1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những bài bình luận Văn học hay

Chủ đề trong 'Văn học' bởi thosan, 18/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Những bài bình luận Văn học hay

    Da Trắng Vỗ Bì Bạch


    Trong những chuyện đời xưa thuộc giới làng Nho có một giai thoại khá sôi động, gay cấn, và cũng đầy đủ các yếu tố để vượt cả không gian lẫn thời gian. Đó là câu chuyện mang tính hư cấu xung quanh câu đối ?oDa trắng vỗ bì bạch? tục truyền do nữ sĩ Đoàn Thị Điểm thách thức Trạng Quỳnh.

    Câu chuyện xảy ra như sau. Một hôm Trạng Quỳnh bắt gặp nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đang tắm, vừa tắm vừa ngâm thơ ca hát. Trạng ta hình như mê mệt nữ sĩ đã lâu nên lên tiếng xin tắm chung, hay ít nhất cũng xin nữ sĩ cho chiêm ngưỡng thân hình kiều diễm để có hứng nay mai lên đường đi sứ sang Tàu. Nữ sĩ không chút gì hờn giận lại đọc lên câu đối ?oDa trắng vỗ bì bạch? ngụ ý bảo ông Trạng Quỳnh nếu đối được câu đối kể trên, nàng sẽ hết sức chiều theo ý của Trạng.

    Câu đối này thật hay, xem dễ nhưng thật ra rất khó, bởi nó vừa tả "trạng thái" đang tắm của nữ sĩ, vừa đối chữ Nôm DA TRẮNG với chữ Nho BÌ BẠCH, liên kết với nhau bằng động từ VỖ. Bì nghĩa là da (như bì cuốn, bánh tầm bì), bạch tức trắng (như bạch diện thư sinh, Bạch Mi đạo nhân). Bì bạch gọi chung nhau lại biến thành một phó từ hỗ trợ cho động từ vỗ. Vỗ vào da trắng lúc đang tắm gây ra tiếng kêu bì bạch. Câu đối đó chỉ có 5 từ thôi nhưng rất súc tích và không kém khêu gợi. Khung cảnh và tình huống ***y xung quanh câu chuyện này cũng rất ý nhị, dễ thương và dư sức vượt không gian và thời gian. Nó có thể xảy ra vào bất cứ thời đại nào hoặc bất cứ nơi nào trên thế giới với chi tiết thay đổi chút ít. Thí dụ, thay vì tắm dội gáo như ngày xưa, bây giờ tắm vòi sen shower, tắm bồn nước spa, tắm hơi saunạ..; thay vì một ông Trạng với nữ sĩ, ta có một chuyên viên điện toán với một nữ chiêu đãi viên hàng không, hoặc một ông chồng thợ nề với một bà vợ chuyên bán cơm tấm sườn bì chả, một ông bác sĩ thẩm mỹ với một người mẫu v.v...

    Lối đối đáp biền ngẫu này thật ra rất thịnh hành trong tiếng Việt, thịnh hành hơn cả tiếng Tàu. Tiếng Hán hoặc chữ Nho trong dạng đơn thuần chỉ có một ngôn ngữ mà thôi, trong khi đó tiếng Việt được lợi thế ở chỗ chứa chấp cả tiếng Nôm lẫn tiếng Hán. Hầu hết những từ ngữ tiếng Nôm đều có tương đương tiếng Hán, và đa số dân chúng dù chỉ có học chữ nghĩa đôi chút đều có thể nhận diện ra. Thí dụ, da tiếng Hán là bì, trắng là bạch, già tức lão, cứng tức cương v.v... Thêm thí dụ khác, thư sinh = đệ tử = học trò, phi cơ trực thăng = máy bay lên thẳng, dương thế = cõi đời, lão ông = ông già, kỵ sĩ = người cưỡi ngựa, hẹn ngày tái ngộ = hẹn gặp lại, bánh da lợn, bì cuốn v.v... Thành ra ngoài mặt mang tiếng chỉ một ngôn ngữ Việt, nhưng thật ra người ta có đến hai thứ ngữ ngôn, tiếng Hán và tiếng Nôm pha trộn lẫn nhau. Nếu dùng tiếng Việt theo thể chế song hành - kẹp Nôm với Hán - người ta có thể phát sinh ra hàng trăm hàng ngàn câu đối khác nhau.

    Câu đối ?oDa trắng vỗ bì bạch? là câu đối điển hình nhất, lợi dụng tính cách song hành của tiếng Việt - bao gồm các từ ngữ tương đương giữa hai thứ Nôm và Hán. Da trắng như nhìn qua gương thấy mình chính là bì bạch. Da trắng chỉ là phiên dịch tiếng Nôm của bạch bì dùng thoát một chút thành ra bì bạch.

    Cũng ở chỗ câu đối được thịnh hành trong dân gian từ ngàn xưa nên người Việt rất quen việc đối đáp chơi chữ. Họ "lậm" việc đối đáp đến nỗi nhiều khi gặp một câu tiếng Anh, tức thuộc một ngoại ngữ, có tính cách chơi chữ một chút, họ vẫn có thể sáng tác thêm câu đối mà chính người dùng tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ vẫn không có, hoặc chưa hề nghĩ tới. Thí dụ, câu phổ thông lập đi lập lại một thứ âm:

    She sells sea shells at the sea shore (xin để ý âm she sells): Cô ấy bán vỏ sò ở bờ biển.

    Người Việt, đặc biệt hình như chỉ có người Việt, có thể tạo ra vô số các câu đối dùng tiếng Anh nhờ ở thói quen đối đáp chơi chữ. Xin đơn cử hai thí dụ đối đáp câu nói trên:

    We see VC in the village (để ý âm we see gần như giống VC - ViXi): Chúng tôi thấy VC trong làng.

    Hoặc:

    He put his boot in the car booth (âm he put giống như his boot): Ông ta đã để giày bốt của ông ta vào thùng sau xe.

    Trở lại chuyện ông Tiến sĩ Quỳnh. Tục truyền ông Trạng nhà ta trước câu đối thách thức đầy tính ***y của Đoàn nữ sĩ đã lúng túng không ít để rồi đành tạm ngâm ngay một câu đáp, chứ lâu quá không khéo bà Đoàn tắm xong thì hết chuyện. Trạng đáp: ?oTrời xanh màu thiên thanh?. Những việc gì xảy ra sau đó không ai có thể biết được. Nữ sĩ họ Đoàn có thực chiều theo ý muốn của Trạng hay không, sau câu đáp có vẻ rất đúng "tông" của ông Quỳnh, việc đó không hề thấy ghi lại trong văn học. "Trời" tiếng Hán gọi "thiên", "xanh" tiếng Hán là "thanh". Trời xanh màu thiên thanh, nghe ra khá thơ mộng và đối đáp có vẻ chỉnh.

    Trong các sách vở về văn chương hoặc giai thoại làng Nho, người ta thường thấy chỉ có một câu đáp ?oTrời xanh màu thiên thanh? dành cho câu đối ?oDa trắng vỗ bì bạch?. Giai thoại Đoàn Thị Điểm với Trạng Quỳnh có vẻ kết thúc lửng lơ ở chỗ đó. Không ai để ý khám phá gì thêm. Và, cũng không ai muốn tò mò tìm xem có thể có những câu đáp đối khác nữa hay không. Có lẽ chỉ có hai câu đó thôi trong vòng vài trăm năm qua.

    Thế nhưng, gần đây trong một nhóm bạn liên lạc nhau bằng e-mail (điện thư) qua Internet chợt xuất hiện thêm hai, ba câu nữa: ?oRừng sâu mưa lâm thâm?, ?oBiển Tây có hải âu?, ?oLên núi gặp Thượng Sơn?.

    Từ Hán Việt chỉ ?orừng? là ?olâm?, ?osâu? là ?othâm?. ?oLâm thâm? hợp lại tạo nên một phó từ mô tả thêm trạng thái của trận mưa. Mưa thế nào, mưa lâm thâm. Rất gần với ?oTrời xanh màu thiên thanh?. ?oBiển Tây? viết theo tiếng Hán là ?ohải âu? cũng dùng để chỉ chim hải âu. ?oLên núi? theo chữ Nho là ?othượng sơn?, cũng có thể là tên một người, Lê Hoàng Thượng Sơn.

    Thế rồi trong nhóm e-mail có người đề nghị trò chơi chữ, thử tìm thêm vài câu đối cho ?oDa trắng vỗ bì bạch?. Với mục đích giản đơn, trước là chơi chữ cho vui, sau là về thăm viếng kho tàng văn chương đối đáp bình dân của tiếng Việt, hoặc bổ sung vào ước mơ được hội ngộ với tiền nhân - dù ở trong một thế giới ảo của Internet. Sau đó, trên mạng e-mail liên tiếp trong vòng một tuần hầu như ngày nào cũng có ít nhất là thêm một hai câu đối đáp mới. Thí dụ: ?oBắp vàng đợi Ngô Huỳnh? gợi nên ý ai đó đã luộc hoặc nướng xong vài trái bắp vàng để dành chờ ông Ngô Huỳnh (bắp = ngô, vàng = huỳnh) - thật thiết thực và lắng đọng. Hoặc, ?oMực đen dính Mặc Huyền? (mực theo tiếng Hán là mặc, đen gọi theo chữ Nho là huyền, Mặc Huyền là tên người); ?oGấu vàng hụt Hoàng Hùng? (gấu chữ Nho là Hùng, vàng tức Hoàng)...

    Việc truy tìm giải đáp cho câu đối ?oDa trắng vỗ bì bạch? tự nhiên trở thành một trò chơi chữ vui vui trên mạng, được nhiều người tham gia. Càng tham gia người ta càng thấy nó không khó như rất nhiều người đã hằng tưởng. Bởi tiếng Hán Việt thật ra đã quá quen thuộc với người Việt, và những người tham gia trò chơi đó khám phá thêm rằng ai cũng có thể thành một nhà Nho ?ocon cóc? hết mà không cần phải theo học Hán văn ở cấp đại học. Nếu dùng tên người vào câu đáp, việc đối đáp chơi chữ sẽ dễ dàng thêm ra. Như hai thí dụ dùng tên người, ông Sơn và ông Huỳnh kể trên.

    Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ câu đối của bà Đoàn đưa ra, người ta có thể sẽ rất thất vọng - và cũng có thể tiếc nuối cho Trạng Quỳnh là đằng khác, nếu chính Trạng đã đáp ?oTrời xanh màu thiên thanh?. Bởi câu đối đơn giản của bà Đoàn thật ra hàm chứa một số yếu tố cơ bản và đòi hỏi thiết yếu như sau.

    Thứ nhất, nó phải mang màu sắc, ?oda trắng?, da phải có màu, màu trắng. Thành ra các câu như: ?oRừng sâu mưa lâm thâm?, ?oBiển Tây có hải âu?, ?oLên núi gặp Thượng Sơn? v.v... phải bị loại ra ngoài vòng chiến. Ta chỉ còn lại ?oBắp vàng đợi Ngô Huỳnh?, ?oMực đen dính Mặc Huyền? và ?oGấu vàng hụt Hoàng Hùng?, hoặc hơi lỏng lẻo một chút ?oLụa đỏ phủ Hồng Nhung? là những câu đáp dùng đến màu sắc - như ?oDa trắng vỗ bì bạch?.

    Thứ hai, bên chữ Nôm như DA TRẮNG phải được nối kết với bên chữ Hán BÌ BẠCH bằng một động từ ?ochỉ động tác? VỖ. Đây có lẽ là yếu tố đã khiến Trạng lúng túng không ít bởi ?omàu thiên thanh? hoàn toàn không phải một thứ động từ chỉ động tác. Cùng lắm ?omàu? chỉ có thể viết tắt cho ?ocó màu? hay ?olà màu?. Một thứ động từ TO BE ở tiếng Anh dùng để chỉ sắc thái: trời xanh có màu thiên thanh. Đoàn nữ sĩ rất dễ dàng từ chối ước muốn nghịch ngợm, mang đầy tính cách lều... chổng của Trạng, mà không sợ... mất lòng! Những câu đáp tân thời theo dạng Internet: Bắp vàng / Mực đen / Gấu vàng / Lụa đỏ... vẫn còn có chỗ đứng ở vòng thứ hai này, bởi cả bốn câu đáp đều sử dụng động từ để liên kết phần Nôm với phần Hán.

    Thứ ba, ?ocụm từ? BÌ BẠCH thật ra là một phó từ - tức trạng từ (adverb) theo lối gọi ngày trước. Nó hỗ trợ cho động từ VỖ. Nhìn kỹ nó mô tả một trạng thái ?oquá độ? của động tác ?ovỗ?. Vỗ trong khi tắm, hoặc vỗ vào chỗ nào đó trên thân thể đến nỗi có tiếng kêu ?obì bạch?. Đến đây ta đành phải chấp nhận không những ông Trạng thiệt với ?oTrời xanh màu thiên thanh", mà còn những cô cậu Trạng con cóc tân thời với những Bắp vàng / Mực đen / Gấu vàng / Lụa đỏ... đều phải chào thua, cuốn gói leo lên xe, gài vào số... de, đi đâu cho khuất mắt!

    Với phân tích đó những người chơi chữ e-mail tự nhiên cảm thấy có cái gì đó lấn cấn trong giai thoại này. Họ thấy cụt hứng. Không phải vì giai thoại có vẻ thiếu thốn một kết cục có hậu, nhưng vì luân lý Khổng Mạnh đã tạo nên một bức thành kiên cố - không cho phép câu đối ?oDa Trắng? đó được phát triển đến nơi đến chốn trong suốt mấy trăm năm qua.

    Một ông bạn trong nhóm chơi e-mail tự nhiên nhảy ra tự xưng mình là Trạng Chổng - bởi ông ta cũng học đến tiến sĩ, cũng Trạng như ai, dù không phải Trạng về Nho học, về văn chương. Nhưng, cũng đã tốn công nhiều năm trong việc sách đèn, lều ?ochổng?. Trạng Chổng nói có thể ông hiện là một kiếp đầu thai nào đó của một người em dốt nát, cùng cha khác mẹ với ông Trạng Quỳnh, hay một kiếp khác của người nữ hầu dịch cho bà Đoàn. Trạng tân thời viện dẫn lý do rằng ông thường nằm mơ thấy người em của ông Quỳnh và con sen hầu tắm Đoàn nữ sĩ, đều có khuôn mặt giống y hệt như ông. Cả hai đều có mặt ở ?ohiện trường? trong buổi đối đáp giữa Trạng và nữ sĩ họ Đoàn. Theo trạng tân thời, buổi hôm ấy bầu trời màu xanh, lơ lửng với những áng mây trắng. Chính anh Quỳnh của ông ta ngày ấy đã đưa ra một câu đáp tuyệt chiêu khiến bà Đoàn cũng phải chịu thua. Tuy nhiên Trạng Chổng không nhớ được rõ, câu đáp đó được tung ra vào lúc nào, bởi giấc mơ về tiền kiếp đó lúc nào cũng hơi bị lẫn lộn với những ước mơ thiết thực của đời sống hiện tại.

    Câu đáp đích thực của Trạng Quỳnh là ?oBẩy Xanh kêu thất thanh? hoặc ?oBẩy xanh la thất thanh?.

    "Bẩy" tức thứ bẩy, Trạng Quỳnh có thể là người con thứ 7 trong nhà. Bẩy là ?othất? trong chữ Nho. "Xanh" có thể là tên gọi thân mật của Trạng ở trong làng lúc còn niên thiếu, cũng mang nghĩa màu xanh. Tức ?othanh? theo tiếng Hán Việt. Bẩy Xanh viết theo chữ Nho là ?othất thanh?, đồng thời cũng là một phó từ hỗ trợ cho động từ ?okêu? hoặc ?ola?. Nếu "xanh" không viết hoa như trong câu sau, ?oBẩy xanh la thất thanh?, câu sẽ mang hàm ý ?oanh Bẩy bị xanh mặt? rồi hoảng hốt ?ola thất thanh?.

    Câu đáp này có vẻ chỉnh nhất và có vẻ ?oTrạng Quỳnh? nhất bởi không những nó thích hợp với những đòi hỏi căn bản của chơi chữ mà lại còn thích hợp với hoàn cảnh, với... sự cố của những gì xảy ra ngày ấy. Có lẽ một tiền kiếp của ông Trạng Chổng mới đích thực là tác giả của ?oTrời xanh màu thiên thanh?.

    Để kết thúc ta có thể cố gắng tìm hiểu những gì thật sự đã xảy ra vào ngày ấy. Nghĩ cho cùng câu chuyện hãy còn nằm trong vòng bí ẩn, bởi giấc mơ của Trạng Chổng chỉ là một giấc mơ nửa vời. Đến chỗ gay cấn nhất ông ta lại tỉnh giấc chiêm bao. Tuy nhiên ta vẫn có thể suy đoán được đến chừng 70% câu chuyện - nhờ ở phó từ ?othất thanh? đưa ra để đối với phó từ ?obì bạch? của bà Đoàn. Trong tiếng Việt, thông thường ?ola thất thanh? liên hệ đến một trạng thái kinh sợ, hãi hùng. Nó ít khi được dùng để mô tả một tiếng la to vì sảng khoái, thích thú, vì trầm trồ, vì thán phục hay ngạc nhiên. Nó lại càng không thể dùng để mô tả một thứ tiếng kêu khi người ta sửng sốt trong lúc chiêm ngưỡng một cái gì.

    Như vậy ta có thể đưa ra 2 giả thiết để giai thoại có được một kết cục tốt đẹp, một happy ending.

    Giả thiết thứ nhất, nếu Trạng Quỳnh dùng câu đáp thứ nhất với ?oXanh? viết hoa chữ ?oX?, ?oBẩy Xanh kêu thất thanh? có lẽ Trạng muốn thách đố bà Đoàn ngụ ý rằng thân hình của nàng cũng không có gì đẹp, không có gì cân đối, hấp dẫn. Hoặc, Trạng dư biết thói quen của nữ sĩ khi tắm vẫn mặc nguyên quần áo! Do đó, dù nữ sĩ có cho phép ông Bẩy Xanh dòm trong lúc tắm, ông cũng sẽ kêu thất thanh vì quá sức thất vọng. Tức câu đáp này được thốt lên lúc bà Đoàn chưa chịu thua!

    Giả thiết thứ hai, nếu Trạng dùng câu đáp thứ hai, với ?oxanh? không viết hoa ?oBẩy xanh la thất thanh?, Trạng Quỳnh có thể bị xanh mặt muốn xỉu và la thất thanh. Câu đáp này đã được thốt ra sau khi cửa phòng tắm bị mở toang ra. Tại sao vậy? Tại vì khi cửa phòng tắm được mở toang ra, Trạng mới thấy người đứng tắm không phải là Đoàn nữ sĩ mà thật ra là chú Tư có hơi lại cái và ưa giả giọng phụ nữ - nhất là giọng nói của bà Đoàn Thị Điểm. Chú Tư mấy năm qua lên kinh đô được xung vào hàng hoạn quan, mấy tuần nay được triều đình cho phép về làng thăm em!
  2. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Tết xưa trong thơ cũ
    --- Vũ Quần Phương ---
    Tết Nguyên đán là tết tổ tông truyền, rất quý rất cần những cảm xúc hồi cố, nhớ lại nếp xưa mà bâng khuâng với hồn dân tộc. Bài viết này muốn tìm về những đổi thay, những phong tục tết nay không còn nữa hoặc đã biến đổi nhiều.
    Thủa bé tôi đeo chiếc khánh vàng
    Quần đào xé đũng, áo hàng lam
    Chân đi hài đỏ, tay thu pháo
    Chú bé đầu thế kỷ 20 đón tết trong thơ Lan Sơn (tên thật Nguyễn Đức Phòng sinh năm 1912) ăn mặc tưng bừng mầu sắc vàng đào lam đỏ như thế. Bài thơ viết đầu nhũng năm 30 mà đã là ký ức rồi, người viết đã thở dài nuối tiếc nhớ thương rồi: Rượu hả hơi rồi hết vị men. Con người bao giờ chả ru mình bằng ký ức. Ngôi nhà xưa cấp bốn cũ nát bao giờ cũng tích chứa yêu thương nhưng không phải vì thế mà người ta thích quay về ở lại đâu. Tâm lý con người là thế và có thế mới đáng yêu. Chúng ta sống lại trong hồn nét xưa một đi không trở lại để mường tượng bóng dáng cha ông, để khấn vào trời đất như Vũ Đình Liên xưa đã khấn: Hồn ở đâu bây giờ.
    Mang hương vị Tết đậm đà nhất là những cái tết ở quê hương. Đậm đà vì, đối với phần đông người Việt, nó là Tết của tuổi ấu thơ. Hơn nữa, nông thôn là nơi trầm lắng sâu đậm nhất những tập tục cổ truyền. Phiên chợ tất niên ở miền quê nào cũng chộn rộn nao nức, nhà thơ Đoàn Văn Cừ lưu lại trong văn chương phiên chợ Tết vùng quê Nam Định đầu thế kỷ thứ 20. Bút pháp hiện thực của thơ hồi ấy (1939) đã đủ sức cạnh tranh với phim tài liệu bây giờ. Cảnh đi chợ, họp chợ rồi chợ tan rất thật, sinh động, hóm hỉnh, lại gợi được cả linh hồn của làng mạc, cư dân. .Đọc thơ mà như được sống lại trong làng xưa tết cũ:
    Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ
    Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán
    Một thày khóa gò lưng trên cánh phản,
    Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
    Cụ đồ Nho dừng lại vuốt râu cằm
    Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ
    Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
    Nước thời gian gội tóc trăng phau phau.
    Một đoạn liền hai mươi ba câu, câu nào cũng sắc sảo như những câu vừa trích, quả đã thành một bảo tàng ký ức về hương vị Tết xa xưa. Không khí phiên chợ tết này đủ sức làm giàu tâm hồn chúng ta cả hương vị truyền thống lẫn tình cảm dân tộc. Trước Đoàn Văn Cừ nửa thế kỷ, khoảng cuối thế kỷ 19, cụ Nguyễn Khuyến, trong một cái Tết tha hương cũng đã từng lưu luyến không khí phiên chợ tất niên ở quê nhà:
    Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng
    Năm nay chợ họp có đông không?
    Ông cụ nhớ cái rét trong mưa bụi của đồng bằng Bắc Bộ, nhớ cái tập tục nếm rượu của các bô lão trong làng khi mua rượu để tế đình đêm giao thừa:
    Gió giời mưa bụi còn hơi rét
    Nếm rượu tường đền được mấy ông
    Giọng thơ chân thật, chi tiết thân thuộc phiên chợ của làng nghèo nhỏ nhoi, xao xác, nhưng nỗi nhớ Tết, nhớ làng trong lòng người viết lại thật sâu đậm. Đấy là cái tài lắng lọc tâm lý của cụ Tam nguyên làng Yên Đổ, đất Bình Lục, Hà Nam.
    Ông Tú Xương (1870-1905) chuẩn bị Tết cũng "đài các" gớm. Có thì có hết mà rút cuộc chẳng có gì:
    Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy
    Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu
    Bánh chưng sắp gói, e nồm cháy
    Giò lụa toan làm, sợ nắng thiu
    Nguyễn Bính (1918-1966), một nhà thơ thành Nam, viết nhiều bài thơ Tết, bài này chỉ thoáng một nét người về quê ăn Tết mà sức gợi rất ngân xa:
    Có chiếc thuyền nằm trên cát mịn
    Có đàn trâu trắng lội ngang sông
    Có cô thợ ruộm về ăn tết
    Sương gió đường xa rám má hồng
    Thuở bé đọc bốn câu thơ này tôi cứ xao xuyến buồn mà không hiểu tại sao. Phải chăng do nỗi phiêu bạt lầm lụi của cô thợ nhuộm. Giờ đây những trai làng gái làng xa quê kiếm sống ngày một nhiều, cũng "hoàn cảnh" lắm, câu thơ cộng hưởng thêm với bao nhiêu số phận của người về ăn Tết. Bài thơ trường thiên độc vận Xuân tha hương nói nỗi lòng kẻ xa nhà lúc năm hết. Thơ mưng mưng nỗi buồn lưu lạc bất dắc chí của Nguyễn Bính, hình ảnh rất đắt:
    Cột nhà hàng xóm lên câu đối
    Em đọc tương tư giữa giấy hồng
    (...) Thiên hạ đua nhau mà sắm tết
    Một mình em vẫn cứ tay không
    (...) Chị ơi tết đến em mua rượu
    Em uống cho say đến não nùng
    Uống say cười vỡ ba gian gác
    Ném cái chung tình xuống đáy sông
    Đêm giao thừa là nơi được khá nhiều nhà thơ ký thác nỗi niềm. Nguyễn Trãi:
    Chong đèn chực tuổi cay con mắt
    Đốt trúc khua na đắng lỗ tai
    Thơ quốc âm thế kỷ thứ 15 có thể hơi lạ với ngôn ngữ bây giờ. Qua giao thừa là chực tuổi mới. Thức khuya nên cay mắt. Nhưng từ cay mắt mà dẫn đến đắng tai thì thật tài. ý thơ nương tựa vào nhau mà biến hóa; đốt pháo trúc xua tà ma (khua na) mà đắng lỗ tai. Lẽ ra là ù tai, inh tai. Nhưng đắng tai là để chiếu vào chữ cay mắt ở trên. Thêm một tuổi là thêm một lần thu cay đắng vào giác quan. Cái đặc hiệu của phút giao nối năm mới năm cũ cũng được Nguyễn Khuyến lưu ý: Nhất cứ liên niên hứng vị cùng. Một câu thơ nối liền hai năm mà cái hứng chưa hết. Đúng là thơ khai bút lúc giao thừa. Khai bút cũng là nét đẹp của người chữ nghĩa thời xưa:
    Rượu ngon nhất giọng đưa vài chén
    Bút mới xô tay thử một hàng
    Từ khi thơ được viết bằng chữ quốc ngữ, chất ước lệ bớt đi. Chúng ta gặp nhiều nét đời thực. Tập tục ngày nguyên đán được Nguyễn Bính lưu giữ khá đầy đủ qua lời bà mẹ dặn các con; và thông qua sự quan sát của chú bé còn chưa biết chữ:
    Sáng ngày mồng một sớm tinh sương
    Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường
    Mở hàng mỗi đưa năm xu rưỡi
    Rửa mặt hoa mùi, nước đượm hương
    Thấy tôi lấy một tờ hoa tiên
    Bút lông dầm mực viết lên trên
    Trên những gì gì tôi chẳng biết
    Giữa đề năm tháng dưới đề tên
    Hơn nửa thế kỷ đã đi qua bài thơ này, những tập tục ấy đã xa lăng lắc, những người trực tiếp mang kỷ niệm về nó chắc chẳng còn mấy. Nhưng đọc lại những câu thơ sao mà ấm dạ, thuở ấy, non nước nhà mình...
    Đọc thơ Tết của nhiều thời, phong phú nhất là của thời Thơ mới (1930-1945), thấy chộn rộn tưng bừng nhất, xao xuyến bâng khuâng nhất vẫn là những bài thơ của những ngày chuẩn bị Tết. Thơ viết về ngay mồng một Tết, chủ yếu lại là thơ ghi việc chứ không nhiều tâm hồn. Đến khi cái Tết đã đi qua, thơ lại bâng khuâng năm tháng, u hoài như tiếng thở dài chấp nhận cõi nắng sương của đời người.
    Đào Tấn (1845-1907):
    Khi cây nêu hạ xuống
    Ngàn nỗi lo theo người
    Nguyễn Bính:
    Xong ba ngày tết mẹ tôi lại
    Đầu tắt mặt tối nuôi chồng con
    Đoàn Văn Cừ thì ngay khi tan phiên chợ tết đã buồn rồi:
    Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ
    Nước ta thuở ấy chuyên làm ruộng, nghèo, niềm vui của người dân quê chỉ ngắn ngủi trong mấy ngày Tết nhất. Bao nhiêu ước vọng một năm giời dồn cả vào ngày tết Mong cho đến tết ăn xôi với chè. Nữ sĩ Hằng Phương nhớ đôi guốc mới hồi tuổi nhỏ, mẹ mua cho chỉ dám đi thử trên giường, để đến Tết khai trương cho mới:
    Mẹ ơi! Nhớ tết năm nào
    Mẹ mua guốc mới ướm vào chân con
    Con đi lếch thếch trên giường
    Đợi ngày mồng một ra đường mới tinh
    Nguyễn Khuyến thấy bà con náo nức chuẩn bị tết với bao nhiêu trù liệu hy vọng mà xót xa:
    Dăm ba ngày nữa tin xuân tới
    Pháo nổ nhà ai một tiếng đùng
    Đùng một tiếng pháo ngắn ngủi, thế là hết tết, là lại đầu tắt mặt tối. Cái tâm lý ấy có lẽ là buồn thương nhất cho những tết xưa. May sao, bây giờ cảm xúc ấy không còn phổ biến nữa. Mức sống ngày thường được nâng lên, sự chênh lệch với ngày tết càng thu ngắn lại là dấu hiệu đáng mừng của đời sống xã hội, dẫu rằng có thể vì thế mà không khí chộn rộn với bao nhiêu tập tục trang nghiêm của Nguyên đán bị chuyển thành ký ức, phải đọc lại thơ văn xưa mới tìm thấy lại.
    Hello,anh sờ tí sao em không đồng ý!!!! (Lionel Richie)

Chia sẻ trang này