1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Như?fng bí mật Nga cu??a chiến tranh Việt nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi spirou, 29/05/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong cuộc họp báo ngày 4 tháng 3, Nixon đã đề cập đến các mối quan hệ của Liên Xô liên quan đến vấn đề Việt Nam. Ông ta đã bày tỏ hy vọng rằng Matxcơva có thể "đóng vai trò của một người gìn giữ hoà bình ở Trung Đông và thậm chí cả ở Việt Nam". Ông ta thể hiện một niềm tin tưởng rằng: "Không có sự hợp tác của Liên Xô thì Mỹ gặp nhiều khó khăn thúc đẩy nhanh tiến trình giải quyết Cuộc chiến tranh ở Việt Nam". Nixon đã nhấn mạnh rằng Liên Xô phải chấp nhận sự hợp tác đó, do các quyền lợi của họ cũng như của chúng ta không chỉ đơn giản phục vụ các cuộc thương lượng về vũ khí hạt nhân mà đồng thời thúc đẩy sự tiến bộ giải quyết các bất đồng chính trị mà có thể nổ ra. Vì vậy ông ta đã lập lại sự mong muốn của mình đối với sự gắn liền các cuộc thương lượng về vũ khí hạt nhân, mà ông ta tin tưởng rằng người Liên Xô rất chú ý đến chúng, cùng với sự tiến bộ ở Việt Nam.
    Không phải tất cả các cố vấn của Nixon đều ủng hộ yêu cầu công khai của Tổng thống đối với sự giúp đỡ của người Liên Xô để giải quyết vấn đề Việt Nam. Mặc dù họ không phản đối việc gắn các cuộc thương lượng về SALT (Hội nghị hạn chế vũ khí chiến lược) với một giải pháp về Cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong một Bị vong lục gửi Tổng thống, người viết diễn văn cho Tổng thống là ông Pattrick Buchanan đã nêu lên lập trường không nhất quán của Liên Xô mà bị Trung Quốc hàng ngày lên án là cấu kết với phương Tây chống lại các lực lượng hoà bình trên thế giới. Trước một tình thế như vậy, Buchanan đặt câu hỏi: "Liệu điều đó có làm cho người Liên Xô lúng túng khi chúng ta (Mỹ) cần có sự hợp tác của họ hay sự ủng hộ bí mật của họ trong các cuộc Hoà đàm ở Paris hay không?".
    Song, Nixon rõ ràng đã sừ dụng tất cả các kênh tư nhân hay nhà nước để thuyết phục Matxcơva có một lập trường xây dựng hơn đối với vấn đề Việt Nam. Ngày 26 tháng 3, ông ta đã viết thư cho Thủ tướng Liên Xô Kosygin theo cách đặt vấn đề với Dobrynin ngày 17 tháng 2. Cuối cùng, hai tuần lễ sau đó đã có sự trả lời của Kosygin và ông ta đã nhắc lại lập trường cơ bản của Liên Xô. Ban lãnh đạo Liên Xô đã thách thức quan niệm gắn liền của chính quyền Mỹ và đòi thảo luận các vấn đề một cách riêng lẻ. Trong khi chờ đợi sự trả lời của Matxcơva, Tổng thống và Cố vấn an ninh của ông ta đã vạch ra các kế hoạch liên quan đến Liên Xô trong việc kết thúc "một cách danh dự" Cuộc chiến tranh Việt Nam. Có một kế hoạch vạch ra sứ mệnh cho Cyrus Vance, là: một cựu đàm phán với Harriman ở Hoà đàm Paris, đi đến Matxcơva. Như Kìssinger đã giải thích về mục đích sứ mệnh của Vance liên quan đến việc "gắn kết các cuộc Hội đàm về SALT với việc giải quyết toàn diện Cuộc chiến tranh Việt Nam?. Vance được cừ tới Matxcơva để bắt đầu các cuộc thảo luận về SALT và bí mật gặp một quan chức cao cấp đại diện của Bắc Việt Nam. Vì vậy việc cử Vance đến Liên Xô là chính quyền Mỹ nhằm đạt được hai mục đích cùng một lúc: "Thúc đẩy nhanh sự tiến bộ ở hai khu vực, trong khi giữ họ ở thế cái trước, cái sau?. Ngày 14 tháng 4, Kissinger đã gặp Dobrynin nhằm giải thích cho vị Đại sứ về ý tưởng của chính quyền Mỹ. Để làm tăng thêm ý nghĩa của cuộc gặp, ông ta đã cho Dobrynin một trang tài liệu về ba điểm do Nixon khởi xướng. Cùng với một đề nghị cử phái đoàn đến Matxcơva, tài liệu này còn có một lời khuyên cáo (được đặt dưới điểm thứ ba) rằng: "Tất cả các bên đang ở ngã ba đường và cần có các biện pháp đặc biệt để đảo ngược chiều hướng của cuộc chiến tranh". Lời khuyên cáo này đi đôi với sự bóng gió rằng không có sự dàn xếp của Mỹ thì dễ tạo ra một tình thế phức tạp. Viên Đại sứ Liên Xô đã nêu vấn đề liệu chính quyền Mỹ giải quyết vấn đề Việt Nam có tạo ra một điều kiện cho sự tiến bộ ở Trung Đông và các quan hệ kinh tế và hội nghị về vũ khí hạt nhân hay không? Khi ông Kissinger trả lời rằng có, thì ông Dobrynin đã nhấn mạnh các mong muốn của Matxcơva có các mối quan hệ tốt hơn với Mỹ dù điều gì có xảy ra ở Việt Nam, và than phiền rằng cuộc leo thang chiến tranh chỉ phục vụ các mong muốn của người Trung Quốc là Xô-Mỹ xung đột. Tuy nhiên, ông ta hứa sẽ thông báo cho Chính phủ nước ông về đề nghị của phía Mỹ.
    Trong khi Nixon tiếp tục đợi Kosygin trả lời bức thư của ông ta, thì sự im lặng của Liên Xô làm cho Washington lo lắng không hiểu liệu người Liên Xô có chuyển lời đề nghị của Mỹ tới Hà Nội hay không. Sau đó Dobrynin bảo đảm với Kissinger rằng ngườiLiên Xô đã thông báo cho Hà Nội về sứ mệnh của Vance, song họ đã nhận được một sự phản ứng tiêu cực của Bắc Việt Nam. Thông tin của Đại sứ Dobrynin đã được khẳng định trong một Bị vòng lục về các cuộc tiếp xúc giữa Mỹ-Việt Nam của Vụ Mỹ thuộc Bộ Ngoại giao mà trong thời gian đó đã nêu rõ, nội dung các cuộc gặp gỡ ngày 14 tháng 4 năm 1969, cuộc đàm luận giữa Kissinger và Dobrynin và sự bảo đảm các bước đi của Liên Xô. Theo Bản Bị vong lục đó, Matxcơva đã làm cho Hà Nội chú ý tới đề nghị của ông Kissinger. Bức thư ngày 5 tháng 5 do ông Phạm Văn Đồng gửi cho người Liên Xô nói rằng Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam cho rằng: các Cuộc thương lượng ở Paris là khá tốt để đạt được một sự thoả thuận và không cần có các cuộc tiếp xúc khác. Thật ngạc nhiên, Bị vong lục đó của người Liên Xô ghi rằng để trả lời đề nghị của phía Mỹ, Matxcơva đã lập luận rằng Mỹ từ chối chấp nhận một Chính phủ liên hiệp ở Nam Việt Nam, vì như vậy làm khó cho Liên Xô giúp Mỹ. Người Liên Xô cho rằng cần quyết định vấn đề một Chính phủ liên hiệp cũng như việc rút toàn bộ quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Người ta vẫn chưa rõ, liệu Matxcơva đã thông qua chuyến đi của Vance để gửi lời phúc đáp theo đề nghị của Mỹ hay chỉ do Kissinger tiết) lộ trên hồi ký của mình nhằm bộc lộ sự không khoan nhượng của Liên Xô. Nhưng cũng có thể là sự phúc đáp của Matxcơva là ở bức thư của Kosygin gửi cho Nixonhay sự chuyển tải của Dobrynin trong buổi tiếp kiến riêng Kissinger. Dù trong trường hợp nào, người Liên Xô cũng cần khẳng định thái độ của họ đối với tuyên bố lập trường của người Bắc Việt Nam. Nếu vấn đề là như vậy, Kissinger không thấy có cái gì mới trong thái độ của người Liên Xô và không thể gắn nó vào một đề nghị cụ thể.
    Dù vấn đề này ra sao, Washington cũng không hài lòng với lập trường của Liên Xô đối với Việt Nam. Vì vậy chính quyền Mỹ quyết định tăng áp lực đối với Hà Nội và Matxcơva. Tháng 3 năm 1969, Nixon đã ra lệnh ném bom một cách bí mật xuống Campuchia nhằm ngăn chặn các con đường tiếp tế của Bắc Việt Nam dọc đường mòn Hồ Chí Minh và quét sạch các cơ quan đầu não chỉ huy của cộng sản Việt Nam, mà Mỹ cho là đóng ở đất Campuchia, không những vậy, Tổng thống còn dự định ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam. Tại cuộc họp nội các ngày 20 tháng 3, Tổng thống đã nói đến sự cần thiết tăng cường sức mạnh quân sự trên cơ sở nhằm giành thắng lợi trong các cuộc đàm phán với Hà Nội.
    Nixon và Kissinger đều nóng lòng muốn để cho Matxcơva biết được ý định của họ không từ cố gắng nào, biện pháp hoà bình hay quân sự, để sớm kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Tuần lễ đầu tiên của tháng 5, Kissinger đã cảnh cáo ông Dobrynin rằng cuộc chiến tranh có thể leo thang và rất tàn bạo-nếu Hà Nội không chịu trả lời các thái độ của Mỹ. Một thời gian sau đó, Nhà Trắng đã quyết định đi đôi với lời đe doạ đó là một lời đề nghị về hoà bình nhằm thể hiện rằng Mỹ không còn bám vào việc giải quyết vấn đề một cách hoà bình. Ngày 14 tháng 5, Dobrynin đã nhận trước một bản cọp bài diễn văn của Tổng thống về vấn đề Việt Nam, mà cũng sẽ được đọc trên đài truyền hình quốc gia. Đó là bài diễn văn đầu tiên trên cương vị Tổng thống đã hoàn toàn đề cập riêng tới vấn đề Việt Nam, và đó là kế, hoạch đầu tiên giải quyết vấn đề chiến tranh kể từ khi có đề nghị Manila của Tổng thống Johnson năm 1966. Nixon đã đề nghị rằng toàn bộ quân đội nước ngoài-cả Mỹ lẫn Bắc Việt Nam rút khỏi Nam Việt Nam trong vòng một năm sau khi có một hiệp nghị được ký kết. Một tổ chức quốc tế giám sát cuộc rút quân và kiểm soát các cuộc bầu cử tự do ở Nam Việt Nam.
    Bài diễn văn đã thể hiện việc Mỹ đã từ bỏ một thể thức Manila "cứng nhắc và cũ rích", đòi rút quân toàn bộ các lực lượng Bắc Việt Nam như là một điều kiện tiên quyết cho việc giải quyết vấn đề Việt Nam. Song nó không hề đề cập đến vấn đề một giải pháp chính trị cho Nam Việt Nam, mà phía Hà Nội luôn đeo đuổi ngay từ buổi đầu của các cuộc Hoà đàm ở Paris. Việc bỏ qua vấn đề đó đã làm toàn bộ kế hoạch không được Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam chấp nhận vì cho đó chẳng qua là một sự đầu hàng. Tuy nhiên, chẳng có ai cho rằng Tổng thống Nixon là một người quá ngây thơ, kế hoạch này không chỉ tập trung vào khung cảnh trong nước, mà nó còn là một bộ phận của cuộc tấn công ngoại giao mạnh mẽ chống lại Liên Xô nhiều hơn là Hà Nội. Những cố gắng này còn bao gồm cả việc tuyên truyền chống lại cả người Bắc Việt Nam lẫn Liên Xô, đe doạ quân sự chống lại Hà Nội, việc dàn xếp cá nhân với Matxcơva thông qua "các kênh riêng".
    Cái gọi là "các kênh riêng" hoặc đơn giản hơn gọi là "các kênh" được Kissinger đề cập đến trong các cuộc tiếp xúc riêng với Đái sứ Liên Xô Dobrynin ở phòng bản đồ của toà Nhà Trắng, được xây dựng tháng 2 năm 1969, khi Tổng thống và cố vấn an ninh của ông xem xét vấn đề bằng cách nào tránh thông báo cho Bộ Ngoại giao và Ngoại trưởng William Rogers về cuộc họp đầu tiên sắp tới giữa Nixon và Dobrynin. Cuối buổi tiếp Đại sứ Liên Xô, Nixon đã thông báo cho ông Dobrynin rằng các vấn đề đặc biệt tinh nhạy trong tương lai, nên chỉ làm việc với Kissinger. "Các cuộc trao đổi riêng" giữa Dobrynin với Kissinger được tiếp tục qua các cương vị công tác của Kissinger, lúc đầu là cố vấn an mình, sau là Ngoại trưởng thời chính quyền Nixon. Nửa đầu năm 1969, phần lớn các cuộc trao đổi giữa hai người đều tập trung thảo luận chính sách Mỹ đối với Liên Xô có liên quan tới Việt Nam.
    Kissinger biết rõ ràng rằng Dobrynin chẳng qua-chỉ là một người phát ngôn của các ?osếp" ở Matxcơva. Mặc dù thảo luận một cách khéo léo, thân mật với các đại diện của giới Chính phủ Mỹ, song Dobrynin vẫn phải tuân theo những đường lối của Kremlin và Bộ Ngoại giao Liên Xô. Trong hồi ký của mình, Kissinger đã viết: "Tôi nhận thức rằng tác dụng của Dobrynin được thể hiện qua khéo léo của ông ta trong việc phản ánh nên các chính sách của Chính phủ Liên Xô, chứ không phải những ý kiến của riêng mình". Ông ta cũng nhớ tới ý kiến của Harriman về Dobrynin và những lời cố vấn của ông ta đối với Tổng thống trong cuộc hội đàm của họ vào ngày 21 tháng 2. Là một nhà thương lượng có kinh nghiệm với các lãnh đạo Liên Xô, Harriman đã nói với Tổng thống Nixon rằng chừng nào người Liên Xô vẫn được quan tâm, thì Tổng thống Nixon nên bàn bạc với các lãnh đạo của Bộ chính trị Liên Xô. Và ông ta coi Dobrynin chỉ là ?omột viên thư ký cao cấp", và thật là phí thời gian thảo luận với ông ta. Vì vậy khi biết đầu tháng 6 năm 1969, Dobrynin chuẩn bị bay về Matxcơva, Kissinger cho rằng một cuộc tiếp xúc với Dobrynin là một cơ hội chuyển tới Ban lãnh đạo Liên Xô các quan điểm của Tổng thống và ông ta, về các quan hệ Mỹ-Xô và toàn bộ tình hình quốc tế.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cuộc gặp gỡ được tổ chức vào ngày 12 tháng 6, tại phòng làm việc của Kissinger ở Nhà Trắng, như Dobrynin báo cáo với Matxcơva về cuộc gặp này như sau: "Cũng giống như các cuộc gặp gỡ trước đây với ông ta, cuộc gặp này cũng không được tuyên bổ?. Kíssinger bắt đầu cuộc gặp gỡ với việc nói rằng Nixon biết tin Đại sứ Dobrynin chuẩn bị về Matxcơva và chính bản thân ông ta đã chấp thuận cuộc gặp gỡ mà Dobrynin ?ocó thể, nếu cần thiết phản ánh sự hiểu biết ban đầu của mình về quan điểm của Tổng thống Nixon đối với một số vấn đề quốc tế và đặc biệt về quan hệ Xô-Mỹ" cho các lãnh đạo Liên Xô Kissinger đã bảo đảm với Dobrynin rằng trong chính sách đối ngoại, Nixon coi các mối quan hệ Xô-Mỹ không kém phần quan trọng như vấn đề Việt Nam. Tổng thống Mỹ nóng lòng tránh một sự đối đầu với Matxcơva và hy vọng rằng các mối quan hệ tay đôi dưới nhiệm kỳ Tổng thống của ông ta có thể bước vào một thời kỳ xây dựng.
    Kissinger cũng đề cập tới vấn đề về một cuộc gặp có thể của Nixon với các lãnh đạo Liên Xô và nhấn mạnh mong muốn của Tổng thống nhằm tránh đưa ra công khai một cách không cần thiết vẩn đề này. Ông ta đã đề cập đến các cuộc gặp gỡ như vậy có thể diễn ra một lần trong năm giống như một chuyến công cán thương mại và không gây ra sự ầm ĩ. Nhưng các cuộc gặp gỡ như vậy có thể trao đổi các ý kiến hữu ích tạo ra sự hiểu biết giữa hai bên và tránh có những bước đi nguy hiểm do không hiểu nhau.
    Kissinger còn thảo luận tình hình ở Châu Âu, vấn đề Mỹ-Xô cùng phê chuẩn một Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, giải quyết vấn đề Trung Đông, các cuộc thương lượng về vũ khí chiến lược. Ông nói rõ rằng Mỹ đã xem xét các quyền lợi của Liên Xô ở một số khu vực ví dụ như: ở Đông Âu-nơi chính quyền Nixon không định làm gì là khu vực mà Liên Xô cho là "thách thức" với vị trí của họ trong khu vực. Thậm chí Kissinger còn nói với Điện Kremlìn rằng: Đừng quá chú ý vào lời bình luận công khai chỉ trích sự biệt lập của một số nước Đông Âu của Tổng thống Nixon, đó chẳng qua là một xảo thuật mị dân trong cuộc bầu cử Mỹ.
    Các lời bình luận của Kissinger dường như làm người ta ngạc nhiên, song chúng muốn nêu lên một vấn đề tinh tế và cấp thiết của chính quyền Nixon là Việt Nam. Điều đó càng sớm trở nên rõ ràng với Dobrynin rằng sự bận tâm của chính quyền Nixon là bằng cách nào, với sự trợ giúp của Liên Xô, để kết thúc Cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á. Theo Đại sứ Liên Xô, những vấn đề này chưa được Kissinger hay Tổng thống đề cập trong cuộc gặp gỡ trước đây. Song, đối với vấn đề về các cuộc thương thuyết giữa Mỹ-Bắc Việt Nam, Kissinger đã kêu gọi sự giúp đỡ của Liên Xô để tháo gỡ bế tắc trong cuộc Hoà đàm ở Paris một cách mạnh mẽ. Kissinger sớm chú ý tới các cố gắng của Liên Xô nhằm hỗ trợ các cuộc đàm phán, cũng như các hoạt động của người Liên Xô trong các tháng gần đây. Với mục tiêu rõ ràng gây sức ép đối với Matxcơva về vấn đề này, ngay lập tức Kissinger quay sang vấn đề Trung Quốc và các ý định của Mỹ nhằm cải thiện các mối quan hệ với Bắc Kinh. Mặc dù ông ta bảo đảm với Dobrynin rằng, Washington coi Liên Xô (chứ không phải Trung Quốc) như là một đồi tác quan trọng của Mỹ trên chính trường quốc tế, các lãnh đạo Liên Xô đáng tin cậy hơn Mao Trạch Đông. Dobrynin tin rằng việc đưa vấn đề Trung Quốc vào cuộc đàm phán về vấn đề Việt Nam là hành động có mục đích. Điều này càng được khẳng định hơn sau khi Kissinger tuyên bố rằng: "Cần kết thúc cuộc xung đột với Việt Nam càng sớm càng tốt, và Liên Xô phải đóng một vai trò tích cực hơn để đạt được một sự dàn xếp, không nên phó thác mọi việc cho Hà Nội, và những đánh giá tình hình quốc tế thường xuất phát từ quan điểm bó hẹp, riêng biệt của nó sẽ chỉ đem lại các quyền lợi của Trung Quốc".
    Con bài Trung Quốc không phải là con bài duy nhất Washington có được mà còn một con bài khác, đó là việc đe doạ dùng áp lực quân sự chống lại Bắc Việt Nam. Dobrynin biết rằng trong tiến trình đàm phán của họ, "Kissinger lại một lần nữa (trước đó là Nixon) đưa ra một lời bình luận về tác động nếu Hà Nội vẫn làm tắc nghẽn các cuộc đàm phán, vì vậy sau một vài tháng sẽ là cần thiết để Chính phủ Mỹ xem xét "các lựa chọn khác nhằm thuyết phục Hà Nội". Các lựa chọn đó rất rõ ràng với Dobrynin, việc có công trong việc làm các nhà lãnh đạo của ông ta chú ý tới các giọng điệu về "các lựa chọn khác" để nói với Nixon và Kissinger... Dobrynin tin rằng trong khi các lời bình luận như vậy rõ ràng là nhằm "tống tiền" Bắc Việt Nam và một phần là đối với cả người Liên Xô với những lời bóng gió về việc ném bom lại Bắc Việt Nam trừ phi tình hình các cuộc Hoà đàm ở Paris được thay đổi.
    Trong bản báo cáo cho các lãnh đạo Liên Xô, Dobrynin đã kết luận rằng đối với chính sách đối ngoại của Nixon, vấn đề số một vẫn là câu hỏi bằng cách nào tìm ra cách rút khỏi Cuộc chiến tranh Việt Nam theo các điều kiện chấp thuận được mà có thể bảo đảm cho việc tái cử chức Tổng thống Mỹ. Viên Đại sứ Liên Xô tin rằng các cố gắng nhằm thuyết phục Liên Xô giúp giải quyết cuộc xung đột sẽ vẫn tiếp tục. Một số lãnh đạo Liên Xô đọc bản báo cáo của Dobrynin sớm phát hiện ra rằng lời dự báo của đại sứ đã đánh giá được chính quyền Nixon đáng tăng cường gây áp lực với Matxcơva. Ngày 27 tháng 9, trong cuộc tiếp xúc với Dobrynin, Kissinger đã khuyến cáo rằng tất cả đòi hỏi của phía Mỹ về sự giúp đỡ của Liên Xô kết thúc cuộc chiến tranh không đạt được kết quả sẽ làm khó cho phía Mỹ xúc tiến mạnh mẽ các quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Để tăng thêm ấn tượng về sự quyết tâm của Mỹ, Nixon đã gọi điện cho Kissinger trong khi ông ta đang tiếp Đại sứ Liên Xô, và yêu cầu ông ta nói với Dobrynin rằng Việt Nam là vấn đề quan trọng nhất trong các mối quan hệ Mỹ-Xô.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 20 tháng 10, đích thân Tổng thống gặp Dobrynin trong "một cuộc nói chuyện nghiêm túc" về lập trường của Liên Xô đối với Việt Nam và các triển vọng về các mối quan hệ Xô-Mỹ. Ông ta đã nói với viên Đại sứ Liên Xô, người vừa thông báo cho Nhà Trắng về việc Liên Xô sẵn sàng bắt đầu các cuộc thương lượng về vũ khí chiến lược, rằng một sự cải thiện các mối quan hệ tay đôi tuỳ thuộc vào mong muốn của Liên Xô "làm một số việc với Việt Nam". Vì cho tới lúc đó, theo Nixon cho biết, sự tiến bộ thật sự của vấn đề này vẫn rất khó khăn. Nixon muốn Liên Xô hiểu rõ việc Liên Xô tiếp tục gắn bó với ông ta trong ba năm và ba tháng sắp tới, và trong suốt thời gian đó, ông ta vẫn nhớ công việc đã làm ngày hôm nay. Nixon luôn đe doạ: chính quyền ông ta sẽ có cách riêng để kết thúc cuộc chiến tranh. Rõ ràng Dobrynin chưa chuẩn bị trước một cuộc tấn công như vậy, thậm chí các lời hứa và những lời đe doạ không có gì mới đối với ông ta. Tuy nhiên Ban lãnh đạo Liên Xô không có ý định chịu nhượng bộ áp lực của Washington.
    Việc Liên Xô không muốn chấp nhận chính sách gắn liền của Nixon không phải xuất phát từ việc Liên Xô mong muốn có lợi từ việc chiến tranh tiếp tục hay nhìn thấy Mỹ sa lầy hơn trong cuộc xung đột, cho phép Liên Xô được tự do hành động ở các khu vực khác của thế giới. Mặc dù những xem xét như vậy không phải không hoàn toàn được các nhà lãnh đạo Liên Xô nghĩ tới trong các chính sách đối ngoại, các yếu tố tác động đến lập trường của Matxcơva về vấn đề gắn liền là rất phức tạp. Mặt khác, các lãnh đạo Liên Xô nhận thấy dù Nixon cho rằng ông ta có lợi thế trong chính sách đối với Liên Xô, song ông muốn hoà hoãn với Matxcơva hơn là Matxcơva muốn hoà hoãn với Mỹ. Sự ngang bằng hạt nhân không để Tổng thống có quyền lựa chọn bằng việc đi tới sự thoả thuận với Liên Xô nhằm tránh nguy cơ của Cuộc chiến tranh hạt nhân. Trong các bối cảnh đó, các cố gắng nhằm có được các nhượng bộ từ phía Matxcơva để đổi lấy sự hợp tác cắt giảm vũ khí chiến lược và tăng cường các mối quan hệ kinh tế đã bị các lãnh đạo Liên Xô cho là hành động hối lộ và hăm doạ. Điều đó đã được Dobrynin khẳng định trong cuộc nói chuyện với Harriman ngày 19 tháng 2.
    Hơn nữa, khi các nhà ngoại giao Liên Xô ở Washington phân tích về chính sách của chính quyền Nixon, họ thấy rằng sự chú ý có mục tiêu của Mỹ trong việc phát triển các mối quan hệ với Liên Xô có xu hướng đối lập với chính sách gắn liền. Họ kết luận rằng, song song với các mặt tiêu cực, chính sách của Nixon vốn kế thừa các chính quyền trước về sự thừa nhận cường quốc quân sự của Liên Xô. Vì sự cần thiết, Mỹ nên tránh đối đầu...?. Ảnh hưởng của một sự thừa nhận như vậy, theo ý kiến của các nhà ngoại giao Liên Xô, còn ảnh hưởng tới chính sách của Mỹ trong tương lai.
    Nếu trong một tình thế mà cả hai nước có vị thế ngang nhau thì sự đe doạ của Nixon gây sức ép quân sự chống lại Bắc Việt Nam sẽ không có ý nghĩa gì, vì Washington cần phải xem xét rằng cố gắng hăm doạ Hà Nội có thể gây ra một phản ứng của các đồng mình của họ ở Mátxcơva, mà có thể đẩy thế giới vào một cuộc đối đầu hạt nhân. Nói một cách khác, như ông Stephen Ambrose đã nhận xét ?ocái sai lầm trong lý lẽ của Nixon? là ông ta không có con át chủ bài? Người Liên Xô có thể sánh với người Mỹ về bom, đó là lý do tại sao sự lựa chọn nguyên tử không phải là một lựa chọn thực sự. Nixon nghĩ rằng ông ta có thể đe doạ Bắc Việt Nam chấp nhận một cuộc ngừng chiến (thực sự là một cuộc ngừng bắn). Song bất cứ một sự ám chỉ đe doạ huỷ diệt Hà Nội đều ngay lập tức bị phản công, bằng việc người Liên Xô đe huỷ diệt Sài Gòn. Nixon không phải là người điên duy nhất đưa ra các lời đe doạ như vậy.
    Trên cơ sở của một sự phân tích như vậy, Matxcơva đã chống chính sách gắn liền của Nixon với ý tưởng của Liên Xô về ?ogắn liền trong sự đảo ngược?. Thế giới thực sự liên kết lẫn nhau, cả Nixon và Kissinger đều đúng trong khi xem xét các sự kiện ở các nơi khác nhau của thế giới là luôn gắn vào nhau. Nhưng họ quên rằng Nixon không thể đứng ngoài sự kết bện đó của thế giới. Chính sách đối ngoại của nước Mỹ bị tác động bởi một số yếu tố mà các nhà hoạch định chính sách Mỹ, để giành được thắng lợi, phải chú ý tới điều đó. Chính quyền Nixon không thể loại trừ được điều này. Các nhà lãnh đạo Liên Xô nhanh chóng nhận ra gót chân Asin của Washington và chống lại các cố gắng nhằm đạt được sự nhượng bộ của Kremlin. Chính sách của họ được thiết lập dựa trên cơ sở đánh giá: "sự tương quan các lực lượng" mà cuối những năm 60 họ có cơ hội hơn. Vì vậy để đáp lại các cố gắng của phía Mỹ nhằm làm Liên Xô dính líu vào quá trình giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á như là một điều kiện các cuộc thương thuyết về các vấn đề quân sự và các vấn đề tay đôi khác, Liên Xô đã sử dụng sự bất đồng ý kiến giữa Nhà Trắng và các ngành khác của Chính phủ Mỹ, và đẩy mạnh đề nghị riêng của nó đối với các cuộc thương thuyết về SALT. Sau đó, Điện Kremlin biết được sự háo hức của Nixon đối với một cuộc họp thượng đỉnh với các lãnh tụ Liên xô, nên làm cho nó gắn liền với thắng lợi của các cuộc thương thuyết ở Berlin.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhưng một yếu tố khác đã gây ảnh hưởng tới lập trường của Matxcơva đối với Việt Nam. Do Dobrynin thường xuyên giải thích cho Kissinger là ảnh hưởng của Liên Xô đối với Hà Nội là rất hạn chế, vì Bắc Việt Nam rất giỏi vận động Matxcơva và Bắc Kinh và các kế hoạch lâu dài của Điện Kremlin đối với vai trò của Bắc Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á.
    Thật khó khăn chg Nixon và Kissinger, chấp nhận một ý tưởng về việc Liên Xô với tất cả số viện trợ cho Bắc Việt Nam, lại vẫn thiếu lực đòn bẩy để ép Hà Nội đối với vấn đề chiến tranh và hoà bình. Vì vậy vào năm 1969, rõ ràng Liên Xô là người ủng hộ cơ bản đối với Bắc Việt Nam trong số các nước xã hội chủ nghĩa. Năm đó, Bắc Việt Nam đã nhận được số viện trợ nửa tỷ đô la từ Liên Xô, chiếm năm mươi phần trăm số viện trợ khối cộng sản cung cấp. Mặc dù số viện trợ quân sự suy giảm trong năm 1969, do giảm bớt các hoạt động quân sự ở chiến trường, song con số vẫn trên hai trăm triệu đô la. Các lực lượng vũ trang của Bắc Việt Nam (theo một bản báo cáo của Liên Xô), phần lớn đều được trang bị bởi Liên Xô và là một đội quân mạnh nhất khu vực. Từ năm 1969 đến năm 1971, Matxcơva đã ký với Hà Nội bảy hiệp nghị viện trợ và phát triển hợp tác kinh tế, có hiệp nghị là hỗ trợ phát triển kinh tế và quốc phòng.
    Cũng như một số năm trước, viện trợ của Liên Xô đối với Hà Nội không chỉ đổ vào việc tăng cường ảnh hưởng chính trị. Mặc dù Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam cố gắng giảm bớt sự gắn bó quan hệ với Liên Xô cũng như Trung Quốc, và không muốn để mất đi tính độc lập của mình trước hai đồng minh đầy thế lực. Trong các báo cáo của các nhà ngoại giao Liên Xô gửi về Matxcơva đã nêu lên các lời than phiền về thái độ cố xa lánh này. Một trong các bản báo cáo hàng năm của những năm tháng đó đã viết: "Các đồng chí Việt Nam vẫn có lập trường như trước đây, không quá tin vào Liên Xô, dựa trên thuyết trước đây: không làm hỏng hay trầm trọng các mối quan hệ với Liên Xô, song cũng không nhích quá lại gần với Liên Xô với đầy đủ lòng tin". Các quan chức Liên Xô không có các ảo mộng rằng tiến trình này sẽ thay đổi trong một tương lai gần.
    Chính sách độc lập của Hà Nội thể hiện ở một số lĩnh vực trong quan hệ Liên Xô-Bắc Việt Nam. Matxcơva cay đắng nhận ra rằng các cố gắng của các đồng chí Việt Nam là nhằm hạn chế tư tưởng của Liên Xô đối với Bắc Việt Nam, và hạn chế thông tin về các sự kiện ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Người Việt Nam đối xử một cách nghi ngờ đối với số chuyên gia dân sự hay quân sự người Nga, đôi khi để cho các mối ngờ vực trở thành mối quan hệ không hữu nghị. Vì vậy chúng làm cho Matxcơva-không biết về các hoạt động đối ngoại của Việt Nam, và các lãnh đạo Liên Xô thường biết các hoạt động ngoại giao của Hà Nội qua các báo chí hay các hãng tin quốc tế, như trường hợp trao đổi giữa Nixon và Hồ Chủ tịch. Để tránh sự nhầm lẫn đó, Có quan KGB đã nghiêm túc xem xét việc thiết lập "các mối tiếp xúc mật" để nhận được các thông tin về tình hình Ban lãnh đạo Việt Nam và các mối quan hệ của Việt Nam với Bắc Kinh.
    Bất chấp trở ngại đó, người Liên Xô đã giành được một số thắng lợi trong các cố gắng của họ nhằm tăng cường vị thế của mình ở Việt Nam. Một trong số thắng lợi đó là sự thay đổi thái độ của Bắc Việt Nam đối cuộc đấu tranh ngoại giao. Tháng 1 năm 1970, Phiên họp lần thứ 18 của Đảng Lao động Việt Nam đã thừa nhận mục tiêu đầu tiên của Đảng là sự phối hợp ba biện pháp đấu tranh cho thống nhất đất nước. Lần đầu tiên kể từ lúc bắt đầu cuộc chiến tranh, Ban lãnh đạo cộng sản đặt các cố gắng noại giao và chính trị ngang với cuộc đấu tranh vũ trang. Một giải pháp tương tự cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cuộc Hoà đàm Paris vì thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam. Các quan chức Liên Xô được tình báo Liên Xô thông báo trước về sự thay đổi thái độ này, coi đó là cố gắng thắng lợi của họ làm giảm bớt lập trường ủng hộ Trung Quốc của Hà Nội.
    Một dấu hiệu tích cực khác trong quan điểm của Liên Xô là ngày càng. có nhiều cuộc tiếp xúc giữa Bắc Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, cũng tham gia trên các diễn đàn quốc tế về giáo dục, y tế và văn hoá. Những thay đổi đó cũng: như ảnh hưởng của Hà Nội ngày một tăng trong khu vực làm cho các nhà ngoại giao Liên Xô thấy cần phải phối hợp với các đồng minh trong chính sách đối với Việt Nam nhằm buộc chặt Việt Nam vào khối Liên Xô trong các công việc quốc tế. Tháng 6 năm 1970, Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội đã gửi về Matxcơva một Bị vong lục phân tích về các khả năng phối hợp như vậy. Mục đích chính của Bị vong lục khá dài đó là đánh giá các triển vọng bao gồm cả Bắc Việt Nam vào quỹ đạo của Liên Xô, dần dần hướng chính sách của Bắc Việt Nam ra xa Bắc Kinh, song lại gần với Liên Xô, và tăng cường ảnh hưởng của Hà Nội ở Đông Nam Á.
    Sứ quán Liên Xô gợi ý nên bao gồm Hà Nội vào các cuộc tư vấn đa bên và đôi bên với các nước xã hội chủ nghĩa đối với một số vấn đề chính trị quốc tế. Liên Xô thấy cần tăng cường các hoạt động của người Bắc Việt Nam ở các lĩnh vực của chính sách đối ngoại như giải trừ vũ khí, tuyên truyền. Đại sứ quán Liên Xô cũng gợi ý nên tăng cường cung cấp thông tin cho Hà Nội về tình hình nội bộ các nước phương Tây hàng đầu. Bằng tất cả các biện pháp đó, Bị vong lục nhấn mạnh rằng: "Bắc Việt Nam dần can dự vào công việc của thế giới và tiến hành trao đổi thông tin và hợp tác hoạt động đối ngoại với các nước xã hội chủ nghĩa khác trên diễn đàn quốc tế sẽ có ý nghĩa thúc đẩy các quan niệm và đánh giá đúng đắn hơn của người Việt Nam về tình hình thực tế của thế giới, có lợi cho chúng ta (Liên Xô) trước hoạt động đối ngoại của Bắc Việt Nam, tạo quyền lợi cho Liên Xô trên trường quốc tế. Mở rộng tư vấn chính trị với Bắc Việt Nam còn giúp Việt Nam tránh sai lầm trong chính sách đối ngoại, thúc đẩy Việt Nam lập lại mối quan hệ vững chắc với Liên Xô".
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Vì vậy trong thời gian từ năm 1964-1965 nhiệm vụ của Matxcơva là lấp lỗ hổng trong các mối quan hệ giữa Liên Xô và Bắc Việt Nam mà do sự quá thận trọng của Khơrútsôp gây ra và tăng cường vị trí của Liên Xô ở Việt Nam như là một đối trọng với ảnh hưởng của Trung quốc, vào cuối thập kỷ; Ban lãnh đạo của Liên Xô đã xúc tiến mạnh mẽ một chính sách đối với khu vực. Mục tiêu cuối cùng của giai đoạn này là biến Việt Nam lành một đối tác và là vị trí tiền tiêu của Liên Xô ở Đông Nam Á, đặc biệt kể từ khi Trung Quốc đóng vai trò như vậy trong những năm 50 mà sau đó phá vỡ quan hệ với hệ thống Xô Viết. Ý tưởng đó thậm chí còn được làm sáng tỏ hơn trong một bị vong lục khác của Đại sứ quán Liên Xô vào năm sau đó, sau Đại hội 24 của Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức ở Matxcơva. Các nhà ngoại giao Liên Xô ở Hà Nội tin rằng: "Hiện nay, khi ********************** đang tăng cường con đường độc lập, khi tiến trình của Đảng đang phát triển, nói chung theo hướng có lợi cho chúng ta, khi Bắc Việt Nam trở thành lực lượng lãnh đạo trong cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Dương, chúng ta (Liên Xô) sẽ có nhiều khả năng thiết lập một chính sách cho khu vực. Có thể kết luận rằng Đông Dương có thể trở thành một chìa khoá của chúng ta đối với tất cả Đông Nam Á. Hơn nữa, ở khu vực này, cho đến nay không có nước nào để chúng ta dựa vào, trừ Bắc Việt Nam". Cả hai bị vong lục đều được xếp hạng tuyệt mật duy nhất để khẳng định tầm quan trọng của chúng như là các tài liệu hoạch định chính sách.
    Đạt được uy tín cao như vậy ở Bắc Việt Nam nên các nhà lãnh đạo Liên Xô cố tránh để xảy ra nguy hại nào cho chính sách của họ. Vì vậy, họ luôn bác bỏ áp lực của Washington và xui Hà Nội chấp nhận điều kiện của Mỹ về hoà bình. Họ tiếp tục cung cấp cho Bắc Việt Nam và các đồng minh của Hà Nội (Giải phóng quân) mọi thứ cần thiết cho cuộc đấu tranh quân sự. Bất chấp các lời than phiền về sự cứng đầu, ích kỷ hai mặt của người Việt Nam, người Liên Xô không bao giờ rời xa cuộc chiến, vì Việt Nam dần dần trở thành không chỉ là vấn đề tư tưởng mà còn là một vấn đề địa lý chính trị của Điện Kremlin.
    Sau khi các cuộc thương thuyết được tiến hành ở Paris, Matxcơva tỉếp tục theo đuổi các mục tiêu của nó ở Việt Nam theo các điều kiện vững chắc hơn. Lúc đầu, người Liên Xô sợ rằng cuộc chiến tranh có thể lan rộng sang các khu vực khác của Châu Á và thậm chí còn gây đối đầu giũa Mỹ và Liên Xô. Sau năm 1968, các cuộc Hội đàm ở Paris cho thấy cuộc xung đột chỉ giới hạn trong biên giới cửa Việt Nam chứ không lan rộng ra các nước Đông Dương. Vì vậy, nó trở nên quan trọng đối với Matxcơva là ngăn chặn một sự phá hoại các cuộc thương lượng và buộc các bên tham gia vào bàn đàm phán. Vì vậy vai trò của Liên Xô đã thay đổi. Khi diễn ra các cuộc đàm phán sơ bộ giữa Mỹ và Việt Nam, Liên Xô ttham gia tháo gỡ một số vấn đề bế tắc và làm dễ dàng một Hiệp nghị ngừng ném bom và Hội nghị bốn bên. Còn khi các cuộc đàm phán bắt đầu, Liên Xô đã giảm bớt các hoạt động của mình. Đại sứ Liên Xô Zorin đã giải thích lập trường đó trong buổi lễ chào tạm biệt ông Harriman: "Trong giai đoạn đầu của các cuộc thương thuyết chủ đề là cuộc ném bom Bắc Việt Nam, một nước xã hội chủ nghĩa, có quan hệ trực tiếp với Liên Xô về mặt chính trị và ngoại giao, vì vậy Liên Xô có quyền trực tiếp phải bảo vệ nó. Liên Xô phải cung cấp mọi viện trợ cho Việt Nam và Liên Xô đã làm như vậy. Trong một giai đoạn mới của cuộc hoà đàm, chủ đề đầu tiên là Nam Việt Nam, là nước mà Liên Xô không có quan hệ trực tiếp. Liên Xô có quan hệ tốt và hữu nghị với Mặt trận Giải phóng Dân tộc Nam Việt Nam (FLN), nên Liên Xô rất quan tâm tới các thắng lợi của FLN và sẵn sàng ủng hộ lập trường và tư tưởng chính trị của mặt trận. Tuy nhiên, nền hoà bình trong khu vực chính là vấn đề nội bộ của người Việt Nam cùng với việc giải quyết lực lượng đại diện cho Nam. Việt Nam. Vì vậy, hơn lúc nào hết, Mỹ có lý do quan trọng trực tiếp tham gia với người Việt Nam giải quyết vấn đề. Đặc tính của các cuộc thương thuyết đã thay đổi và người Liên Xô có ít lý do để có quyền lợi cụ thể. Vì thực tiễn của tình hình, vai trò của Liên Xô lúc này bị giảm xuống". Qua lời Đại sứ Zorin, rõ ràng Liên Xô không bỏ quên vai trò của họ trong các cuộc thương thuyết.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Một điều luôn luôn trở thành nguyên tắc làm việc của Matxcơva là nó không bao giờ thương lượng với người Bắc Việt Nam, còn người Mỹ thì làm như vậy. Người Liên Xô đã đi theo tiến trình như vậy trong suốt quá trình của các cuộc Hoà đàm ở Paris; tham gia vào các cuộc thương thuyết và vai trò trung gian hoà giải, làm giảm các cố gắng của Washington. Song Điện Kremlin cũng cố gắng không để lỡ cơ hội gây ảnh hưởng ở Paris theo chiều hướng có lợi nhất cho Matxcơva. Các nhà cầm quyền Liên Xô đã phân tích mọi bước ngoặt trong chính sách của người Bắc Việt Nam liên quan đến các cuộc thương thuyết để có thể can thiệp hay tránh các vấn đề mà theo họ là đưa đến các kết quả nguy'' hiểm. Các cố gắng của Liên Xô là giữ cho hai bên tiếp tục thương thuyết và tránh các hành động phá hoại tiến trình thương thuyết. Họ xem xét các yếu tố tác động ảnh hưởng tới thái độ của Bắc Việt Nam như sự chán chường của dân chúng sau nhiều năm chiến trành, các vấn đề nội bộ đang phát triển, sự không nhất quán trong các kế hoạch của chính quyền Nixon-đặc biệt là cách thức cố vấn, ý kiến có lợi cho các cuộc họp ở Paris. Vì mục tiêu đó, Matxcơva đã sử dụng một số quan hệ tiếp xúc với các quan chức Việt Nam. Các cuộc thương lượng cấp cao giữa các nhà lãnh đạo Liên Xô và Bắc Việt Nam tạo cơ hội quan trọng cho Điện Kremlin thể hiện các quan điểm của nó đối với tình hình và thuyết phục Hà Nội chấp nhận ý kiến của họ. Những cuộc thương thuyết như vậy thường được tổ chức hàng năm, thường vào các chuyến đi của các nhà lãnh đạo Bắc việt Nam đến Matxcơva. Ví dụ như chuyến đi của ông Phạm Văn Đồng năm 1970 đến thủ đô của Liên Xô, khi Thủ tướng Bắc Việt Nam hỏi liệu Matxcơva có cố vấn điều gì liên quan tới chuyến đi, Đại sứ Liên Xô Shcherbakov đã thể hiện một mong muốn rang các mặt chính trị của các cuộc thương thuyết cần "xây dựng hơn, toàn diện hơn và thành thật hơn". Ông gợi ý trao đổi các quan điểm về "các biện pháp mới được bổ sung và các thách thức của một giải pháp đối với vấn đề Đông Dương, các hình thức mới gây ảnh hưởng tới Mỹ, tình hình ở Campuchia và Lào". Đại sứ nêu lên hai nguyện vọng đó với lời đảm bảo rằng Việt Nam thì đưa ra các quyết định của mình, còn Matxcơva luôn sẵn sàng cố vấn cho các bạn.
    Các cuộc tiếp xúc ở cấp khác còn có cuộc gặp gỡ giữa các nhà ngoại giao Liên Xô ở nước ngoài với các quan chức Bắc Việt Nam, đầu tiên là ở Hà Nội và Paris. Các cuộc đàm luận của Đại sứ Liên Xô Shcherbakov và các đồng nghiệp của ông với lãnh đạo Hà Nội đặc biệt quan trọng. Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội lớn hơn một phái đoàn ngoại giao ở nước ngoài. Các nhân viên sứ quán có toàn quyền đại diện Chính phủ Liên Xô ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Khi xảy ra một tình thế mà các lãnh đạo Liên Xô ít biết về các thực tiễn diễn biến ở khu vực xa xôi, trừ một số nguyên tắc chung, các nhà ngoại giao Liên Xô không chỉ là người phát ngôn cho Điện Kremlin mà còn tham gia vào tiến trình hoạch định các quyết định-mà các Đại sứ quán ở nơi khác không được làm như vậy. Điện Kremlin còn tham vấn họ về các vấn đề riêng biệt liên quan đến chính sách đối với Việt Nam. Nó đặc biệt quan trọng trong khi Bắc Việt Nam, đang trong chiến tranh, trở thành một trọng điểm khát vọng của một số cường quốc như Mỹ, Trung Quốc và Liên Xô.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong bối cảnh đó, Đại sứ Shcherbakov gặp gỡ với các nhà cầm quyền Bắc Việt Nam đôi khi không khác với các cuộc thảo luận của họ ở Matxcơva. Trong các cuộc gặp gỡ đó, Shcherbakov đề cập đến một số vấn đề trong chính sách của Việt Nam, kể cả các cuộc đàm phán với Mỹ. Ông ta nhận được các thông tin từ các lãnh đạo Bắc Việt Nam về các diễn biến gần đây của các cuộc hoà đàm, ý kiến của ông đối với chúng, đưa ra các đề nghị đối với các hoạt động ngoại giao của Bắc Việt Nam và giải thích về lập trường của Chính phủ Liên Xô. Trong cuộc trò chuyện với ông Xuân Thuỷ, trưởng phái đoàn đàm phán của Bắc Việt Nam ở Paris tháng 6 năm 1969, Đại sứ Liên Xô đã cố vấn Hà Nội: "Nên tránh bất cứ hành động cực đoan nào, không công nhận cách giải quyết hoàn toàn mang ý nghĩa tuyên truyền, mà cũng không quá nặng vào phương pháp đấu tranh quân sự". Shcherbakov cố thuyết phục người đối thoại với ông rằng: "Trong chiến thuật phối hợp ba cuộc đấu tranh ngoại giao, chính trị và quân sự, phương pháp chính trị và ngoại giao dần dần chiếm lĩnh vị trí quan trọng hơn". Các cuộc Hoà đàm ở Paris có thể ảnh hưởng tới các sự kiện ở Việt Nam.
    Trong khi đó, đồng nghiệp của ông Shcherbakov ở Paris, ông V.Zorin đã tiếp xúc với phái đoàn cộng sản Việt Nam ở các hội nghị bốn nước. Một quy định với các nhà thương thuyết Bắc Việt Nam là gặp Đại sứ Liên Xô và thông báo cho ông ta về hiện trạng các cuộc đàm phán. Hà Nội không quá nóng vội nghe theo lời cố vấn của các đồng chí Liên Xô, song họ rất cần Liên Xô ủng hộ các hành động của họ, và họ nhận thấy uy tín và sức mạnh của Liên Xô có thể sử dụng tạo tiện lợi cho họ. Vì vậy, các chuyến viếng thăm của ông Xuân Thuỷ và Lê Đức Thọ đến Sứ quán Liên Xô ở Paris có hai mục đích: thể hiện sự tôn trọng vai trò của Liên Xô trong các cuộc thương lượng, và đổi lại, yêu cầu sự ủng hộ của Liên Xô đối với Bắc Việt Nam.
    Vì vậy, từ năm 1969-1972, thường xuyên có các cuộc gặp gỡ giữa các nhà ngoại giao Liên Xô ở Paris và các đoàn đại biểu Cộng sản Việt Nam để thảo luận các diễn biến của các cuộc thương thuyết. Matxcơva không chỉ thông báo về các phiên họp chính thức mà còn đề cập đến các nội dung các cuộc gặp riêng giữa ông Xuân Thuỷ, Lê Đức Thọ với Henry Kissinger. Ví dụ, ngày 16 tháng 3 năm 1970, Kissinger đã gặp Bắc Việt Nam ở Paris để thảo luận bí mật. Phái viên của Tổng thống đã để nghị một lịch trình chính xác rút lui toàn bộ quân Mỹ trong thời gian mười sáu tháng và cùng xuống thang các hoạt động quân sự ở khắp đông Dương. Ba ngày sau đó, ngày 19 tháng 3, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ đã gặp Đại sứ Zorin và thông báo cho ông ta biết về tất cả các chi tiết về cuộc gặp gỡ, chia sẻ cùng viên Đại sứ các tư tưởng của họ trong các cuộc đàm phán: Họ (Việt Nam) lưu ý rằng nếu các cuộc thảo luận không chinh thức không đạt kết quả phá hoại các cơ hội của Đảng Cộng hoà trong các cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, thì họ sẵn sàng kéo dài các cuộc thương lượng nhằm "làm cho các vấn đề trở nên tồi tệ cho Nixon". Đáp lại, ông Zorin đã nhấn mạnh rằng: "Mặc dù Kissinger đã đưa ra các đề nghị thái quá, nhưng ông ta cũng đưa ra các ý kiến cụ thể về tình hình quân sự?. Khi người Bắc Việt Nam thông báo về việc Kissinger thoả thuận thảo luận cả các vấn đề chính trị lẫn quân sự, ông Zorin cho đó là sự sẵn sàng của Washington ngồi vào đàm phán với Bắc Việt Nam về tất cả các vấn đề, không cần có Sài Gòn-đó là một sự rút lui khỏi lập trường trước đây của Washington. Vì vậy ông Zorin cố gắng nhấn mạnh các mặt tích cực của các cuộc đàm phán nhằm chống lại nguy cơ phá hoại chúng.
    Một cuộc thảo luận tương tự như vậy đã diễn ra ở Đại sứ quán Liên Xô sau cuộc họp ngày 4 tháng 4 giữa ông Lê Đức Thọ và Kissinger. Thật đáng chú ý nếu cuộc thảo luận ngày 19 tháng 3 diễn ra trong sự "thoả thuận chung" thì cuộc thảo luận ngày 6 tháng 4 lại do người Bắc Việt Nam khởi xướng. Lần này ông Lê Đức Thọ đã thông báo cho ông Zorin tất cả các chi tiết về cuộc thảo luận của ông với Kissinger, bày tỏ lòng mong muốn của ông tiếp tục thương lượng mặc dù chưa có sự tiến bộ. ông Lê Đức Thọ nói rằng chúng tôi (Việt Nam) sẽ bình tĩnh chờ đợi.
    Người Liên Xô không những quyết tâm giúp đỡ các đồng chí Việt Nam, họ còn lo chuẩn bị lập trường của Bắc Việt Nam trước Liên Hợp quốc. Trong một cuộc họp với đoàn đại biểu Hà Nội, ông Zorin đã nêu vấll đề ông sẽ cần đưa câu hỏi nào với ông Henry Cabot Lodge, lúc đó là trưởng phái đoàn Mỹ ở Paris. Tuy nhiên, Matxcơva cũng thận trọng không đi quá xa đối với vấn đề này. Họ muốn tránh dính dáng quá nhiều vào các cuộc thương thuyết như vậy để tránh Hà Nội, nghi ngờ họ hành động như là người môi giới giữa Bắc Việt Nam và Mỹ.
    Sau năm 1968, Matxcơva không hề thay đổi chính sách của họ đối với cuộc xung đột ở Việt Nam. Liến Xô vẫn là một diễn viên miễn cưỡng trong cuộc dàn xếp ngoại giao về các vấn đề Việt Nam và luôn đứng đằng sau sân khấu, bất chấp các cố gắng của chính quyền Nixon và sản phẩm của Kissinger gần như bị phá hoại vì sự chống đối mạnh mẽ của Ban lãnh đạo Liên Xô. Ông Kissinger đã than phiền rằng: "Khoảng mười lần trong năm 1968, trong các cuộc gặp gỡ hàng tháng giữa tôi với ông Dobrynin, tôi đã cố tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô để kết thúc Cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông Dobrynin nói rằng Liên Xô không muốn cuộc chiến tranh tiếp tục, ông chống lại việc leo thang. Tuy nhiên, ông không bao giờ đưa ra một đề nghị cụ thể nào để kết thúc cuộc chiến tranh. Như ông Andrey Alexandrov Agenttov đã nhận xét Điện Kremlin vẫn tiếp tục chống lại áp lực của Mỹ nếu nó có thể ngăn chặn được người Mỹ đặt con át chu bài lên bàn-đó là các mối quan hệ của người Mỹ với Trung Quốc. Đầu những năm 70, con bài này đã làm thay đổi các cơ hội của Liên Xô giành thắng lợi trong cuộc chơi, do nó đã thay đổi toàn bộ tình hình thế giới".
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương X-Giữa sự hoà hoãn và Việt Nam
    Trong những năm 60, Trung Quốc đã trở thành một nỗi bận tâm chính đối với Kremlin. Hố ngăn cách giữa hai cường quốc cộng sản là mâu thuẫn nghiêm trọng nhất trong Phong trào cộng sản thế giới kể từ khi Matxcơva có bất đồng với Tito của Nam Tư ngay sau Thế chiến II. Nhưng trong trường hợp của Tito, sự bất đường về mặt tư tưởng là chủ yếu chứ không phải là trở ngại trong quá trình hoà giải sau cái chết của Stalin. Mặt khác, mối bất hoà giữa Liên Xô và Bắc Kinh đã nhanh chóng phát triển thành một cuộc cạnh tranh quân sự vào cuối những năm 60, và cả hai phía đều đã có một loạt những cuộc va chạm dọc đường biên giới Xô-Trung. Năm 1974, khi mối căng thẳng giữa Matxcơva và Bắc Kinh đã dịu bớt đi, người Liên Xô đã đưa ra một đánh giá về "sự phản bội" của Trung Quốc và những hành động khiêu khích chống lại Liên Xô trong một cuốn sách phân tích chính sách đối ngoại của Bắc Kinh và các mối quan hệ quốc tế trong 10 năm, tức là từ 1963 đến 1973. Theo nghiên cứu này, từ tháng 10 năm 1964 đến tháng 4 năm 1965 đã xảy ra 36 vụ xâm phạm biên giới Liên Xô liên quan tới 150 công dân Trung Quốc. Số vụ xâm phạm như vậy đã tăng lên nhanh chóng và trong khoảng thánh giêng-tháng 3 năm 1969 đã xảy ra 90 vụ, tới tháng 5 có 164 vụ. Mùa xuân 1969 đã xảy ra nhiều vụ va chạm vũ trang làm hàng chục người thuộc cả hai phía chết và bị thương. Cả hai phía đều như đang nằm trên bờ vực thẳm của một cuộc xung đột quân sự diện rộng rnà không có một cơ hội hoà giải nào.
    Trong bối cảnh như vậy, Liên Xô cực kỳ nhạy cảm đối với các triển vọng về một sứ xích lại gần nhau giữa Trung Quốc và Mỹ. Trong khi Bắc Kinh vẫn còn đứng ở vị trí thấp kém trong quan hệ quốc tế mà không có một đồng minh hùng mạnh hay một ủng hộ viên nào, Matxcơva hy vọng sẽ giảm được cuộc xung đột xuống điểm chỉ còn thuần tuý là vấn đề song phương giữa hai nước. Nếu các nước khác cũng bị lôi cuốn vào xung đột này, thì tình thế chắc rời vào vấn đề địa chính trị và điều này có nguy cơ làm lung lay vị trí của Liên Xô trên thế giới. Kể từ khi Mỹ-đối thủ chính của Matxcơva trên trường quốc tế-có ý định tranh thủ các lợi ích từ cuộc xung đột bằng việc đứng về một phía với một địch thủ của Liên Xô, thì hầu hết các nỗ lực của Liên Xô đều nhằm mục đích ngăn ngừa khả năng này.
    Dưới thời Johnson, nỗi bận tâm hàng đầu của Washington về cuộc chiến tranh ở Việt Nam cũng như mối hồ nghi sâu sắc về những người Cộng sản Trung Quốc và các mục tiêu ở châu Á của họ cản trở sự tài lập mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Các cuộc tiếp xúc Trung-Mỹ ở Vác-xa-va đã không mang lại một kết quả ró ràng nào và tới tháng 5 năm 1968 thì bị đình hoãn lại. Tình hình đã thay đổi dưới thời Nixon-người mà ngay trước kỳ bầu cử của mình đã công khai bộc lộ ý định thiết lập các mối quan hệ với Trung cộng. Đầu năm 1967, trong một chuyến công du khắp thế giới, Nixon đã thăm Rumania và đã thổ lộ với Nicolac Ceausescu, Tổng bí thư đảng cộng sản Rumaní, ông ta cho sự hoà hoãn thực sự với Liên Xô là khó có thể, nếu không duy trì "một hình thức xích lại gần" Bắc Kinh. Vì vậy ông ta lưu ý rằng Mỹ có thể sẽ giành được thắng lợi trong quá trình tái lập này sau khi Chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Và ý định của Nixon đã đủ để gây ra những âu lo ở Matxcơva.
    Chắc chắn các nhà lãnh đạo Liên Xô không hề hay biết gì về các kế hoạch Nixon đã nói với Ceausescu kể từ khi vị lãnh đạo này của Rumani giữ một vị trì độc lập với Matxcơva và hiếm khi tiết lộ các bí mật của mình cho Kremlin. Nhưng Nixon đã công bố các quan điểm của mình trong một bài báo viết cho Tạp chí Foreign Affairs số tháng 10 năm 1967. Trong bài viết này, Nixon đã bác bỏ một liên minh chống Trung Quốc. Thay vào đó, ông ta đã nói tới các triển vọng cho một cuộc đối thoại với Trung Quốc đại lục và các nỗ lực nhằm "đẩy Trung Quốc vào cộng đồng thế giới" như "một quốc gia vĩ đại và tiến bộ, chứ không phải là một nước trung tâm của cách mạng thế giới?. Chừng nào Nixon còn là một người dân thường, thì chừng đó các nhà lãnh đạo Liên Xô còn có thể phớt lờ các bài phát biểu của ông ta. Nhưng chắc chắn họ sẽ nhớ lại quan điểm của Nixon về Trung Quốc sau khi ông ta trúng cử Tổng thống.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chẳng bao lâu sau khi nhận chức Tổng thống, Nixon đã giao nhiệm vụ chuẩn bị nghiên cứu một chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc cho cố vấn an ninh quốc gia của mình. Ngày 5 tháng 2 năm 1969, Kissinger đã diễn giải các mong muốn của Tổng thống trong một Bị vong lục nghiên cứu an ninh quốc gia, trong đó ông ta đã hướng dẫn các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Quốc phòng, cũng như Giám đốc CIA, trong quả trình nghiên cứu phải có cả những phân tích về các mối quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc đại lục và cả Đài Loan, về bản chất trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc ở châu Á, về "sự tác động qua lại giữa chính sách của các nước có liên quan khác đối với Trung Quốc" và các khả năng lựa chọn cho chính sách của Mỹ trong phạm vi này".
    Chỉ thị của Kissinger đã được đáp lại bằng một báo cáo hên cơ quan về Trung Quốc mà sau khi đọc xong, ông ta cho rằng bản báo cáo này vẫn chưa đầy đủ. Kissinger phê bình bản báo cáo là "nhấn mạnh quá đáng tới tư tưởng và giảm nhẹ khả năng sẵn sàng chiến đấu của Trung Quốc", làm phương hại tới "những can thiệp toàn cầu đối với những căng thẳng trong quan hệ tay ba". Nói chung, cố vấn an ninh quốc gia đã kịch liệt chỉ trích Cộng đồng tình báo Mỹ trong vấn đề nghiên cứu thiết lập lại các mối quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ, và tiếp tục đưa ra những thay đổi trong chính sách đối với Trung Quốc của Washingtọn mà Nixon và bản thân ông ta là những người đóng vai trò chủ chốt. Nhưng trong hồi ký của mình, ông ta đã thừa nhận rằng lúc đầu ông ta xem mối quan hệ với Trung Quốc và vai trò của nó trong trong chính sách của Mỹ "như là một vấn đề lý thuyết". Với Nixon, ông ta "Vẫn coi cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là hiếu chiến hơn các cường quốc cộng sản khác". Với quan điểm như vậy, cuộc nghiên cứu việc lập lại quan hệ Mỹ-Trung phải kéo dài nhiều năm trời và đã bị đình hoãn lại cho tới khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc.
    Những gì được xem như động lực để Nhà Trắng mở rộng lợi ích của Mỹ ở Trung Quốc chính là sự xuống cấp nghiêm trọng trong quan hệ Trung-Xô năm 1969 và là kết quả của các mưu toan giành được sự ủng hộ về ngoại giao ở Washington của Liên Xô. Theo Kissinger, "chính cử chỉ ngoại giao vụng về của Liên Xô đã làm chúng ta nghĩ tới các cơ hội của mình". Khi các cuộc giao tranh xảy ra ở dọc biên giới Xô-Trung, Dobrynin đã gặp Kissinger và cố thuyết phục ông ta rằng chính Trung Quốc đã gây ra các sự cố này. Nhưng nào ngờ, những bảo đảm của Dobrynin đã hoàn toàn dẫn tới một tác dụng nghịch với những gì ông ta muốn. Nixon và Kissinger đã kết luận rằng sau cuộc xâm lược thành công của Liên Xô vào Tiệp Khắc, Kremlin đã quyết định sử dụng các biện pháp đó để giải quyết các vấn đề với Trúng Quốc.
    Bị tác động bởi những ''lời đồn đại của các nhóm ngoại giao mà trong một số trường hợp, về bề ngoài, những lời đồn đại này được xem như xuất phát từ chính bản thân nhũng người Xô Viết, cũng như chiến dịch tuyên truyền của báo chí Liên Xô chống lại Trung Quốc, Nhà Trắng đã nhìn nhận quan hệ Trung-Xô như là sự "tiến gần tới một điểm khủng hoảng". Nhà Trắng đã xác định sẽ liên kết với Trung Quốc trong trường hợp Liên Xô tấn công. Nixon và Kissinger cho rằng Trung Quốc là nạn nhân, mọi sự kiện khác đều được các nhà hoạch định chính sách Mỹ diễn giải theo quan điểm này. Thậm chí mười năm sau một loạt các sự kiện; trong hồi ký của mình, Kissinger đã đưa ra một bức tranh đã bị bóp méo đáng kể về cuộc gặp gỡ giữa Kosygin và Chu ân Lai tại sân bay Bắc Kinh ngày 11 tháng 9 năm 1969. Mặc dù đã chỉ ra rằng cuộc tiếp xúc này rõ ràng diễn ra do có lời mời của phía Trung Quốc và đã chứng minh sự bất đồng giữa hai nước chứ không phải là một sự tiến gần tới một thoả hiệp, Kissinger không đánh giá nổi những thực tế đó là do Thủ tướng Liên Xô sẵn sàng huỷ bỏ chuyến bay của ông ta sang Matxcơva để gặp các nhà lãnh đạo Trung Quốc, các bài bút chiến đã hạ bớt giọng gay gắt ở cả Liên Xô và Mỹ sau cuộc gặp gỡ, và đáng kể hơn là các mối căng thẳng đã dịu đi dọc biên giới. Hơn nữa, ngày 7 tháng 10, người Trung Quốc thông báo rằng họ đã đồng ý mở các cuộc đàm phán về xung đột này.
    Liên Xô đã bác bỏ những lời đồn đại về các kế hoạch xâm lược hoặc tấn công các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc. Nếu chúng ta tin ở lời khẳng định trợ giúp của Brezhnev, hay ở Andrei Alexandrov Agentov thì sẽ chẳng có những cuộc tranh cãi kịch liệt về những khả năng thích hợp giành cho một cuộc chiến chống Matxcơva. Alexandrov nhấn mạnh rằng: "Cả ban lãnh đạo Liên Xô và Trung Quốc đều không muốn một cuộc chiến nổ ra giữa hai nước hoặc tích cực chuẩn bị cho cuộc chiến này, bất chấp những tuyên bố đầy vẻ đe doạ và các hành động khác của cả hai phía". Alexandrov nhắc lại rằng ông ta đã từng để mắt tới Brezhnev và các đồng sự của ông trong các cuộc thảo luận về những cuộc giao tranh ở dọc Damansky/Chenpao năm 1969. "Không có bất cứ một dấu hiệu căng thẳng đặc biệt hay hoảng loạn nào". Có một điều dường như đã rõ ràng: Những lời bóng gió của các phương tiện thông tin Liên Xô về quyết định chống trả các cuộc tấn công của Trung Quốc, các thoả thuận của giới ngoại giao Liên Xô với các quan chức Mỹ về các nỗ lực chung chống Trung Quốc-những tiến triển mà Nixon và đặc biệt là Kissinger cho là nhạy cảm-đối với Kremlin, đó không là gì hơn một cuộc chiến tranh cân não nhằm kìm hãm hoặc áp đảo tinh thần các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc nếu có thể. Giới lãnh đạo Liên Xô thừa hiểu các nguy cơ nảy sinh từ một cuộc tấn công mà Liên Xô tiến hành chống lại Trung Quốc, nếu tính tới cả các khó khăn quân sự và những ảnh hưởng chính trị. Bề ngoài, họ đã không chuẩn bị để mở rộng các giới hạn cho một chiến dịch tuyên truyền.

Chia sẻ trang này