1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Như?fng ngươ??i phụ nư?f nô??i tiếng

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TrueHeart86, 11/02/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. TrueHeart86

    TrueHeart86 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/11/2005
    Bài viết:
    73
    Đã được thích:
    0
    Nhưfng ngươ?i phụ nưf nô?i tiếng

    Em đang câ?n thông tin vê? các phụ nưf nô?i tiếng cu?a Việt Nam va? trên thế giới, mong các bác giúp đơf: ví dụ Vof Thị Sáu, Trưng Trắc Trưng Nhị.....
    Thanks
  2. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Không hiểu ý bác nổi tiếng nghĩa là gì, nhưng theo tôi thì ,
    Lịch sử Việt Nam có :
    Hai Bà Trưng
    Dương Vân Nga
    Bà Triệu
    Bùi Thị Xuân
    Võ Thị Sáu
    Lê Chân
    Nguyễn Thị Bình
    Nguyễn THị Minh Khai
    Ngọc Hân Công chúa
    ....
    Được langtudien sửa chữa / chuyển vào 18:56 ngày 11/02/2006
    Được langtudien sửa chữa / chuyển vào 19:28 ngày 11/02/2006
  3. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Hai Bà Trưng


    Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai nữ anh hùng dân tộc đầu tiên của Việt Nam, xuất thân từ dòng dõi lạc tướng đất Mê Linh thời Hùng Vương. Hai Bà Trưng đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa (40 - 43 sau Công Nguyên) chống ách đô hộ của nhà Hán (Trung Quốc), giành độc lập cho đất nước. Đây là cuộc khởi nghĩa có tiếng vang lớn mà chính sử Trung Quốc phải ghi nhận. Nó tập hợp sức mạnh của tất cả các tầng lớp dân Việt, trong đó có sự đóng góp to lớn của phụ nữ. Sau khi Hai Bà hy sinh, nhân dân ở nhiều địa phương đã lập đền thờ Hai Bà và các tướng lĩnh.
    Hai Bà Trưng là tên gọi tắt, suy tôn hai nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Đó là hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị, thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa lớn vào loại sớm nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam cũng như trong lịch sử nhân loại, chống xâm lược, nô dịch. Họ trở thành những nữ hoàng đầu tiên, cai quản quốc gia, dân tộc, sau khi đất nước được giải phóng, hồi đầu thế kỷ thứ nhất sau công nguyên.
    Sử cũ đều chép Hai Bà là dòng dõi lạc tướng (người đứng đầu bộ lạc) Mê Linh (miền đất rộng, giữa Ba Vì và Tam Đảo) thời Hùng Vương. Truyền thuyết nói Hai Bà là con gái bà Man Thiện, cũng là một phụ nữ đảm lược, quê hương ở vùng Ba Vì. Ngọc phả ở các làng Hạ Lôi và Hát Môn - những nơi có đền thờ chính của Hai Bà - đều chép Hai Bà là chị em sinh đôi và sinh vào ngày mồng một tháng tám năm Giáp Tuất (năm 14 sau công nguyên). Các sử cũ cũng chép ràng Trưng Trắc có chồng là Thi Sách, dòng dõi lạc tướng Chu Diên (miền đất dọc sông Đáy). Đây là kết quả của một cuộc "hôn nhân chính trị", nhân đấy mà liên kết được lực lượng của hai miền đất quan trọng nhất của non sông thời bấy giờ.
    Lực lượng liên kết ấy là hạt nhân của một cuộc khởi nghĩa đồng loạt, rộng lớn, mãnh liệt, nổ ra vào mùa xuân năm Canh Tý (năm 40 sau Công Nguyên) nhân việc Thái thú (quan cai trị nhà Hán) ở Giao Chỉ (miền đồng bằng Bắc Bộ) là Tô Định giết hại Thi Sách. Nhưng nguyên nhân cơ bản của cuộc khởi nghĩa là vì tinh thần yêu nước, giải phóng và khôi phục nền độc lập cho đất nước, chống áp bức, thống trị và nô dịch, đồng hóa của nhà Hán (Trung Quốc) Vào một sáng mùa xuân năm 40, tại đất Mê Linh, Hai Bà Trưng đã làm lễ tế cờ khởi nghĩa. Trong tiếng trống đồng trầm hùng, âm vang lời thề của Hai Bà trước giờ xuất binh:
    Một xin rửa sạch nước thù
    Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
    Ba kêu oan ức lòng chồng
    Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này.
    "Trưng Trắc là người can đảm, hùng dũng" (lời thừa nhận của bộ chính sử chép về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào loại cổ nhất của Trung Quốc) đã cùng em gái đứng đầucuộc khởi nghĩa liên kết được sức mạnh toàn dân (trong đó có đông đảo phụ nữ, như các nữ tướng: Thánh Thiên, Lê Chân, Bát Nàn, Thiều Hoa...) và toàn quốc (không chỉ gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là miền đất Việt Nam ngày nay, từ nam Trung Bộ trở ra, mà cả đất Hợp Phố bây giờ là nam Quảng Đông - Trung Quốc).
    Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã quét sạch giặc thù khỏi bờ cõi và được tôn làm vua, đứng đầu đất nước độc lập trong thời gian ba năm.
    Sau đó, nhà Hán sai lão danh tướng Phục Ba tướng quân Mã Viện cầm đầu đại quân sang tái xâm lược, Hai Bà Trưng đã dũng cảm đương đầu cùng quân giặc, tổ chức kháng chiến đánh những trận lớn từ Tây Vu, Lãng Bạc đến Cấm Khê và cuối cùng đã hy sinh anh dũng vào mùa hè năm Quý Mão (năm 43 sau công nguyên), để lại tấm gương oanh liệt nghìn thu. Hiện nay ở nhiều địa phương trong cả nước có đền thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh của Hai Bà.
    Giáo sư sử học LÊ VĂN LAN

  4. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Thái Hậu Dương Vân Nga (Dương Hậu)
    vợ Vua Đinh Tiên Hoa?ng, húy la? Dương Vân Nga, không rof năm sinh năm mất.
    Vốn là con ông Dương Thị Hiển quê ở vùng Như Quan, Ninh Bình (có tài liệu nói bà tên là Dương Thị Ngọc Vân, con gái Dương Tam Kha. Cũng có sách chép la? Dương Thị Lập. ) rồi trở thành vợ Ðinh Bộ Lĩnh, nên sau khi chồng bị ám hại, để lại đứa con 6 tuổi kế nghiệp Hoàng Ðế, Dưong Vân Nga đã phải cáng đáng những khó khăn vượt quá sức mình. Sự nghiệp thống nhất đất nước vừa được hoàn thành, bị đe doạ to nhiều phía. Bên ngoài phong kiến phương Bắc sửa soạn đại binh xâm lược. Bên trong, các triều thần phân biệt tranh chấp gay gắt có nguy cơ nổ ra nội chiến lớn. Là người có tầm nhìn xa thấy rộng, Dương Vân Nga nhận rõ chỉ có Thập Ðạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng giải quyết tình hình nghiêm trọng ấy.
    Khi đề cao võ công văn trí của Ðinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, những anh hùng của công cuộc thống nhất đất nước không thể không kể đến sự cống hiến của Dương Vân Nga đối với đất nước. Có thể xem Dương Vân Nga là cái đầu nối giữa Ðinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, người làm cho công cuộc thống nhất đất nước do Ðinh Bộ Lĩnh khởi xướng được Lê Hoàn hoàn tất. Sự nghiệp chính trị của người phụ nữ ấy đã không được sử liệu chú ý đến mà lại cứ tập trung vào thân phận làm vợ của bà.
    Bà vốn la? mẹ sứ quân Ngô Nhật Khánh. Đinh Tiên Hoa?ng dẹp xong Nhật Khánh, lấy bà la?m vợ, sau đó đưa ngươ?i con gái riêng cu?a bà (tức em Ngô Nhật Khánh) la?m vợ Đinh Liêfn.
    Khi nghe tin Đinh Tiên Hoa?ng đã mất, tự quân co?n nhỏ, nhà Tống muốn thư?a cơ sang cướp nước ta. Lúc quân Tống sắp kéo sang, các tướng đô?ng lo?ng với Phạm Cự Lượng truất phế Đinh Tuệ, suy tôn Lê Hoa?n lên ngôi vua. Chính bà đã tự tay lấy Hoa?ng ba?o khoác va?o vai Lê Hoa?n và giúp ông la?m nên việc lớn.
    Nếu Dương Vân Nga không biết đặt lợi nước lên trên quyền lợi của dòng họ, bà có thể dựa vào một quyền thần để chống lại quyền thần khác, ngoan cố bảo vệ ngai vàng cho đứa con nhỏ của mình, sẽ gây ra nạn bè đảng, tranh chấp, đẩy đất nước vào hoàn cảnh rối loạn. Vậy mà chỉ vì Dương Vân Nga đã lấy chiếc long bào choàng lên vai Lê Hoàn, về sau lại trở thành vợ Lê Hoàn mà sử sách phong kiến đã xoá sạch công lao của bà. Ngược lại cách nhìn nhận trên, nhân dân ta có thái độ rộng lượng và đúng đắn. Vùng Hoa Lư còn lưu truyền thuyết đẹp về Dương Vân Nga nhằm ghi nhận công lao của bà.
    Nhiê?u nha? sư? học ca ngợi Dương Vân Nga đaf biết hy sinh quyê?n lợi cu?a cá nhân va? do?ng họ cho việc lớn, khi đất nước đứng trước họa xâm lăng.
    Được langtudien sửa chữa / chuyển vào 19:00 ngày 11/02/2006
  5. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Pho tượng độc đáo tại đền thờ Vua Lê Đại Hành
    Có một điều rất độc đáo là bức tượng bà Dương Vân Nga có chiều sâu nội tâm thay đổi theo 3 góc nhìn khác nhau. Nếu nhìn chính diện, ta thấy bà hiện lên như một bậc mẫu nghi thiên hạ, đoan trang, phúc hậu, hơi có vẻ nghiêm nghị, lạnh lùng. Nếu nhìn nghiêng theo bên phải (từ trong ra) bà hiện ra với khuôn mặt buồn bã, tựa như khi chứng kiến cảnh đất nước trước nguy cơ "nghìn cân treo sợi tóc". Còn nhìn nghiêng theo bên trái (từ ngoài vào) ta lại thấy khuôn mặt ấy đã thay đổi: gương mặt bà thanh thoát, tươi tắn hơn với nụ cười mỉm. Cái tài hoa của người tạc bức tượng là ở chỗ: vẫn là một con người nhưng nhìn từ những góc độ riêng ta sẽ thấy hiện lên ba gương mặt, ba tâm trạng khác nhau.
  6. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Bà Triệu
    Triệu Thị Trinh (Triệu Trinh Nương hay Triệu Ẩu) sinh ngày 2 tháng 10 năm bính ngọ (225), mới 19 tuổi đã cùng anh trai Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân (Thanh Hoá) tập hợp nghĩa quân, lập căn cứ Phú Điền (Hậu Lộc - Thanh Hoá). Đấy là một thung lũng ở giữa hai núi đá vôi , vừa gần biển lại vừa là cửa ngõ từ đồng bằng phía Bắc vào. Lúc đầu anh bà có ý can ngăn lo phận gái khó đảm đang trọng trách. Bà trả lời: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không thèm cuối đầu, còng lưng để làm tì thiếp người ta".
    Dân gian truyền rằng:
    Có bà Triệu tướng
    Vâng lệnh trời ra
    Trị voi một ngà
    Dựng cờ mở nước
    Lệnh truyền sau trước
    Theo gót Bà Vương...
    Mến mộ Bà, nghĩa quân ngày đêm mài gươm luyện võ, chờ ngày nổi dậy:
    Ru con con ngủ cho lành
    Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
    Muốn coi lên núi mà coi
    Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.
    Năm mậu thìn (248), năm Xích Ô thứ 11 nhà Đông Hán, Bà Triệu bắt đầu tấn công quân Ngô. Các thành ấp của quân Ngô đều bị đánh phá tan tành. Bọn quan cai trị kẻ bị giết, kẻ chạy trốn hết. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng. Thứ sử Giao Châu hoảng sợ bỏ chạy mất tích. Sử sách của nhà Ngô phải thú nhận: "Toàn thể Giao Châu chấn động".
    Mỗi lần ra trận, Triệu Thị Trinh thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn quân xông trậĩnhưng là Nhuỵ Kiều tướng quân, oai phong lẫm liệt. Quân Ngô kinh hồn, bạt vía đã phải thốt lên:
    Hoành qua đương hổ dị
    Đối diện Bà Vương nan
    (Cầm ngang ngọn giáo chống hổ dễ
    Giáp mặt vua Bà thật khó ghê.)
    Hay tin khởi nghĩa ở Cửu Chân và thứ sử Giao Châu mất tích, vua Ngô hốt hoảng phái ngay Lục Dận, một tướng từng kinh qua trận mạc, lại rất quỷ quyệt sang làm thứ sử. Lục Dận đem thêm tinh binh sang đàn áp. Lục Dận vừa đánh mạnh vừa đem của cải chức tước ra dụ dỗ mua chuộc các thủ lĩnh người Việt. Một số kẻ giao động mắc mưu theo địch. Mặc dầu vậy, Triệu Thị Trinh vẫn kiên cường đánh nhau với giặc không nào núng. Sau 6 tháng chống chọi, vì có kẻ phản bội, bà đã hi sinh trên núi Tùng (xã Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hoá). Bấy giờ bà mới 23 tuổi.
    Về sau, vua Lý Nam Đế khen là người trung dũng, sai lập miếu thờ, phong là: "Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân". Nay ở Phú Điền (Thanh Hoá) còn có đền thờ bà.
  7. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Bùi Thị Xuân

    Vua Quang Trung có một bề tôi thân tín, đó là Trần Quang Diệu. Quang Diệu có vợ tên là Bùi Thị Xuân, người phủ Quy Nhơn, thuộc dinh Quảng Nam. Quê Xuân vốn nổi tiếng là đất võ. Không những chỉ đàn ông trai tráng có tài về nghề binh mà đàn bà con gái Bình Ðịnh cũng lắm người hào kiệt. Bởi vậy, mới có câu truyền rằng :
    ?oAi về Bình Ðịnh mà coi
    Ðàn bà cũng biết cầm roi đi quyền? .
    Bùi Thị Xuân cũng là bậc hào kiệt như thế. Tướng Diệu mến tiếng mới tìm đến làm quen. Sau lấy làm vợ. Vợ chồng kính trọng nhau như khách, đương thời đến nức nở khen là chuyện đẹp. Trần Quang Diệu theo vua Quang Trung đánh đông dẹp bắc, đi đâu cũng đem bà cùng đi. Từ việc quân cơ mưu lược đến việc cầm quyền cai trị, bà đều trổ sức tận tình, giúp chồng lập được nhiều công lớn. Trần Quang Diệu càng đặc biệt yêu dấu mà nhà vua cũng hết lòng tin cậy.
    Mùa thu năm Nhâm Tý (1972) vua Quang Trung bị bệnh băng hà. Triều Tây Sơn từ đó ngày một suy yếu. Nguyễn Ánh được bọn tây dương giúp, nhân thế đem đại quân vượt biển ra đánh úp, chiếm mất Quy Nhơn. Lại sai Võ Tánh và Ngô Tòng Chu cùng thống suất mấy vạn binh đắp thành lập đồn cố giữ bằng được. Quy Nhơn là đất căn bản của Tây Sơn cho nên Vua Cảnh Thịnh Quang Toản ( con Quang Trung) vội sai hai danh tướng bậc nhất là Thiếu phó Trần Quang Diệu và Tư đồ Vũ Văn Dũng lập tức gấp đường đem quân thủy bộ vào giành lại. Quang Diệu mới bảo vợ :
    - Nay quân hùng tướng mạnh đã kéo cả vào Quy Nhơn, nếu quân Gia Ðịnh vượt biển ra xâm phạm, tất Phú Xuân không tránh khỏi nguy biến. Nàng hãy ở lại kinh thành hộ giá, ngộ khi việc nước quan hệ, còn có người đỡ đần chúa thượng.
    Bùi Thị Xuân khóc mà vâng lời. Trần Quang Diệu liền từ biệt vợ, dẫn quân bộ lên đường hợp với quân thủy của Vũ Văn Dũng tiến vào Quy Nhơn. Quân của Diệu, Dũng vây hãm ráo riết, song bọn Tánh, Chu liều mạng thúc quân cố thủ nên đánh liền mấy tháng vẫn không ngã ngũ. Nguyễn Ánh biết đại quân Tây Sơn ở cả Quy Nhơn bèn dốc hết quân thủy và hơn 1.000 chiến thuyền bất ngờ ra đánh lén Phú Xuân. Bùi Thị Xuân cùng với Vua Quang Toản và phò mã Trị ra sức chống cự, nhưng tình thế mỗi lúc một bức bách. Xuân mới tâu vua :
    - Thế giặc quá mạnh. Xin Chúa thượng hãy tạm lui quân ra Bắc Hà. Trước hãy hạ dụ vỗ về quân dân các trấn chỉnh đốn đội ngũ, sau sẽ gọi đại binh ở Quy Nhơn ra, hai mặt cùng đánh tất lấy lại được thành.
    Nhà vua nghe theo. Bây giờ là vào tháng ba năm Tân Dậu (1801).
    Năm sau, Trần Quang Diệu hạ được thành Quy Nhơn liền kéo quân ra Phú Xuân. Bùi Thị Xuân cũng hộ giá vua Quang Toản thống suất quân thủy bộ và tượng binh bốn trấn ở Bắc Hà và Thanh Nghệ tiến vào cùng đánh. Chẳng ngờ, quân Trần Quang Diệu bị chẹn lại, không qua được đèo Hải Vân. Nguyên từ năm trước quân Gia Ðịnh đã lo xa nên đặt đồn cắm trại rất kiên cố để phòng bị, nay lại liều chết chống giữ. Trần Quang Diệu đành phải đem quân voi dọn núi mở đường đi sang biên giới Ai Lao, vòng ra Nghệ An hợp với quân vua. Bấy giờ, ba vạn quân nhà vua cũng đang bị quân Gia Ðịnh đóng tại hai lũy thành Trấn Ninh và Ðầu Mậu ở Sông Gianh (Quảng Bình Cũ) cản lại. Biết đây là chỗ hiểm yếu, lâu nay Nguyễn Ánh đã thúc quân đắp thành cao, đào hào sâu. Lại đặt nhiều đại bác tối tân của người Tây Dương giúp và sắp sẵn gỗ đá trên mặt thành để cự chiến. Bùi Thị Xuân bèn xin lĩnh năm nghìn quân tiến lên công thành, để quân Thủy vòng phía sau đánh tạt lại.
    Từ trên thành cao, quân Gia Ðịnh bắn súng đại bác xuống ầm ầm. Quân Bùi Thị Xuân lấy gỗ ván bện rơm dấp nước làm khiên che, lăn xả vào chân thành bắc thang leo lên. Quân Gia Ðịnh vội đổ dầu sôi, tung chất cháy và lăn gỗ đá xuống như mưa khiến quân Bùi Thị Xuân thiệt hại to. Mấy lần bám lên được mặt thành, sau đều bị đánh lui, người ngựa chết nhiều. Vua Quang Toản lo lắm, có ý định lui. Bùi Thị Xuân nhất định không rời trận địa, cho người chạy đến can ngăn.
    - Nước nhà còn mất là ở trận này. Bệ hạ chớ vì thấy bất lợi mà ngã lòng. Dẫu chết cũng xin quyết tử chiến !
    Bà cưỡi voi đi đầu, thúc quân sĩ tràn lên đánh thành; từ sáng đến trưa vẫn trổ sức chiến đấu, không hề mệt mỏi. Quân sĩ được chủ tướng cổ suý đều dốc hăng hái. Người trước ngã người sau vẫn điềm nhiên xông tới, không một ai lui cả. Ðến chiều tối, quân trong thành Trần Ninh, Ðầu Mâu đã núng. Bất ngờ tin cánh thủy binh đã bị quân Gia Ðịnh đánh tan bay đến, khiến quân Tây Sơn hoang mang tan vỡ. Bùi thị Xuân ra sức chỉnh đốn, song không lại. Vua Quang Toản vội rút chạy ra Thăng Long, để Bùi Thị Xuân ở lại Nghệ An, cản giặc và đợi hợp binh với chồng. Chẳng dè, quân Gia Ðịnh thừa thắng đánh tràn. Quân ít thế nguy, bà đành chịu sa vào tay giặc cùng với hai con. Trần Quang Diệu không kịp hồi quân, sau cũng bị bắt nốt.
    Nguyễn Ánh điệu cả hai vợ chồng và hai con bà về thành Phú Xuân hành hình để trả thù. Ánh cho giải hai vợ chồng đến trước mặt kể tội ?ophản nghịch? rồi bắt lạy. Hai vợ chồng không lạy. Ánh sai lính lấy hèo đánh vào khuỷu chân, níu tóc giập đầu xuống đất bắt lạy. Hai vợ chồng nhất định không chịu. Ánh uất quá cho voi dữ ra giày xéo quật chết cả hai con bà cho trông thấy, để ra uy. Lại lôi Trần Quang Diệu ra xẻo từng miếng thịt. Tình cảnh cực kỳ thảm thương, tàn bạo hết mức. Cho đến khi bị Ánh giết, trước sau bà vẫn ung dung, mặt không hề biến sắc. Bà mất đi, xa gần nghe chuyện trong lòng đều thương xót, ai cũng hết lời ngợi khen.

    Nguồn: Nghìn xưa văn hiến

  8. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Võ Thị Sáu sinh năm 1937 tại tỉnh Bà Rịa. Khi giặc Pháp tràn đến quê hương, Võ Thị Sáu mới 12 tuổi, đã ném lựu đạn giết chết ba tên chỉ huy Pháp.
    Cuối năm 1950, sự kiện về Võ Thị Sáu đã làm xúc động và cổ vũ tinh thần kháng chiến của quân dân Bà Rịa. Ðội công an xung phong Ðất Ðỏ, với sự tham gia của Võ Thị Sáu, từ căn cứ Xuyên Mộc - Phước Bửu liên tục đột nhập thị trấn diệt tề trừ gian làm bọn tề ngụy bên trong rất lo sợ.
    Ngày 15 tháng 12 năm 1950, Võ Thị Sáu là đội viên công an xung phong Ðất Ðỏ đã hóa trang đột nhập khu chợ, ném hai lựu đạn vào nhà làm việc của cai tổng Tòng. Nhưng tổng Tòng chỉ bị thương, chị
    Võ Thị Sáu bị địch bắt. Mới 16 tuổi, chị đã tỏ rõ khí phách hiên ngang, tinh thần chiến đấu đến cùng của người chiến sĩ cách mạng trước mọi cực hình tra tấn, qua mọi nhà tù của quân thù từ Bà Rịa, Chí Hòa ra Côn Ðảo.
    Tháng 12 năm 1952, Pháp đem chị ra Côn Ðảo giam ở nhà lao "Ðá trắng". Vốn thích múa hát từ nhỏ, khám tử hình không làm cho chị thôi hát. Trong nhà tù thực dân, chị Sáu luôn giữ vững tinh thần kháng chiến và cùng chị em đấu tranh với địch.
    Tháng 1 năm 1953, thực dân đã xử bắn Võ Thị Sáu tại Hàng Dương (Côn Ðảo) năm chị 17 tuổi, vừa được Ðảng ủy nhà tù Côn Ðảo kết nạp vào Ðảng Cộng sản.
    Tên tuổi của nữ anh hùng Võ Thị Sáu đã đi vào lịch sử phong trào phụ nữ Nam Bộ.
  9. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Lê Chân
    Lê Chân quê ở An Biên (nay thuộc huyện Đông Triểu tỉnh Quảng Ninh). Cha là Lê Đạo, một người tài đức và có thế lực ở địa phương, được nhân dân khắp vùng kính phục.
    Biết thái thú Tô Định làm nhiều điều bạo ngược, muôn dân rên xiết trong cảnh nước sôi lửa bỏng, Lê Đạo đau lòng, căm giận quân giặc nước. Hiềm vì tuổi già sức yếu, ông đành dồn hết tâm sức dạy dỗ người con gái yêu và đám học trò có chí khí, những mong họ thay mình cứu dân cứu nước.
    Không phụ lòng mong mỏi của cha, Lê Chân càng lớn càng tỏ ra thông minh, có chí khác người. Hai mươi tuổi nàng đã giỏi mưu lược quân cơ và nổi danh tài sắc. Nhiều người đến hỏi nhưng Lê Đạo và nàng đều gạt đi, vì thấy họ đều là người tầm thường, chỉ chăm việc nhà mà quên việc nước.
    Tiếng tăm đồn đại về cô gái Lê Chân tài sắc bay đến tai Tô Định. Phần vì hiếu sắc, phần cũng muốn cầu thân mua chuộc người tài giỏi, Tô Định bắn tin cho Lê Đạo ngỏ ý muốn lấy Lê Chân làm vợ. Y sai sứ đem lễ vật đến dạm hỏi, đi lại ba, bốn lần song Lê Đạo và nàng đều một mực từ chối. Trở mặt, Tô Định khép Lê Đạo vào tội làm phản để giết ông rồi cho quân về vây bắt Lê Chân. Nợ nước thù nhà đè nặng trên vai, người con gái họ Lê bèn thu nhặt của cải từ giã quê hương xuống thuyền, xuôi vùng ven biển tới miền huyện An Dương ( nay thuộc thành phố Hải Phòng). Bà đã thấy ngay miền biển này chính là nơi dụng võ được: địa hình hiểm yếu, đường thuỷ liền thông, rất tiện lập một căn cứ chống giặc. Bà bắn tin cho bạn bè, họ hàng nơi quê cũ, gọi họ đến để cùng với dân địa phương khai phá xây dựng quê hương mới.
    Sau ba năm, vùng biển hoang vu đã trở thành một trại ấp lớn. Nhớ miền đất cũ, bà đặt tên quê hương mới là Trang An Biên (nay thuộc khu phố Lê Chân, Hải Phòng).
    Lê Chân còn mở chợ ven sông, để dân chúng và thuyền buôn nước ngoài đến buôn bán, trao đổi hàng hoá; nhân đó bà tích trữ lương thực, mua sắm vũ khí chờ dịp trả thù nhà đền nợ nước. Để dân chúng chăm việc quân và cũng là dịp chiêu nạp những người hiền tài, bà mở đài thi võ, mở lò đấu vật. Người các nơi nô nức tìm về hưởng ứng. Cả vùng An Biên thành một thao trường rộng lớn, nghĩa binh đêm ngày luyện tập.
    Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Lê Chân lãnh đạo nhân dân địa phương nổi dậy, quét sạch bọn đô hộ nhà Hán, làm chủ cả một vùng ven biển Đông Nam.
    Từ miền biển, bà chỉ huy nghĩa binh đánh vào xứ Bắc, sào huyệt của bọn thái thú, thứ sử Châu Giao (Thuận Thành, Bắc Ninh) và tìm đến hội quân dưới cờ của Trưng Trắc, Trưng Nhị. Nữ tướng Lê Chân đã lập được nhiều công lớn. Khi Trưng Trắc lên làm vua, bà giao cho Lê Chân trọng trách "Trưởng quản binh quyền nội bộ".
    Sau đó, để đề phòng quân giặc quay lại, Trưng vương cử bà về vùng biển đông, để phòng giữ mạn biển. Bà bỏ thêm tiền bạc, của cải cấp cho dân nghèo, khuyến khích họ khai hoang lập làng, dựng đồn luỹ phòng ngự.
    Năm 42, Mã Viện chia quân làm hai đường thủy bộ ồ ạt kéo vào xâm lược. Lê Chân cùng nhân dân An Biên ngăn sông lấp suối, chặn đánh thuỷ binh hùng mạnh của giặc.
    Vì lực lượng quá chênh lệch, sau gần một năm chống trả quyết liệt, quân ta suy yếu dần và tan vỡ. Lê Chân đã tự vẫn theo Hai Bà Trưng, nhưng khí phách trung kiên bất khuất của người liệt nữ ấy còn vang mãi:
    "Thù nhà nợ nước hai vai
    Một gương liệt nữ muôn đời soi chung"
  10. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Tôi nghĩ các danh nhân như : Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, cũng khá nổi tiếng, song chỉ thích các vấn đề về cổ sử nên tôi tạm dừng tại đây, bác nào có nhã hứng xin mời tiếp tục...
    Dù sao cũng mong có một topic để mọi người có thể tham khảo khi cần tra cứu sơ lược về các nhân vật nữ trong lịch sử VN.Kính !

Chia sẻ trang này