1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những bài về văn hoá Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Olympic, 04/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    Những bài về văn hoá Việt Nam

    [​IMG] Văn hoá Việt Nam
    [​IMG]

    Chào các bạn, tôi xin phép được gửi lên đây những bài viết của các học giả về văn hoá Việt Nam. Đây là những bài viết mà theo tôi có giá trị và có thể cung cấp những thông tin mà có thể các bạn đã biết. Mục đích là nhằm mang lại những thông tin để các thành viên cùng trao đổi và tham khảo.
    [​IMG]

    VĂN HÓA - Đặc trưng và các chức năng văn hóa

    1. Định nghĩa văn hóa

    Từ " văn hóa" có rất nhiều nghĩa. Xét về phạm vi bao quát, "văn hóa" được dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hoá), lối sống ( nếp sống văn hoá); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn (văn hoá Đông Sơn),...Trên thế giới, ủy ban UNESCO của Liên Hợp Quốc thì xếp văn hoá bên cạnh khoa học và giáo dục, tức là đặt hai lĩnh vực này ra ngoài khái niệm văn hoá. Trong khi theo nghĩa rộng thì thực ra văn hoá bao gồm tất cả. Chính với cách hiểu rộng này, văn hoá mới là đối tượng đích thực của văn hoá học.

    Xét về quan hệ giữa các thành tố, phần lớn các định nghĩa đều coi văn hoá như một phép cộng đơn thuần của những tri thức bộ phận. Định nghĩa văn hóa trong các từ điển và các công trình nghiên cứu hầu hết đều mở đầu bằng câu "Văn hóa là một tập hợp (phức hợp) của các giá trị...". Quan niệm cảm tính này là sản phẩm của lịch sử, của thời kỳ chia tách các khoa học - khi mà văn hóa chưa được coi là đối tượng của một khoa học độc lập. Cũng có khuynh hướng định nghĩa văn hóa như một dạng hoạt động: Theo L.White, văn hóa là một phạm trù khoa học biểu thị một lĩnh vực hoạt động đặc biệt chỉ có ở riêng xã hội loài người, với những quy luật hành chức và phát triển riêng của mình

    Việc phân tích các định nghĩa hiện có đã dẫn chúng tôi đến một định nghĩa về văn hoá như sau :

    Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

    Định nghĩa vừa nêu có dụng ý chỉ ra bốn đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa - đó là tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân sinh. Dưới đây, ta hãy đi vào xem xét các đặc trưng đó và những chức năng liên quan đến chúng.

    2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa

    a. Tính hệ thống là đặc trưng hàng đầu của văn hóa ( "văn hóa là một hệ thống hữu cơ ..." ). Chính nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được một trong ba chức năng cơ bản của mình là chức năng tổ chức xã hội . Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

    b. Đặc trưng thứ hai của văn hóa là tính giá trị ( "văn hóa là một hệ thống ... của các giá trị vật chất và tinh thần...").Văn hóa có nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Đặc trưng tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với hậu quả của văn hóa hoặc những hiện tượng phi văn hóa.

    Các giá trị văn hóa theo chất liệu có thể chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần; theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ ( chân, thiện, mĩ); theo thời gian có thể chia thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Trong các giá trị nhất thời lại có thể phân biệt giá trị đã lỗi thời, giá trị hiện hành và giá trị đang hình thành. Sự phân biệt các loại giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.

    Nhờ vậy mà về mặt đồng đại, cùng một hiên tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng vào những thời điểm lịch sử khác nhau sẽ có thể có hay không có giá trị tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn. Muốn kết luận một hiện tượng, sự vật có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan giữa mức độ "giá trị " và "phi giá trị " của chúng. áp dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, triều đại nhà Triệu, nhà Hồ, nhà Nguyễn.. đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế.

    Nhờ thường xuyên xem xét, phân loại các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội, nó định hướng các giá trị, điều chỉnh các ứng xử, nó là động lực cho sự phát triển của xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình.

    c. Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính lịch sử ("văn hóa... do con người... tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn...)" . Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.

    Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống (truyền = chuyển giao, thống = nối tiếp ) là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua không gian và thời gian trong cộng đồng. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể ) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố định hoá dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận....

    Truyền thống văn hóa được tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ ba của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các giá trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trồng người (dưỡng dục nhân cách). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử.

    d. Văn hóa còn có tính nhân sinh (văn hóa... do con người sáng tạo... ). Nó là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Nói một cách hình tượng, văn hóa là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người, là "phần giao" giữa tự nhiên và con người. Đặc trưng này cho phép phân biệt văn hóa với những giá trị tự nhiên chưa mang dấu ấn sáng tạo của con người (như các tài nguyên khoáng sản trong lòng đất). Sự tác động của con người đối với tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng để chế tạo đồ dùng, đẽo gỗ tạc tượng) hoặc mang tính tinh thần (như việc đặt tên, tạo truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên: vịnh Hạ Long, núi Ngũ Hành Sơn, hòn Vọng Phu....).

    Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa trở thành một công cụ giao tiếp quan trọng. Chức năng giao tiếp là chức năng thứ tư của văn hóa. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó; điều đó đúng với giao tiếp giữa các cá nhân trong một dân tộc, lại càng đúng với giao tiếp giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau và giao tiếp giữa các nền văn hóa.

    Còn tiếp
  2. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    Tiếp theo.
    [​IMG]
    3. Văn hóa với các khái niệm tương cận (Văn minh, Văn hiến, Văn vật)
    Trong 4 đặc trưng của văn hóa thì hai đặc trưng "tính giá trị" và "tính lịch sử" là những cơ sở chủ yếu cho phép phân biệt văn hóa với các khái niệm văn minh, văn hiến, văn vật (x. bảng l).
    Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau trước hết là ở tính giá trị : về mặt này, văn hóa là một khái niệm bao trùm - nó chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần, còn khi nói đến văn minh thì người ta chủ yếu chỉ nghĩ đến các tiện nghi vật chất. Văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính lịch sử : trong khi văn hóa luôn luôn có bề dày của quá khứ thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, nó chỉ cho biết trình độ phát triển của văn hóa. Một dân tộc có trình độ văn minh cao vẫn có thể có một nền văn hoá rất nghèo nàn, và ngược lại, một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một nền văn hóa phong phú.
    Lâu nay, không ít người vẫn sử dụng "văn minh" (civilization) như một từ đồng nghĩa với "văn hóa". Thật ra, văn minh (văn = vẻ đẹp, minh = sáng) là khái niệm có nguồn gốc từ phương Tây đô thị chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hoá về phương diện vật chất, nó đặc trưng cho một thời đại và một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại ).
    [​IMG]
    Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sử dẫn đến sự khác biệt thứ ba: Văn hóa mang tính dân tộc, bởi lẽ nó có giá trị tinh thần và tính lịch sử, mà cái tinh thần và tính lịch sử là của riêng, không dễ gì mua bán hoặc thay đổi được; còn văn minh thì có tính quốc tế, bởi lẽ nó chứa giá trị vật chất, mà cái vật chất thì dễ phổ biến, lây lan.
    Và sự khác biệt thứ tư : Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị. Các nền văn hóa cổ đại đều xuất phát từ phương Đông : Trung Hoa, Ấn độ, lưỡng hà, Ai-cập. Nền văn hóa phương Tây sớm nhất là văn hóa Hi-La (Hi-lạp và La-mã) thì cũng có nguồn gốc từ phương Đông, nó được hình thành trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nền văn hóa Lưỡng Hà và Ai-cập. Các nền văn hóa phương Đông lại đều hình thành ở vùng lưu vực các con sông lớn là những nơi sản xuất nông nghiệp. Trong các ngôn ngữ phương Tây, từ "văn hóa" bắt nguồn từ chữ cultus tiếng La-tinh có nghĩa là "trồng trọt". Trong khi đó thì từ "văn minh" trong các ngôn ngữ phương Tây bắt nguồn từ chữ civitas, tiếng La-tinh có nghĩa là "thành phố".
    Ở Việt Nam còn có các khái niệm "văn hiến", "văn vật", - đó là những khái niệm bộ phận của "văn hóa" mà ở phương Tây không có,chúng chỉ khác văn hóa ở độ bao quát các giá trị : Văn hiến là văn hóa thiên về các giá trị tinh thần, còn văn vật là văn hóa thiên về các giá trị vật chất, cho nên ông cha ta thường nói "đất nước 4000 năm văn hiến" (mà không nói ...văn vật, vì trải qua 4000 năm, phần lớn các giá trị vật chất đã bị tàn phá. cái còn lại chủ yếu là các giá trị tinh thần), nhưng lại nói "Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn vật" (vì trong 1000 năm trở lại đây, từ khi Thăng Long hình thành, các giá trị vật chất còn lưu giữ được nhiều).
    4. Cấu trúc của hệ thống Văn hóa
    Như đã nói, lâu nay, tính hệ thống của văn hóa chưa được chú ý đầy đủ, cho nên cũng chưa có được một mô hình hệ thống văn hóa đầy đủ và có sức thuyết phục. Để tiếp cận văn hóa như một hệ thống, cần phải vận dụng chính Lí thuyết hệ thống. Trên cơ sở này, hợp lí hơn cả là xem văn hóa như một hệ thống gồm 4 thành tố (4 tiểu hệ) cơ bản, mỗi tiểu hệ lại có hai vi hệ nhỏ hơn như sau:
    Mỗi nền văn hóa đều là tài sản của một cộng đồng người nhất định - chủ thể văn hóa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng chủ thể văn hóa đó luôn có nhu cầu tìm hiểu, và do vậy đã tích lũy được một kho tàng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và về bản thân con người - đó chính là 2 vi hệ của tiểu hệ văn hóa nhận thức.
    Tiểu hệ thứ hai liên quan trực tiếp đến những giá trị văn hóa nội tại của cộng đồng người - chủ thể văn hóa: đó là văn hóa tổ chức cộng đồng. Nó bao gồm 2 vi hệ là văn hóa tổ chức đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức xã hội vĩ mô như tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị), và văn hóa tổ chức đời sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống mỗi người như tín ngưỡng, phong tục, đạo đức, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật,...).
    Cộng đồng người (chủ thể văn hóa) là tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường - môi trường tự nhiên ( thiên nhiên, khí hậu, v.v.) và môi trường xã hội (các dân tộc, quốc gia láng giềng). Cho nên, hệ thống văn hóa còn bao gồm hai tiểu hệ nữa liên quan đến cách thức xử sự của cộng đồng với hai loại môi trường ấy. Đó là văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hoá ứng xử với môi trường xã hội. Với mỗi loại môi trường, đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác động của chúng : tận dụng môi trường (tác động tích cực) và đối phó với môi trường (tác động tiêu cực).
    Cấu trúc của hệ thống văn hóa có thể tóm tắt trong bảng 2.
    [​IMG]
    Cũng như trong bất kì một hệ thống nào khác, trong văn hóa, ranh giới giữa các bộ phận không thể vạch ra một cách quá rạch ròi, nhất thành bất biến. Để sắp xếp một hiện tượng văn hóa vào thành tố này hoặc thành tố kia, trong mỗi trường hợp, phải căn cứ vào đặc điểm điển hình của nó. Chẳng hạn, mục đích của nhà cửa là đối phó với môi trường, nhưng con người lại đã tận dụng chính môi trường để tạo ra nó. Ngoại giao vừa có trách nhiệm đối phó vừa có trách nhiệm tận dụng môi trường xã hội, nhưng trách nhiệm đối phó nặng nề hơn ( không phải ngẫu nhiên mà nó được xem là một mặt trận : mặt trận ngoại giao).
    Một hệ thống văn hóa có thể được xem xét dưới góc độ các bình diện đồng đại và lịch đại, khái quát và cụ thể. Môn lịch sử văn hóa lâu nay chủ yếu quan tâm đến bình diện cụ thể và lịch đại, còn môn văn hoá học đang bàn chủ yếu quan tâm đến bình diện khái quát và đồng đại. Tuy nhiên, vì văn hóa vừa có tính hệ thống, lại vừa có tính lịch sử cho nên trên thực tế tốt nhất là phải tính tới cả hai bình diện ấy. Nếu lấy diện lịch đại làm cơ sở thì trong mỗi giai đoạn lịch sử sẽ phải lưu ý đến tính đồng đại - VĂN HÓA SỬ phải được xây dựng như thế. Ngược lại, nếu lâý diện đồng đại làm cơ sở thì trong mỗi hệ thống con, mỗi bộ phận của hệ thống con lại phải chú ý đến mặt lịch đại - VĂN HOÁ HỌC phải được xây dựng như thế.
    Dưới góc độ đồng đại, hệ thống văn hóa còn có thể có những cách phân chia khác. Tuy nhiên, chúng không phải là cơ bản. Chẳng hạn, trong quan hệ với tổ chức văn hóa cộng đồng, có thể phân biệt : văn hóa dân gian và văn hóa chính thống. Ở Việt Nam, trong quan hệ với môi trường tự nhiên, có thể phân biệt ba loại văn hóa theo địa bàn cư trú : văn hóa biển, văn hóa đồng bằng và văn hóa núi. Cũng vậy, có sự khác biệt giữa văn hóa Việt với văn hóa các dân tộc ít người. Những cách phân chia này cần được kết hợp xem xét trong những trướng hợp cần thiết.
    Cả 4 thành tố của hệ thống văn hóa đều bị quy định bởi một gốc chung là loại hình văn hóa. Nếu mô hình cấu trúc của hệ thống văn hoá cho ta thấy CÁI CHUNG, cái đồng nhất trong tính hệ thống của các nền văn hóa thì loại hình văn hóa sẽ cho ta thấy CÁI RIÊNG, cái khác biệt trong tính hệ thống của chúng.
    Tại sao vậy?​
  3. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    Văn hóa Việt Nam trong quan hệ cội nguồn với văn hóa Trung Hoa


    Căn bệnh cố hữu "lấy Trung Hoa làm trung tâm" đã tạo ra trong nhận thức của nhiều người định kiến cho rằng văn hóa Việt Nam chỉ là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa, là một bộ phận của nó; trong khi thực ra thì vấn đề phức tạp hơn nhiều.
    Tổ tiên của người Hán có nguồn gốc du mục, xuất phát từ vùng Trung Á. Theo các tài liệu nước ngoài thì sự kiện này là quá hiển nhiên. Còn các tài liệu Trung Hoa hoặc có nguồn gốc Trung Hoa thì thường không nhắc đến điều đó hoặc cung cấp một thông tin trái ngược : nhấn mạnh tính chất nông nghiệp của nền văn hóa này.
    Thực ra thì nền văn hóa Trung Hoa mang tính nước đôi : Xét theo thời gian thì trong nguồn gốc nó là du mục, còn trong sự phát triển về sau nó là nông nghiệp. Xét theo không gian thì trong sự so sánh với phương Nam nó là du mục, còn trong sự so sánh ngầm định với phương Tây nó là nông nghiệp. Như vậy, có thể nói văn hóa Trung Hoa là một thứ văn hóa nông nghiệp trọng động, khác với Việt Nam là văn hóa nông nghiệp điển hình, nông nghiệp trọng tĩnh.
    Như vậy, trong khi Việt Nam như một nền văn hóa nông nghiệp điển hình mang đặc tính trọng tĩnh, trọng tình (không phải duy tình!), phương Tây như khu vực văn hóa gốc du mục điển hình mang đặc tính trọng động, trọng lí (theo cách nói phương Tây là "duy lí") thì Trung Hoa, do mang tính nước đôi ( nông nghiệp gốc du mục) nên không thiên về tình mà cũng không hẳn thiên về lí - đó là một nền văn hóa duy ý chí.
    Không phải ngẫu nhiên mà ngay chính Lương Khải Siêu (1873-1929) - một nhà hoạt động văn hóa Trung Quốc nổi tiếng - cũng thừa nhận rằng tổ tiên của người Trung Hoa vốn là một sắc dân du mục "khởi lên từ phía Tây Bắc, rồi tràn xuống chiến thắng những giống man tộc ở lưu vực sông Hoàng Hà, và càng ngày càng tràn ra khắp cả trên cõi đất đại lục... Nguyên nền văn minh nước Tàu khởi xuất từ phương Bắc là nơi khí hậu rét mướt, mầu đất sỏi cát khô cằn, ngay cả phần trời cũng bạc, cho nên người phương Bắc chỉ chuyên để tâm nghiên cứu những vấn đề tầm thường nhật dụng, vì thế tư tưởng chỉ thiên về đường thực tế " .
    Hướng tiến của người Trung Hoa thời thượng cổ là từ Tây sang Đông, còn từ nhà Hạ đổ về sau là từ Bắc xuống Nam. Khi mới từ Trung Á di chuyển vào, tổ tiên người Trung Hoa sống định cư trong một địa bàn không lớn tại phía Tây lưu vực sông Hoàng Hà. Đến thời nhà Chu, lãnh thổ của họ về cơ bản cũng vẫn còn ở phía bắc sông Dương Tử. Cùng với sự lớn mạnh về quân sự và bành trướng về lãnh thổ, Trung Hoa cổ đại dần dần thâu tóm trong mình thoạt tiên là những nền văn hóa của các dân tộc xung quanh, đến đời Tần-Hán thì đã trở thành một đế quốc rộng mênh mông.
    Trong số những nền văn hóa đã đóng góp vào sự hình thành văn hóa Trung Hoa cổ đại, vai trò quan trọng hơn cả chính là thuộc về văn hóa phương Nam - nơi địa bàn gốc của trung tâm hình thành loài người phía Đông, nơi con người bắt tay vào cuộc sống nông nghiệp định cư từ rất sớm. Một nhà nghiên cứu ở Hương Cảng là Lã Sĩ Bằng đã viết : "Từ thượng cổ cho đến thời Tần Hán, giải đất hiện tại gọi là Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, cho đến Bắc Việt, Trung Việt đều là đất của người Việt ở cả. Cuối thời Xuân Thu, Việt vương Câu Tiễn xưng Bá, ấy là thời kì thịnh vượng nhất của người Việt. Theo nhà Hán học người Pháp tên là E. Chavamres khảo chứng thì lãnh vực nước Việt thời ấy, phía bắc bao gồm suốt cả miền Giang Tô đến tận phía nam Sơn Đông". Ứng Thiệu người đời Hán, trong sách "Hán quan nghi", đã khẳng định : "Khi cổ nhân mới mở ở Bắc phương, đã liền giao tiếp ngay với Nam phương để xây dựng nền tảng cho con cháu".
    Ngay từ thế kỉ XIX, một nhà Hán học người Pháp là T. de Lacouperie (1887) đã hiểu ra rằng "Niềm tin là nước Tàu vốn đã lớn lao mãi từ xưa và thường xuyên như thế chỉ là một huyền thoại. Trái hẳn lại, đó là một việc mới xảy ra về sau. Văn minh Tàu không phải là tự nó sinh ra nó, mà là hậu quả của sự thâu hóa. Việc thâu hóa từ đâu thì xưa cho là từ phía Tây, nhưng càng về sau thì càng có nhiều người cho là từ Đông Nam".
    Cùng với sự lớn mạnh của đế quốc Trung Hoa, nếu văn hóa Trung Hoa cũng phát triển nhanh chóng và, đến lượt mình, phát huy ảnh hưởng trở lại các dân tộc xung quanh. Chính sách bành trướng và đồng hoá các dân tộc lân bang một cách có ý thức của các triều đại phong kiến Trung Hoa đã hoàn thiện nốt công việc của mình, tạo nên "huyền thoại" mà T. de Lacouperie đã nói. Phương Nam luôn là hướng bành trướng chủ yếu của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Chính vì vậy mà, theo M. I. Sladkovskij (1977), "vấn đề có tầm quan trọng số một hiện nay là xác định sự đóng góp của các dân tộc sống phía nam sông Dương Tử vào nền văn hóa chung của Trung Hoa. Các dân tộc ở miền nam Trung Hoa hiện nay đã từng dựng nên một nền văn hóa độc đáo với những dấu hiệu hiển nhiên mà ngay cả bây giờ, bất kì người quan sát khách quan nào cũng thấy".
    Tóm lại, mối quan hệ cội nguồn giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa Trung Hoa qua các cặp phạm trù "văn hóa Nam-Á / văn hóa vùng lưu vực sông Hoàng Hà", "văn hóa phương Nam / văn hóa phương Bắc" như sau :
    [​IMG]
  4. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    CHỦ THỂ VĂN HÓA VIỆT NAM

    * Hệ tọa độ ba chiều
    Giống như một điểm trong không gian, vị trí của một nền văn hóa trong xã hội phải được xác định bởi một hệ tọa độ. Một hệ tọa độ ba chiều: Thời gian văn hóa, Không gian văn hóa và Chủ thể văn hóa.
    Thời gian văn hóa được xác định từ khi một nền văn hóa hình thành cho đến khi tàn lụi. Nói chung, thời gian văn hóa không thể có ranh giới rạch ròi, nó là một khái niệm mờ. Thời điểm khởi đầu của một nền văn hóa là do thời điểm hình thành dân tộc (chủ thể văn hóa) quy định.
    Không gian văn hóa có phần phức tạp hơn : bởi lẽ văn hóa có tính lịch sử, cho nên trong văn hóa đã có cả yếu tố thời gian. Vì có tính thời gian cho nên không gian văn hóa liên quan đến lãnh thổ nhưng không đồng nhất với không gian lãnh thổ. Nó bao quát tất thảy những vùng lãnh thổ mà ở đó dân tộc đã tồn tại qua các thời đại. Do vậy, không gian văn hóa bao giờ cũng rộng hơn không gian lãnh thổ. Không gian văn hóa cũng là một khái niệm mờ : không gian văn hóa của hai dân tộc ở cạnh nhau thường có phần chồng lên nhau, có miền giáp ranh. Để có được hình dung đầy đủ về không gian văn hóa của một dân tộc cụ thể, cần nắm được nguồn gốc và quá trình hình thành của dân tộc. Nghĩa là, cả thời gian văn hóa lẫn không gian văn hóa đều phụ thuộc vào việc xác định trục thứ ba của hệ tọa độ - chủ thể văn hóa.
    * Nguồn gốc dân tộc Việt Nam - chủ thể văn hóa
    Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu gần đây, người ta đã chia nhân loại thành hai khối quần cư lớn: Phi-Âu và Úc-Á , đó cũng chính là hai trung tâm hình thành chủng tộc cổ xưa nhất của loài người : Trung tâm phía Tây ở miền Đông-Bắc Phi và Tây-Nam Á, và Trung tâm phía Đông ở miền Đông Nam Á. Trung tâm phía Tây có hai đại chủng : Âu (Europeoid) và Phi (Negroid). Trung tâm phía Đông cũng có hai đại chủng : Á (Mongoloid) và Úc, hay phương Nam (Australoid, tiếng La-tinh Austra = phương Nam). Hai trung tâm này xuất hiện không đồng thời : trung tâm phía Tây có trước. Không loại trừ khả năng là từ đó, loài người nguyên thủy đã tiến dần sang phía Đông để rồi phát triển thành trung tâm thứ hai ở đây.
    Như vậy, có thể nói rằng chủ thể của văn hóa Việt Nam ra đời : (a) trong phạm vi của trung tâm hình thành loài người phía Đông: và (b)trong khu vực hình thành của đại chủng phương Nam. "Ngay từ buổi bình minh của lịch sử - Ja. V. Chesnov (1976) viết - Đông Nam Á đã là một trong những cái nôi hình thành loài người. Đây chính là địa bàn hình thành đầu tiên của đại chủng phương Nam".
    Những kết quả khai quật ở hàng loạt địa điểm khác nhau như hang động Bình Gia (Lạng Sơn), núi Đọ (Thanh Hóa), vùng Hàng Gòn - Dầu Giây (Đồng Nai)... đã tìm thấy những răng hàm của người vượn cổ, những công cụ đá như mảnh tước, nạo thô, rìu tay,... có niên đại vào khoảng 30-40 vạn năm tr. CN (sơ kì đồ đá cũ), tức là chính vào khoảng thời gian hình thành trung tâm phía Đông- cái nôi thứ hai của loài người. Muộn hơn, khi người nguyên thủy phân hóa dần thành các chủng tộc, sống trên địa bàn Đông Dương là những người thuộc đại chủng phương Nam (các chủng Negrito, Melanésien). Vào khoảng gần 20.000 năm tr. CN. mực nước biển ở các đại dương đã hạ xuống tới mức thấp nhất (thấp hơn mực nước biển hiện nay khoảng 100-200 mét), bán đảo Đông Dương và vùng các quần đảo trở nên gần như nối liền nhau; ở vùng châu thổ sông Cửu Long đã hình thành một "cầu lục địa". Nhờ đó, những dòng người và động vật có điều kiện di chuyển từ đất liền ra các hải đảo, rồi đi tiếp tới vùng lục đia úc châu và những nơi xa xôi khác.
    Trên nền của những sự kiện trên, trong những giai đoạn tiếp theo, quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể được hình dung theo ba giai đoạn :
    a) Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước), có một dòng người thuộc chủng Mongoloid từ vùng Tây Tạng thiên di về phía đông nam, tới vùng nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Melanésien bản địa (thuộc đại chủng úc), dẫn đến kết quả là sự hình thành chủng lndonésien (còn gọi là cổ Mã Lai). Từ đây lan tỏa ra, người Indonésien cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại. Đó là một vùng rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử, phía tây tới bang Assam của ấn Độ, phía đông tới vùng quần đảo Philippin và phía Nam tới các hải đảo lnđônêxia.
    b) Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng gần 5.000 năm về trước), tại khu vực mà hiện nay là Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương (từ phía nam sông Dương Tử đến lưu vực sông Hồng Hà), trên cơ sở sự chuyển biến từ loại hình lndonésien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng Mongoloid từ phía Bắc, đã hình thành một chủng mới là chủng Nam Á (Austro-asiatique). Với chủng Nam-Á, các nét đặc trưng Mongoloid lại càng nổi trội, do vậy nó được xếp vào ngành Mongoloid phương Nam.
    c) Thời kì sau đó, chủng Nam-Á được chia tách thành một loạt các chủng tộc mà trong cổ thư Việt Nam và Trung Hoa được gọi bằng danh từ Bách Việt. Tuy "Bách" chỉ là một cách nói biểu trưng, nhưng đó thực sự là một cộng đồng cư dân hùng hậu, bao gồm nhiều tộc người Việt như Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt, Lạc Việt sinh sống khắp khu vực phía Nam sông Dương Tử cho tới tận bắc Trung bộ ngày nay, họp thành những khối cư dân lớn (mà ban đầu mỗi khối có một tiếng nói riêng) như Môn-khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, Mèo-Dao. Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dần dần đã dẫn đến sự hình thành các dân tộc cụ thể (cùng với sự chia tách ngôn ngữ), trong đó người Việt đã tách ra từ khối Việt- Mường chung vào khoảng cuối thời Bắc thuộc (tk. VII-VIII).
    Trong khi đó, ở phía Nam dọc theo dải Trường Sơn, vẫn là địa bàn cư trú của người lndonésien. Cuộc sống biệt lập khiến cho khối người này lưu giữ được nhiều hơn những đặc điểm của truyền thống văn hóa cổ gần gũi với cư dân các hải đảo. Đó là tổ tiên của người Chàm, Raglai, Êđê, Giarai, Churu, v.v. Ngôn ngữ của khối người (mà Chàm có thể xem là đại diện) này (gọi là Nam Đảo, Austronésien) cũng duy trì được nhiều nét tương đồng với ngôn ngữ của cư dân các hải đảo. Kết hợp các cứ liệu nhân chủng học với các cứ liệu ngôn ngữ học, có thể sơ bộ hình dung bức tranh về nguồn gốc các dân tộc Đông Nam Á như sau :
    [​IMG]
    Như vậy, người Việt và tuyệt đại bộ phận các dân tộc Việt Nam đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc chung là nhóm loại hình Indonésien, chính điều đó đã tạo nên tính thống nhất - một tính thống nhất trong sự đa dạng - của con người và văn hóa Việt Nam, và rộng hơn là toàn vùng Đông Nam Á. Trong sự đa dạng chung đó lại luôn có tính thống nhất bộ phận : của người Việt-Mường và các dân tộc cùng gốc Nam-Á - Bách Việt,...
  5. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    KHÔNG GIAN VĂN HÓA VIỆT NAM
    Trong phạm vi hẹp, không gian gốc của văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người Nam Á (Bách Việt). Có thể hình dung nó như một hình tam giác với cạnh đáy ở phía bắc, nơi sông Dương Tử, và đỉnh là vùng bắc Trung Bộ Việt Nam. Đây là cái nôi của nghề nông nghiệp lúa nước, của nghệ thuật đúc đồng với những trống đồng Đông Sơn nổi tiếng. Đây cũng là bờ cõi đất nước của họ Hồng Bàng theo truyền thuyết.
    Ở một phạm vi rộng hơn, không gian tồn tại của văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người Indonésien lục địa. Có thể hình dung nó như một hình tam giác rộng hơn, trùm ra ngoài hình tam giác thứ nhất, với cạnh đáy vẫn là sông Dương Tử ở phía Bắc nhưng đỉnh thì kéo tới vùng đồng bằng sông Mê-kông ở phía nam. Đây là khu vực tam giác được tạo nên bởi hai con sông lớn cùng bắt nguồn từ dãy Himalaya : Dương Tử Giang và Mê-kông; nơi mà phần lớn các con sông và những địa danh liên quan đến sông đều được gọi bằng những từ vốn là biến âm của cùng một từ gốc Nam-Á cổ đại với nghĩa là sông nước: giang (Dương Tử giang, Việt giang, Chiết giang, Linh giang, Tam giang, Tiền giang,...); kiang; kung; khung (khung Giang, khung Bích - Thái Tây Bắc; Mèkhủng - Lào); kong (Mekong); krong, krông (Tây Nguyên:krông Púc, krông Pacô,...); sông (Việt); sung (sung Lung, sung Vang - phụ lưu sông Đà, sông Cả),...đối lập với khu vực phía bắc là nơi mà các con sông được gọi là "hà".
    Sông nước đã để lại dấu ấn rất quan trọng trong tinh thần văn hóa khu vực này. Đây là một hằng số địa lí quan trọng, chính nó tạo nên nét độc đáo của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Những địa danh có yếu tố Dak, Nậm mà ta vẫn hay gặp ở các dân tộc anh em (Dak Lak, Dak Tô, Dak Sut, Nậm Thà, Nậm U, Nậm Rốm...) đều có nghĩa là "nước" cả. Đối với người Việt Nam, mặt trời buổi sáng "mọc" lên như cái cây, còn buổi chiều phải "lặn" sâu xuống nước; ngay cả "quốc gia" cũng là Nước mà thôi !
    Tuy sau này, trong quá trình giao lưu với khu vực, văn hóa Việt Nam trở nên gắn bó mật thiết với văn hóa Trung Hoa, tiếp thu khá nhiều từ văn hóa Trung Hoa, nhưng từ trong cội nguồn thì không gian văn hóa Việt Nam vốn được định hình trên nền của không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á.
    Ta có thể hình dung không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á này như một hình tròn bao quát toàn bộ Đông Nam Á lục địa, và Đông Nam Á hải đảo. Từ sau công nguyên, khu vực văn hóa Đông Nam Á có phần bị thu hẹp lại do vùng phía nam sông Dương Tử dã bị chính sách bành trướng và đồng hóa của Trung Hoa dần dần thâu tóm. Mặc dù vậy, cho đến giờ, ngay cả vùng Nam Trung Hoa này cũng hãy còn giữ được không ít nét trong số hàng loạt những đặc điểm chung của khu vực văn hóa Đông Nam Á mà G.Coedes (1948) đã liệt kê. Đây là địa bàn cư trú của người lndonésien cổ đại nói chung.
    Chính mối liến hệ này đã tạo nên sự thống nhất cao độ của vùng văn hóa Đông Nam Á. Hơn thế nữa, do vị trí đặc biệt của mình (nằm trong nôi hình thành loài người phía Đông, nằm trong khu vực hình thành của chủng phương Nam, là giao điểm của các luồng văn hóa...), Việt Nam là nơi hội tụ ở mức độ đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hóa khu vực : Có thể nói, Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ. Mặt khác, cũng chính điều này là cơ sở tạo nên sự khác biệt rất cơ bản giữa văn hoá Việt Nam với văn hóa Trung Hoa.
  6. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    HAI LOẠI HÌNH VĂN HÓA

    So sánh các nền văn hóa trên thế giới, người ta thấy chúng vô cùng đa dạng và phong phú. Song, cũng đã từ lâu, người ta nhận thấy giữa các nền văn hóa có không ít nét tương đồng.
    Để giải thích sự tương đồng này, người ta đã đưa ra nhiều thuyết khác nhau : Thuyết khuếch tán văn hóa (cultural diffusion) phổ biến ở châu Âu mà theo đó thì văn hóa được hình thành từ một trung tâm rồi được "lan tỏa" ra các nơi khác. Thuyết vùng văn hóa (cultural areas) phổ biến ở Mĩ mà theo đó thì có thể tồn tại nhiều dân tộc với những nền văn hóa của mình trên cùng một vùng lãnh thổ. Thuyết loại hình kinh tế - văn hóa phổ biến trong dân tộc học Xô-viết mà theo đó thì trong lịch sử nhân loại từng tồn tại loại hình kinh tế văn hóa săn bắt, hái lượm và đánh cá; loại hình kinh tế - văn hóa nông nghiệp dùng cuốc và chăn nuôi, và loại hình kinh tế - văn hóa nông nghiệp dùng cày với sức kéo động vật.
    Các thuyết trên thực ra không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau, mỗi thuyết thích hợp cho những điều kiện khác nhau. Thật vậy, nếu các dân tộc chủ nhân của các nền văn hóa, cũng như các ngôn ngữ của họ, xuất phát từ cùng một gốc thì giữa các nền văn hóa này có thể có quan hệ lan toả. Nếu các nền văn hóa gần gũi nhau về địa lí thì chúng có thể từ tiếp xúc đến giao lưu với nhau, và trong việc giao lưu ấy có thể xảy ra hiện tượng những yếu tố của nền văn hóa này thâm nhập vào nền văn hoá kia (tiếp thu thụ động) hoặc nền văn hóa này vay mượn những yếu tố của nền văn hóa kia (tiếp thu chủ động); rồi trên cơ sở những yếu tố nội sinh (endogenous) và ngoại sinh (exogenous) ấy mà điều chỉnh, biến cải cho phù hợp, gây ra sự tiếp biến văn hóa (acculturation). Các nền văn hóa gần gũi và giao lưu với nhau này tạo nên những vùng văn hoá. Nếu các nền văn hóa ở cách xa nhau và chưa bao giờ gặp gỡ nhau nhưng lại nằm trong những điều kiện tự nhiên và xã hội tương đồng thì chúng cũng có thể có những nét giống nhau tạo nên những đặc trưng loại hình.
    Do vậy các thuyết và các khái niệm nêu trên đểu có thể được vận dụng ở những mức độ khác nhau, chẳng hạn, lí thuyết vùng văn hóa sẽ rất hữu hiệu cho việc xác định các vùng văn hóa của người Việt và các tộc ít người như văn hóa sông Hồng, văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, văn hóa Tây Nguyên,... ; lí thuyết về sự lan tỏa thích hợp cho việc giải thích sự tương đồng văn hóa giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. Song, để làm sáng tỏ bản sắc của văn hóa Việt Nam, điều quan trọng hơn là cần nêu được sự đồng nhất và khác biệt giữa nó với các nền văn hóa khu vực (như Trung Hoa) và thế giới (như phương Tây). Trong sự so sánh này, việc xác định loại hình văn hóa là hết sức quan trọng. Ba loại hình kinh tế - văn hóa của dân tộc học xô-viết đã nêu thiên về các đặc điểm mang tính lịch sử kinh tế mà chưa đồng thời phản ánh được các đặc trưng địa lí - khu vực là điều khá quan trọng đối với việc xác định văn hóa Việt Nam. Dưới đây là một cách phân loại có khả năng khắc phục được nhược điểm đó.
    1. Một cái nhìn phác qua cũng cho thấy giữa những nền văn hóa ở phương Tây và phương Đông có sự khác biệt mang tính loại hình hết sức rõ rệt. Nguồn gốc sâu xa của những khác biệt văn hóa này là do những khác biệt về môi trường sống quy định . Môi trường sống của các cộng đồng cư dân ở phương Đông đều là những vùng đồng bằng nằm trong lưu vực các con sông lớn với khí hậu nóng ẩm; còn phương Tây lại là xứ sở của những thảo nguyên mênh mông với khí hậu lạnh khô.
    Hai loại địa hình đồng bằng và đồng cỏ dẫn đến chỗ cư dân của hai khu vực phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau : trồng trọt và chăn nuôi. Kinh tế trồng trọt bắt buộc phải sống định cư, còn lối sống chăn nuôi lại là lối sống du cư lang thang nay đây mai đó đi tìm cỏ cho gia súc. Môi trường sống quy định kinh tế, và, đến lượt mình, kinh tế quy định văn hóa. Kết quả là hình thành một cách rất rõ ràng hai loại văn hoá : Văn hóa nông nghiệp thì lo tạo dựng một cuộc sống ổn định lâu dài, không xáo trộn - chúng mang tính chất trọng tĩnh; văn hóa du mục thì lo tổ chức làm sao để có thể thường xuyên di chuyển một cách gọn gàng nhanh chóng, thuận tiện - chúng mang tính chất trọng động. Các nền văn hóa hiện đại dù đang thuộc giai đoạn văn minh nào (nông nghiệp, công nghiệp, hay thậm chí hậu công nghiệp) cũng đều không thoát ra ngoài hai loại hình ấy. Căn cứ theo nguồn gốc, có thể gọi chúng là các nền VĂN HÓA GỐC NÔNG NGHIỆP và các nền VĂN HÓA GỐC DU MỤC. Điển hình cho loại gốc du mục (trọng động) là các nền văn hóa phương Tây; còn điển hình cho loại gốc nông nghiệp (trọng tĩnh) là các nền văn hóa phương Đông.
    Chính vì động cho nên các nền văn hóa phương Tây đã chuyển biến rất nhanh. Trong khi phần lớn các nền văn hóa phương Đông đến nay về cơ bản vẫn mang tính nông nghiệp thì các nền văn hóa phương Tây đã chuyển sang công nghiệp từ lâu. Con đường chuyển biến từ du mục đến công nghiệp đã đi qua giai đoạn thương nghiệp : Ban dầu là du mục, nhưng trong khi lang thang từ nơi này sang nơi khác, người ta nhận ra sự khác biệt về giá cả, vì vậy họ đã chuyển sang mô hình kết hợp du mục + buôn bán. Rồi dần dà nhận ra rằng buôn bán có lợi hơn chăn nuôi nên họ đã từ bỏ chăn nuôi mà chuyển hẳn sang thương nghiệp . Nhưng thương nghiệp thì phải có kho bãi, phải có nơi gặp gỡ để trao đổi hàng hóa. Và thế là cuộc sống định cư hình thành; các kho bãi, chợ búa phát triển thành đô thị. Để phục vụ nhu cầu của đô thị và có hàng hóa mang trao đổi lấy hàng nông nghiệp về nuôi sống đô thị, một xã hội công nghiệp đã hình thành.
    Mỗi loại hình văn hóa gốc du mục và gốc nông nghiệp là một chùm những đặc trưng khu biệt rất đặc thù cho từng thành tố (tiểu hệ); những đặc trưng này liên quan chặt chẽ với nhau, cho phép từ cái nọ suy ra cái kia và suy ra tất cả các đặc trưng khác của mỗi nền văn hóa.
    2. Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên hình thành hai thái độ đối lập : Dân nông nghiệp sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên - đã ở cố định một chỗ với cái nhà, cái cây của mình thì phải có ý thức tôn trọng, không dám ganh đua với thiên nhiên, chỉ mong được sống hòa hợp với thiên nhiên. Còn dân du mục thì nếu thấy ở nơi này không thuận tiện, họ có thể dễ dàng bỏ đi nơi khác, do vậy dẫn đến tâm lí coi thường thiên nhiên và mang trong mình tham vọng chinh phục và chế ngự thiên nhiên.
    Mỗi thái độ đều có mặt hay và mặt dở riêng của nó. Tôn trọng thiên nhiên có cái hay là gìn giữ được môi trường sống tự nhiên nhưng có cái dở là khiến con người trở nên rụt rè, e ngại. Coi thường thiên nhiên có cái hay là khuyến khích con người dũng cảm đối mặt với thiên nhiên, khuyến khích khoa học phát triển, nhưng có cái dở là huỷ hoại môi trường. F. Engels trong cuốn Phép biện chứng của tự nhiên đã nhận ra rằng : "Con người là một phần của thiên nhiên hơn là một gì cách biệt với thiên nhiên", và kêu gọi : "Vấn đề của con người không phải là chiến thắng thiên nhiên mà là sống trong một sự hòa hợp có ý thức và tế nhị với thiên nhiên ! "
    3. Về mặt nhặn thức, hai loại hình văn hóa này tạo nên hai kiểu tư duy trái ngược nhau : Nghề nông, và nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, sống phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều - không phải chỉ phụ thuộc vào một hai hiện tượng riêng lẻ nào mà là cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả : trời, đất, nắng, mưa:
    Trông trời, trông đất, trông mây
    Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm...
    Trông cho chân cứng đá mềm,
    Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng.
    Đó chính là đầu mối của lối tư duy tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng - cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là tập hợp của các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này : Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa; Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa: Ráng mỡ gà ai có nhà thì phải chống: Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa; Mồng tám tháng tám không mưa, bỏ cả cày bừa mà nhổ lúa đi...
    Ngược lại, đối tượng quan tâm của nghề chăn nuôi không tản mạn mà tập trung vào đàn gia súc, con vật. Xuất phát từ cái chỉnh thể, tư duy của con người tất yếu đi theo lối phân tích để tách ra các yếu tố cấu thành; từ con vật hoàn chỉnh mổ xẻ chia ra các bộ phận. Và đối tượng quan tâm ở đây tập trung vào chính các bộ phận riêng lẻ ấy (vì mối liên hệ giữa chúng trong chỉnh thể đã là đương nhiên), cho nên phân tích kéo theo siêu hình - chú ý tới các yếu tố, trừu tượng hóa chúng khỏi các mối liến hệ.
    Tư duy phân tích và siêu hình là cơ sở cho sự hình thành và phát triển của KHOA HỌC theo con đường thực nghiệm, khách quan, lí tính. Tính chặt chẽ và sức thuyết phục của khoa học từ dó mà ra. Ngược lại, ở lối tư duy tổng hợp và biện chứng, sự chú ý bị phân tán, không có điều kiện cho việc hình thành những ngành khoa học chuyên sâu, nhưng bù vào đó, nó lại là cơ sở cho việc hình thành một nền ĐẠO HỌC - đó là hệ thống những tri thức thu được bằng con đường kinh nghiệm, chủ quan, cảm tính với cách diễn đạt bao giờ cũng ngắn gọn, súc tích ?" tính thâm thúy của đạo học từ đó mà ra.

    Còn nữa...
  7. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    tiếp theo ....
    4. Về cách tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức theo nguyên tắc trọng tình : hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hoà thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu : Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình. Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.
    Từ chỗ coi trọng ngôi nhà, người nông nghiệp định cư đi đến coi trọng cái bếp, và từ chỗ coi trọng cái bếp đi đến coi trọng người phụ nữ là một con đường hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Tục ngữ Việt Nam chứa đựng không ít những câu thể hiện nguyên lí này: Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà; Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng... Vì tầm quan trọng của người mẹ cho nên trong Tiếng Việt, từ cái vốn có nghĩa là "mẹ" (con dại cái mang) được chuyển nghĩa thành "lớn, quan trọng, chủ yếu" (sông cái, đũa cái, cột cái, trống cái, ngón tay cái, máy cái,...) . Không phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp tiêu biểu - khu vực Đông Nam Á này được nhiều học giả phương Tây gọi là "xứ sở mẫu hệ" (Le Pays du Martriarcat). Cho đến tận bây giờ, ở các dân tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chàm hoặc hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai,...), vai trò của người phụ nữ vẫn rất lớn : phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về ở đằng nhà vợ, con cái đặt theo họ mẹ... Thời kỳ sau này, đặc biệt là từ khi nhà Lê lấy Nho giáo làm quốc giáo, nền văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng khá nhiều của văn hóa Trung Hoa; nó đã du nhập nhiều tư tưởng gốc du mục, trong đó có tư tưởng "Nam tôn nữ ti". Nhiều người chỉ biết tới những quan niệm "nhập cảng" như thế rồi tưởng rằng tình trạng đó vốn có ở Việt Nam từ ngàn xưa là hết sức sai lầm.
    5. Về cách thức tổ chức cộng đồng, ta thấy lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn phải đắn do cân nhắc của người làm nông nghiệp đã dẫn đến lối sống linh hoạt. luôn biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể (dẫn đến triết lí sống của người Việt Nam là : Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với Bụt mặc áo cà sa - Đi với ma mặc áo giấy).
    Ngược lại, tư duy phân tích và siêu hình của văn hóa gốc du mục dần đến cách thức tổ chức cộng đồng theo nguyên tắc : cuộc sống du cư của tổ tiên khi xưa đòi hỏi con người luôn phải tuân thủ kĩ luật chặt chẽ, sớm dẫn đến sự hình thành một nếp sống theo pháp luật, với tính tổ chức cao. Cách thức tổ chức theo nguyên tắc liên quan đến lối sống trọng lí - đề cao lí trí theo lối nói cực đoan Tây phương là duy lí . Để duy trì được nguyên tắc, kỉ luật, văn hóa gốc du mục có thiên hướng coi trọng sức mạnh, trọng võ, trọng nam giới. Thiên hướng đó tạo ra cách cư xử mà quyền lực tuyệt đối nằm trong tay người cai trị (quân chủ).
    Mỗi lối sống có cái ưu và nhược điểm riêng của nó. Không phải cứ linh hoạt, trọng tình, dân chủ là tốt; ngược lại, nguyên tắc, trọng võ, quân chủ là xấu. Nếu như mặt trái của nguyên tắc là máy móc, rập khuôn cứng nhắc; mặt trái của quân chủ là áp đặt thiếu bình đẳng thì mặt trái của linh hoạt là tùy tiện. Biểu hiện tiêu biểu của tùy tiện là tật co giãn trong khái niệm giờ giấc (giờ cao su!), sự tùy tiện trong việc thực hiện pháp luật... Nguyên tắc sống trọng tình làm cho sự tùy tiện như một nhược điểm phát sinh bởi lối sống linh hoạt càng trở nên trầm trọng hơn: Đưa nhau đến trước cửa quan. Bên ngoài là lí, bên trong là tình... Nó dẫn đến tệ "đi cửa sau" trong giải quyết công việc (một khi tình cảm đã thông thì mọi việc đều có thể "linh động" xong hết): Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế... Trọng tình và linh hoạt còn làm cho người nông nghiệp có tính tổ chức kém hơn hẳn so với cư dân gốc du mục.
    6. Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt của văn hóa nông nghiệp còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận và mềm dẻo, hiếu hòa trong đối phó. Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược, người nông nghiệp Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo; ở Việt Nam không những không bao giờ xảy ra chiến tranh tôn giáo mà ngược lại, mọi tôn giáo thế giới (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo) đều được tiếp nhận và có chỗ đứng ở Việt Nam. Sở dĩ như vậy là vì tính dung hợp là sản phẩm của lối tư duy tổng hợp, còn tính mềm dẻo là sản phẩm của lối sống linh hoạt và lối tư duy biện chứng; cả hai đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của lối sống thiên về tình cảm như đã nói ở trên. Trong khi đó, tinh thần trọng võ, lối sống theo nguyên tắc của văn hóa gốc du mục dẫn đến lối ứng xử độc tôn, chiếm đoạt trong tiếp nhận và cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó (ưa đối phó bằng vũ lực và khi giải quyết luôn có tham vọng buộc đối phương khuất phục hoàn toàn).
    Các đặc trưng vừa phân tích của hai loại hình văn hóa gốc nông nghiệp (trọng tĩnh) và gốc du mục (trọng động) được trình bày trong bảng 3 sau đây:
    [​IMG]
    Đây là hai loại hình văn hóa cơ bản có tính cách bao trùm. Mọi nền văn hóa trên thế giới đều không thoát ra ngoài hai loại hình văn hóa này. Tự thân các thuật ngữ "gốc nông nghiệp" và "gốc du mục" đã nói lên rằng không có nền văn hóa nào là nông nghiệp hoàn toàn hoặc du mục hoàn toàn. Căn cứ vào những đặc trưng đã nêu, ta luôn có thể nhận diện và xác định mức độ nông nghiệp (trọng tĩnh) hay du mục (trọng động) của từng nền văn hóa.
    Chẳng hạn, theo các đặc trưng này thì ta còn có thể thấy rằng trong phương Đông trọng tĩnh thì văn hóa Trung Hoa ở phía Bắc lại thiên về tính động, còn văn hóa Việt Nam thiên về tính tĩnh. Như vậy, Trung Hoa là động ở trong tĩnh, còn Việt Nam là tĩnh ở trong tĩnh (rất tĩnh = nông nghiệp điển hình). Ngay trong nội bộ Trung Hoa cũng không khó khăn gì có thể phân biệt khu vực phía Bắc thiên về tính động (kinh tế thì thiên về chăn nuôi, xã hội thì phát triển thương nghiệp và đô thị....); còn khu vực phía Nam thiên về nông nghiệp tính tĩnh.
    Văn hóa nông nghiệp và du mục còn có thể được nói đến trong mối quan hệ với "Văn hoá đô thị", "Văn hoá công nghiệp", "Văn hoá hậu công nghiệp"... Đây là sự phân loại trong nội bộ mỗi nền văn hóa hoặc mỗi loại hình văn hóa. Thực chất, đây chính là sự phân loại các nền văn minh chủ yếu là theo phương diện đồng đại. Học thuyết các hình thái kinh tế ?" xã hội của C. Mác phân chia xã hội loài người thành các giai đoạn công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản,... hoàn toàn có thể vận dụng làm cơ sở cho việc phân loại các nền văn minh theo phương diện lịch đại (xét theo các giai đoạn phát triển của chúng).
  8. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    VÙNG VĂN HÓA CHÂU THỔ BẮC BỘ
    [​IMG]

    I - Đặc điểm môi trường tự nhiên xã hội
    Lâu nay, khi xem xét văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ, người ta thường đặt xứ Nghệ - Tĩnh ra ngoài và xếp thành một vùng riêng. GS. Đinh Gia Khánh trong Các vùng văn hóa Việt nam cũng đặt riêng vùng văn hóa Nghệ - Tĩnh bên cạnh vùng văn hóa đồng bằng miền Bắc, ngoài việc tách riêng vùng văn hóa Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, PGS. PTS Ngô Đức Thịnh không tách riêng vùng văn hóa Nghệ - Tĩnh, mà quan niệm rằng đồng bằng Bắc Bộ bao gồm lưu vực của sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã.Thực ra, tách vùng văn hóa Nghệ - Tĩnh ra khỏi vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, cũng có cơ sở khoa học của nó, nhưng nếu nhập chung vào ít nhất như ý kiến của PGS, PTS Ngô Đức Thịnh, cũng có cái lí của nó.Chúng tôi cho rằng, Nghệ - Tĩnh, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, chỉ rõ sắc thái riêng khi đặt chúng vào bối cảnh lớn hơn của vùng văn hóa lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, nói cách khác, đó là những tiểu vùng văn hóa, một mặt mang tính chất của châu thổ Bắc Bộ, một mặt có những nét riêng. Do vậy, khi nói vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ là nói tới vùng văn hóa thuộc lãnh thồ các tỉnh Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình; thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng; phần đồng bằng của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Cũng cần nói thêm về Nghệ An, Hà Tĩnh, ngay từ thời kì Văn Lang - Âu Lạc, thậm chí ngược lên xa hơn, Nghệ An - Hà Tĩnh vẫn gắn bó với Bắc Bộ. Hình như việc tách ra theo địa giới hành chính để có khu Bốn, chỉ có thời chống Pháp, chống Mỹ mà thôi.Như vậy, vùng văn hóa châu thố Bắc Bộ nằm giữa lưu vực những dòng sông Hồng, sông Mã. Đây là vùng văn hóa đúng như PGS, PTS Ngô Đức Thịnh nhận xét : "Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam, đồng bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc" Dẫn đến điều này là một hệ quả, một tổng hòa các quan hệ của nhiều vấn đề khác nhau. Trước hết là những đặc điểm của môi trường tự nhiên Bắc Bộ.Về vị trí địa lí vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính : Tây - Đông và Bắc - Nam. Vị trí này khiến cho nó trở thành vị trí tiền đồn để tiến tới các vùng khác trong nước và Đông Nam Á, là mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả bọn xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng cũng chính vị trí địa lí này tạo điều kiện cho cư dân có thuận lợi về giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 - 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều, tại vùng có địa hình cao vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương (Bắc Ninh), có núi Thiên Thai, nhưng vẫn là vùng trũng, như Nam Định, Hà Nam là vùng thấp nhưng vẫn có núi như Chương Sơn, núi Đọi v.v... Mặt khác, khí hậu vùng Bắc Bộ thật độc đáo, khác hẳn những đồng bằng khác. Đây là vùng duy nhất ở Việt Nam có một mùa đông thực sự với ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18 độ, do đó mà có dạng khí hậu bốn mùa với mỗi mùa tương đối rõ nét, khiến vùng này cấy được vụ lúa ít hơn các vùng khác. Hơn nữa, khí hậu vùng này lại rất thất thường, gió mùa đông bắc vừa lạnh vừa ẩm, rất khó chịu, gió mùa hè nóng và ẩm .Một đặc điểm nữa là môi trường nước, đồng bằng Bắc Bộ có một mạng lưới sông ngòi khá dày, khoảng 0,5 - l,0km/km2, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, cùng các mương máng tưới tiêu dày đặc. Do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa với hai mùa khô và mưa nên thủy chế các dòng sông, nhất là sông Hồng cũng có hai mùa rõ rệt : mùa cạn, dòng chảy nhỏ, nước trong và mùa lũ dòng chảy lớn, nước đục. Ngoài khơi, thủy triều vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật triều, mỗi ngày có một lần nước lên và một lần nước xuống. Chính yếu tố nước tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn minh lúa nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc đáo của mình.Thứ hai là môi trường xã hội. Cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ là cư dân sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp một cách thuần túy. Biển và rừng bao bọc quanh đồng bằng Bắc Bộ nhưng từ trong tâm thức, người nông dân Việt Bắc Bộ là những cư dân "xa rừng nhạt biển" - chữ dùng của PGS, PTS Ngô Đức Thịnh- Nói khác đi là, người nông dân Việt Bắc Bộ là người dân đồng bằng đắp đê lấn biển trồng lúa, làm muối và đánh cá ở ven biển. Hàng ngàn năm lịch sử, người nông dân Việt không có việc đánh cá được tổ chức một cách quy mô lớn, không có những đội tàu thuyền lớn. Nghề khai thác hải sản không mấy phát triển. Các làng ven biển thực ra chỉ là các làng làm nông nghiệp, có đánh cá và làm muối. Ngược lại, Bắc Bộ là một châu thổ có nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân chài trọng về việc khai thác thủy sản. Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thủy sản là một phương cách được người nông dân rất chú trọng. Đã có lúc việc khai thác ao hồ thả cá tôm được đưa lên hàng đầu như một câu ngạn ngữ : nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền (nhất thả cá ao, nhì làm vườn, ba làm ruộng). Dù sao, phương thức canh tác chính của cư dân đồng bằng sông Hồng vẫn là trồng lúa nước (khoảng 82% diện tích trồng trọt cây lương thực). Tuy nhiên, cùng cây lúa, diện mạo cây trồng ở Bắc Bộ còn nhiều loại cây khác phù hợp với chất đất từng vùng và khí hậu từng mùa.Trong khi đó, đất đai ở Bắc Bộ không phải là nhiều, dân cư lại đông. Vì thế, để tận dụng thời gian nhàn rỗi của vòng quay mùa vụ, người nông dân đã làm thêm nghề thủ công. ở đồng bằng sông Hồng, trước đây, người ta đã từng đếm được hàng trăm nghề thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên nghiệp với những người thợ có tay nghề cao. Một số nghề đã rất phát triển, có lịch sử phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng .v.v...Mặt khác những người nông dân này lại sống quần tụ thành làng. Làng là đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn Bắc Bộ, tế bào sống của xã hội Việt. Nó là kết quả của các công xã thị tộc nguyên thủy sang công xã nông thôn. Các vương triều phong kiến đã chụp xuống công xã nông thôn ấy tổ chức hành chính của mình và nó trở thành các làng quê. Tiến trình lịch sử đã khiến cho làng Việt Bắc Bộ là một tiểu xã hội trồng lúa nước, một xã hội của các tiểu nông, nói như PGS. Nguyễn Từ Chi một biển tiểu nông tư hữu. Về mặt sở hữu ruộng đất, suốt thời phong kiến, ruộng công, đất công nhiều là đặc điểm của làng Việt Bắc Bộ. Do vậy, quan hệ giai cấp ở đây "nhạt nhòa" - chữ dùng của PGS. Nguyễn Từ Chi, chưa phá vỡ tính cộng đồng, tạo ra một lối sống ngưng đọng của nền kinh tế tư cấp tự túc, một tâm lí bình quân, ảo tưởng về sự "bằng vai", "bằng vế" như kiểu câu tục ngữ "giàu thì cơm ba bữa, khó thì đỏ lửa ba lần". Sự gắn bó giữa con người và con người trong cộng đồng làng quê, không chỉ là quan hệ sở hữu trên đất làng, trên những di sản hữu thể chung như đình làng, chùa làng v.v..., mà còn là sự gắn bó các quan hệ về tâm linh, về chuẩn mực xã hội, đạo đức. Đảm bảo cho những quan hệ này là các hương ước, khoán ước của làng xã. Các hương ước, hay khoán ước này là những quy định khá chặt chẽ về mọi phương diện của làng từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy định về sản xuất và bảo vệ môi trường đến quy định về tổ chức làng xã, ý thức cộng đồng làng xã, vì thế trở thành một sức mạnh tinh thần không thể phủ nhận. Nhưng cũng vì thế mà cá nhân, vai trò cá nhân bị coi nhẹ. Chính những đặc điểm ấy của làng Việt Bắc Bộ sẽ góp phần tạo ra những đặc điểm riêng của vùng văn hóa Bắc Bộ.II. Đặc điểm vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ : Như đã trình bày ở trên, Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt, vì thế, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp lẫn nhau : Văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt lan truyền vào Trung Bộ rồi Nam Bộ. Sự lan truyền ấy, một mặt chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, một mặt chứng tỏ sự sáng tạo của người dân Việt. Trong tư cách ấy, văn hóa châu thổ vùng Bắc Bộ có những nét đặc trưng của văn hóa Việt, nhưng lại có những nét riêng của vùng này. Trước tiên là sự ứng xử với thiên nhiên. Hàng ngàn năm lịch sử, người dân Việt đã chinh phục thiên nhiên, tạo nên một diện mạo, đồng bằng như ngày nay, bằng việc đào mương, đắp bờ, đắp đê. Biết bao cây số đê cũng được tạo dựng dọc các triền sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Nói cách khác, đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình là kết quả của sự chinh phục thiên nhiên của người Việt.
    còn tiếp.......
  9. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    tiếp theo .....
    Trong văn hóa đời thường, sự khác biệt giữa văn hóa Bắc Bộ và các vùng khác trong cả nước chính được tạo ra từ sự thích nghi với thiên nhiên này. Nhà ở của cư dân Việt Bắc Bộ thường là loại nhà không có chái, hình thức nhà vì kèo phát triển. PGS, PTS. Nguyễn Khắc Tụng đã thống kê được 10 loại nhà vì kèo khác nhau, sử dụng vật liệu nhẹ là chủ yếu nhưng cũng tiếp thu kĩ thuật và sử dụng các vật liệu bền như xi măng, sắt thép. Người nông dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo kiểu bền chắc, to đẹp, tuy nhiên vẫn hòa hợp với cảnh quan. Thường là người Việt Bắc Bộ muốn trồng cây cối quanh nơi cư trú, tạo ra bóng mát cho ngôi nhà ăn uống của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ vẫn như mô hình bữa ăn của người Việt trên các vùng đất khác : cơm + rau + cá, nhưng thành phần cá ở đây chủ yếu hướng tới các loại cá nước ngọt. Hải sản đánh bắt ở biển chủ yếu giới hạn ở các làng ven biển, còn các làng ở sâu trong đồng bằng, hải sản chưa phải là thức ăn chiếm ưu thế. Cư dân đô thị, nhất là Hà Nội, ít dùng đồ biển hơn cư dân ở các đô thị phía Nam như Huế, Nha Trang, Sài Gòn. Thích ứng với khí hậu ở châu thổ Bắc Bộ, người Việt Bắc Bộ có chú ý tăng thành phần thịt và mỡ, nhất là mùa đông lạnh, để giữ nhiệt năng cho cơ thể. Các gia vị có tính chất cay, chua, đắng, quen thuộc với cư dân Trung Bộ, Nam Bộ lại không có mặt trong bữa ăn của người Việt Bắc Bộ nhiều lắm.Cách mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ đó là màu nâu. Đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần lá tọa, áo cánh màu nâu sống. Đàn bà cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm. Ngày hội hè, lễ tết thì trang phục này có khác hơn : đàn bà với áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông với chiếc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen. Ngày nay y phục của người Việt Bắc Bộ đã có sự thay đổi khá nhiều.Mặt khác, nói tới văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ là nói tới một vùng văn hóa có một bề dày lịch sử cũng như mật độ dày đặc của các di tích văn hóa. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa hữu thể tồn tại ở khắp các địa phương. Đền, đình, chùa, miếu v.v..., có mặt ở hầu khắp các địa bàn, tận các làng quê. Nhiều di tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài như đền Hùng, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, Lam Sơn, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng v.v...Cùng với các di sản văn hóa hữu thể, các di sản văn hóa vô thể của đồng bằng Bắc Bộ cũng khá đa dạng và phong phú.Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một loại mỏ với nhiều khoáng sản quý hiếm. Từ thần thoại đến truyền thuyết, từ ca dao đến tục ngữ, từ truyện cười đến truyện trạng,mỗi thể loại đều có một tầm dày dặn, mang nét riêng của Bắc Bộ, chẳng hạn truyện trạng ở Bắc Bộ như truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn v..v.. sử dụng các hình thức câu đố, câu đối, nói lái, chơi chữ nhiều hơn truyện trạng ở các vùng khác. Có những thể loại chỉ ở Bắc Bộ mới tồn tại, kiểu như thần thoại. Ca dao xứ Bắc trau chuốt, tỉa gọt hơn ca dao Nam Bộ. Các thể loại thuộc nghệ thuật biểu diễn dân gian cũng khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét. Đó là hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát chầu văn, hát chèo, múa rối v.v... Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Bắc Bộ. Mọi tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ các ông tổ nghề v.v..., có mặt trên hầu khắp các làng quê Bắc Bộ. Các tín ngưỡng này tiềm ẩn trong tâm thức con người và tồn tại trong lễ Hội - một ra thành lễ hội mùa xuân, một ra thành lễ hội mùa thu. Dù thuộc loại nào, khởi nguyên, các lễ hội ấy đều là các hội làng của cư dân nông nghiệp, nói khác đi là các lễ hội nông nghiệp. Tiến trình lịch sử đã lắng đọng ở đây những lớp văn hóa, khiến cho trên lát cắt đồng đại, khó nhận ra gương mặt ban đầu của lễ - hội nông nghiệp. Tuy nhiên, những trò diễn trong các lễ hội vẫn gợi lại các nghi lễ nông nghiệp. Chẳng hạn như các lễ thức thờ Mẹ Lúa, cầu mưa, thờ thần mặt trời, các trò diễn mang tính chất phồn thực như múa gà phủ, múa các vật biểu trưng âm vật, ********* v.v... Chính vì vậy mà lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ có thể ví như một bảo tàng văn hóa tổng hợp lưu giữ khá nhiều các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp. Với cư dân ở làng quê Việt Bắc Bộ, lễ hội là môi trường cộng cảm văn hóa, "công mệnh" - chữ dùng của PGS, PTS. Ngô Đức Thịnh - về mặt tâm linh. Cùng với văn hoá dân gian, vùng châu thổ Bắc Bộ theo GS. Đinh Gia Khánh còn là "nơi phát sinh nền văn hóa bác học" . Sự phát triển của giáo dục, truyền thống trọng người có chữ trở thành nhân tố tác động tạo ra một tầng lớp trí thức ở Bắc Bộ. Thời tự chủ, Thăng Long với vai trò là một kinh đô cũng đảm nhận vị trí một trung tâm giáo dục. Năm 1078, Văn Miếu đã xuất hiện, năm 1076 đã có Quốc Tử Giám, chế độ thi cử để kén chọn người hiền tài v.v.. đã tạo ra cho xứ Bắc một đội ngũ trí thức đông đảo, trong đó có nhiều danh nhân văn hóa tầm cỡ trong nước, ngoài nước. GS. Đinh Gia Khánh nhận xét : "Trong thời kì Đại Việt, số người đi học, thi đỗ ở vùng đồng bằng miền Bắc tính theo tỉ lệ dân số thì cao hơn rất nhiều so với các nơi khác. Trong lịch sử 850 năm (l065-1915) khoa cử dưới các triều vua, cả nước có 56 trạng nguyên thì 52 người là ở vùng đồng bằng miền Bắc".(1) Thời thuộc Pháp, Hà Nội là nơi có các cơ sở giáo dục, khoa học, thu hút các trí thức mọi vùng. ở thời hiện đại, PGS, PTS. Ngô Đức Thịnh nhận xét : "Với đội ngũ trí thức mới, không những ở đây là nơi đầu mối các trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học (90% các viện nghiên cứu và 64% các trường đại học), mà đội ngũ trí thức cũng tập trung đông đảo nhất, chiếm 57% tổng số trí thức cả nước.!". Chính sự phát triển của giáo dục ở đây tạo ra sự phát triển của văn hóa bác học, bởi chủ thể sáng tạo nền văn hóa bác học này chính là đội ngũ trí thức được sinh ra từ nền giáo dục ấy. Đội ngũ này, tiếp nhận vốn văn hóa dân gian, vốn văn hóa bác học Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây, tạo ra dòng văn hóa bác học. Xin đơn cử, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ chính là sản phẩm được tạo ra từ quá trình sáng tạo của trí thức, thể hiện rõ đặc điểm này.nói đến văn hóa bác học, không thể không kể đến văn học nghệ thuật. Những tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương v.v... đều trưởng thành và gắn bó với vùng văn hóa này.Hơn nữa, nói tới vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, là nói tới một vùng văn hóa mà quá trình tiếp biến văn hóa "diễn ra lâu dài hơn cả và với nội dung phong phú hơn cả. Thực ra, quá trình tiếp biến văn hóa là đặc điểm chung của văn hóa Việt Nam, hay nói như vậy là sự không chối từ, nhưng ở châu thổ Bắc Bộ, nhận xét của GS. Đinh Gia Khánh là nhận xét đúng.Thời tiền sử và sơ sử, thời tự chủ, việc tiếp thu văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ trên địa bàn Bắc Bộ, có những nét riêng do vị thế địa - văn hóa, địa chính trị của nó quyết định. Thời thuộc Pháp, đồng bằng Bắc Bộ cũng là một trong những vùng chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây đậm nét hơn cả. Có thể đơn cử sự tiếp nhận Phật giáo của cư dân Việt Bắc Bộ. Là một tôn giáo sinh ra ở Ấn Độ, vào Bắc Bộ, Phật giáo đã chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng dân gian bản địa, đã bản địa hóa thành Phật giáo dân gian. Sự phát triển của Phật giáo ở Bắc Bộ, vì thế sẽ khác với Phật giáo ở Nam Bộ. Đồng thời với đặc điểm Bắc Bộ là cội nguồn văn hóa của các vùng Trung Bộ, Nam Bộ, và từ vùng đất cội nguồn này, văn hóa Việt phát triển ở mọi vùng khác. Vai trò "hướng đạo" của vùng văn hóa Bắc Bộ cũng rất rõ, khi đặt trong tương quan với các vùng văn hóa khác.Cuối cùng, đề cập đến vùng văn hóa Bắc Bộ là đề cập trên nét lớn, còn vùng văn hóa này có thể chia thành nhiều tiểu vùng văn hóa khác nhau, tuy nhiên đặc thù của các tiểu vùng văn hóa này không làm phá vỡ những đặc điểm chung của toàn vùng. PTS, PGS Ngô Đức Thịnh chia ra các tiểu vùng sau :
    + Tiểu vùng Đất Tổ - Phú Thọ, tiểu vùng Kinh Bắc - Bắc Ninh
    + Tiểu vùng Thăng Long - Hà Nội, tiểu vùng Hải Đông,
    + Tiểu vùng Hưng Yên - Hưng Nhân, tiểu vùng Hà - Nam - Ninh,
    + Tiểu vùng Duyên Hải, tiểu vùng lưu vực sông Mã.
    + Ngoài ra là tiểu vùng Nghệ - Tĩnh.Tóm lại, vùng châu thổ Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, nơi khai sinh của các vương triều Đại Việt, đồng thời cũng là quê hương của các nền văn hóa Đông Sơn, Thăng Long - Hà Nội. Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống hơn cả. Trên đường đi tới xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, vùng văn hóa này vẫn có những tiềm năng nhất định
  10. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ

    Trong các vùng văn hóa ở Việt Nam, vùng văn hóa Nam Bộ là vùng có những sắc thái đặc thù khó lẫn, vừa rất riêng mà vẫn giữ được tính thống nhất của văn hóa Việt Nam.
    [​IMG]
    Rừng Nam Cát Tiên​
    I - Đặc điểm môi trường tự nhiên và xã hội :
    Nam Bộ hôm nay là địa bàn thuộc lãnh thồ của các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc miền Đông Nam Bộ và các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau thuộc miền Tây Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh. Phần đất được coi là Đông Nam Bộ có diện tích khoảng 26.000km2 bao gồm phần đất đồi núi thấp (phần rìa của cao nguyên đất đỏ) và phần thềm phù sa cổ thuộc lưu vực sông Đồng Nai. Phần đất được coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng hơn 4000km2, chủ yếu là đồng bằng sông Cửu Long, cùng một vài dãy núi thấp ở miền Tây An Giang, Kiên Giang.Về vị trí địa lí, Nam Bộ là vùng đất nằm ở cuối cùng đất nước về phía Nam, trọn vẹn trong lưu vực của hai dòng sông Đồng Nai và Cửu Long, mà lại là phần hạ lưu của hai dòng sông. Trong khi đó, Nam Bộ lại gần Biển Đông. Nói khác đi, đây là vùng đất cửa sông giáp biển. Vị thế địa - văn hóa này của Nam Bộ tạo cho nó có những đặc điểm văn hóa riêng.Mặt khác, khí hậu Nam Bộ khác hẳn khí hậu Bắc Bộ ở chỗ Nam Bộ chỉ có hai mùa : mùa khô và mùa mưa, vào một năm. Sáu tháng mùa mưa, sáu tháng mùa khô, tạo cho vòng quay thiên nhiên, mùa vụ có phần khác biệt với đồng bằng Bắc Bộ. Nói tới Nam Bộ là người ta nghĩ đến một cánh đống tít tắp tận chân trời, một khung cảnh thiên nhiên thoáng đạt và vùng đất với chằng chịt kênh rạch. GS. Lê Bá Thảo đã tính Nam Bộ có tới 5.700km đường kênh rạch. Sông nước ở hạ lưu chảy chậm, mang lượng phù sa lớn, khác với sông nước miền Trung Bộ. Nói cách khác, có thể nói Nam Bộ là vùng đất cửa sông giáp biển.Tiến trình lịch sử Nam Bộ có những nét khác biệt so với các địa phương khác. Nếu như Trung Bộ, Bắc Bộ là những vùng lịch sử phát triển liên tục thì Nam Bộ trong sự phát triển lịch sử, lại trải qua sự đứt gãy. Sau sự biến mất của nền văn hóa óc Eo vào cuối thế kỉ VI, vùng Nam Bộ rơi vào tình trạng hoang vu hiểm trở. Vào thế kỉ thứ XIII, Châu Đạt Quan, sứ thần của nhà Nguyên - mông đi ngang qua vùng này để bàn giao với Vương quốc ngao đã viết trong Chân Lạp phong thổ kí của ông về vùng này như sau : "Bắt đầu từ vùng Chân Bồ (tức vùng Vũng Tàu đến Gò Công ngày nay) khắp nơi rậm rạp các dải rừng thấp xen kẽ với những dòng sông chảy dài hàng trăm dặm, các loại cây cổ thụ um tùm đan kết với các loại dây mây chằng chịt... Khắp nơi vang tiếng chim hót, tiếng thú kêu...Trên các dải đồng hoang, hàng trăm ngàn trâu rừng tụ họp thành bầy, đàn"...(1). Cuối thế kỉ XVII, khi miêu tả vùng đồng bằng sông Cửu Long, Lê Quý Đôn còn viết trong Phủ biên tap lục như sau : "Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu đi vào, toàn là rừng núi hàng ngàn dặm". Chính vì vậy, khi cư dân Việt vào đây khai phá, họ đứng trước sự hoang vắng hiểm trở của vùng đất chưa có dấu chân người như lời tâm sự ở một bài ca dao Nam Bộ : Chèo ghe sợ sấu cắn chưn - Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.
    Đấy là sự thực. Và thái độ của cư dân Nam Bộ đối với cọp cũng là một bằng cớ. Cọp có thật giữa vùng châu thổ, chứ không là sáng tạo dân gian. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí viết : "Xứ này nhiều cá sấu và cọp dữ". Người Việt đến khai phá vùng đất này vào khoảng thế kỉ XVI. Nói cách khác, với người Việt, Nam Bộ là vùng đất mới. Năm 1679, hai võ tướng của nhà Minh là Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, do nhà Minh sụp đổ, đã mang bộ tướng, gia quyến chạy sang Đàng Trong và được chúa Nguyễn cho vào ở đất Biên Hòa và Mỹ Tho ngày nay. Cuối thế kỉ XVII, Mạc Cửu đem người Trung Quốc vào lập nghiệp ở đất Hà Tiên hiện tại, rồi quy phục chúa Nguyễn. Người Khơme, có vẻ đến vùng này khai phá sớm hơn, nhưng "sớm nhất cũng chỉ từ khoảng thế kỉ XIII, tức sau khi vương quốc Ăngco tan vỡ, và nếu đúng như vậy thì người Khơme đến khai thác vùng này cũng chỉ sớm hơn người Việt 2-3 thế kỉ"(2). Trong số những lưu dân mới đến vùng đồng bằng sông Cửu Long có cả người Chăm. Người Chăm đến vùng An Giang, Tây Ninh muộn hơn các tộc người trước đó, mãi đến đầu thế kỉ XIX, họ mới định cư tại đây.Tại các vùng ven đồng bằng ở Đông Nam Bộ, phần cuối của dãy Trường Sơn đổ về phía Nam, những tộc người như Mạ, Xtiêng, Chơro, Mơnông cư trú ở các vùng đồi ở đây là cư dân bản địa. Như vậy, đồng bằng Nam Bộ về mặt cư dân có các tộc người Việt, Khơme, Chăm, Hoa, Mạ Xtiêng, Chơro, Mnông. Nhìn diện mạo tộc người ở đây, chúng ta dễ dàng nhận ra được ít nhất cũng là các khía cạnh sau :
    - Các tộc người khai phá Nam Bộ như chăm, Hoa, Khơme, Việt đều là lưu dân khai phá đất mới. Họ đã xa vùng đất cội nguồn cả về không gian lẫn thời gian.
    - Sống cùng một địa bàn cư trú, nhưng trên nét lớn, các tộc người này sống với nhau một cách hòa hợp, thân ái, không có chiến tranh giữa các sắc tộc trong lịch sử.
    - Tộc người chủ thể có vai trò quyết định sự phát triển của vùng đất là người Việt.
    Với người Việt, như đã trình bày ở trên, họ là những lớp cư dân từ miền Bắc, miền Trung vốn có những nguồn gốc xã hội khác nhau. Một số người là các tù nhân, tội đồ, bị nhà nước phong kiến đưa vào khai hoang ở các đồn điền tại đây. Một số người lại là những người giang hồ, dân nghèo đi biệt xứ tha phương, tìm đến đây, như tìm một chân trời yên ả, dễ thở hơn so với vùng đất họ từng cư trú. Một số người lại là những quan lại binh lính được đưa vào đây để khai phá vùng đất mới, rồi họ ở lại. Dù khởi nguyên, gốc gác của họ từ nguồn nào, hành trang mà họ đem theo không phải chỉ có vật dụng, tư liệu sản xuất ,vợ con v.v..., mà còn là vốn văn hóa ẩn trong tiềm thức. Vốn văn hóa này của vùng châu thổ Bắc Bộ, được làm giàu ở "Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền Trung", và được đem vào châu thổ sông Cửu Long.
    Nét đáng lưu ý khi xem xét môi trường xã hội ở đây là làng Việt Nam Bộ có những nét khu biệt, khi đặt trong tương quan với làng Việt Bắc Bộ. Có thể thấy một cách sơ khởi những nét đặc thù ấy như sau : Trước hết tuổi đời làng Việt Nam Bộ còn ngắn, chừng 400 năm là cùng. Khác với làng Việt Bắc Bộ vốn có gốc gác là các công xã nông thôn, làng Việt Nam Bộ là làng khai phá. Dân cư từ nhiều nguồn, nhiều phương trời tụ họp lại, vì thế làng Việt Nam Bộ sẽ không có chất kết dính chặt chẽ, quan hệ dòng họ sẽ khác với chính nó ở đồng bằng Bắc Bộ. Mặt khác, sự cư trú của cư dân Nam Bộ không thành một đơn vị biệt lập với rặng tre quanh làng như ở đồng bằng Bắc Bộ, mà cư trú theo tuyến, theo kiểu tỏa tia dọc hai bên bờ kinh rạch, trục lộ giao thông. Cuối cùng, quan hệ sở hữu ruộng đất trong làng Việt Nam Bộ lại có sự phân cực rất cao. Tỉ lệ giữa một số người có trong tay nhiều đất với đa số rất nhiều người có trong tay ít đất khá chênh lệch.Tiến trình lịch sử Nam Bộ, lại có đặc điểm riêng. Quá trình khai phá nơi này, từ cuối thế kỉ XVI cho đến năm 1862, thực ra so với lịch sử chưa được là bao. Làng xã, cũng như nhiều phương diện khác nhau, chưa ổn định thì năm 1862 Nam Bộ lại là nơi đầu tiên chịu ảnh hưởng thống trị của người Pháp; với tư cách là vùng thuộc địa của thực dân Pháp. Cuộc tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Việt - Pháp diễn ra ở Nam Bộ trong hoàn cảnh đặc biệt. Nền văn hóa Pháp, vốn có nhiêu nét khác biệt so với nền văn hóa Việt, cũng như của các tộc người khác ở đây, Nam Bộ trở thành thuộc địa của người Pháp cho đến năm 1945. Từ năm 1945 đến năm 1975, Nam Bộ bước vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hết Pháp rồi lại Mỹ. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Nam Bộ trở thành nơi đi trước về sau, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc là như thế. Với tất cả những đặc điểm có tính chất tiêu biểu về tự nhiên, lịch sử, xã hội, như vậy, văn hóa Nam Bộ tất sẽ có những đặc điểm riêng.

    còn tiếp ......

Chia sẻ trang này