quán Liên Xô tin rằng Trung Quốc đang cố sử dụng các chiến thuật chiến tranh và lợi dụng sự có mặt của Mỹ ở Đông Nam Aự nhằm tăng cường vị trí của mình ở khu vực này.
    Sự phân tích có tính toán này của Bắc Kinh làm tăng mối lo ngại của Liên Xô về ảnh hưởng nguy hiểm tiềm tàng của Trung Quốc đối với các cuộc đàm phán ở Paris. Mặc dù hồi tháng sáu đã xuất hiện một số dấu hiệu tích cực tại các cuộc hội đàm bí mật giữa các đại diện của hai phái đoàn Mỹ và Bắc Việt Nam. Nhưng vẫn chưa có một bước tiến đáng kể nào dung hoà được lập trường của Hà Nội và Washington.
    Phải mất vài tuần phía Bắc Việt Nam mới đồng ý gặp gỡ bí mật. Quyết định của Bắc Việt Nam có thể là kết quả cuộc trao đổi ngày 13 tháng 6, giữa Zorin, Harriman và Vance. Khi Đại sứ Liên Xô Zorin thông báo cho phía Mỹ biết lập trường chính của Bắc Việt Nam là sẽ không bàn bạc các vấn đề nào khác hoặc không bắt đầu các cuộc đàm phán bí mật cho tới khí nào Mỹ chấm dứt ném bom, Harriman và Vance đã cảnh báo Zorin rằng tình trạng bế tắc này đe doạ nghiêm trọng đối với hy vọng có được các cuộc hội đàm thắng lợi. Cả hai quan chức này cho rằng "sức ép hiện nay đối với Tổng thống đang gia tăng và nếu các cuộc tấn công của chế độ Sài Gòn càng kéo dài, cũng như tình trạng bế tắc ở Paris vẫn tiếp tục thì sức ép đó ngày càng quyết liệt". Harriman tin rằng ảnh hưởng của Matxcơva đã thuyết phục được Hà Nội đến hội đàm ở Paris, đi ngược lại ý muốn của Bắc Kinh. Nếu các cuộc hội đàm tan vỡ thì đó chính là thất bại của Matxcơva và là thắng lợi của Bắc Kinh.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Harriman nhấn mạnh rằng giữa Liên Xô, Bắc Việt Nam và Mỹ đều có những mục tiêu chung. Ông nói: "Cả ba phía đều muốn bắc Việt Nam thoát khỏi sự kiềm toả của Bắc Kinh. Hơn nữa, Mỹ "hoàn toàn vui lòng" thừa nhận Bắc Việt Nam vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa. Còn đối với Nam Việt Nam, tương lai của nó phải do chính nhân dân Việt Nam quyết định lấy". Harriman vận động Matxcơva giữ vai trò quyết định trong việc dàn xếp các cuộc hội đàm bí mật-?ophải được giấu kín nếu cần thiết, trong Đại sứ quán Liên Xô hoặc một nơi nào đó hoặc ngay tại trụ sở đoàn Bắc Việt Nam... có thể là hai ông Xuân Thuỷ và Lê Đức Thọ" sẽ hội đàm với Harriman và Vance. Zorin trả lời rằng hiện tại không thể ảo tưởng rằng Hà Nội nhất trí gặp bí mật chỉ sau khi ngừng ném bom. Mặc dù vậy, chắc chắn các đại diện đàm phán của Bắc Việt Nam đủ suy nghĩ để đi đến một bước quyết định. Cuộc gặp kín đầu tiên giữa các thành viên cấp thấp của hai đoàn diễn ra ngày 17 tháng 6. Tám ngày sau, Vance đã bí mật gặp Hà Văn Lâu. Cũng ngày đó, Shcherbakov đã thông báo cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam về nội dung cuộc trao đổi ngày 13 thảng 6 trong Đại sứ quán Liên Xô ở Paris. Các nhà lãnh đạo Hà Nội có thể đã hài lòng vì họ theo đúng lời khuyên của các đồng chí Liên Xô.
    Ngay từ đầu, các cuộc gặp gỡ bí mật giữa các thành viên hai đoàn Việt Nam và Mỹ đã không có ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp độ tiến triển của các cuộc đàm phán trong các cuộc gặp gỡ bí mật này, phía Bắc Việt Nam vẫn giữ nguyên lập trường cũ như họ đã nêu ra trong các cuộc trao đổi chính thức. Nhưng phía Mỹ cũng không đưa ra các thoả hiệp khác nhau khi mà họ cảm thấy không thể thực hiện được.
    Trong một lần trao đổi bí mật với ông Hà Văn Lâu vào cuối tháng 6, ông Vance đưa ra một giải pháp có thể giải toả bế tắc về việc Mỹ ngừng ném bom và các bước đi tương ứng của Bắc Việt Nam. Vance vạch ra kế hoạch "giai đoạn một-giai đoạn hai" với nội dung là phía Mỹ sẽ bí mật thông báo cho phía Bắc Việt Nam về ngày Mỹ chấm dứt ném bom trước khi tuyên bố công khai nếu Hà Nội sẵn sàng thực hiện các hành động tương xứng đã được thoả thuận trong các cuộc Đàm phán tại Paris. Như vậy kế hoạch này đã tạo ra vẻ ngoài của một bước đi đơn phương của Mỹ và giúp phía Bắc Việt Nam có thời gian suy nghĩ mà không có ấn tượng rằng các hành động đáp lại của mình gắn liền với việc ngừng ném bom của Mỹ. Đó là thoả hiệp có lợi nhưng phía Bắc
    Việt Nam không từ bỏ lập trường kiêm quyết đòi Mỹ trước hết phải chấm dứt ném bom phá hoại thì Hà Nội mới đàm phán về các biện pháp phải thực hiện.
    Trở ngại tưởng trừng không thể vượt qua được khi Tổng thống Johnson từ chối chấm dứt ném bom mà không biết gì về các biện pháp đáp lại từ phía Hà Nội. Trong tình thế bế tắc này, với một thoả hiệp gần như trong tầm tay, phía Liên Xô đã đảm nhận vai trò như nhiều lần trước đây cho tới khi đàm phán chính thức bốn bên bắt đầu từ tháng 1 năm 1969. Đó là vai trò trung gian không chính thức nối hai bên tham gia đàm phán. Tính chất không chính thức này đã giúp Liên Xô tự rũ bỏ mọi trách nhiệm và thực hiện chức năng môi giới khi Liên Xô nhận thấy có cơ hội đạt được thoả hiệp và thái độ tích cực từ phía Hà Nội.
    Về mặt công khai, Kremlin nhiều lần từ chối bất kỳ một đề nghị nào yêu cầu Liên Xô làm trung gian ở Việt Nam. Ngay sau khi các cuộc Hội đàm Paris bắt đầu, Matxcơva vẫn giữ thái độ cực kỳ thận trọng tránh xuất hiện không chính thức hay hợp thức, vì Matxcơva biết rằng cả hai loại vai trò đó đều phải gánh vác nhưng bổn phận và chịu những hiểm hoạ nhất định. Ban lãnh đạo Liên Xô không muốn cả hai việc đó. Họ không muốn từ bỏ vị trí của mình đối với Việt Nam và các đồng minh khác trong phong trào Cộng sản thế giới. Đồng thời, bằng việc tránh công khai hoá vấn đề đã giúp Liên Xô có thể thực hiện được mục tiêu giải quyết hoà bình cuộc xung đột ở Đông Dương.
    Do đó, khi kế hoạch giai đoạn một ,giai đoạn hai tưởng chừng nhiều hy vọng nhưng không thúc đẩy được các cuộc hội đàm tiến triển, Matxcơva thông qua Zorin đề nghị có một điều chỉnh nhỏ. Đại sứ Zorin đề nghị với phía Mỹ rằng Liên Xô đồng ý chấm dứt vô điều kiện việc ném bom, đồng thời hai bên thoả thuận danh mục rút lực lượng quân sự để bàn bạc sau khi ngừng ném bom. Nói cách khác, như Thứ trưởng quốc phòng Mỹ, Paul Waruke đã viết trong báo cáo lên Clifford rằng: "Nhân tố chủ chốt là việc giảm các hoạt động quân sự sẽ đưa ra bàn bạc phải có tính chất có đi có lại, mỗi bên phải chấp thuận các biện pháp xuống thang chiến tranh nhất định. Do đó, các hành động có đi có lại có thể thực hiện sau khi chứ không phải trước khi ngừng ném bom". Waruke cho rằng Mỹ cần vạch ra một thể thức nào đó có thể đáp ứng được những yêu cầu mà Đại sứ Liên Xô đưa ra.
    Nhóm đàm phán của Mỹ ở Paris thuận theo đề nghị trên của Liên Xô, nhưng Harriman và Vance kiên quyết đòi phải đàm phán về các hành động hai bên cùng tiến hành trước khi Mỹ tuyên bố ngừng ném bom. Theo Harriman thông báo cho Zonn biết, tuy ông Hà Văn Lâu tỏ ra quan tâm đến kế hoạch trên của Mỹ, nhưng phía Bắc Việt Nam vẫn khăng khăng đòi Mỹ chấm dứt ném bom trước khi tiến hành bất kỳ một cuộc đàm phán nào. Một lần nữa vấn đề này lại đi vào ngõ cụt.
    Rusk giải thích cho Đại sứ Liên Xô Dobrynin rằng đối với Washington, việc chấm dứt ném bom và sau đó đàm phán về các hành động cùng xuống thang chiến tranh khác với việc chấm dứt ném bom và tiếp tục thực hiện xuống thang chiến tranh. Ông ta biện luận rằng: "Đó phải thực sự là vấn đề xuống thang chiến tranh để đáp ứng việc thực hiện chấm dứt ném bom". Dobrynin không tin và hỏi lại rằng liệu đối với Mỹ, việc ngừng ném bom có thể quá khó khăn đến thế không.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong lúc ở Paris, các nhà đàm phán đang lâm vào bế tắc thì chiến trường Nam Việt Nam yên lặng lạ thường. Quân đội Sài Gòn ngừng pháo kích, việc chuyển quân và trạng thiết bị chiến tranh vào khu phi quân sự (DMZ) chậm lại. Phải chăng Hà Nội đánh tín hiệu đáp ứng lại lời kêu gọi của Mỹ hay đó chỉ là khoảnh khắc yên tĩnh trước một cuộc tấn công quân sự sắp xảy ra. Harriman hiểu sự yên tĩnh này là dấu hiệu thể hiện phía Bắc Việt Nam muốn hợp tác trong việc giải quyết Cuộc chiến tranh Việt Nam. Sau khi tham kiến William Brundy và Nicholas Katezeubaeh, Thứ trưởng Bộ Ngoái giao Mỹ đang ở Paris đã gửi một báo cáo cho Washington đề xuất rằng Tổng thống Mỹ nên chấm dứt ném bom và cho sự im lặng trên là sự kiềm chế hành động quân sự theo yêu cầu của Mỹ.
    Thật đáng ngạc nhiên, hầu hết các thành viên hay hoài nghi nhất trong chính quyền Mỹ lại ủng hộ rất tích cực sự diễn giải tình hình chiến trường nói trên. Walt Rostow đã chuẩn bị một báo cáo cho Tổng thống. Trong đó, mặc dù dự đoán rằng khoảng yên tĩnh trong tháng 7 có thể là bão tố trong tháng tám, ông vẫn đề nghị cho phía Liên Xô biết Mỹ sẵn sàng ngừng ném bom vào ngày X, trên cơ sở đánh giá chiến trận đang giảm đi ở Nam Việt Nam. Bằng cử chỉ này chính quyền Mỹ hy vọng sau khi ngừng ném bom, các hành động quân sự của Sài Gòn không bị tấn công và cả hai bên tham chiến tái lập ngay khu phi quân sự. Đồng thời, Washington có thể nói cho phía Liên Xô hiểu hơn về sự dàn xếp này.
    Rostow thừa nhận: "Đây là ván bài mạo hiểm và tốt nhất là đợi xem trên thực tế liệu Hà Nội có đáp ứng trực tiếp đề nghị của Zorin không. Nhưng sự thật bức thư ngày 5 tháng 6 của Kosygin đã mở đầu ván bài cho chúng ta nếu phải quyết định vấn đề thì nên mạnh dạn thúc đẩy tình hình tiến triển".
    Thật là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, cùng lúc với đề nghị của Harriman và kế hoạch cụ thể về các bước đi của Mỹ đưa ra ở Washington, tờ Thời báo New York cũng đưa ra một đề nghị tương tự. Phó Tổng thống Hubert Humphrey cũng phụ hoạ bài ca này của ?onhững người yêu hoà bình". Theo Harriman, Johnson "đã phá bĩnh". Johnson gọi báo cáo của Harriman là "viển vông" và cho nó là một phần âm mưu bày đặt để buộc ông ta phải ngừng ném bom. Ngày 30 tháng 7, Tổng thống đã lệnh cho Rusk phải tổ chức họp báo Harriman gọi đây là: "Cuộc họp theo đường lối cứng rắn đã phá bỏ mọi thành quả công việc mà Vance và tôi đã và đang làm ở Paris từ đầu tháng 5. Điều này được phía Bắc Việt Nam coi là một thay đổi về lập trường. Trên thực tế, ông Hà Văn Lâu đã hỏi Vance nếu chúng tôi có thực sự đại diện cho Tổng thống không, vì các tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao khác biệt với những gì mà tôi và Vance đang nói?. Trong hoàn cảnh như vậy đàm phán lại đi vào bế tắc và triển vọng vốn mờ nhạt về mặt thoả hiệp trên cơ sở kế hoạch giai đoạn một, giai đoạn hai đã tan biến thành mây khói. Đàm phán trì trệ kéo dài suốt tháng 8 và hết tháng 9 mà không đạt được một kết quả đáng kể nào.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sau hàng loạt sự kiện này, Matxcơva giờ đây đã giảm bớt sự tham gia vào hội đàm. Ban lãnh đạo Liên Xô quá bận rộn đối phó với khủng hoảng ở Tiệp Khắc nên không quan tâm nhiều đến tình hình ở vùng Đông Nam Á xa xôi này.
    Các sự kiện ở Tiệp Khắc hồi tháng 8 năm 1968, và việc Liên Xô xâm lược nước này gắn chặt với Cuộc chiến Việt Nam không chỉ vì những sự kiện này đã làm phân tán chú ý của Liên Xô đối với các cuộc Hội đàm ở Paris, mà vì Mỹ dính líu vào Cuộc chiến Việt Nam, Liên Xô có thể cảm thấy rảnh tay hơn để xâm lược Tiệp Khắc mà không chịu một hậu quả nghiêm trọng nào ảnh hưởng đến vị trí của Matxcơva trong cộng đồng thế giới, hoặc chịu sự cấm vận nào của phương Tây. Cuộc khủng hoảng ở Tiệp Khắc cũng đánh dấu một bước ngoặt trong việc tăng cường ảnh hướng của Liên Xô ở Đông Nam Á so với ảnh hưởng của Trung Quốc, do đó đã tạo điều kiện cho Matxcơva rảnh tay hành động trong khu vực này.
    Ảnh hưởng này tạo cho Matxcơva triển khai mạnh mẽ hơn chính sách của mình. nhằm chiếm quyền lãnh đạo kiểm soát các sự kiện quốc tế dù chúng diễn ra ở đâu trong một thế giới hai cực. Ngăn cách giữa Matxcợva và Bắc Kinh ngày càng lớn cũng góp phần củng cố tham vọng của Liêu Xô trong cuộc đấu tranh giải phóng thế giới loài người khỏi hiểm hoạ của chủ nghĩa đế quốc. Để đập lại việc Trung Quốc câu kết với phương Tây, lên án Liên Xô xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, Kremlin phải kiên quyết bảo vệ chinh sách của mình không chỉ bằng những lời lẽ cứng rắn mà còn bằng hành động.
    Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Gromyko, trong bài diễn văn đầu năm 1966, đã khuyến cáo rằng "Liên Xô không thể bỏ quá mọi diễn biến tình hình ở bất cứ khu vực nào trên thế giới". Gromyko nói thêm: "Chính sách không can thiệp công việc nội bộ của bất kỳ quốc gia nào của Liên Xô không có nghĩa là Liên Xô bỏ qua và trung lập trước những hành động can thiệp của các nước khác". Rõ ràng là Liên Xô đã cố ý gán ghép ý nghĩa trên cho khái niệm "can thiệp" theo hệ thống giá trị riêng của mình. Đồng thời, Gromyko còn tuyên bố thẳng thừng: "Vấn đề biên giới ở Châu Âu đã được giải quyết triệt để và vững chắc. Biên giới quốc gia của bè bạn và đồng minh của chúng ta đều được đảm bảo an ninh như biên giới của riêng chúng ta". Đây là lời cảnh báo dứt khoát rằng Kremlin sẽ không nương tay để bảo vệ các vị trí của Liên Xô ở châu Âu. Do vậy, khi Đảng Cộng sản Tiệp Khắc mất quyền kiểm soát tình hình đất nước trong những năm 1967-1968, thì Liên Xô thấy rõ mối đe doạ đối với chủ nghĩa xã hội trong một khu vực kề cận biên giới Liên Xô cũng là mối đe doạ đối với vị trí đại chiến lược của mình.
    Các nhà lãnh đạo Liên Xô coi quan hệ với Tiệp Khắc là một trong những yếu tố chủ yếu trong chính sách Châu Âu của mình và cân bằng lực lượng Đông-Tây. Đặc biệt, theo Trợ lý chính sách đối ngoại Andrei Alexanderov Ageiltov thì ông Brezhnev coi Tiệp Khắc với Ba Lan, Đông Đức là xương sống của khối Vác-sa-va. Nhưng Tiệp là đồng minh đáng tin cậy và giá trị nhất trong ba nước trên. Quan điểm này chịu ảnh hưởng các kinh nghiệm chủ quan của các nhà lãnh đạo Liên Xô đặc biệt là của Brezhnev.
    Tuy Matxcơva đã theo dõi chặt chẽ các sự kiện xảy ra ở Tiệp Khắc từ 1967 và đã tiến hành nhiều hoạt động phòng ngừa tình hình bùng nổ nhưng các nhà lãnh đạo Liên Xô không ngờ lại xảy ra một cuộc khủng hoảng có quy mô và tính chất nghiêm trọng như vậy trong mùa xuân và mùa hè 1968. Trong hoàn cảnh đó, Kremlin đã cố gắng kiểm soát tình hình bằng mọi phương tiện kể cả hoạt động quân sự. Kremlin đã họp các nước trong khối Vác-sa-va để cùng các nước này thuyết phục các đồng minh Tiệp Khắc kéo lại tình hình theo hướng có lợi cho Liên Xô. Khi các hoạt động ngoại giao này thất bại vì bị sức ép từ phía những người theo đường lối cứng rắn ở Kremlin và lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa khác, Kremlin đã sử dụng vũ lực giải quyết tình hình vì họ sợ việc Tiệp Khắc li khai sẽ làm suy yếu vị trí của Liên Xô.
    Quyết định can thiệp vào Tiệp Khắc được Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua một cách miễn cưỡng. Theo các tài liệu hiện được tiết lộ lần đầu tiên, gần như đến phút chót Brezhnev vẫn không đồng ý thông qua một quyết định hành động như vậy. Nhưng tầm quan trọng của Tiệp Khắc đối với việc thống nhất phe xã hội chủ nghĩa và ảnh hưởng của Liên Xô trong khu vực, cũng như sức ép của các đồng nghiệp đã xoá đi mọi suy tính khác. Vào đêm 20 và 21 tháng 8, lực lượng vũ trang của năm nước khối Vác-sa-va gồm cả lực lượng của Liên Xô đã xâm lược Tiệp Khắc. Ngày hôm sau, tờ Pravda đăng bài của hãng TASS viết về "yêu cầu của Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Tiệp Khắc kêu gọi các đồng minh giúp đỡ và đưa quân đội vào lãnh thổ của mình.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ban lãnh đạo Liên Xô không thể không tính đến bước đi này, có thể gây ra phản ứng ở phương Tây. Đó chính là sự vi phạm trắng trợn nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ nước khác, nhưng Liên Xô ngoan cố bám lấy biện giải của mình về nguyên tắc này. Trong khi quyết định can thiệp, Kremlin luôn tin rằng sẽ không có phản ứng mạnh mẽ nào xay ra.
    Các nước Tây Âu rõ ràng là không thể chống đỡ được hành động này của Liên Xô, mà chỉ có thể có những biện pháp trả đũa từ phía Mỹ. Nhưng Washington không thể trả đũa bằng vũ lực vì hai lí do: Trước hết từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giới lãnh đạo Mỹ đã thừa nhận Đông và Trung Âu thuộc khu vực ảnh hưởng của Liên Xô. Thứ hai là chính quyền Johnson không hề muốn từ bỏ việc bình thường hoá quan hệ với Liên Xô và việc Liên Xô giúp giải quyết cuộc chiến ở Việt Nam, để đáp ứng lại những nguyên tắc quan trọng khác. Hay nói một cách khác, các chính trì gia Mỹ không thể để những chuẩn mực đạo đức lấn át những hành động chính trị thực tiễn mà họ phải tiến hành.
    Từ lâu Washington đã nhận thức rõ hiểm hoạ của việc Liên Xô xâm lược Tiệp Khắc nhưng trước khi sự việc xảy ra, Chính phủ Mỹ không hề làm gì để ngăn chặn hiểm hoạ đó. Song liệu chính quyền Mỹ muốn ngăn chặn hiểm hoạ đó không? Johnson đã thừa nhận trong hồi kí của mình "Chúng ta không thể làm được gì nhiều ngoài đứng xem và lo ngại". Ông ta nói vì không có kí kết hiệp ước gì với Tiệp Khắc-những tia hy vọng mong manh để NATO ủng hộ bằng các hoạt động quân sự, chính những người Tiệp Khắc cũng không muốn kháng cự. Phản ứng chính thức duy nhất của Mỹ đối với hành động xâm lược này là việc Johnson hoãn chuyến thăm Matxcơva để bắt đầu các cuộc hội đàm về vũ khí chiến lược.
    Phản ứng đối với việc Liên Xô vi phạm Luật pháp quốc tế rất yếu ớt. Không có một cuộc thảo luận nào được tổ chức ở Liên Hợp quốc, cũng không có cấm vận trong kinh tế hoặc văn hoá với Liên Xô. Đối với việc Tổng thống Mỹ huỷ bỏ chuyến thăm Liên Xô, Johnson thực sự muốn đi thăm vì ông ta muốn tô điểm cho ghế Tổng thống của mình bằng một hành động mạnh mẽ cuối cùng nào đó, có thể là một cuộc họp cấp cao với phía Liên Xô nhằm thoả thuận các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí. Như Clark Clifford đã tường trình, Tổng thống Mỹ "không muốn từ bỏ mục tiêu to lớn cuối cùng của mình và tìm mọi cách tránh huỷ bỏ đó". Tuy nhiên, sau khi tuyên bố huỷ bỏ chuyến viếng thăm nói trên, Johnson đã nhiều lần đề cập lại ý tưởng về một chuyến thăm Matxcơva.
    Ngay khi cuộc xâm lược của Liên Xô đã trở thành một việc đã rồi, Mỹ đã biến Tiệp Khắc thành lợi thế mặc cả trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong quan hệ Xô-Mỹ. Ngày 17 tháng 9, chính quyền Mỹ thông báo kín cho phía Liên Xô biết rằng "Họ có thể giảm sức ép ở Tiệp Khắc bằng các cuộc Hội đàm về Trung Đông". Rõ ràng là Washington có thể sử dụng các chiến thuật tương tự trong đàm phán với Việt Nam.
    Trong khi phương Tây không chống lại hành động xâm lược Tiệp Khắc của Liên Xô, thì ở phương Đông, Kremlin được sự ủng hộ mạnh mẽ của Hà Nội vì Liên Xô đã nỗ lực bảo vệ sự thống nhất của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Việc Bắc Việt Nam đồng ý ủng hộ cuộc xâm lược này thể hiện một bước ngoặt quyết định đối với Liên Xô nhưng là một đòn mạnh mẽ đánh vào Bắc Kinh. Các tờ báo hàng đầu của Bắc Việt Nam không những chỉ đăng toàn văn tuyên bố của TASS về việc quân đội khối Vác-sa-va tiến vác lãnh thổ Tiệp Khắc, mà còn phụ hoạ các lập luận của Liên Xô biện minh cho hành động nói trên với tuyên bố rằng: "Đó là hành động được tiến hành vì mục đích cao cả?.
    Khi Bắc Kinh phát động chiến dịch rộng lớn phản đối hành động xâm lược của Liên Xô, thì sự ủng hộ của Bắc Việt Nạm đã nhanh chóng được chú ý và đánh giá cao ở Matxcơva. Nhân dịp kỷ niệm hai mươi ba năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, một bài bình luận của tờ Pravda-luôn phản ánh quan điểm chính thức của Chính phủ-với nhan đề "Nhân dân Việt Nam anh hùng" và thừa nhận quan điểm của Hà Nội đối với cuộc khủng hoảng Tiệp Khắc rằng: ?oNhân dân Việt Nam, qua kinh nghệm của riêng mình, tin tưởng vào sức mạnh vĩ đại của tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản. Nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ủng hộ hành động của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Nhân dân lao động Việt Nam đang tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt chống đế quốc và luôn thấy rõ những hoạt động đen tối, nhơ bẩn chống các nước xã hội chủ nghĩa của chúng".
    Việc Hà Nội công khai ủng hộ Matxcơva là một dấu hiệu tích cực đối với các nhà lãnh đạo Liến Xô để định hướng, đánh giá chính sách của Bắc Việt Nam ngày càng liên minh chặt chẽ hơn với Liên Xô và độc lập hơn với Trung Quốc. Nhưng dẫu sao thì Hà Nội cũng sẵn sàng bỏ qua ý kiến của "nước láng giềng phía Bắc vĩ đại của mình", nên Kremlin rất hài lòng vì những ảnh hưởng ngày càng tăng đối với chính sách của Việt Nam, đặc biệt là trong vấn đề hội đàm. Do đó, Matxcơva đã vội vã đáp lại biểu hiện mới về lòng trung thành của Việt Nam bằng cách thúc đẩy thắng lợi của các cuộc Hội đàm ở Paris ngay khi sự kiện Tiệp Khắc đã dẹp yên vào cuối tháng 9.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong tháng 9, các cuộc Hội đàm Bắc Việt Nam Mỹ đã có bước tiến nhất định. Sau nhiều tháng hè dài đàm phán không có kết quả, dù đã có các cuộc trao đổi chính thức, công khai hay có các cuộc họp kín giữa Cyrus Vance và Hà Văn Lâu, hoặc đã có các cuộc hội đàm bí mật cấp cao giữa Harriman và Lê Đức Thọ tại một trong nhũng "nhà an toàn" thiết kế riêng cho những cuộc gặp gỡ như vậy, nhưng cũng chỉ có những thay đổi nhỏ trong lập trường không khoan nhượng của các nhà đàm phán Hà Nội. Harriman và Vance đã nhanh chóng nhận thấy điều này. Ngày 17 tháng 9 tại Washington, Harriman đã nói với Tổng thống Mỹ rằng theo ông ta thì đoàn đại biểu của Hà Nội tại Paris "rất nghiêm túc tạo ra những bước tiến triển", Vance khẳng định ý kiến này
    của Harriman khi ông trở lại Mỹ và gặp Johnson ngày 3 tháng 10. Vance dự đoán rằng "phía Bắc Việt Nam có thể cho là tình hình quân sự của họ có thể suy giảm trong những tháng tới". Vào lúc phía Nam Việt Nam đang nhận được những khối lượng lớn vũ khí và phương tiện chiến tranh và tỏ ra ngày càng tự tin, "Hà Nội có thể muốn giải quyết tình hình càng sớm càng tốt". Mặc dù có ý kiến lạc quan như vậy, Johnson vẫn hoài nghi về triển vọng gần để đạt được tiến bộ trong hội đàm.
    Tuy nhiên, các cuộc họp bí mật diễn ra liên tiếp giữa các nhà đàm phán chủ chốt của hai phía cũng không phải là hoàn toàn không có kết quả. Harriman và Vance xác định quan điểm của Mỹ dựa trên ba vấn đề cơ bản và những điểm này đã được làm sáng tỏ vào mùa hè năm đó. Mỹ sẵn sàng chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam, nếu tổ chức ngay các cuộc hội đàm nghiêm túc có sự tham gia của các đại diện chế độ Sài Gòn, và nếu Hà Nội đồng ý không xâm phạm khu phi quân sự giữa Bắc và Nam Việt Nam. Nhưng Washington không thể duy trì ngừng ném bom nếu phía Bắc Việt Nam và ********* tiến hành tấn cống quy mô lớn chống phía Nam Việt Nam ở các thành phố như Sài Gòn, Huế hoặc Đà Nẵng.
    Các đại biểu phía Bắc Việt Nam dường như đã sẵn sàng chấp nhận quan điểm của Mỹ về khu phi quân sự và các cuộc tấn công các thành phố chính của Nam Việt Nam. Chí ít họ cũng thể hiện sự thông hiểu các quan tâm của Mỹ về những vấn đề này. Nhưng việc đưa cả chế độ Sài Gòn vào bàn đàm phán đã thực sự trở thành trở ngại lớn. Vance đưa vấn đề này ra khi trao đổi với Valentin Oberemko, thái độ của phía Bắc Việt Nam đối với vấn đề này "hoàn toàn không thực tế?.
    Trong buổi gặp gỡ Oberemko ngày 21 tháng 9, Vance thúc giục Chính phủ Liên Xô gây sức ép đối với Hà Nội nhằm làm cho Bắc Việt Nam nhận thấy rõ ràng họ đang bám giữ một lập trường không thực tế và hoàn toàn vô lí "đối với việc ngăn cản chế độ Sài Gòn tham gia quá trình đàm phán". Vance lưu ý Oberemko rằng Mỹ phản đối Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tham gia các cuộc hội đàm, mặc dù dư luận chung đều phản đối. Vance nhấn mạnh: "Các nhà đàm phán đang ?oở một thời điểm quan trọng" và cơ bản là Liên Xô phải sử dụng ảnh hưởng của mình ở thời điểm này để giúp chúng ta vượt qua những cản trở và tiến lên".
    Oberemko hứa sẽ chuyển tải các quan điểm này về Matxcơva nhưng lại chất vấn liệu đưa các đại diện Sài Gòn vào hội đàm có là trở ngại chính cho các cuộc đàm phán nghiêm túc không. Vance trả lời là có, vì tất cả các vấn đề khác làm Việt Nam không phản đối. Sau khi tham kiến Harriman, để nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề này, Vance đã gửi một bức thư cho Oberemko chỉ rõ rằng đối với Mỹ, không thể tính đến việc chấm dứt ném bom mà không có các đại diện chính quyền Sài Gòn tham gia vào các cuộc Hội đàm ở Paris. Đồng thời, các nhà đám phán Mỹ yêu cầu Rusk xem xét lại công thức của Mỹ đối với việc tham gia của chế độ Sài Gòn. Đoàn Mỹ đã tuyên bố với phía Bắc Việt Nam rằng việc hiểu rõ vấn đề thiết yếu này "có thể là một yếu tố chính trong việc tạo thuận lợi đi đến quyết định chấm dứt ném bom". Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ không hài lòng với lối nói đó. Họ e ngại điều này còn có thể bao hàm các nhân tố khác nữa. Oberemko cũng nghĩ như vậy.
    Harriman và Vance kết luận rằng các chỉ thị của Washington đã hướng dẫn cho các sứ giả của mình ở Paris là "quá hẹp hòi" và cần phải mở rộng hơn nữa, thay cách diễn đạt về công thức cũ . nói trên nhằm làm rõ nghĩa câu "hiểu rõ về vấn đề này có thể là một nhân tố chính tạo điều kiện thuận lợi đi đến quyết định chấm dứt ném bom. Các đại diện Mỹ yêu cầu rằng cách diễn giải mới này phải được thực hiện càng sớm càng tốt, vì họ hy vọng sẽ đạt được một phản ứng tích cực từ phía Hà Nội về vấn đề này. Tuy nhiên, phía Bắc Việt Nam trong nhiều tuần lễ không trả lời về vấn đề chế độ Sài Gòn tham gia đàm phán.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong khi đó, Matxcơva cố vận động hậu trường để giải quyết vấn đề này: Mạt,xcơva rõ ràng đại diện cho phía Bắc Việt Nam, cho nên khi thăm Mỹ đầu tháng 10, Gromyko đã chất vấn Rusk liệu thoả thuận về việc đưa cả đoàn của nguỵ Sài Gòn vào bàn đàm phán có lẽ là điều kiện tiên quyết cần thiết để đi đến việc chấm đứt ném bom hay không và liệu có thể thay thế Thiệu và Kỳ bằng những người khác có thể chấp nhận đối với Hà Nội như là một thoả hiệp được không. Tuy nhiên, Gromyko nhấn mạnh rằng câu hỏi của ông ta không hàm ý chính trị mà chỉ là một câu hỏi đơn thuần, nhưng rõ ràng là theo gợi ý của Hà Nội lòng căm thù đối với ?olũ bù nhìn của Mỹ" là lý do tại sao Hà Nội từ chối không đồng ý cho chế độ Sài Gòn tham gia hội đàm.
    Cuối cùng thì với những tác động của Liên Xô, Bắc Việt Nam đã thay đổi thái độ. Ngày 9 tháng 10, trong lúc nghỉ giải lao uống trà, sau khi Harriman và Vance khẳng định việc đưa các đại điện của Chính phủ Nam Việt Nam vào đàm phán là "hoàn toàn không thể thay đổi được" , Xuân Thuỷ và Lê Đức Thọ đã thông báo với phía Mỹ rằng Bắc Việt Nam sẵn sàng đàm phán chủ đề này trong một cuộc họp kín. Hai ông nói thêm rằng điều cần thiết liên quan đến vấn đề này cần có "thiện chí và suy nghĩ nghiêm túc" thì hai ông sẵn sàng. Khi cuộc họp kín được tổ chức tại một "nhà an toàn" do CIA bố trì ở ngoại ô Paris, các đại diện Bắc Việt Nam đã chất vấn phía Mỹ ràng liệu Mỹ có chấm dứt ném bom hay không nếu Hà Nội đồng ý để Chính phủ Sài Gòn tham gia hội đàm. Harriman lảng tránh trả lời trực tiếp câu hỏi trên hứa sẽ báo cáo về Washington.
    Báo cáo của Harriman đã gợi lên hy vọng ở Washington như Lyndon Johnson đã viết: "Băng giá bắt đầu tan?. Nhưng chính quyền Mỹ thận trọng không vội đẩy đến một bước đi quyết định. Washington tham khảo ý kiến các Đại diện Mỹ ở Sài Gòn là Đại sứ Ellsworth Bunker và Tướng Crerghton Abrams-Tư lệnh quân đội Mỹ ở Việt Nam. Cả hai ông này đều đồng ý với ý kiến phải nói cho Bắc Việt Nam biết rằng Chính phủ Mỹ sẵn sàng sớm định một ngày để chấm dứt hoàn toàn các cuộc tấn công chống Bắc Việt Nam.
    Ngày hôm sau, đồng nghiệp của Vance trong Đại sứ quán Liên Xô là Oberemko đã đưa cho Vance một bức điện khẩn của Matxcơva, nội dung nói rằng nếu Mỹ chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam, Hà Nội sẽ đồng ý cho Chính phủ Sài Gòn tham gia đàm phán ngay tức khắc. Một lần nữa Washington tỏ ra thận trọng. Johnson và Rusk muốn có sự khẳng định trực tiếp từ phía Matxcơva. Ngày 13 tháng 10, Rusk gặp Dobrynin và đưa cho ông ta nội dung bức điện mà Oberemko chuyển hôm trước. Ông nói với Đại sứ Liên Xô rằng chính quyền Mỹ muốn biết đích xác nguồn gốc bức điện. Rusk cho rằng một mặt có thể ông Oberemko chỉ muốn nhắc lại bức điệu nào đó nhận được từ phái đoàn Bắc Việt Nam ở Paris. Mặt khác có thể ông ta đã hành động theo chỉ thị của Chính phủ Liên Xô chăng. Rõ ràng là Washington muốn có thêm sự bảo đảm từ phía Matxcơva. Ngày hôm sau, Dobrynin chuyển lời đáp của Chính phủ Liên Xô cho phía Mỹ: "Ngài tham tán của chúng tôi (ông Oberemko) đã thực hiện theo chỉ thị của Chính phủ Liên Xô. Sự thể hiện thiện chí mới của phía Bắc việt Nam, mà chúng tôi nói ở đây, đang tạo ra khả năng thực tế đạt được những tiến bộ nhanh chóng theo hướng này".
    Khi nhận được khẳng định từ Matxcơva, Johnson họp các thành viên nội các và các cố vấn để tham khảo ý kiến về các bước đi tiếp theo. Washington chỉ thị cho Harriman và Vance thông báo cho Hà Nội biết rằng phải bắt đầu trong vòng hai mươi bốn giờ sau khi ngừng ném bom.
    Nhưng sau sự khởi đầu đáng hứa hẹn này, tiến trình hoà bình lại bế tắc; lần này không những do phía Bắc Việt Nam cản trở mà chủ yếu vì phía Nam Việt Nam phản đối. Xuân Thuỷ nói với Vance rằng "yêu cầu ngay tiếp theo" của Washington là phi thực tế vì mặc dù các sứ giả của Hà Nội sẵn sàng gặp gỡ đoàn Mỹ, nhưng họ không thể đảm bảo sự hiệu diện của đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng chỉ trong một thời gian gắn như vậy. Đối với Sài Gòn, triển vọng đàm phán với một kẻ thù như Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, là cái cớ để trì hoãn đàm phán.
    Mặc dù bi quan trước thất bại ở Sài Gòn và Paris, Johnson không hề mất hy vọng. Rusk gửi một bức điện cho Trưởng đoàn đàm phán Mỹ ở Paris chỉ thị không cố ép về điều kiện "ngày tiếp theo" mà nên đổi thành "trong hai hoặc ba ngày sau khi ngừng ném bom". Đồng thời. Rusk sẽ gặp Dobrynin để thuyết phục chính quyền Liên Xô về tầm quan trọng phải đạt được thời gian dừng ngắn nhất giữa việc ngừng ném bom và bắt đầu đàm phán. Dobrynin hứa sẽ báo cáo ngay việc này về Matxcơva.
    Đối với chính quyền Johnson, việc thuyết phục được Sài Gòn đồng ý ngồi vào bàn đàm phán còn khó khăn hơn nhiều. Trong khi Hà Nội tích cực tiến tới một giải pháp vì đã thấy thắng lợi có thể đạt được trong bầu cử Tổng thống của Nixon năm 1968 và, tình hình bất ổn trong quá trình chuyển giao chính quyền ở Washington, thì ngược lại Sài Gòn lại cho rằng nếu Johnson thất cử và Nixon thắng cử, chính quyền của Đảng Cộng hoà có thể sẽ quan tâm hơn tới nhu cầu của các đồng minh Nam Việt Nam và nỗ lực hơn để đi đến một giải pháp có thể chấp nhận được đối với Sài Gòn. Với những hy vọng được sự ủng hộ từ một số thành viên trong nội các của Nixon, Thiệu từ chối hợp tác với Johnson và cố ý cản trở quá trình đàm phán.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hạ tuần tháng 10 là một giai đoạn đàm phán căng thẳng ở Paris để giải toả một số bế tắc giữa các bên tham chiến. Một trong những bên tích cực nhất trong vở bi kịch này là Liên Xô. Ngoài việc luôn thấy rõ mối hiểm hoạ đổ vỡ trong quá trình hội đàm, các nhà lãnh đạo Liên Xô còn thấy rõ triển vọng thắng cử của Nixon. Theo quan điểm của Matxcơva, Nixon là người quá khó đánh giá trước được. Liên Xô muốn đạt được một hiệp định giữa Washington và Hà Nội trước khi diễn ra cuộc bầu cử-Tổng thống Mỹ, vì vậy, Matxcơva đã can thiệp vào tất cả những vấn đề có thể làm chậm hoặc thậm chí làm gián đoạn tiến trình ký kết hiệp định.
    Kremlin chỉ thị cho các quan chức ngoại giao Paris, Washington và Hà Nội nghiên cứu tìm kiếm khả năng thoả hiệp giữa các bên đàm phán. Các nhà lãnh đạo Xô Viết đã dính líu sâu vào cuộc đàm phán, thúc đẩy Mỹ và Bắc Việt Nam đưa ra những nội dung cơ bản cho hiệp định cuối cùng. Các quan chức Mỹ còn được thông báo rằng Chính phủ Liên Xô đã chỉ thị cho giới báo chí Xô Viết đặt các tin viết về Việt Nam ở vị trì thật thấp nhằm đạt được thế chủ động đối với Hà Nội ở Hội nghị Paris.
    Một cản trở mới giữa Washington và Hà Nội sau cản trở về việc tham gia của Nam Việt Nam đó là khoảng thời gian cần thiết từ lúc tuyên bố ngừng ném bom đến khi bắt đầu đàm phán. Mỹ khăng khăng đòi khoảng thời gian đó không quá ba hoặc bốn ngày Bắc Việt Nam đề nghị phải "một vài tuần? mới đủ để Mặt trận Dân tộc Giải phóng phái đại diện của mình đến thủ đô Paris. Khi các bên vẫn khăng khăng giữ quan điểm đã tuyên bố thì người Mỹ lại "gõ cửa" Liên bang Xô Viết.
    Ngày 18 tháng 10, Harriman và Vance gặp Oberemko để thuyết phục Matxcơva tham gia vào việc định ngày cho cuộc đàm phán. Sau khi nghe tóm tắt về tình trạng cuộc đàm phán, Oberemko cho rằng cả hai bên Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều nhấn mạnh quá mức về tầm quan trọng của thời gian ngừng đàm phán. Ông ta nói: "Nên có cách đi đến thoả hiệp". Sau khi đã có sụ đồng ý kéo dài thời gian ngừng đàm phán từ hai tiếng lên hai hoặc ba ngày thì người Mỹ không thoả hiệp nữa. Harriman và Vance khuyên rằng: "Cách tốt nhất là cả Oberemko và Liên Xô hãy dùng ảnh hưởng của mình để buộc Bắc Việt Nam" đưa ra ngày cụ thể cho các cuộc hội 1 đàm "quan trọng".
    Trong khi Oberemko báo cáo về xin chỉ thị Matxcơva và Matxcơva đang cố gắng tìm cách thuyết phục Hà Nội thì một số vấn đề mới lại nẩy sinh. Cơ cấu đàm phán sắp tới và sự cần thiết ra thông cáo chung về Hiệp định giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Người Mỹ đề nghị đàm phán "hai bên, bốn phái", nghĩa là Mỹ và Sài Gòn đại diện cho "bên chúng tôi", Việt Nam Dấn chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc Giải phóng đại diện cho "bên các ngài". Bắc Việt Nam phản đối đề nghị này và kiên quyết giữ quan điểm Hội nghị "bốn bên". Washington không đồng ý với công thức "bốn bên" vì "bốn bên" có nghĩa là mặc nhiên công nhận ********* là một lực lượng độc lập và có chủ quyền, ngang hàng với Sài Gòn.
    Hơn nữa, phái đoàn Hà Nội đề nghị ra một thông cáo đặc biệt, công khai hoặc bí mật, trong đó, Mỹ phải chấp nhận ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam vô điều kiện. Chính quyền Jonhson lại càng tránh đề nghị trên của Hà Nội, vì chấp nhận ngừng ném bom vô điều kiện là một đòn sấm sét giáng vào uy tai nước Mỹ và như vậy, rõ ràng là Bắc Việt Nam sẽ giành được lợi thế, vì ngay từ đầu cuộc chiến, Việt Nam đã tuyên bố sẵn sàng đàm phán với ?obọn xâm lược Mỹ" chỉ sau khi Mỹ ngừng ném bom vô điều kiện.
    Oberemko gặp Vance vào ngày 22 tháng 10. Rõ ràng là Oberemko rất quan tâm đến tiến triển của cuộc đàm phán, đặc biệt là sau khi ông nhận thấy rằng Bắc Việt Nam ?ocảm động" và "nghi ngờ" vì cuộc gặp riêng của người Nga với người Mỹ. Song Oberemko vẫn cố gắng làm giảm căng thẳng và đảm bảo với Vance rằng sở dĩ Bắc Việt Nam có thái độ như vậy đơn giản là do hiểu nhầm qua phiên dịch. Oberemko nói rằng ông ta đã từng bị hiểu nhầm trong tiếp xúc với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
    Quay sang vấn đề có tính chất nghiêm trọng hơn, Oberemko nói với Vance rằng cần phải có một "bên thứ ba" để cố gắng giải quyết tình hình bằng cách đưa ra "một giải pháp chung phù hợp". Với lời lẽ như vậy, ông ta ngầm tự cho phép Liên bang Xô Viết đảm trách vai trò trung gian giữa hai bên, trong đó Oberemko "với vai trò đại diện cho Chính phủ Xô Viết đưa ra những lời khuyên chung", đề nghị Mỹ ngừng ném bom vào ngày 24 hay 25 và đại diện của bốn bên tham chiến sẽ gặp nhau vào ngày mồng 1 hoặc mồng 2. Rõ ràng là Liên Xô đã đưa ra một giải pháp thoả hiệp vừa phù hợp với yêu cầu của Mỹ "hai hoặc ba ngày" vừa thoả mãn đòi hỏi của Việt Nam "một vài tuần" cho thời gian ngừng đàm phán.
    Đề cặp đến thông cáo chung. Oberemko nói: "Đó không phải là trách nhiệm của Chính phủ Xô Viết tuy nhiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ nên đạt được sự hiểu biết lẫn nhau bằng văn bản hoặc thoả thuận miệng". Về cơ cấu đàm phán, Oberemko đề nghị gọi đích danh tên bốn đoàn đàm phán chứ không dùng từ "bên" như vậy sẽ phù hợp với cả công thức của Mỹ và của Bắc Việt Nam.
    Cuộc đàm thoại giữa Oberemko với Vance đã chứng minh vai trò của Liên Xô là hỗ trợ cho cả hai bên đạt được hiệp định chứ không trực tiếp tham gia đàm phán với trách nhiệm và nghĩa vụ. Một vấn đề đáng lưu ý là trong khi khẳng định vai trò "bên thứ ba?, Oberemko nhấn mạnh ông ta làm việc đó là theo "chỉ thị? của Chính phủ Liên Xô, có nghĩa là chính Liên Xô sẽ quyết định những vấn đề cần đến vai trò tham gia của Matxcơva. Oberemko tuyên bố: "Liên Xô đang cố gắng để đạt được một hiệp định trên nguyên tắc?.
    Đồng thời, Oberemko còn nói rõ rằng Kremlin mong muốn có một giải pháp toàn bộ. Ông ta yêu cầu chuyển đề nghị này về Washington càng sớm càng tốt và gợi ý Vance cần quan tâm một vấn đề cần thiết đó là việc phái đoàn Mỹ phải tiến hành hội đàm với Bắc Việt Nam ngay sau khi có lệnh từ Washington. Oberemko giải thích: ?oTừ sau cuộc gặp gần đây nhất với Bắc Việt Nam, chúng tôi không thể đưa ra sáng kiến cho cuộc gặp riêng rẽ sắp tới với Bắc Việt Nam?. Trong bức tiệp báo cáo về Washington, Harriman và Vance đề nghị chấp nhận về nguyên tắc giải pháp do Liên Xô đưa ra.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong cuộc gặp tiếp theo, Oberemko nói với Vance rằng ông đã trao đổi với Bắc Việt Nam những vấn đề mà ông đã đề cập với Vance trong lần gặp trước. Theo ý Oberemko, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đồng ý với công thức do Liên Xô đưa ra, chỉ đơn-giản gọi tên bốn phái đoàn tham gia đàm phán. Họ cũng chấp nhận thời gian ngừng đàm phán do Liên Xô đưa ra. Nhưng phái đoàn đàm phán Hà Nội kiên quyết đòi ngừng ném bom hoàn toàn vô điều kiện, Oberemko còn thổ lộ với Vance rằng ông ta đã thuyết phục Hà Nội không đòi hỏi một thông cáo chung về hiệp định giũa Mỹ và Bắc Việt Nam, đây là một bước tiến tới thoả hiệp. Nhưng Hà Nội vẫn khăng khăng đòi một văn bản bí mật. Kết thúc buổi đàm đạo với Vance, Oberemko nói rằng Đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà "rất coi trọng diễn biến trong hai mươi tư giờ qua? có ý khẳng định thoả hiệp cuối cùng của các bên đàm phán đã hy vọng trong tầm tay.
    Các cuộc đàm phán về những vấn đề cơ bản tiếp tục diễn ra cho đến ngày 27 tháng 10. Liên Xô thường can thiệp trong suốt thời gian này cố gắng hoà giải quan điểm của hai bên. Họ thậm chí gợi ý các bên đưa rá giải pháp thoả hiệp, và còn tác động đến cả cấp cao nhất.
    Trong một cuộc đàm đạo với Vance, Oberemko tiết lộ rằng Chính phủ Xô Viết "quan tâm sâu sắc đến việc tìm kiếm một giải pháp" và rằng chính ông ta "đang thi hành chỉ thị của Chính phủ Xô Viết". Để hỗ trợ cho "những lời tâm tình" của Oberemko với Vance, ngày 25 tháng 10 Kosygin đã gửi thư cho Tổng thống Mỹ Johnson bày tỏ mối quan tâm và băn khoăn vì chưa đạt được hiệp định. Thủ tướng Liên Xô thúc giục Mỹ phải có một quyết định sớm đối với "các chi tiết không quan trọng-những chi tiết không có ý nghĩa gì trên thực tế?. Không nghi ngờ gì nữa, lá thư này không chỉ nói lên ý đồ của Liên Xô muốn thuyết phục Mỹ từ bỏ các đòi hỏi của mình mà còn là một sự thị uy của Matxcơva đến Tiến trình đàm phán Paris.
    Ngày 27 tháng 10, hai ngày sau khi Kosygin gửi thư cho Harnman và Vance báo cáo về Washington rằng Bắc Việt Nam đã chịu từ bỏ tất cả những đòi hỏi không mang tính quyết định và đề nghị Mỹ chấm dứt ném bom vào ngày 30 tháng 10 và bắt đầu đàm phán giữa Mỹ, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Sài Gòn và Mặt trâu Dân tộc Giải phóng vào 3 tháng 11. Khi nhận được báo cáo này, Johnson đã triệu tập các cố vấn đến để phân tích đánh giá tình hình. Rusk nhận xét Bắc Việt Nam "đã có bước đi quan trọng". Rusk nói với Tổng thống rằng: "Nếu có mười bước đi quan trọng đối với chúng ta thì họ tiến hành được tám, ta chỉ có hai". Rusk và các cố vẩn khác đã hướng tổng thống chú ý đến vai trò to lớn của Matxcơva trong quá trình đám phán. Song, Tổng thống Johnson vẫn hoài nghi và ông quyết định phải thông báo đầy đủ cho Liên Xô ba vấn đề cơ bản liên quan đến điều kiện ngừng ném bom của Mỹ. Mặc dù Rusk đảm bảo với Tổng thống rằng các quan chức Mỹ đã nhiều lần nêu vấn đề này ra với phía Liên Xô trong các lần gặp gỡ, nhưng Johnson vẫn không hài lòng. Tổng thống muốn Matxcơva đảm bảo rằng Hà Nội sẽ tôn trọng tất cả các điều khoản liên quan đến khu phi quân sự và các thành phố Nam Việt Nam. Tổng thống nghi ngại, "Liệu Liên Xô có thực sự cho rằng Hà Nội sẽ tôn trọng? Họ có hiểu rằng nếu khu phi quân sự và các thành phố Nam Việt Nam không được tôn trọng thì chúng ta sẽ ném bom trở lại? Hãy buộc Liên Xô phải đảm bảo với chúng ta rằng Chính phủ Việt Nam Cộng hoà sẽ được chấp nhận".
    Johnson quyết định sẽ khẳng định lại quan điểm của Mỹ cho Liên Xô biết. Với mục đích đó, Tổng thống đã triệu Dobrynin đến và trao cho ông ta một ván bản trong đó phân tích khá chi tiết những điều kiện này của Washington. Tổng thống đề nghị Liên Xô chuyển các điều kiện này của Washington đến Bắc Việt Nam "nhằm tránh bất kỳ sự trả giá nào vì bị lừa gạt và sự mạo hiểm nào do hiểu lầm". Ngày hôm sau, Johnson nhận được câu trả lời của Matxcơva trong đó nói rõ rằng Bắc Việt Nam đang làm mọi việc để đạt được hiệp định và vì vậy bất kỳ sự nghi ngờ nào về quan điểm của Hà Nội cũng đều "không có căn cứ". Johnson còn yêu cầu phái đoàn Mỹ ở Paris phải có báo cáo tường trình để xem họ có hiểu rõ quan điểm của Hà Nội hay không. Harriman và Vance báo cáo với Tổng thống rằng họ đã nếu vấn đề khu phi quân sự và không tấn công vào các thành phố lớn cùng quan điểm của Mỹ mong muốn. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đáp ứng hai vấn đề này trong mười hai cuộc họp kín. Họ đảm bảo chắc chắn với Johnson rằng công thức nêu trong tuyên bố của phía Mỹ "hoàn toàn phù hợp" với chỉ thị của Washington. Ngoài ra, Harriman và Vance đã đề cập vấn đề khu phi quân sự và tấn công vào các thành phố lởn trong bốn cuộc họp với đại diện Xô Viết ở Paris. Phía Mỹ nói với người Nga rằng Mỹ sẽ ném bom trở lại nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không tôn trọng những vấn đề đã cam kết. Từ đó, đại diện người Nga thường xuyên và định kỳ gặp gỡ phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chắc chắn là Bắc Việt Nam đã hiểu được những ý chính của phía Mỹ do Liên Xô truyền đạt lại.
    Trong bản báo cáo, các Sứ giả Mỹ ở Paris đã khẳng định một cách chắc chắn rằng: "Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ thi hành những gì chúng ta đã yêu cầu họ là tôn trọng khu phi quân sự và không tấn công vào những thành phố lớn. Mặc dù hiện tại chúng ta không nhận được sự đảm bảo trực tiếp rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tôn trọng các đề nghị của chúng ta-song, chúng ra tin tưởng rằng họ hiểu rõ những gì chúng ta muốn". Tuy nhiên, Harriman và Vance cũng dự kiến một tình huống xấu: "Nhiều khả năng sẽ có một số vi phạm nhỏ như chuyển một số lượng quân và trang thiết bị không đáng kế qua khu phi quân sự". Nhưng họ tin tưởng rằng những vi phạm xảy ra như vậy sẽ được giải quyết thoả đáng trong bối cảnh chung.

Chia sẻ trang này