1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Như?fng ngươ??i phụ nư?f nô??i tiếng

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TrueHeart86, 11/02/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Kỳ II: Số phận những nữ cảm tử quân sau tiếng nổ Majestic
    Trận Majestic đã làm chấn động dư luận thành phố. Cùng với những tiếng nổ khác của Trung đội Minh Khai như trận đánh vào Hội chợ Bờ-rô (nay là Tao Đàn, tháng 1-1948), rạp Asam (2-1948), rạp Cathay (tháng 3-1948), rạp Asam (2-1948), rạp Cathay (tháng 3-1948), đồng bào Sài Gòn càng có thêm niềm tin vào lực lượng kháng chiến. Trận Majestic gây dư luận xôn xao trên báo chí trong nước và chính quốc Pháp. Bọn cầm quyền điên cuồng tìm mọi cách khủng bố, ruồng bắt những cảm tử quân đã gây nên tiếng nổ làm kinh hoàng bọn quan chức Pháp-Việt ngay trên mảnh đất mà chúng luôn rêu rao là đã thiết lập được sự ổn định. Trừ cô Hoàng Thị Thanh (tức Từ Thị Đào) thoát được ngay và giữ kín được tông tích, lần lượt, những cảm tử quân khác đều sa vào tay giặc. Chúng đã nắm được đầu mối để khám phá bí mật của trận đánh từ đội viên Bùi Thị Huê. Ban chỉ huy Trung đội Minh Khai sau này nhận ra một sơ suất lớn khi không phát hiện ra cô Bùi Thị Huê bị lãng tai và biết rất ít tiếng Pháp. Ngay sau trận Majestic, chúng liền đóng cửa rạp để điều tra thủ phạm. Cô Bùi Thị Huê nằm trong số 50 người bị tình nghi nhưng mãi đến ngày hôm sau chúng mới khai thác đến cô. Chúng hỏi: ?oBà đã xem phim gì??. Do trả lời không trôi chảy (vì hai yếu điểm trên), cô Huê bị chúng tra tấn rất dã man. Cô được Ban chỉ huy bố trí đánh trận Majestic vì nghĩ cô có tính cách gan dạ, bình tĩnh, vốn đã có kinh nghiệm tham gia đánh trận Hội chợ Bờ-rô, rạp chiếu bóng Cathay? Nhưng trong trận Majestic, tình huống diễn ra ngoài tiên liệu của Ban chỉ huy. Vốn người nhỏ nhắn, mảnh khảnh lại ốm yếu, cô Huê không đủ sức chịu đòn, đã phải nhận chính mình ném lựu đạn. Địch buộc cô dẫn chúng đi bắt đồng đội. Với ý thức bảo vệ đơn vị, cô không dắt địch đến cơ sở mà chỉ đưa về nhà, nhưng gia đình không nhìn nhận nên địch tiếp tục tra tấn cô tàn bạo. Cuối cùng, cô Huê đành phải đưa chúng về một cơ sở của Trung đội với ý nghĩ chị em đã phân tán hết. Cô Huê đưa địch đến nhà bắt Hoàng Thị Minh, một cơ sở của Trung đội Minh Khai. Vì nhà cô Minh nuôi chứa cán bộ nên địch xét nhà, bắt gặp được con dấu của Trung đội Minh Khai. Chúng bắt và kết án cô Minh 3 năm tù?
    Lần lượt, Nguyễn Thị Kim Dung, học sinh Trường Lê Bá Cang tham gia cuộc kháng chiến khi mới vừa 14 tuổi, đã thoát khỏi rạp sau khi ném lựu đạn, cũng bị bắt. Nguyễn Thị Đào, tự Nga năm ấy 20 tuổi, cũng là chiến sĩ của Trung đội Minh Khai, dù không tham gia đánh trận Majestic nhưng do trùng tên với Hoàng Thị Thanh tức Từ Thị Đào nên cúng cho bắt cô và tra tấn rất dã man. Vì muốn cho em trai của Mạc Thị Lan, tức Huệ Nhỏ, được ra khỏi tù nên cô Nguyễn Thị Đào nhận mình đã ném lựu đạn (và để đánh lạc hướng địch không điều tra ra thêm những lần trước, chính cô đã ném lựu đạn vào Hội chợ Bờ-rô và rạp Cathay)?
    Tháng 6-1949, địch đưa toàn bộ vụ Majestic ra xét xử. Báo Thần Chung ngày 24-7-1949 đưa tin ngay trang đầu: Phòng xử hôm qua trang nghiêm và im lặng. Có phải chăng ta bồi hồi cảm động vì tất cả các bị cáo đều là đàn bà mà phần đông còn trẻ tuổi. Chúng tôi nhận thấy từ ông uỷ viên Chính phủ là Đại uý Avazera tới luật sư già Béziat lời lẽ buộc tội đanh thép và gắt gao, chúng tôi cũng cảm thấy không còn ở ông tiếng nói rổn rảng, cái hùng như ông đối với bị cáo đàn ông.
    Các luật sư Béziat, Fernandez, Ngô Sách Vinh, Trương Đình Dzu đã biện hộ cho các bị cáo bằng giọng buồn rầu, cảm động. Cuối cùng toà tuyên án:
    -Bùi Thị Huê, 27 tuổi, tử hình.
    -Nguyễn Thị Đào, 22 tuổi, khổ sai chung thần.
    -Nguyễn Thị Kim Dung, 16 tuổi, 10 năm khổ sai (tính theo tuổi dương lịch).
    Số còn lại, có liên quan đến vụ án như Quí 15 tuổi, Huệ Nhỏ 15 tuổi bị xử ?ođi nhà trường? (nhà tù dành cho vị thành niên).
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nội vụ chống án. Chúng càng tỏ ra ngoan cố, kết án tử hình cho cả 3 cô gái: Bùi Thị Huê, Nguyễn Thị Đào, Nguyễn Thị Kim Dung. Trong tù, các cô tiếp tục chống án. Khi địch công bố bản án này, đồng bào Sài Gòn và khắp nơi đều rất phẫn nộ. Công luận trong và ngoài nước lên án nhà cầm quyền một cách mạnh mẽ. Lực lượng kháng chiến đã tìm mọi cách ngăn chặn bàn tay đẫm máu của kẻ thù, quyết không để chúng thi hành bản án đầy tội lỗi này. Các đoàn thể quần chúng, các giới và đồng bào yêu nước Sài Gòn-Chợ Lớn không ngớt lời động viên, ca ngợi các chiến sĩ Trung đội Minh Khai và lên án nghiêm khắc bọn giặc Pháp cướp nước. Thư từ được tới tấp giử đến Trung đội với lời lẽ cổ vũ rất nồng nhiệt. Trong tù các nữ cảm tử quân không cô đơn, khi mỗi ngày hàng triệu trái tim hướng về các cô với lòng ngưỡng mộ và khâm phục. Cho đến giờ, cô Kim Dung vẫn còn giữ được lá thư động viên của Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Sài Gòn-Gia Định (sau khi cô ra tù, một đồng đội của cô đã trao lại). Chính phủ kháng chiến gửi lời an ủi, khích lệ đến từng chiến sĩ bị địch kết án tử hình. Bức thư tỏ lòng đau xót, cảm động:
    ?o? Vì Dân tộc, vì Tổ quốc quý chị đã hy sinh tính mạng để giết giặc ngay trong một châu thành mà quân lực của chúng rất hùng hậu. Quý chị đã nêu cao tinh thần kháng chiến, chí quật cường và lòng dũng cảm của dân tộc Việt Nam, không phân biệt nam, nữ.
    Quý chị rất xứng đáng là con cháu của những vị nữ anh hùng của dân tộc mà tên tuổi còn ghi chép muôn đời trong sử sách.
    Chúng tôi xin thay mặt Chính phủ và quốc dân nghiêng mình cảm phục trước sự hy sinh và lòng dũng cảm của quý chị cũng là tỏ lòng biết ơn quý chị đã đem thân bồ liễu xây đắp sơn hà.
    Nếu thực dân Pháp khát máu không biến cải bản án và quyết tâm hành hình quý chị thì chúng tôi-các cấp Quân-Dân-Chánh thành Sài Gòn-Chợ Lớn-xin noi gương của quý chị tích cực trừ gian giết giặc để trả thù cho quý chị. Giặc Pháp sẽ đền mạng gấp trăm gấp ngàn.
    Tinh thần quý chị bất diệt!
    Thân ái kính chào ?oHy sinh cho Tổ quốc?
    Uỷ ban Khánh chiến Hành chính thành Sài Gòn-Chợ Lớn

    T/M. Ban thường vụ
    Chủ tịch
    (Ký tên)
    Tạ Nhựt Tứ?
    Trung tướng Nguyễn Bình tặng hình và tiền cho từng chiến sĩ Trung đội Minh Khai. Trung đội Minh Khai được Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tuyên dương?
    Báo chí và đài phát thanh của ta liên tiếp đưa công khai các thư và bản tin trên. Những cuộc đấu tranh mạnh mẽ của các đoàn thể và lực lượng tiến bộ trong và ngoài nước đòi giảm án cho những cô gái bị kết án tử hình lan đến tận nước Pháp. Trong điện Élysées, Tổng thống Pháp buộc phải xem lại bản án?
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cô Nguyễn Thị Kim Dung kể lại những ngày trong Khám lớn Sài Gòn: ?oKhi nghe giặc tuyên án, tôi vẫn có một niềm tin rất lớn. Nhìn những gương mặt người thân trong phiên toà, lòng tôi rất đau đớn? Nhưng tôi đã tự nguyện đến với kháng chiến. Tôi hiểu khi tham gia kháng chiến, hy sinh là điều không thể tránh khỏi. Và nếu có hy sinh, chúng tôi tự hào rằng, máu của tuổi thanh xuân chúng tôi đã đổ không vô ích. Vì bị kết án tử hình, cả ba chị em chúng tôi đều bị biệt giam. Mỗi người bị tống vào một căn phòng nhỏ hẹp: hai thước chiều dài, một thước bề ngang, không được tiếp xúc với bên ngoài. Cửa phòng giam bao giờ cũng đóng kín, chỉ có một lỗ thông hơi nhỏ, không có ánh sáng? Bị nhốt ở khám cầm cố, con người không bằng con vật nữa. Đối với phụ, là tột cùng của sự đày đoạ. Mỗi ngày, tôi chỉ được phát một xô nước, phải tiểu tiện trong một thùng gỗ kê ngay trong phòng; uống, rửa mặt, giặt giũ ngay trong xà lim. Một tuần, chúng tôi chỉ được ra hành lang tắm một lần sau khi qua ba lần cổng gác nghiêm ngặt. Khi hành kinh, chúng tôi phải lấy hai ống quần làm đồ lót. Mỗi khi giặc khố, tôi lấy chiếu quấn người lại, quạt cho khô những thứ đã giặt rồi mặc lại. Đêm lạnh thấu xương, ngày nóng như đổ lửa. Người tôi đầy ghẻ lở, tóc đầy chí? Nhưng tôi không nỡ cắt mái tóc dài của mình. Tôi còn nhớ, khi đó cha tôi nhờ lo lót một tên gác tù nên gửi được chiếc lắc bằng bạc khắc tên Kim Dung vào cho tôi. Cha tôi hy vọng nếu tôi bị tử hình, nhờ chiếc lắc làm dấu, ông sẽ tìm được xác tôi. Đeo chiếc lắc vào tay, nước mắt tôi trào ra cảm nhận tình phụ tử? Chiếc lắc ấy đã truyền cho tôi một sức mạnh kỳ lạ. Tôi đăm đắm nhìn bài thơ ?oTrăng trối? của Tố Hữu mà một người bạn tù trước đó đã khắc lên tường xà lim. Tôi đã học thuộc lòng bài thơ ấy, càng thêm vững lòng tin??.
    Gần một năm bị biệt giam trong khám tử hình, cũng ngần ấy thời gian các đoàn thể và lực lượng tình báo trong và ngoài nước bền bỉ đấu tranh, đích thân Tổng thống Pháp Vincent Auriol ký giảm án cho các cô gái ấy. Bùi Thị Huê, Nguyễn Thị Đào hưởng mức án chung thân khổ sai. Còn Nguyễn Thị Kim Dung giảm xuống án 20 năm khổ sai?
    Nhưng chính quyền của bọn cướp nước không tồn tại đến 20 năm? Trung đội trưởng Dư Thị Lắm (Nguyễn Thị Hanh), Trưởng ban công tác số 10 trực tiếp chỉ huy trận đánh Majestic đã từng lập những chiến công thầm lặng bằng đôi vai, dáng vóc mảnh mai của mình thiết lập đường dây liên lạc nội-ngoại thành, vận chuyển được một khối lượng đồng từ nội thành ra căn cứ để sản xuất vũ khí. Gian nan nguy hiểm nhất là việc vận chuyển vũ khí từ ngoại thành vào nội thành. Chị Dư Thị lắm đã 3 lần gánh lựu đạn Võ Thành Phát, mỗi lần 20 trái từ căn cứ của bộ đội Bình Xuyên ở bên kia cầu chữ Y và Phú Xuân, Nhà Bè, vượt qua nhiều chặng đường địch bố phòng, vây ráp về nội thành giao cho cơ sở. Chị đã giấu đạn trong hũ nước mắm, giấu súng trên xe thồ mộ có hai lớp ván sàn đi qua đồn bót giặc một cách an toàn. Tháng 9-1948, trên đường từ nội thành ra khu căn cứ, chị Lắm đã lọt vào ổ phục kích của giặc và hy sinh. Năm 1954, những người con gái dũng cảm ấy đã được trao trả tại Sầm Sơn, và cũng bắt đầu từ đấy, mỗi người một số phận. Hơn 50 năm sau ngày chị Lắm hy sinh, sáng ngày 25-8, những chiến sĩ của chị trong Trung đội Minh Khai đã làm lễ đón bằng Tổ quốc ghi công cho người Trung đội trưởng Dư Thị Lắm tại Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ. Cô Kim Dung ngậm ngùi nói: ?oCuộc chiến đấu ngày càng quyết liệt. Trung đội Minh Khai người ở tù, người hy sinh, người vì hoàn cảnh không thể cùng dân tộc đi suốt cuộc trường chinh kháng chiến. Sau trận Majestic, tôi bị kết án tử hình, mãi đến năm 1954 mới được trao trả. Rồi tập kết ra Bắc? Hồi đó, do bảo đảm công tác bí mật, chúng tôi ít biết chỗ ở của nhau. Nhưng không bao giờ tôi quên đôi mắt đen sáng rực với cái nhìn chân thành, thẳng thắn và sâu thẳm của chị Lắm. Khi giao nhiệm vụ đánh trận Majestic, chị gọi tôi bằng ?ochú? rất tin yêu, trìu mến. Chị Lắm hy sinh, không để lại một tấm hình, không một dòng địa chỉ. Chiến tranh, loạn lạc gia đình người chú của chị Lắm thất lạc, vừa mới tìm lại được. Trách nhiệm xác minh, làm thủ tục truy tặng bằng Tổ quốc ghi công cho chị Lắm thuộc về đồng đội của chị Lắm. Lãng quên công ơn người hy sinh là có tội??.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tập kết ra Bắc, cô Huê liên tiếp về công tác tại Nông trường Lam Sơn của quân đội và Nông trường Cửu Long ở Lương Sơn (Hoà Bình). Hiện nay cô Huê đã nghỉ hưu và sống tại ngôi nhà 60 đường Lê Đại Hành, quận 11, TP.Hồ Chí Minh. Cô Nguyễn Thị Đào sau khi ra tù bị ốm nặng, phải chữa bệnh trong một thời gian dài. Tháng 3-1963, cô Đào học xong Trường Công đoàn về công tác tại Nhà máy dệt 8-3, Hà Nội. Năm 1983, cô Đào về nghỉ hưu tại 70 đường Nguyên Hồng, quận Bình Thạnh. Riêng cô Nguyễn Thị Kim Dung được cử đi học y tá, bền bỉ học hết chương trình cấp 3 rồi thi vào Đại học Dược. Năm 1970, cô được cử đi tu nghiệp về Dược tại Bungari. Năm 1975, cô về Sài Gòn, công tác tại Bộ Y tế phía Nam, là giảng viên môn Dược chính, Đảng uỷ viên của Đảng uỷ Khoa Dược Trường đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh. Nhiều năm liền cô là chiến sĩ thi đua của cấp cơ sở và thành phố. Đó là một quá trình đầy mồ hôi, nước mắt dành cho một bà mẹ đơn thân nuôi con, vì con đã cắn răng hy sinh mối tình đầu của mình. Một cô Kim Dung mềm yếu, dịu dàng hiện ra trước mắt tôi với tâm tư trĩu nặng về chuyện mình, chuyện đời. Cô đã nâng niu, đã khóc khi đọc lại những vần thơ đồng đội viết tặng mình:
    ? Với kẻ thù chị là nữ tử tù
    Với gia đình chị là người con trung hiếu
    Tuổi còn trẻ trong thâm tâm chị hiểu
    Vì quê hương vì Tổ quốc quên mình
    Cha mẹ khóc thầm biết sao tìm được
    Thi thể con người giữa chốn lao lung
    Chiếc lắc cha làm thấm bao nước mắt
    Gởi cho chị đeo như dấu ấn nhận con về
    Ôi, nhỏ nhoi như chiếc lắc vô tri
    Mà mang nặng nghĩa tình cha mẹ
    Sưởi ấm lòng đêm xà lim lạnh giá
    Là ngọn lửa hồng nuôi ý chí đấu tranh
    ? Và như một giấc mơ
    Chị trở về trong vòng tay Tổ quốc
    Chị đã thắng vì kiên gan vững bước
    Chiếc lắc thiêng liêng bên chị suốt dặm đường?

    Hiện cô Kim Dung đang sống tại số nhà 137/14C đường Nguyễn Cư Trinh quận 1. Cô Hoàng Thị Thanh, người may mắn thoát ra được cửa rạp Majestic một cách an toàn. Giữa năm 1949, cô được cấp chỉ huy đưa ra căn cứ học tập, sau đó cô được về công tác tại Văn phòng Bộ Tư lệnh phân liên khu miền Đông rồi Văn phòng Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Năm 1954, cô tập kết ra Bắc, được đi học ngàn Dược của quân đội. Năm 1975, cô công tác tại Bệnh viện Thống Nhất. Có thể nói, cuộc đời cô Thanh may mắn, bình yên hơn những người bạn khác? Tôi gặp lại những nữ cảm tử quân năm ấy trong dịp các cô đang tổ chức lễ đón bằng Tổ quốc ghi công cho đồng chí Trung đội trưởng Dư Thị Lắm năm xưa tại Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, trên gương mặt các cô vẫn còn in dấu một thời xuân sắc. Những người con gái từng làm chấn động điện Élysées nước Pháp năm xưa chìm khuất giữa đời thường trong dán vẻ dung dị nhưng ẩn chứa một sức mạnh Việt Nam diệu kỳ.
    Trầm Hương
  5. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Người phụ nữ góp phần dựng nghiệp nhà Trần: Trần Thị Dung
    --- Trần Bình ---
    Bà Trần Thị Dung là con gái ông Trần Lý ở thôn Liêu Gia, xã Lưu Xá, huyện Hưng Nhân (tỉnh Thái Bình ngày nay). Tháng 7 năm Kỷ Tỵ (1209), hoàng tử Sảm, con trai vua Lý Cao Tông (sau này trở thành vua Lý Huệ Tông) chạy loạn giặc Quách Bốc, về Hưng Nhân. Thấy Trần Thị Dung có nhan sắc, hoàng tử Sảm cưới làm vợ, mặc dù triều đình nhà Lý chưa đồng ý. Sau khi lấy hoàng tử nhà Lý, thế lực gia tộc Trần-Lý bắt đầu lớn mạnh. Họ tập hợp lực lượng, dẹp loạn và rước vua Lý Cao Tông về kinh đô, khôi phục chính sự cho nhà Lý. Sự kiện này là tiền đề để nhà Trần bước vào cung đình nhà Lý, mà Trần Thị Dung là nhịp cầu mở nghiệp nhà Trần. Ông Trần Lý được phong tước Minh tự. Cậu ruột là Tô Trung Từ được phong tước Điện tiền chỉ huy sứ.
    Tuy nhiên con đường mở nghiệp nhà Trần cũng nhiều gian nan, trắc trở. Do việc hoàng từ Sảm tự ý lấy Trần Thị Dung, cho nên khi đã khôi phục được chính sự, vua Lý Cao Tông cho đón hoàng tử Sảm về cung đình, mà không cho đón Trần Thị Dung. Dung còn bị đưa trở lại nhà bố đẻ. Đến tháng 10 năm Canh Ngọ, vua Lý Cao Tông chết (1210), Hoàng tử Sảm chính thức lên ngôi vua (Lý Huệ Tông 1211-1224). Vua Lý Huệ Tông cho đón vợ về cung. Lúc đó Trần Tự Khánh (anh trai Dung) lại ngăn trở, lấy lý do còn loạn lạc. Mãi sau Trần Thị Dung mới chính thức được đón về cung đình nhà Lý và được lập làm nguyên phi. Ba năm sau, Trần Thị Dung lại bị giáng xuống làm ngự nữ. Tháng 6 năm Bính Tý (1216) mới được đưa lên làm phu nhân Thuận chính. Và mãi tới tháng 12 năm Bính Tý, bà mới chính thức được phong làm hoàng hậu. Mấy năm trời, một mình bà Trần Thị Dung phải vật lộn với bao gian truân, trước sự lạnh nhạt và ngược đãi của Hoàng thái hậu nhà Lý, của đám quần thần nhà Lý. May thay, vua Lý Huệ Tông rất quý vợ, triều đình nhà Lý giáng bà xuống, vua Lý Huệ Tông lại phong bà lên, bảy năm trời bà Trần Thị Dung trải qua nhiều chức phận từ ngự nữ, nguyên phi, phu nhân Thuận chính rồi mới là Hoàng hậu.
    Lên ngôi hoàng hậu, lập tức cả hai người anh trai của bà: Trần Tự Khánh được phong chức Thái úy phụ chính; Trần Thừa (bố Trần Cảnh, người sau này trở thành ông vua đầu tiên của nhà Trần) được phong làm Nội thị phán thủ. Lúc này, vua Lý Huệ Tông bị trúng phong mắc chứng bệnh tâm thần, mọi công việc triều chính của nhà Lý đã trao cả vào tay Trần Tự Khánh. Việc chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần bắt đầu với việc xuất hiện Trần Thủ Độ (em họ Trần Thị Dung) trong cung đình nhà Lý. Nắm chức Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Thủ Độ có quyền lực, ông cùng với hoàng hậu Trần Thị Dung thực hiện thành công sự kiện Lý Chiêu Hoàng (Vua Lý Huệ Tông truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng), năm (1224). Ngày 25 tháng 10 năm ất Dậu (1225) Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
    Đánh giá sự kiện này, các sử gia đều cho rằng Trần Thủ Độ là người có công trong việc xếp đặt nhân sự, mà người cộng sự đắc lực và cực kỳ quan trọng là hoàng hậu Trần Thị Dung, mẹ đẻ của Lý Chiêu Hoàng, cô ruột của Trần Cảnh.
    Ngô Sĩ Liên đã nhận định: "Trời sinh ra Linh từ (Trần Thị Dung) cốt để mở nghiệp Trần". "Nói về phần giúp đỡ nội trị cho nhà Trần, thì Linh từ là người có nhiều công to".
    Với những chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta trong kháng chiến chống Nguyên-Mông, dưới sự lãnh đạo của triều Trần, cùng với những thành tựu to lớn trong việc chấn hưng đất nước thời đại nhà Trần, rõ ràng bà Trần Thị Dung không những chỉ có công trong việc mở nghiệp nhà Trần mà còn có công lớn trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng nước Đại Việt hùng mạnh.
  6. khangthien

    khangthien Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/11/2004
    Bài viết:
    297
    Đã được thích:
    0
    Hình như ỡ link http://www2.ttvnol.com/f_533/542477/trang-4.ttvn
    có nói là Lê Văn Tám là tuyên truyền thôi mà
    KT
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Trong trận Hà Nội tháng 12-1946 có khá nhiều (không ít hơn 100) thiếu niên từ 7-14 tuổi tham gia chiến đấu trực tiếp cùng tự vệ, vệ quốc đoàn. Và họ thì không phải tuyên truyền.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Góc khuất của một người Anh hùng
    Chắc có lẽ phải đi hết cuộc chiến ở Việt Nam và một chặng đường dài sau ngày thất bại thảm hại ở chiến trường miền Nam, những người Mỹ mới có dịp nhìn lại để lý giải vì sao súng đạn của họ lại không hạ gục được một ?otinh thần Việt Nam?, và chẳng ở đâu trên khắp thế giới này lại có cả một ?ođội quân tóc dài? của nữ tướng mang tên Nguyễn Thị Định kiên cường đến vậy. Đúng như lời khen ngợi của Bác Hồ khi Người dự lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (LHPNVN) rằng: ?oPhó Tổng tư lệnh quân giải phóng miền Nam là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho cả miền Nam, cho cả dân tộc ta??. Người con gái nơi miệt vườn Lương Hoà, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre ấy đã bước vào cuộc hiên ngang và kiêu hùng, cô Ba Định là một trong những người đầu tiên vượt trùng dương mở đường Hồ Chí Minh trên biển đưa vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm từ miền Bắc vào miền Nam, nhen lên ngọn lửa đồng khởi Bến Tre, đưa cuộc chiến tranh nhân dân lên một tầm cao mới, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
    [​IMG]
    Ấn tượng lần đầu được gặp Bác Hồ
    Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng cũng như những năm tháng ở Hà Nội với trọng trách là Chủ tịch Hội LHPNVN và Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, cô Ba Định, cách gọi thân mật của mọi người thường vẫn dành cho bà Nguyễn Thị Định, luôn sống trong kỷ niệm lần đầu được gặp Bác sau thành công của Cách mạng Tháng 8. Là con gái xứ miệt vườn. Chưa tung quen sóng gió nhưng cứ nghĩ sẽ được thay mặt đồng bào Nam Bộ báo cáo tình hình với Bác, cô như quên đi cám giác say sóng suốt chặng đường dài lênh đênh trên biển. Cộ Ba Định thường tâm sự với thư ký riêng của mình ở Hội LHPNVN rằng: "Cả đời cô đối mặt với những trận càn quét, truy lùng, những đòn tra tấn của quân địch mà không bao giờ khóc, nhưng khi gặp Bác lại không cầm được nước mắt". Đấy là một chiều tháng năm đầy nắng, cô đang ngồi trò chuyện cùng đồng chí Đặng Thai Mai (lúc ấy là Bộ trương Bộ Giáo dục) thì có tiếng ô tô đỗ xịch trước cưa. Thật bất ngờ khi người bước ra khỏi xe lại chính là Bác, cô đã reo lên vui sướng: "Đúng là Bác rồi!?. Bác giản dị trong bộ quần áo ka ki, niềm nở hỏi chuyện mọi người. Cô Ba Định còn được vinh dự ngồi canh Bác. Là cán bộ trẻ lại được gặp Bác lân đầu, cô và cả những anh em trong đoàn cứ nghẹn ngào không nói được gì. Mãi đến khi Bác chỉ định ?ocô Ba? nói trước: ?oCô nói cho Bác nghe tình hình nhân dân, bộ đội ta ở Nam Bộ bây giờ thiếu thốn những gì? Các cô, các chú muốn yêu cầu, đề nghị gì?". Nghe mọi người báo cáo những khó khăn, thiếu thổn của đồng bào miền Nam, Bác đã khóc. Cô Ba Định không bao giờ quên được hình ảnh ấy. Từng được nghe kể về Bác, lúc được gặp Người, cô càng tôn kính và tin tưởng cách mạng thành công. Vui hơn nũa là ngày 19-5, cô còn vinh dự được đến chúc thọ Bác. Cồ cứ nhớ mãi ánh mắt dịu hiền và lời dặn dô của Người: "Lòng già Hồ, lòng dân miền Bắc lúc nào cũng ở bên cạnh đồng bao miền Nam ruột thịt. Cả nước ta một lòng đánh đuổi giặc Pháp, nhất định chúng ta sẽ thắng lợi, sẽ có ngày Narn Bắc đoàn tụ một nhà. Lúc đó, chúng ta sẽ liên hoan thắng lợi một thể?. Mang những tình cảm sâu nặng của Bác theo chuyển tàu chở vũ khí vào chiến trường miền Nam đầy gian nguy, cô như được tiếp thêm sức mạnh cùng anh em chở vũ khí về an toàn khi đồn bốt của địch động dày đặc ven biển tỉnh Bến Tre.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Vượt lên nỗi dàu, đau nỗi đau người đời người
    Chắc hẳn nếu kể đến những người phụ nữ bất hạnh do chiến tranh thì cô Ba định là một trong những người hứng chịu những gì cay đăng nhất. Hạnh phúc chẳng tày gang khi cô mới sinh con được 3 ngày thì anh Ba Bích, người chồng thương yêu bị giặc bắt, đày đi Côn Đảo 5 năm rối vĩnh viễn nằm lại nghĩa trang Hàng Dương. Chẳng lâu sau, cô cũng bị bọn chúng bắt giam, người con trai duy nhất cô đành gửi lại bà ngoại. Công việc cách mạng cứ choán hết tâm trí của người đàn bà mang trong mình ba mối hận như cái bí danh "Ba Hận" của cô: Hận mất nước, hận mất chồng, hận mất con (con trai cô sau ngày tập kết ra Bắc bị bệnh trọng qua đời). Chẳng thế mà khi đã trở thành Phó tổng Tư (lệnh quân giải phông miền Nam, ví nữ tướng ấy vẫn thường hành quân cùng bộ đội, vá áo (cho chiến sĩ và ân cần chăm sóc họ như chính những đứa con của mình. Hình ảnh ?ocô Ba" với áo bà ba, khăn rằn, nón lá, đeo chiếc túi nhỏ đã trở thành biểu tượng niềm tin của quân, dân miền Nam và chị em hoạt động cách mạng cả nước. Trong chuyến công tác vào Quảng Trị vừa qua, tôi tình cờ gặp thương binh Nguyễn Thị Toàn ở Cam Lộ, người từng hoạt động cách mạng, bị địch (bắt, tra tấn chặt mất một cánh tay kể rằng: ?Sau Hiệp định Paris, hàng trăm chị em tù chính trị được dồn lên máy bay đưa về sân bay Lộc Ninh thả tự do nhưng không ai tin, cứ nghĩ rằng chúng đem đi thả ra biển. Mãi đến khi các chị nhìn thấy chị Ba Định ra đón ở sân bay thì mới tin mình được thả tự do thực sự". Ngay cả khi chiến tranh đã kết thúc, trở về với đời thường, cô Ba vẫn giữ tình cảm ấy với bạn bè đồng nghiệp, với những người giúp việc cho mình. Chị Phạm Thị Hồng Hợi là thư kí văn phòng cho cô ở Hội LHPNVN xúc động kể lại sự quan tâm chân tình của cô đối với các thư kí của mình. Khi nhận nhiệm vụ giúp việc cho cô Ba Định chị đã 36 tuổi mà chưa chịu lập gia đình. Những buổi tối, sau khi đã đọc hệt các văn bản cần xử lý, cô thường khuyên chị phải lấy chồng để có một tổ mà chăm lo. Cô Ba quan tâm tới tất cả mọi người, nhưng thường hay nhắc và thường chị Phương Minh, cũng là thư kí cua cô, vì chồng là bộ đội biên phòng xa nhà triền miên, đến lúc được về gân vợ gần con thì đổ bệnh mất. Chị Hợi nhớ mãi một ngày trước hôm khai mạc Đại hội Đảng lẩn thứ VI, cô Ba nhận được điện bao từ quê "mẹ mất" mà không thể về được, cô chỉ nén khóc một mình. Và ngày nhận được tin báo Liên Xô sụp đổ, cô cũng khóc suốt mấy tiếng đồng hồ, cô thấy tiếc cho một cường quốc xã hội chủ nghĩa mà thầm lo cho đất nước mình.
    [​IMG]
    Nhưng Chuyến đi thực tế tại các trại giam ở Hà Nội
    Là người mang nhiều trọng trách nhưng cô Ba luôn xác định việc nào làm trước, việc nào làm sau và đã làm thì làm đến nơi, làm cho ra vấn đề mới thôi. Khi cô đảm đương trọng trách Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ kiểm tra việc thi hành pháp luật, mỗi ngay văn phòng của cô nhận tới hơn 200 đơn thư khiếu nại, tố cáo. Có những ngày, dân từ các tỉnh xa như Quảng Ninh, Thái Bình, Hải Phòng khăn gói tụ tập đông nghẹt trước cửa Hội LHPNVN đòi gặp trực tiếp cô Ba, cô đã đích thân ra giải thích cho mọi người hiểu và tin vào sự nghiêm minh cua pháp luật và cho họ tiền tàu xe về quê. Cô đã trực tiếp giải quyết nhiều vụ án oan sai, tồn đọng lâu ngày gây bất bình trong dư luận quần chúng. Thẳm sâu trong người phụ nữ từng kinh qua những thời khắc gian khổ và hào hừng trong chiên tranh luôn ẩn chửa nhưng khát khao xoa dịu nỗi đau cuộc đời. Đối với những người cùng tham gia trong chuyến công tác kiểm tra các trại giam ở Hà Nội với cô Ba sẽ chẳng bao giờ quên tình cảm ấm áp của một người lính, một người mẹ trải ra với cả những người đã một thời lầm lỗi. Đến Trại giam Hỏa Lò, cô dành nhiều thời gian thăm khu nhà giam phạm nhân nữ. Cô đặc biệt chú ý tới 3 trường hợp: một chị có con lên 3 tuổi ở cùng mẹ trong tù, một chị có con nhỏ đang còn bú mẹ, một chị đang có thai sắp đến ngày ở cữ. Cô đã yêu cầu trại giam mua một số chiếu cá nhân cho chị em, nằm sàn xi măng lạnh hại súc khỏe, đề nghị khơi thông công trình phụ không để bốc mùi và cố gắng tăng khẩu phần ăn cho cháu bé. Khi đến thăm những phạm nhân phạm tội trộm cắp tài sản, thấy hàng dài những rương mặt trẻ măng xếp chật kín sân, cô không kìm được nước mắt với day dút ?ođáng lẽ lực lượng này phải là lao động chủ lực ngoài xã hội!". Cô yêu cầu phải phân loại và dạy nghề, trại nên thành lập một xưởng sản xuất đồ mộc để các phạm nhân tập trung tham gia lao động, không hành động tiêu cực. Những phạm nhân được cô tới thăm, khuyên bảo ân cần đêu cảm động, khóc và hứa với "cô Ba" sẽ cải tạo tốt để trở về sum họp gia đình và làm ăn lương thiện.
    Những câu chuyện ân tình về ?ocô Ba? sẽ chẳng bao giờ kể hết, bởi từ khi biết căm thù quân Pháp và tay sai ức hiếp bà con trên rừng dừa quê hương, cô đã nguyện một đời theo cách mạng, nguyện một đời chiến đấu và dấu tranh. Đồng bào cả nước và cả nhân dân thế giới không bao giờ quên người phụ nữ thổi bùng lên ngọn lửa Đông Khởi khắp Bến Tre. Lần đầu tiên trong lịch sử, hơn 5.000 phụ nữ cả bà già, trẻ em mang theo heo, gà, vịt ngan, ngỗng họp thành một đoàn lớn toàn những người đội khăn trắng, mặc áo rách ùn ùn kéo vào Mỏ Cày đòi chấm dút khủng bô, đòi bồi thường nhân mạng, trừng trị bọn ác ôn Ở Phước Hiệp... Hình ảnh hào tráng đó đã được đoàn làm phim "Đêm Bến Tre" (đạo diễn Trần Phương) tái hiện với rừng người, rừng đuốc rục sáng cả đất Mỏ Cày trong đêm Đồng Khởi. Và cho đến nhưng ngày cuối cuộc đời, cô Ba Định vẫn đau đáu với kế hoạch trở về quê, đến tận nhà thăm những bà con đã đùm bọc, che chở minh trong những ngày máu lửa ấy.
    Thu Uyên
  10. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Nhắc đến những người phụ nữ nổi tiếng của Việt Nam, không thể không nhắc đến Nguyên Phó ************* Nguyễn Thị Bình, người đã góp công rất lớn trong chiến thắng tại Bàn đàm phán Paris năm 1973.
    [​IMG]
    Bà - một Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam (CMLTCHMN) Việt Nam lúc đó. Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, hay thường được gọi là Hiệp định Paris, được ký ngày 27-1-1973 sau gần 5 năm đàm phán, là kết tinh sức mạnh dân tộc và chiến thắng huy hoàng của ngành ngoại giao Việt Nam. Để có được Hiệp định lịch sử đó, có sự đóng góp của rất nhiều người, nhiều ngành, và cả dân tộc, trong đó có vai trò của Bà.
    Sơ lược tóm tắt tiểu sử bà Nguyễn Thị Bình - một phụ nữ Việt Nam tiêu biểu:
    Bà Nguyễn Thị Bình sinh ngày 26-5-1927 tại Châu Đốc, Sa Đéc, Đồng Tháp. Quê quán: Điện Bàn, Quảng Nam.
    Quá trình hoạt động: Tham gia cách mạng từ năm 1946: Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ CMLTCHMN Việt Nam tại Hội nghị Paris (1968-1973). ; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ CMLTCHMN Việt Nam (6/1969-7/1976)
    Các chức vụ sau khi làm Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ CMLTCHMN Việt Nam: Bộ trưởng Bộ Giáo dục; Phó ************* CHXHCN Việt Nam; Ủy viên T.Ư Đảng khoá V.
    Được tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng...
    Được boysaigon sửa chữa / chuyển vào 11:18 ngày 03/06/2006

Chia sẻ trang này