1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

NHỮNG BÀI HỌC QUÂN SỰ TỪ CUỘC CHIẾN TRANH MAN-VI-NÁT.

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi bibop, 09/03/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. bibop

    bibop Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    75
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG BÀI HỌC QUÂN SỰ TỪ CUỘC CHIẾN TRANH MAN-VI-NÁT.

    1. TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ
    Quần đảo Ma-vi-nát (Anh gọi là Falkland, Pháp gọi là malouines) do Gomes, người tham gia đoàn thám hiểm Ma-gien-lăng, phát hiện năm 1520.
    Từ 1774 ?" 1833 : Ác-hen-ti-na chính thức chiếm đảo này.
    Tháng 5/1833: Anh chiếm.
    Từ đó hàng năm Ác-hen-ti-na gửi kháng thư tới chính phủ Anh đòi lại chủ quyền về Ma-vi-nát.
    Những năm 1965, 66, 67, 69 và 71, Đại hội đồng Liên hơp quốc kêu gọi hai nước đàm phán hòa bình nhưng Luân-đôn đã khước từ.
    Ma-vi-nát có 1800 dân, chủ yếu đánh cá và chăn nuôi. Trong khu vực quần đảo, kể cả thềm lục địa ở độ sâu 1000m đã phát hiện thấy dầu lửa với trữ lượng 70-80 tỷ tấn.
    Ngày 13/3/1982: Một tầu vận tải Ác-hen-ti-na đưa 50 công nhân tới nam Gioóc-gi-a và cắm cờ Ác-hen-ti-na.
    Ngày 2/4/1982: Một đội tầu chiến của hải quân Ác-hen-ti-na do 1 tầu chở máy bay dẫn đầu đã đổ 1đội hỗn hợp bằng đường biển và đường không gồm 5000 người lên Ma-vi-nát. 81 sĩ quan và lính thủy đánh bộ Anh đồn trú trên đảo đã đầu hàng và được chuyển sang U-ru-goay. Cùng ngày Anh cắt đứt quan hệ ngoại giao với Ác-hen-ti-na.

    a) Chuẩn bị chiến dịch.
    Cuối tháng 3/1982, Anh thành lập bộ chỉ huy chiến dịch đánh chiếm lại quần đảo Ma-vi-nát. Các tầu nổi sẵn sàng chiến đấu cao của thê đooij 1 rời các căn cứ trú đậu và tiến vào khu vực nam Đại tây dương.Các tầu còn lại chuẩn bị chiến đấu. Các máy bay ném bom Vulcan, máy bay tiếp dầu Victor, máy bay tuần tiễu Nimrod, máy bay trinh sát Canberra, máy bay vận tải quân sự chở các đơn vị bộ binh... được chuyển tới căn cứ không quân Mỹ trên đảo Át-xen-xơn.
    Đầu tháng 4/1982, Anh trưng dụng 69 tàu dân sự cho chiến dịch gồm 26 tàu chở dầu, 6 tàu vận tải, 3 tàu chở khách viễn dương, 8 phà biển, 13 tàu vận tải và một số tàu đánh cá, tàu kéo, tàu sửa chữa...
    Cuối tháng 4/1982, Ác-hen-ti-na dùng hạm đổi chuyển 11000 lính và trang bị kỹ thuật tới Ma-vi-nát, trong đó có 90 xe tăng AMX-13, nhiều xe vận tải bọc thép và phân đội pháo phòng không. Vùng bờ biển thì tập trung 25 tàu chiến các loại và tàu hỗ trợ.
    Đội hình quân Anh tham gia chiến dich có 3 thê đội:
    Thê đội 1: gồm 6 đội tàu chiến trong đó có 2 tàu ngầm nguyên tử, 2 tàu ngầm đi-ê-den, 2 tàu chở máy bay và 20 máy bay Harrier, 15 tàu khu trục mang tên lửa, 4 tàu đổ bộ lớn, 16 tàu hỗ trợ bảo đảm, 3500 lính thủy đánh bộ và lính đổ bộ dường không.
    Thê đội 1 rời các căn cứ của Anh vào cuối tháng ba và đầu tháng tư dừng lại ở đảo Át-xen-xơn 2 ngày sau đó chia 2 nhóm:
    - nhóm 1 gồm 7 tàu chiến tiến về nam Gioóc-gi-a.
    - Nhóm 2 gồm các tàu còn lại tiến về phía Ma-vi-nát.
    Thê đội 2: gồm 4 đội tàu chiến, trong đó có 13 tàu chiến, 9 tàu hỗ trợ bảo đảm, chở 1500 lính thủy đánh bộ và 20 máy bay Harrier.
    Thê đội 3: được tổ chức vào giữa tháng 5/1982. Lực lượng gồm: 8 tàu chiến, 12 tàu hỗ trợ, một phần của hạm đội vận tải.
    Nếu so sánh lực lượng 2 bên, ta thấy:
    - Anh có ưu thế áp đảo về hải quân. Tỷ lệ tàu chiến Anh/ Ác-hen-ti-na là 44/18
    - Ác-hen-ti-na có ưu thế áp đảo về không quân chiến thuật 147/40 (không kể máy bay lên thẳng)
    - Lực lượng trên bộ Ác-hen-ti-na/Anh: 14000/10000
    - Anh được Mỹ cho sử dụng quần đảo Át-xen-xơn, cách 1500km phía nam bờ biển Ngà Tây châu Phi làm căn cứ chuyển tiếp. Mỹ còn thông báo cho Anh các tin tức trinh sát do các vệ tinh do thám Mỹ thu được.
  2. bibop

    bibop Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    75
    Đã được thích:
    0
    b) Diễn biến trận chiến.
    Ngày 25/4/1982, nhóm 1 của thê đội 1 tới nam Gioóc-gi-a.
    Ngày 30/4, nhóm 2 của thê đội 1 tới khu vực Ma-vi-nát.
    15h00 ngày 30/4, Anh tuyên bố phong tỏa vùng trời và vùng biển xung quanh Man-vi-nát 200 hải lý.
    Những cuộc đổ bộ của quân Anh đều được mở đầu bằng những đợt chuẩn bị hỏa lực bằng không quân, pháo hạm và tên lửa trên tàu.
    Khi đổ bộ, Anh đã triệt để lợi dụng các yếu tố thuận lợi do khí hậu, thời tiết (bóng tối, mây mù, mưa tuyết) và những hoàn cảnh thuận lợi do hải quân Ác-hen-ti-na án binh bất động và không quân Ác-hen-ti-na không có khả năng hoạt động ban đem và thời tiết xấu. Chính vì vậy mà trận đánh chiếmđầu cầu trên đảo Xô-lê-dát với lực lượng 2 tàu xung kích, tàu chở khách viễn dương Canberra, khoảng 10 tàu khu trục tuần tiễu và 5000 lính của 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ , một tiểu đoàn lính dù cũng như các phương tiện hỏa lực, phòng không, xe tăng... đã diễn ra hoàn toàn bí mật, bất ngờ đối với quân Ác-hen-ti-na. Mãi 4 giờ sau, khi quân Anh đã bắt đầu đổ quân lên bờ phía Ác-hen-ti-na mới phát hiện được.
    Khu vực đổ bộ Xanh Các-lốt và khu vực xung quanh đó hoàn toàn không được bố phòng để chống đổ bộ, kể cả khu vực nam Gioóc-gi-a và quanh cảng Sten-ly.
    Trong các trận đổ bộ, quân Anh chuẩn bị hỏa lực và tập kích nghi binh ngay từ tối hôm trước ở 4 địa điểm: Xanh Các-lốt, Đác-uyn, Sten-ly và Phốc-bây nhưng chỉ tại 3 địa điểm sau không quân và biệt kích Anh chỉ đổ bộ nghi binh.
    Tới rạng sáng hôm sau quân Ác-hen-ti-namới ném bom và phóng tên lửa vào các trận địa quân đổ bộ và các tàu chiến Anh.
    Ngày 28-29/5, 2 tiểu đoàn lính dù Anh đã chiếm cảng Đác-uyn và sân bay Gớt-xgrin. Cùng thời gian đó lính thủy đánh bộ tiến dọc cảng Sten-ly và chiếm vùng dân cư Đơ-gla.
    Ngày 31/5 và 8/6, 3600 quân đổ bộ Anh đã tiến vào vùng phía bắc và nam trung tâm hành chính của quần đảo và bao vây hoàn toàn điểm phòng thủ cuối cùng của quân Ác-hen-ti-na (cảng Sten-ly).
    Ngày 15/6/82, quân Ác-hen-ti-na đầu hàng.
    Trong diễn biến chiến đấu có 1 số điểm đáng chú ý:
    - Những ngày đầu chiến dịch, 2 máy bay lên thẳng đã đánh chìm 1 tàu ngầm đi-ê-den đang nổi ở nam Gioóc-gi-a và 1 chiếc tàu tuần dương duy nhất Belrano đã bị tàu ngầm nguyên tử của Anh đánh đắm thì quân Ác-hen-ti-na hầu như không tổ chức được hoạt động chiến đấu nào trên biển.
    - Suốt quá trình chiến dịch, không quân Ác-hen-ti-na thực sự đã đóng vai trò chính trong các hoạt động. Nhưng do quá tập trung vào việc tiêu diệt tàu chiến Anh nên không quân Ác-hen-ti-na đã bỏ qua 2 nhiệm vụ quan trọng là đánh phá tiêu diệt quân đổ bộ nhất là ở các khu vực đầu cầu và đánh trả các máy bay đánh chặn Anh.
    Sau ngày quân Anh chiếm lại quần đảo Ma-vi-nát, các báo, tạp chí quân sự nêu lên một số bài học kinh nghiệm về quân sự sau:
  3. bibop

    bibop Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    75
    Đã được thích:
    0
    2. VÌ SAO KHÔNG QUÂN ANH THẮNG?
    Anh đưa số máy bay Harrier vào chiến đấu ở đây quá ít so với máy bay Ác-hen-ti-na, nhưng quân Anh vẫn thắng vì:
    - Máy bay Harrier có nhiều lợi thế; thân nhỏ, dễ cơ động nên đối phương khó bắn trúng. Harrier lại có thể tắt máy, dừng ở trên không và ngoặt sang hướng khác được. Chỉ vài giây, nó có thể chuyển từ tốc độ 1100km/h sang động tác ngoặt gấp làm cho máy bay đối phương bị vồ trượt. Lúc đó Mirage-3 buộc phải giảm tốc độ từ 2415km/h xuống còn khoảng 600km/h để phóng tên lửa ở tâm tối đa thì Harrier vọt lên thẳng đứng hoặc vòng gấp, cũng tức là Harrier chuyển từ thế bị săn đuổi sang tư thế người bắn đuổi. Khi đó Mirage-3 chỉ còn cách tăng tốc để thoát thân.
    - Trong khi Mirage-3 phải thao tác ở tầm với tối đa thì Harrier ở trên 2 tàu sân bay đã xuất kích tới 2000 lần. Harrier có thể hạ cách trên các bong tàu nhỏ nơi dành cho máy bay lên thẳng để tiếp dầu.
    - Phi công Anh có trình độ lái cao và nhiều kinh nghiệm hơn
    Trong chiến dịch Ma-vi-nát, Harrier đã góp phần hạ 40% máy bay Ác-hen-ti-na mà không bị rơi 1 chiếc nào trong không chiến. Theo tạp chí Aviation Week and Space Technology, Harrier đã hạ 32 Mirage-3. Ít ra có 6 chiếc bị hạ vif đạn pháo 30mm của máy bay, 24 chiếc vì tên lửa Sidewinder trên máy bay, 2 chiếc còn lại bị rơi không rõ nguyên nhân.
    Tạp chí Proceedings kết luận bài học không chiến này như sau: ?oKhông bao giờ cố đọ sức với một máy bay có khả năng vòng gấp?.
    3. SAI LẦM VỀ CHIẾN LƯỢC CỦA KHÔNG QUÂN ÁC-HEN-TI-NA.
    Không quân Ác-hen-ti-na có hai sai lầm lớn có tính chiến lược:
    - Không biết lợi dụng sân bay Sten-ly. Nếu biết sử dụng đúng mức căn cứ này thì có thể đấy là chìa khóa thắng lợi. Đáng lẽ Ác-hen-ti-na phải kéo dài đường băng để máy bay vận tải lên xuoongs. Các cuộc oanh kích xuất phát từ Sten-ly có thể làm cho lực lượng đặc nhiêm Anh nguy khốn (Sau khi chiếm được Ma-vi-nát, Anh đã cho kéo dài đường băng từ 1200m lên 1850m, có thể là 2150m). Không quân Ác-hen-ti-na cất cách từ đất liền chỉ đủ xăng dầu đánh 1 lần rồi rút nhanh về căn cứ nên hiệu quả thấp.
    - Chọn sai mục tiêu tấn công. Mục tiêu có tính chất quyết định phải là các tàu sân bay, vì thiếu nó hải quân Anh không thể chiếm lại Ma-vi-nát. Máy bay Ác-hen-ti-na chỉ nhằm đánh các lực lượng yểm trợ cho hải quân, là mục tiêu có giá trị thứ yếu. Các ph công Ác-hen-ti-na cũng khá dũng cảm nhưng chiến đấu không đạt kết quả bao nhiêu vì thiếumáy ngắm thích hợp hoặc do cách dùng sai. Nhiều quảbom trúng tàu Anh ở phía sau, thậm chí còn rơi hụt xuống nước vì phi công không bắn đón. Ở độ cao ném bom cực thấp (đôi khi dưới 10m) thời gian bom rơi thường quá ngắn nên ngòi nổ không kịp hoạt động (và còn nhiều nghi vấn do bom Mỹ cung cấp) nên 4/5 số bom rơi xuống không nổ. (Ngày 8/6 tàu hộ tống Plymouth bị 5 máy bay Mirage-3 nép trúng 4 quả bom nhưng không một quả nào nổ). Phi công Ác-hen-ti-na còn máy móc rập khuôn bài bản mở các đợt tiến công theo các qui luật nhất định nên mất yếu tố bất ngờ, bị quân Anh đánh và phá được.
  4. haeyoungsmu

    haeyoungsmu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/04/2003
    Bài viết:
    285
    Đã được thích:
    0
    lại có người bàn về falkland war. đúng đây là đề tài hấp dẫn vì nó là trận đánh hải quân thật sự cuối cùng có tham chiến của tàu sân bay. thực sự, tuy anh đẩy được agentina khỏi đảo falkland nhưng anh quốc cũng nhận được một bài học về sự yếu kém trong hệ thống phòng thủ điện tử của type 21 frigate và type 22 destroyer sheffield và hậu quả của thiếu hụt về ngân sách . hôm rùi bbc vừa làm phóng sự về ROYAL AIR FORCE, nói rằng tuy phi công có nhiều kinh nghiệm nhưng harrie là loại mới nên cũng không lợi hơn là bao nhiêu. cái quan trọng chính là sidewinder. không biết anh có dùng exoet không nhỉ vì trước đó anh bỏ 120 triệu đô mua của pháp mà. không phải là agentina không muốn đánh hải quân anh. hải quân agen đã tung ra hai mũi tấn công: mũi 1 vài chiếc destroyer cùng với một tàu sân bay tiến về phía nam của hạm đội anh, mũi hai cruiser đô đốc belrano cùng một destroyer tiến về từ phía bắc. nhưng chết nỗi *** bố nào có ASW thì làm sao mà chống tàu ngầm. cho nên đành men theo vùng biển nông gần cảng ở falkland. tàu ngầm anh cũng bi dát không kém. trên tàu có hai loại ngư lôi mk 8 có mặt từ thế chiến hai warhead 300 kg loại mới swordfish warhead 66kg ( bắn tới tết công gô mới chìm) cho nên lieuternant của HMS CONQUEROR phải dùng 3 mk 8 bắn theo quạt nan dính hai em đưa đô đốc xuống biển trong vài phút. tàu thứ hai phải mất cả buổi chiều ! mới phát hiện ra quay lại giải cứu coi như loại khỏi vòng chiến. mũi một nghe xong chuồn luôn về cảng. nhường anh khống chế biển. tuy nhiên từ đây ta có thể suy ra một bài học cho nước ta với , sản lượng sản xuất trong nước của chiếm một nửa nhu cầu( liệu china còn thắp sáng bao lâu nữa_ fortune magazine,) đến cả tom clancy còn viết cả cuốn sách SSN mô tả mĩ dánh nhau sino. cho nên tui ủng hộ ta thành lập lực lượng phòng thủ chung (SEATO !!!!) vừa tăng cường hiên đại hoá quân đội đặc biệt hải quân( bảo vệ tàu hàng trên biển_ đây là trọng tâm của hải quân_ huyết mạch của ta, hàn , nhật bổn, mĩ
     
  5. bibop

    bibop Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/02/2002
    Bài viết:
    75
    Đã được thích:
    0
    Thiệt hại của hai bên sau 73 ngày chiến sự:
    Anh: 220 người chết, 4 tàu chiến, 2 tàu đổ bộ, 1 tàu buôn, 8 máy bay lên thẳng, 7 Harrier, chi phí thay thế, sửa chữa 1.030 triệu USD.
    Ác-hen-ti-na: 1000 người chết, 1 tàu tuần dương, 100 máy bay, chi phí 860 triệu USD
    Lực lượng Anh tham chiến:
    1. Tàu sân bay: Hermes (23.900 tấn), Invincible (19.500 tấn)
    2. Tàu tuần dương: Antrim (6.200 tấn), Glamorgan (6.200 tấn)
    3. Tàu ngầm; Ít nhất có 3 tàu ngầm hạt nhân
    4. Tàu khu trục:Broadsword, Brilliant (3.860 tấn), Glasgow, Coventry (3.660 tấn)
    5. Tàu Frigate: Alacrity, Antelope, Arrow (3.250 tấn), Plymouth, Yarmouth (2.800 tấn)
    6. Tàu đổ bộ: Sir Galahad (5.674 tấn), Sir Geraint (5.674 tấn), Sir Lancelot (5.550 tấn), Sir Perivale (5.674 tấn), Sir Tristram (5.674 tấn).
    7. Tàu xung kích: Intrepid, Fearless (12.500 tấn)
    8. Tàu chở dầu: 5 tàu chở dầu cùng các tàu chở hàng, tàu tiếp tế, tàu buôn.
    9. Binh lính: 10.000 người.

    Máy bay của hai bên.
    1. Canberra (Ác-hen-ti-na); Máy bay ném bom tầm trung. Anh chế tạo từ năm 1951
    2. Harrier (Anh): Máy bay cất cánh thẳng đứng hoặc đường băng ngắn. Tốc độ lớn hơn 1 Mach. Tầm xa 460km (hoặc 740km nếu bay cao). Thời gian trực tiếp chiến đấu trong vòng 3 phút. Vũ khí Sidewinder ?" tầm xa 10-18km.
    3. Mirage 3 (Ác-hen-ti-na): Máy bay chiến đấu tầm xa. Tốc độ lớn hơn 2Mach. Bán kính hoạt động 720km. Trần bay 17km. Vũ khí; tên lửa không-không. Pháp chế tạo
    4. Super-Etendard (Ác-hen-ti-na): Máy bay chiến đấu chống hạm tàu ở tầm vừa và tầm thấp. Tốc độ lớn hơn 1Mach. Bán kính hoạt động 720km. Trần bay 13,7km. Vũ khí: tên lửa Exocet. Pháp chế tạo
    5. Skyhawk (Ác-hen-ti-na): Máy bay chiến đấu có tốc độ dưới âm chủ yếu tấn công các mục tiêu trên biển và trên bờ. Mỹ chế tạo (1954-1979)
    6. Vulcan (Anh): Máy bay ném bom tầm trung, tốc độ dưới âm. Tầm bay xa 6.360km, nếu được tiếp dầu có thể bay xa hơn. Mang 21 quả bom 500kg. Sử dụng lần đầu tiên năm 1960
    7. Dagger (Ác-hen-ti-na): Kiểu do Israel sao chép từ Mirage 3, sử dụng động cơ Atar của Pháp.
    Không chiến ở vùng quần đảo này dường như chủ yếu giữa hai loại máy bay Mirage 3 (Không quân Ác-hen-ti-na) và Harrier (hải quân Anh). Cục diện dường như nghiêng về phía phi công Harrier mặc dù nhiều máy bay Ác-hen-ti-na bị rơi vì tên lửa phòng không hơn là vì hỗn chiến trên không.
    Điều này phản ánh chiến thuật của phía Ác-hen-ti-na muốn tìm cách ném bom tàu chiến Anh hơn là không chiến. Nó cũng phản ánh sự hạn chế của Harrier trong vai trò bảo vệ hạm đội. Harrier là loại máy bay tầm ngắn, khả năng phát hiện đối phương bằng ra-đa quá gần, không thể nghênh chiến và rtuần tra từ xa được, vì vậy máy bay Ác-hen-ti-na có thể tiếnn sát đội hình của các tàu chiến Anh. Hệ thống tên lửa phòng không của Anh phải hoạt động nhiều hơn nên dĩ nhiên là hạ nhiều máy bay hơn là phi công Anh.
    Các phi công Ác-hen-ti-na chủ yếu làm nhiệm vụ ném bom xuống các tàu chiến nên khó rút ra được các bài học về không chiến. Họ dùng các loại máy bay Mirage 3, Super Etendard, Skyhawk (A4) tiến hành các các phi vụ ?otự sát? đánh tàu chiến Anh nhưng điều kỳ lạ là họ vẫn có khả năng thành công. Phi công Ác-hen-ti-na phải tránh máy bay Harrier, vượt qua hàng rào tên lửa, các cỡ pháo của hải quân. Khi tiếp cận tàu chiến Anh họ đối mặt với tên lửa Sea Dart và Sea Wolf, nếu gặp lực lương đổ bộ Anh họ vấp phải tên lửa Rapiera hoặc Blowpiper (loại vác vai).
    Đảm nhiệm các phi vụ oanh kích như vậy mà không một máy bay Ác-hen-ti-na có ra-đa đủ hiện đại để phát hiện mục tiêu vì thế họ chỉ dựa vào mắt thường để quan sát trong mọi hoàn cảnh thời tiết. Máy bay Ác-hen-ti-na thường chỉ đủ xăng để đánh một lần rồi rút lui với tốc độ nhanh (bay chậm tốn nhiên liệu hơn). Ngoài ra còn nhiều quả bom không nổ do nhiều nguyên nhân khiến hiệu quả tiến công thấp. Tàu khu trục Glasgow bị một quả bom xuyên một lỗ mà không nổ, Tàu Antrim trúng hai quả bom mà không hề gì, tàu Broadsword bị máy bay A4 ném trúng 1 quả bom 250kg quả bom này trượt trên bong rồi rơi xuống biển.
    Tuy nhiên số thiệt hại về tàu chiến Anh cũng cần phải để ý
  6. octobersky

    octobersky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/09/2003
    Bài viết:
    13
    Đã được thích:
    0
    Cho tui xem bản đồ đi. Nói không tui không hiểu chi hết
  7. haeyoungsmu

    haeyoungsmu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/04/2003
    Bài viết:
    285
    Đã được thích:
    0
    bác nên cộng thêm 200 thằng RM tự tử sau chiến tranh. hôm qua xem phóng sự the truth of killing, trong chiến tranh viet nam và falkland, bộ binh phải tổ chức đánh giáp lá kà, có khi giành nhau từng yard. tuy nhiên bộ binh của anh hơn hẳn agen vì được huấn luyện theo phương pháp mới của mĩ. còn agen thì trung thành theo wwii.
    theo như khảo sát của gen mashall sau wwii, chỉ có 1% binh sĩ của mỹ có bản năng giết người, 15% có khả năng bắn trong tình huống thật. còn lại đa số là có dấu hiệu của sợ hãi và stress. ngắm súng chỉ lệch 1 mm là đã khác rùi. 1% trên là thuộc loại bị tâm thần cỡ phước tám ngón, thịnh... đó là lý do tại sao mỹ khoái dùng máy bay vì khi đó phi công chỉ nhìn thấy nhà cửa chỉ nhấn là xong. tuy nhiên đến korean war tỉ lệ tăng lên 50%, gulf war tăng lên 95%. đó là do bf skinner giáo sư tâm lý havard. bác nào muốn coi nó là gì thì đến hot spring quê của bill clinton mà xem nó gọi là iqzoo. phương pháp tương tự như palov dog (phản xạ có điều kiện) nếu ta huấn luyện binh sĩ cứ nghe tiến súng là bắn về hướng đó. đó là chuyển sử dụng não truớc thành não giữa thì sự sợ hãi giảm hẳn. nếu bác coi BLACK HĂWK DOWN thì 13 lính mĩ chết đổi lại 250 somalian. tuy nhiên,phương pháp này chỉ kích thích được kả năng giết người nhưng không giúp binh sĩ mất đi cảm giác tội lỗi sau war.

Chia sẻ trang này