1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những anh hùng có công mở mang, khẩn hoang bờ cõi

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi phuongnam_kts, 21/07/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. mixture

    mixture Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/04/2006
    Bài viết:
    1.255
    Đã được thích:
    311
    Tóm lại, đây là giai đoạn cuối của mặt trận thứ 3 mà phe pro TĐ mở ra. Tớ tóm tắt lại các vùng chiến trường nhé:
    - Nhận giặc làm cha, tung hô TĐ: bị phản biện, bí , đánh trống lảng
    - Thấy trò hề lảm nhảm bịt tai tung hô nhạt dần, đẻ nhầm bắt đầu lôi truyện cổ ra mở mặt trận thứ hai: phỉ báng Văn Lang "mán mọi..." ----> Bị vạch trần sự kém hiểu biết ngay cả chuyện cổ, bịa đặt trắng trợn các chi tiết...
    - Đẻ nhầm liền quay sang bài xích Thục Phán, bí dần đành choi cú chót: lôi Âu Lạc của Thục Phán lên tít Quảng Tây ----> Tất nhiên là chứng minh sự kém hiểu biết này rất dễ dàng.
    Đón đọc tiếp xem bây giờ đẻ nhầm ngoài chuyện chửi bới ra, còn mở được thêm một mặt trận nào nữa để giễu hề không
  2. sinhnhamtk

    sinhnhamtk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/04/2007
    Bài viết:
    445
    Đã được thích:
    0
    Mix có biết mọi người đang nhìn mix với ánh mắt cực kỳ thương hại không ? (tớ cũng vậy)
    Được sinhnhamtk sửa chữa / chuyển vào 05:20 ngày 24/08/2007
  3. mixture

    mixture Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/04/2006
    Bài viết:
    1.255
    Đã được thích:
    311
    Cứ nghĩ mọi người ai cũng là quái thai à
  4. mixture

    mixture Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/04/2006
    Bài viết:
    1.255
    Đã được thích:
    311
    Đẻ nhầm cứ sửa đi sửa lại làm tớ ban đầu không thấy toàn bài.
    - Dân Việt ở Cam chứng minh được là dân Việt. Nhưng Âu Việt ở bắc bộ, đẻ nhầm chứng minh được đó là Tây Âu hay Đông Âu không? Chỗ nào?
    - Chuyện Thục Phán ở Quảng Tây, đẻ nhầm chứng minh được không ? Cũng không. Tài liệu đã dẫn: Thục Phán lãnh đạo Âu Việt ở bắc bộ. Và do đó,việc xuất thân của ông ta từ bắc bộ, đủ uy tín để lãnh đạo Âu Việt, và sau này cả Lạc Việt, là hiển nhiên.
    - Âu Việt sống xen kẽ với Lạc Việt, trong vùng bắc bộ, bao phủ bởi liên minh Văn Lang, thế thì tại sao trong địa phận liên minh lại có thể tồn tại các bộ lạc không thuộc liên minh? Thục Phán nếu từ trước không có chức quyền gì thì làm sao có thể tập hợp được Âu Việt ở Bắc bộ sau này ? Vậy khả năng Thục Phán là lạc tướng của Âu Việt trong liên minh Văn Lang hoàn toàn có thể xảy ra. Chỉ những kẻ đầu bị bọn Tàu, bị lão kiểng nhồi chặt như vậy mới lắc đầu mà không phản biện nổi thôi.
    - Việc trùng tên Âu Việt, tớ có dẫn chứng, trích ngay từ link Bách Việt của đẻ nhầm. Đẻ nhầm không hiểu thì tại cái IQ của đẻ nhầm bị âm rồi đấy
    - "đánh" An Dương Vương có vẻ không xong, giờ quay về Triệu Đà ư? Vậy chứng tỏ mặt trận thứ 3 của đẻ nhầm đã tan nát rồi, giờ chỉ trở lại mặt trân 1 mà giở trò cũ: lải nhải, tấu hề tung hô Triệu Đà mà bịt tai trước những bằng chứng phản bác. Vậy cũng được, đẻ nhầm cứ bịt tai, tớ cứ thuyết minh tiếp những trò hề của đẻ nhầm vậy
    - chuyện cạch mặt thì đẻ nhầm nói lần này lần thứ xxx rồi. Mấy thằng nói mà không giữ được lời, bệnh hoạn như vậy bị khinh bỉ nhiều lắm. Tớ thì lại thấy tội nghiệp, nên sẽ cố gắng dạy dỗ đẻ nhầm tiếp tục vậy
  5. vieetvnam

    vieetvnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/07/2007
    Bài viết:
    628
    Đã được thích:
    1
    Theo nghiên cứu khoa học em được biết thì An Dương Vương được cho là người dân tộc thiểu số (không phải người Kinh) ở vùng núi phía Bắc Việt Nam, chắc chắn không phải là NGƯỜI HÁN HAY NGƯỜI NƯỚC THỤC BÊN TÀU.
    Khoa học khẳng định, trong lịch sử nước ta KHÔNG CÓ VỊ VUA NÀO HỌ "THỤC", TÊN "PHÁN".
    HAI TỪ "THỤC PHÁN" LÀ HỆ QUẢ CỦA VIỆC PHIÊN ÂM HÁN VIỆT, SAU ĐÓ ĐƯỢC CHÉP LẠI TRONG CHÍNH SỬ.
    Ở phương diện ngôn ngữ học, từ "Thục Phán" là biến âm của một số từ, âm cổ được phát âm như "túc phăn", "tục phăn" đều có nghiã là "người đứng đầu" (thủ lĩnh). CÁC ÂM NÀY ĐỀU THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ PHƯƠNG NAM, KHÁC HOÀN TOÀN VỚI NHÓM NGÔN NGỮ HÁN-TẠNG Ở PHƯƠNG BẮC.
    => Do đó có thể khẳng định AN DƯƠNG VƯƠNG THỤC PHÁN (hãy cứ gọi ông như thế) LÀ NGƯỜI BẢN ĐỊA Ở VIỆT NAM CHỨ KHÔNG PHẢI NGOẠI LAI PHƯƠNG BẮC
  6. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Trống đồng là bảo vật, thường là người có quyền thế và vai vế trong xã hội như tù trưởng bộ lạc, tộc trưởng thị tộc. Trống đồng rất phổ biến nên ở từng bộ lạc vẫn có được, không cần thiết là phải từ 1 bộ lạc khác truyền cho. Con số 18 con chim ấy là con số thiêng nên mới vậy, chứ đâu cần phải là vì 18 bộ lạc của liên minh Văn Lang (sử sách nói 15 bộ lạc). Với lại theo như ở trên 18 người con ấy phải là ở 1 bộ lạc mới đúng, vậy ra bộ lạc Văn Lang lúc đầu có 18 thị tộc? Dẫu sao vẫn chứng tỏ, Văn Lang là 1 liên minh bộ lạc gần gũi về địa lí, văn hoá, rất có thể chuộng con số 18 (bội số 9) (rất có thể vì con số 18 người Trung Quốc cũng thích, ví dụ 18 đời vua nhà Hạ, 18 ban võ nghệ...)
    Đồng ý với học giả phương tây, rõ ràng người Lạc Việt dùng trống đồng không chỉ ở liên minh Văn Lang mà còn có các bộ lạc khác ở vùng đất ngày nay thuộc Trung Hoa. Văn hoá Điền ở Vân Nam có liên hệ với Bắc bộ qua giòng sông Hồng có thể đi lại, còn ở 2 tỉnh Quảng gần biên giới phía đông bắc qua lại cũng không khó khăn lắm khi đi theo ven bờ biển và vượt biển. Có khả năng trống đồng đưa tới Nam Dương, Mã Lai là do buôn bán mà có, hoặc người ở 3 trung tâm lớn di cư đến mà có trống đồng, chứ thực ra ở ngoài đảo người dân chủ yếu là đánh cá, xã hội không phát triển bằng ở đất liền được.
  7. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Về cơ bản nhà Chu khởi phát ở phía tây của nhà Thương. Nhà Thương là nước cổ đại rồi không còn là liên minh nữa họ kiểm soát được chư hầu và đánh thuế, thành lập được quân đội, những chư hầu ở gần đều là dưới sự kiểm soát của nhà Thương, ở những vùng xa tuy cũng là chư hầu nhưng gọi là các bộ lạc vẫn đúng vì nhà nước rất khó quản lí. Bộ lạc Chu khởi phát ở vùng sông Vị, lúc đầu là 1 bộ lạc nhỏ, sau phát triển thành bộ lạc lớn di cư về phía đông gần các chư hầu của Thương, tại đây họ phát triển thành liên minh bộ lạc, thống lĩnh các bộ lạc gần nhà Thương, phát triển thành 1 nhà nước cổ đại, đóng đô ở đất Phong dưới thời vua Cơ Xương. Đến đời vua Cơ Phát đã đông chinh, đánh bại nhà Thương và cai trị lên các chư hầu nhà Thương.
    Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_Chu
    Hoặc tham khảo Sử Trung Quốc Nguyễn Hiến Lê bên Việt Nam thư quán.
    So sánh với Thục Phán Tây Âu và Hùng vương Lạc Việt. Liên minh Lạc Việt (Văn Lang) không bao giờ gồm Tây Âu (Thục) của Thục Phán. Giống như Thương và Chu là 2 chính thể khác nhau. Thục cai trị lên Văn Lang, thuộc Âu Lạc. Triệu cai trị lên Âu Lạc gọi là Nam Việt. Quan trọng là cách nhìn nhận mà thôi. Ở thời gian trước công nguyên (TCN) ấy, nước này thôn tính nước khác trong 1 vùng địa lí giống nhau, người ta dễ chấp nhận và khi đã định hình quốc gia rõ ràng như thời phong kiến sau này sẽ có cái nhìn khác, lúc đó dân tộc đã định hình rõ ràng.
  8. mixture

    mixture Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/04/2006
    Bài viết:
    1.255
    Đã được thích:
    311
    Tất nhiên Văn Lang ko bao giờ gồm Thục rồi, bởi "Thục" ở đây là chỉ thể chế sau nay khi Âu Việt tập hợp lại.
    Nhưng "Thục" trước đó là các bộ lạc ở bắc bộ, sống xen kẽ với Lạc Việt, vùng được liên minh bao phủ, vậy tại sao không thể có chuyện các bộ lạc Âu Việt này thuộc liên minh?
  9. oke_vn

    oke_vn Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/06/2006
    Bài viết:
    745
    Đã được thích:
    129
    Người Lạc Việt nào ở Quảng Đông ?? 1 số chú bắt đầu nói liều rồi đây...
    Hết topic này, anh sẽ tổng kết và thống kê những lần nói liều và cực liều của chú rân ku sinh nhầm. Mấy hôm nay bận việc quá
  10. mask2007

    mask2007 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2007
    Bài viết:
    65
    Đã được thích:
    0
    Ơ mà Tù Trưởng Dương Văn Xôi ngay cuối trang 1 cũng có phát hiện lý thú về Đức Vua nè. Thế mới biết dù che đậy thế nào đi nữa, thì chân lý vẫn không thể bị bóp méo được.
    Đáng tiếc cho đồng chí Xôi, không đem kiến thức phục vụ Chính Nghĩa mà lại can tâm sa vào con đường tà đạo, chung chạ với Chí Phèo, biết sai vẫn cãi....
    Các đồng chí anti Đà đúng là ếch ngồi đấy giếng, từ đầu Bíc đến giờ cứ ra rả, làm như bọn em là thiểu số ấy.
    Chính ra tư tưởng của các bác mới là thiểu số, nó được đẻ ra cách đây có 250 năm , lạc lõng suốt 200 năm, và mới được nâng tầm thành chính thống cách đây có ... 50 năm. Vậy mà những kẻ ra rả luận điểm này cứ tự xưng vỗ ngực thay mặt Tổ quốc, thay mũi cha anh mới hài chứ
    Nói thế đủ rồi, copy&paste 1 bài viết trên Xưa và Nay, số 253, 254, 2/2006, tr 21-23 cho thêm tính thuyết phục :
    http://www.vusta.vn/news_detail.asp?id=9993
    Triệu Đà, Ngài là ai?
    [​IMG]
    Lịch sử là những văn bản do sử gia viết ra rồi sau đó không ngừng được viết lại. Sự kiện Triệu Đà cũng không ngoài quy luật đó. Nhưng đây là sự kiện đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định nhận thức của người Việt về nguồn cội. Nếu không giải quyết dứt điểm sự kiện này, cái nhìn về lịch sử dân tộc bị nhiễu. Không những thế còn di hoạ tới tâm linh.
    Từ khi giành lại quyền tự chủ, các triều đại Việt đều đề cao vai trò lịch sử của Triệu Đà. Nhà Trần phong ông là Khai thiên thế đạo thánh vũ trần triết hoàng đế. (Đại Việt sử ký toàn thư). Đại Việt sử ký toàn thư ghi:
    ?oHọ Triệu nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng lại nhà Tần, chiếm giữ đất Lĩnh Nam xưng đế, đòi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi 100 năm mới mất, cũng là bậc anh hùng?.
    Sử gia Lê Văn Hưu nói:
    ?oThế mới biết, người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là ?olão phu?, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy"
    Trong An Nam chí lược, Lê Tắc viết:
    ?oTriệu Đà làm vua Nam Việt, mới lấy thi lễ giáo hoá nhân dân một ít?
    . Điều này chứng tỏ Triệu Đà là người mang sự học đến nước ta từ trước chứ không phải Sĩ Nhiếp. Đến nhà Lê, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước. Như vậy, Nguyễn Trãi thừa nhận Triệu Đà là ông vua đầu tiên của nước ta từ thời có sử.
    Hàng ngàn năm, chính sử Việt Nam ghi nhận vai trò lịch sử lớn lao của nhà Triệu. Đến thế kỷ XVIII, Ngô Thì Sĩ (1726-1780) trong Việt sử tiên án viết:
    ?oNước ta bị nội thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến Đường, truy nguyên thủ hoạ cả Triệu Đà thì còn ai nữa? Huống chi Triệu Đà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của lục giả thôi. Đến như việc xướng ra cơ nghiệp đế vướng trước tiên, tán tụng Triệu Đà có công to, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên theo cách chép hẹp hòi ấy, không biết thay đổi, đến như bài Tổng luận sử của Lê Tung, Thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng, cho Triệu Đà là bậc thánh đế của nước ta. Qua hàng nghìn năm mà không ai cải chính lại vì thế mà tôi phải biện bạch kỹ càng.?
    Cho đến nay, trong giới sử học, việc đánh giá Triệu Đà vẫn có hai luồng ý kiến ngược nhau. Là kẻ ngoại đạo không dám lạm bàn, chúng tôi chỉ xin lục ra một số tư liệu lịch sử hầu bạn đọc tham khảo.
    Trong Sử ký Tư Mã Thiên viết:
    " Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà, người huyện Chân Định, trước làm quan uý. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đầy đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Đà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự làm Nam Việt Vũ vương. Đà bèn tự tôn làm ?oNam Việt Vũ đế?, đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa. Đà nhân đó dùng uy lực uy hiếp biên giới, đem của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc mình. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn dặm, Đà bèn đi xe mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là ?ochế? chẳng kém gì Trung Quốc?. ?oĐến thời Hiếu Cảnh, Đà vẫn xưng thần, sai người vào chầu. Nhưng trong nước Nam Việt thì vẫn trộm xưng danh hiệu ?ođế? như cũ; còn khi sai sứ sang thiên tử thì xưng ?ovương?, triều kiến thỉnh mệnh như các chư hầu?.
    Triệu Đà làm vua 70 năm (từ 207 đến 137 TCN), tiếp đó cháu chắt ông truyền 4 đời trị vì 27 năm nữa, đến năm 111 TCN nước Nam Việt vào tay nhà Hán. Nhà Triệu kéo dài được 97 năm.
    Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn ghi:
    ?oĐem số hộ khẩu chép ở sách Hán chí mà so thì nước ta được ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, hơn 20 huyện, đời Hán số hộ cộng là 143.743 nhà, số khẩu cộng là 981.827 người. Thông tính cả hai tỉnh ấy (Quảng Đông, Quảng Tây) ở đời Hán số hộ chỉ là 71.805 nhà, khẩu chỉ là 389.672 người. Như thế nước ta ở đời Hán thì số hộ gấp đôi mà số khẩu gần gấp ba?
    Như vậy, vào năm 220 TCN, nhà Tần chiếm đất của người Việt ở phía Nam sông Dương Tử, và đưa những tội nhân người Hán đến ở chung với người Việt để thực hiện ý đồ lấn đất. Do nhà Tần sụp đổ, thiên hạ đại loạn tạo cơ hội cho Triệu Đà cát cứ. Tuy xưng vương ở Phiên Ngung nhưng số dân của Triệu ít. Trong khi đó ở phía Nam, nước Âu Lạc của An Dương Vương khá mạnh, số dân gần gấp 3 số dân của Triệu. Bên cạnh Âu Lạc còn có các nước Mân Tiệp, Tây Âu Lạc luôn tranh chấp. Nước Âu Lạc tuy lớn nhất trong khu vực nhưng cũng quá nhỏ so với nhà nước phương Bắc.
    Nếu nhà Tần không sụp đổ đúng thời điểm đó, có nhiều khả năng tằm ăn dâu, nhà Tần sẽ thôn tính đất Nam Việt.
    Một khả năng khác: trong cuộc chinh phạt Nam Việt trị tội Triệu Đà xưng đế, nếu tướng Lâm Lư hầu thắng, nhà Hán chiếm Nam Việt ngay lúc đó, có phần chắc Nam Việt cũng bị đồng hoá như các dòng Bách Việt khác.
    Khả năng thứ ba: nếu Triệu Đà theo nhà Hán, sau khi thôn tính Âu Lạc, sáp nhập Nam Việt vào Hán thì có phần chắc là Nam Việt bị xoá sổ trên bản đồ.

    (điều này cho thấy nhờ ơn Đức Vua thắng quân Hán lần thứ nhất, nếu không dân tộc ta đã bị đồng hoá. Chiến Thắng Canh Thân 181TCN phải được đánh giá vĩ đại không kém những Bạch Đằng, Chi Lăng ....)
    Nhìn vào thực tế nước Âu Lạc của Thục Phán, ta thấy, Tục Pắn (tên Việt của Thục Phán) là người Ba Thục trốn chạy nhà Tần đến nương nhờ Lạc Việt, đã chiếm ngôi của vua Hùng, lập nên Âu Lạc. Ban đầu Tục Pắn bị xem là kẻ thoán đoạt cướp ngôi nên bị người Lạc Việt chống lại (sự tích xây Thành Cổ Loa bị đổ). Nhưng rồi sau đó do chính sách cai trị khôn ngoan, nhất là sau hai lần đánh thắng Triệu Đà, đã được nhân dân tín nhiệm. Về cuối đời do mất cảnh giác nên bị Triệu Đà dùng mưu thôn tính. Đúng là Triệu Đà dùng thủ đoạn chiếm nước Âu Lạc nhưng ý nghĩa của sự kiện lịch sử này cần phải bàn.
    Thời đó, sự liên kết trong mỗi quốc gia còn lỏng lẻo và biên giới từng quốc gia chưa ổn định, đang trong xu hướng sáp nhập tập trung thành những quốc gia đủ mạnh để tồn tại. Việc thôn tính các nước Sở, Ngô, Việt? để thành nước Tần không phải là hành động xâm lược mà là công lớn thống nhất đất nước. Tương tự như vậy, việc Triệu Đà chiếm Âu Lạc cũng không thể coi là cuộc xâm lược mà là hành động thống nhất những nhóm, những tiểu quốc người Việt lại thành một nước Việt lớn hơn, ngăn chặn hành động thông tính của kẻ mạnh ở phương Bắc.
    Điều quan trọng là họ Triệu đã duy trì được nước Nam Việt thống nhất trong gần một thế kỷ, vừa xây dựng trong hoà bình vừa kiên cường chống ngoại xâm. Chính điều này đã tạo nên và củng cố tinh thần quốc gia của người Việt. Đây là di sản quý báu nhất họ Triệu để lại cho người Việt. Chính gần một thế kỷ tồn tại của quốc gia Nam Việt giúp cho người Lạc Việt không bị người Hán đồng hoá và sau này có dịp lại vùng lên trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Năm 43 khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, nhân dân Nam Việt cũ từ miền Trung, miền Bắc Việt nam đến vùng Lưỡng Quảng sang tận Hải Nam đều hưởng ứng, trong khi Vân Nam không có động tĩnh gì? Sau này, khi qua khảo sát ở vùng đất phía Nam Trung Quốc, bác sĩ Trần Đại Sĩ thống kê được 200 địa điểm có đền thờ Hai Bà Trưng. Không thể có việc này nếu không có thời kỳ Nam Việt.
    Ngày nay, theo công pháp quốc tế, Triệu Đà tuy là người gốc Hán nhưng đã lấy vợ Việt, sống theo phong tục Việt, cai trị nước Việt thời gian ngón trăm năm: cai trị bằng tập tục, bằng luật pháp Việt Nam, bằng các quan lại người Việt trong một quốc gia độc lập không hề phụ thuộc phương Bắc. Điều này càng chứng tỏ ông là vị vua hợp pháp của một quốc gia độc lập.
    Nếu không có may mắn một trăm năm Nam Việt ấy, dám chắc người Hán sẽ diệt tiểu quốc của Triệu Đà sau đó thôn tính Âu Lạc, tộc Lạc Việt đã bị mất hút trong lịch sử như những dòng Việt anh em khác!
    Các sử gia như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên? đã nhìn nhận công bằng và Nguyễn Trãi đánh giá họ Triệu một cách chuẩn mực. Sử gia Ngô Thì Sĩ khi viết: ?oTriệu Đà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biến số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của Lục Giả? đã tỏ ra bất cập. So với quốc gia còn trong tình trạng sơ khai với những lạc hầu lạc tướng cai quản từng bộ lạc thì một quốc gia có quận huyện, biên số thổ địa là bước nhảy vọt về tổ chức hành chính, về khoa học quản lý xã hội.
    Còn nói ?othu thuế má cung cấp ngọc bích cho nhà Hán? cũng không đúng.
    Suốt 70 năm Triệu Đà làm vua, quan hệ Việt Hán khá lỏng lẻo. Biết Triệu vương xưng đế mà nhà Hán đành chịu, không những thế còn phải lấy lòng bằng cách giữ gìn mồ mả tổ tiên của Triệu, cho thân nhân Triệu là quan (Sử ký). Trong mối quan hệ như vậy, cống phẩm của Triệu Đà chỉ có nghĩa tượng trưng để xác nhận sự thần phục trên danh nghĩa nên không thể làm đầy cái túi tham của Lục Giả, không thể so sánh với việc cống người vàng, thời Trần-Lê. Thêm nữa, nói đầy túi tham của Lục Giả rất có thể là suy luận võ đoán. Là sứ giả của Hán Vũ đế nhưng Lục sinh là trí thức lớn, một nhân cách lớn. Không chỉ lớn trong cách ứng xử với Triệu Đà mà sách sử còn truyền câu nói nổi tiếng của ông: ?oVương giả dĩ dân vi thiên, dân dĩ thực vi thiên?. (Vua lấy dân làm trời, dân lấy ăn làm trời). Con người như vậy hoàn toàn không phải là Mã Viện với những xe ?oý dĩ? tiếng để đời. Rõ ràng, chứng lý đưa ra để kết tội Triệu Đà là không thuyết phục.
    Nhưng vì sao Ngô Thì Sĩ lại có cái nhìn thiếu chuẩn mực như vậy? Chỉ có thể là, với tinh thần tự tôn dân tộc, ông không chịu một ông vua Hán tộc!
    Trong lịch sử thế giới, một người nước này làm vua nước khác không hiếm.
    Ngay bên chúng ta, tới cuối thế kỷ XVIII, vua nước Xiêm là một người Trung Quốc tên Trịnh Quốc Anh từng kéo quân sang đánh Hà Tiên. Còn với chúng ta thì đúng Triệu Đà là người Hán nhưng dân Nam Việt lúc đó hầu hết là người Việt, vì vậy không thể phủ nhận việc ông là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt, ông vua khai sáng của Việt Nam chúng ta.
    Mặt khác, vợ ông là Trình Thị người Đường Thâm bộ Giao Chỉ (nay là Đồng Xâm, Thái Bình) nên con ông, Trọng Thủy ít nhất có nửa phần máu Việt, còn cháu ông là Triệu Hồ cũng mang dòng máu Việt, đến Anh Tề, phần máu Việt cao hơn. Họ Triệu chẳng những có công khai sáng Nam Việt mà ngày càng gắn bó bằng tâm hồn bằng máu huyết với Tổ quốc mới của mình!
    Chúng tôi, thế hệ sinh cùng Cách mạng Tháng Tám, những ngày sau hoà bình lập lại 1945, học sử Việt Nam, được dạy Triệu Đà là ông vua khai sáng nước Việt. Nhưng ít năm sau, Triệu Đà trở nên tên xâm lược, bị lên án trong sách sử. Đường phố mang tên ông bị đổi tên, đền thờ ông ở Đồng Xâm, ngôi đền lớn và đẹp vào loại nhất ở Bắc bộ bị trưng dụng làm kho chứa thóc, hư hại cùng năm tháng. Gần đây lễ hội đền Đồng Xâm được mở lại nhưng đó là lễ hội ông tổ nghề chạm bạc! Có một nỗi bất bình âm thầm trong lòng người chưa được giải toả.
    Một câu hỏi cần phải trả lời gấp: Triệu Đà ông là ai? Người Tàu không nhận ông là Tàu vì ông là Nam Việt hiệu uý. Còn với người Việt ông bị coi là giặc xâm lược! Vậy ông là ai?
    Ruột bỏ ra da ôm lấy từng là nỗi đau của bao người. Mồ cha không khóc lại khóc đống mối từng là bi kịch của không ít gia đình, dòng họ? Nhưng vì những lầm lẫn mà chối bỏ người khai sáng quốc gia, chối bỏ cả thời đại quan trọng trong lịch sử lại là nỗi đau nỗi nhục của cả một dân tộc! Đã đến lúc vụ án Triệu Đà - Trọng Thuỷ phải được tính lại.
    __________________
    Sách tham khảo
    1. Lê Tắc. An Nam chí lược. Bản diện tử Lê Bắc.
    2. Ngô Thì Sỹ. Việt sử tiêu án. Văn sử tái bản năm 1991. Bản diện tử Lê Bắc trang 10.
    3. Sử ký Tư Mã Thiên, NXB Văn học H. 1988, tr. 743.
    4. Phủ Biên tạp lục NXB KHXH H 1977, tr 31
    Nguồn: Xưa và Nay, số 253, 254, 2/2006, tr 21-23

Chia sẻ trang này