1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những bài viết hay về ẩm thực

Chủ đề trong 'Ẩm thực' bởi nore, 10/04/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Những bài viết hay về ẩm thực

    Hãy post những bài viết hay về ẩm thực do bạn sáng tác hoặc sưu tầm vào chuyên mục nay đi mọi người ơi. Mình xin mở hàng một bài nói về phong cách ăn của người HN.


    Phong cách ăn của người Hà Nội

    ---Tác giả : Nguyễn Tùng ---



    Chính qua các câu tục ngữ, ca dao chúng ta biết được, với nhiều chi tiết hơn, các thực phẩm và món ăn địa phương đặc biệt, nhất là của vùng Hà Nội, dường như vào thế kỷ 19 đã nổi tiếng về ăn uống nếu ta có thể tin được câu "ăn Bắc mặc Kinh": bánh cuốn Thanh Trì; bánh giầy Thượng Cát, Đại Cát (Từ Liêm), Văn Giáp (Thường Tín); bánh đúc Thượng Cát, Đại Cát (Từ Liêm); giò Thụy Phương (Từ Liêm), nem Đông Ngạc (Từ Liêm), Đình Bảng (Bắc Ninh); nước mắm Quỳnh Đô (Thanh Trì); cháo Dương Xá (Gia Lâm); tương Bần Yên Nhân (Hải Hưng), Phú Thị (Gia Lâm), Nhật Tảo (Từ Liêm).

    Danh sách trên đây chỉ gồm những làng nổi tiếng nhờ tương, mắm hoặc một số món ăn chưa có chế thể xem là đặc biệt. Các món ăn này do các hàng rong sản xuất và bán trong vùng Hà Nội.

    Trong phần viết về ăn uống của bài "Essai sur les Tonkinois" (Khảo luận về người Bắc Kỳ) đăng ở Revue Indo-chinoise số ra ngày 15-9-1907, G.Dumoutier đã giới thiệu sơ lược về nhiều món ăn và thức uống thường thấy ở miền Bắc vào đầu thế kỷ 20: ngoài quyển "Nữ công thắng lãm" còn lắm điều đáng ngờ, đây là bài nghiên cứu xưa nhất và đầy đủ nhất mà tôi được đọc về đề tài này.

    Phải đợi đến thời kỳ thuộc địa, nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Hà Nội mới phát triển nhanh tạo điều kiện cho sự xuất hiện thêm nhiều quán ăn, vào thời đó gọi là cao lâu, hầu hết đều do người Hoa làm chủ.

    Nhờ một vài nhà văn như Thạch Lam và nhất là Vũ Bằng, ta có được những thông tin khá chính xác về các món ăn bán trong những lều quán tạm bợ hay qua các gánh hàng rong.

    Trong "Hà Nội băm sáu phố phường", viết vào năm 1942, Thạch Lam đã nhắc đến với sự xúc động, các món bánh cuốn, bún riêu, bún bung, bún ốc, bún chả, cốm vòng, bánh tôm và nhất là phở.

    Theo Thạch Lam, một nhà nho từ miền quê lên đã ứng khẩu hai câu thơ sau đây khi ngửi thấy mùi bún chả:

    Ngàn năm bảo vật đất Thăng Long
    Bún chả là đây có phải không?

    Đối với Thạch Lam: "Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng ở Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon". Theo ông, phở ngon phải là phở "cổ điển" nấu bằng thịt bò, "nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả", "rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ". Vào thời ấy (đầu những năm 40), phở đã khá phổ biến ở Hà Nội: "Đó là thứ quà suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa và ăn phở tối".

    Ngày nay phở thường được xem như là món ăn thuần túy Việt Nam, đúng hơn là của Hà Nội hay miền Bắc (qua tên gọi phở Bắc). Thật ra phở mới được di dân Quảng Đông đưa vào cách đây khoảng một thế kỷ, chưa được ghi trong các từ điển của Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895) và Génibrel (1898). Trong bài nghiên cứu đã trích dẫn trên đây, viết vào năm 1907, G.Dumoutier cũng chưa nhắc đến món phở. Ngay cả tên "phở" cũng chỉ là âm của chữ phấn, đọc theo giọng Quảng Đông, trong tên của món ăn "ngưu nhục phấn", gồm thịt bò (ngưu nhục) và bánh phở (phấn). Từ đầu những năm 40, bên cạnh phở bò, còn có phở gà, nhưng theo Thạch Lam, "sự cải cách ấy hình như không được hoan nghênh".

    Với cuộc di cư ồ ạt của đồng bào miền bắc sau Hiệp định Geneve (1954), phở mới thật sự bắt đầu cuộc "nam tiến" của nó để trở thành một trong những món ăn được ưa chuộng nhất trong cả nước: từ nam chí bắc phần lớn các quán ăn hai bên đường thường mang bảng hiệu "cơm phở"!

    Cũng phải nói thêm rằng, ở miền nam và đặc biệt ở thành phố Hồ Chí Minh, món phở được biến đổi khá rõ nét: nó có thêm giá trụng và nhiều loại rau thơm như quế, ngò tàu... nhưng lại thiếu hành hoa. Riêng ở Paris, một số tiệm ăn còn chế biến ra món "phở đặc biệt": ngoài thịt tái và thịt chín, còn thêm vào bò viên, dạ lá sách.

    Trong "Miếng ngon Hà Nội", viết trong khoảng từ 1952 đến 1959, Vũ Bằng còn không tiếc lời ca ngợi những món ăn sau đây: chả cá, tiết canh (lợn, vịt, chó), thịt chó, bún thang, gỏi cá sống, rươi.

    Do sự đa dạng của cách nấu cũng như của các loại gia vị được dùng (húng, lá mơ, lá na, riềng, sả, mẻ, mắm tôm...) các món thịt chó, trong chừng mực nào đó, có thể xem là biểu tượng của bếp núc miền bắc, nhất là, như ta biết, từ đèo Ngang trở vào, thịt chó không mấy được ưa chuộng dù trong hơn 40 năm qua, đồng bào miền bắc vào lập nghiệp khá đông.

    Trước đây món ăn chế biến bằng rươi (chả rươi, rươi hấp, rươi rang... và nhất là mắm rươi) cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo ra nét độc đáo của nghệ thuật ăn uống miền bắc; theo "Đại Nam nhất thống chí", rươi chỉ có nhiều ở các tỉnh duyên hải phía bắc, từ Quảng Bình trở ra.

    Thế nhưng hiện nay các món rươi hầu như biến mất ở Hà Nội; trong "Hương vị quê hương" chẳng hạn, Mai Khôi, dù là sinh trưởng ở Hà Nội, đã không nhắc đến nữa; trong các tiệm ăn, rươi cũng không xuất hiện trên thực đơn ngay cả vào tháng 9 âm lịch mà vào thời xưa rươi sinh sôi rất nhiều. Phải chăng vì hiện nay rươi trở thành hiếm hoi do việc dùng nhiều thuốc trừ sâu.

    Có lẽ cũng nên thêm vào danh sách các món ăn đặc biệt của miền bắc, các món làm bằng ốc nhồi như bún ốc, ốc nhồi...

    Để tạo ra vị chua cho một số món ăn nấu bằng thịt, cá, tôm... người miền bắc thường dùng "giấm bỗng" và nhất là "mẻ".

    Nói chung các món ăn ở miền bắc thường ít ngọt và ít cay hơn ở miền trung và nhất là miền nam.

    Từ năm 1954 đến cuối những năm 80, mỹ vị pháp ở miền bắc có phần suy thoái, một mặt do lối ăn uống đạm bạc rất được khuyến khích, và mặt khác, do thiếu thốn thực phẩm, hậu quả của chiến tranh và của chính sách tập thể hóa đã làm gần như biến mất ngành thương nghiệp tư nhân vốn gắn liền với kinh doanh về ăn uống. Từ khoảng mười năm nay, chính sách đổi mới đã dần dà đưa đất nước vào nền kinh tế thị trường, và nhờ vậy nâng cao rõ rệt mức sống, đặc biệt của một số giai tầng xã hội như giới kinh doanh và phát triển nhanh chóng ngành du lịch nội địa cũng như quốc tế. Kết quả là cảnh quan ẩm thực của Việt Nam đã biến đổi rất nhiều. ở Hà Nội các quán ăn được mở ra còn nhiều hơn những nơi khác. Nếu các quán "cơm bình dân" chỉ bán những món ăn gia đình truyền thống (cá chiên hay kho, đậu phụ rán, thịt lợn luộc...), thì các nhà hàng sang trọng ngược lại thường đề nghị các món ăn mang rõ nét Trung Quốc như chim quay, cá chua ngọt... hay là những món ăn thường thấy ở Sài Gòn như lẩu, chả giò (nem rán), cua rang muối... thay vì các món ăn đặc biệt của Hà Nội mà người các miền khác hay khách nước ngoài còn phải khám phá.
  2. CANDYEYEZ

    CANDYEYEZ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/03/2003
    Bài viết:
    540
    Đã được thích:
    0
    Nore post bài về "thực" hay wá , CanDyEyez cũng post một bài về "ẩm" cho hài hòa nhé
    Uống trà thú tiêu khiển bình dị

    Uống trà là thói quen và là thú tiêu khiển bình dị của nguời châu Á. Ở một góc độ nào đó, người Việt Nam xem trà là loại thức uống thể hiện tình bạn, sự đầm ấm, hạnh phúc của gia đình. Vì thế nó xuất hiện bắt buộc trong các bữa tiệc cưới hỏi hay gặp gỡ khách quý.
    Tính sơ ở VN có đến vài chục loại trà khác nhau. Tùy sở thích mà người ta chọn trà sen, trà lài hay trà khổ qua, trà hoa cúc, trà actisô, trà trái vải, trà trái nhàu...
    Phần đông người miền Nam dùng trà lài có hương nhẹ nhàng, thoảng và đơn giản trong cách pha chế. Người ta có thể pha trà trong ấm kiểu, bình thủy tinh, thậm chí còn có món ?otrà đá? kèm theo mỗi bữa ăn đựng trong chiếc bình nhựa. Trong tiết trời lành lạnh, buổi sớm đầy sương mù, người miền Bắc thích dùng trà sen. Hương sen thơm nồng thật lâu tan. Chiếc ấm phải làm bằng đất nung, chung trà nhỏ xíu, chỉ ước chừng ?ovài ngụm? là cạn, được đặt trên chiếc khay bằng tre hun khói cho sậm màu. Cái đặc biệt là chiếc ấm trà không bao giờ súc hay rửa. Ấm để càng lâu năm thì hương trà càng đậm đà, càng ngon vì ấm bằng đất hấp thụ hương trà mỗi ngày.
    Nếu là buổi sáng, trà phải được pha đậm. Bao giờ cũng phải rửa trong một ít nước đầu rồi đổ đi. Nước sau sẽ ngon, sạch sẽ và hương không bị lẫn. Có thể dùng trà sen, lài hay hoa cúc. Các loại trà mang hương trái cây nên uống vào các buổi xế chiều hay tối. Không dùng vào đúng bữa ăn vì như thế sẽ làm món ăn mất ngon mà thay vào đó là trà thường, pha loãng, hơi đăng đắng là hợp nhất. Nó vừa giúp dễ tiêu hóa đồng thời làm bay mùi thức ăn.
    Với những ai đã ?oquen? trà, mỗi buổi sáng trước khi bắt đầu một công việc mới, dành ít phút ngồi bên bình trà con, thêm một vài chiếc bánh ngọt thì đã là một bữa sáng đầy thú vị.
    (Theo Sài Gòn Tiếp Thị)


    Ice Ice Baby
  3. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    PHỞ: Các Trường Phái Về Phở

    Tác giả : AiViet Nguyễn
    Sơ sơ chuyện ăn Phở mà nói hoài không hết. Phở phản ảnh tính không tolerant của người VN trong ẩm thực. Từ ẩm thực mà suy ra không tolerant trong mọi sự.
    Người Hà Nội mà mời họ ăn thên húng quế, giá hoặc tương ngọt xem như là mạo phạm tới Phở. Tui có lần bị xem như phản bội Hà Nội, khi có hai nhóm Hà Nội và Sài Gòn ăn phở với nhau, tui đã mạo muội xin húng cây và tương ngọt.
    Dân Sài Gòn cũng nghe về Phở Bắc như một cái gì rất cao cả nhưng đều thất vọng về rau trong Phở Hà Nội: "PHở gì mà không có rau ăn lạt lẽo phát ngán". Trong khi ở Sài Gòn người ta có giá, húng cây, ngò gai, hành hoa, Hà Nội chỉ có độc vị mùi tàu ( ngò gai) và hành hoạ Nói cho đúng ra thì Phở Hà Nội cũng có rau, nhưng đã bị một thời khó khăn làm mất thói quen.
    Ngày xưa có những tiệm phở, thường có hành tây thái khoanh ngâm dấm, ăn thay giá và có lẽ ngon hơn. Dân Bắc không khoái cái vị tanh rỉ sắt của giá sống. Một loại rau nữa mà gần đây cũng biến mất trong bát phở Hà Nội là rau thơm (tương tự, nhưng không phải là húng bạc hà như trong Nam).
    Quãng năm 60 thì tiệm phở nào cũng cho rau thơm, rau mùi và rau mùi Tàụ Đi chợ bao giờ mua mùi người ta cũng mua thơm:"Cho 5 xu thơm mùi nào" Thơm 2 xu rưỡi, mùi cũng 2 xu rưỡị Trong tất cả các loại rau thơm củA VN có lẽ thơm là có vị đặc biệt nhất.
    Quãng cuối những năm 70 thì chỉ còn một tiệm phở ở Phố hàng Mành là còn cho rau thơm. Phở ở đó không phải ngon đặc sắc, nhưng tôi có tiền là đến đó chỉ vì vị thơm, và bao gờ cũng có hành tây ngâm dấm. Bát Phở như vậy về rau không thua gì bát Phở Nam, mà mới đúng với Phở truyền thống.
    Sau này không hiểu sao rau thơm ngày càng kém ngon và gần như biến khỏi gánh rau ngoài chợ. Thỉnh thoảng còn mua được thì thơm cũng kém ngon và sặc mùi bạc hà chứ không được thuần khiết thanh lịch nữa.Vì vậy bát Phở Hà nội cũng kém đi một vị.
  4. CANDYEYEZ

    CANDYEYEZ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/03/2003
    Bài viết:
    540
    Đã được thích:
    0
    Anh đi anh nhớ quê nhà
    Nhớ canh rau muống , nhớ cà dầm tương ...

    Tương cà quê hương
    Đây là món ăn mang phong vị đậm đà truyền thống của người Việt Nam. Tuy nhiên, công thức đồ xôi, ủ mốc, rang đậu, ngả tương cũng như tra muối nén cà thì không mấy ai không biết, và không phải ai cũng làm tương ngon và nén được cà giòn.
    Một bát canh rau muống non nấu với trứng cua hoặc trứng cáy và cả rau muống suông chỉ với nước tương và mấy lát gừng - mới đậm đà hương vị quê hương làm sao. Cà Nghệ, ít ruột dày cùi, nén có nghệ thuật, cắn miếng giòn đến hàng xóm cũng nghe thấy tiếng. Cà ăn với nước rau muống luộc, với canh cua, riêu cua mới nổi vị. Cà pháo muối xổi, chấm với mắm ruốc, một thứ tép biển thì "nhất".
    Để có thể ăn dần trong nhiều ngày, người ta còn chọn những quả cà dừa, cà bát quả to để ngâm với tương. Cà dầm tương càng lâu càng ngấm, càng ngon, mùa nào cũng có.
    Tương, một thứ nước chấm, các cụ ta xưa xuất phát từ khẩu vị giản dị mà tinh tế của mình, đã chế biến từ đậu nành ra và trở thành món ăn độc đáo của nhân dân Việt Nam. Tương không chỉ dùng là nước chấm mà còn có thể kho với cá. Miếng cá mềm mại, ngon hơn kho với nước mắm, vì tương hơn nước mắm ở chỗ có chất béo, chất dầu.
    Vị ngọt bùi, ngậy béo của tương và vị chua, hơi ngọt của cà dầm tương làm cho bữa cơm hằng ngày của người Việt Nam thêm phần thi vị.

    Ice Ice Baby
  5. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    CANDYEYEZ ơi, mùa hè này mà ăn rau muống luộc, cà muối thì thật tuyệt đấy.
    Thêm một bài nữa về HN nhé.
    CỐM VÒNG HÀ NỘI - Hương vị mùa thu
    Tác giả : Băng Sơn

    Những người Hà Nội đang ở xa, khi thu về có một lúc nào để lòng mình nhớ nhung về nơi có mùa thu kỳ lạ? T cảm nhận được ngọn gió heo may tràn ngập hồn mình khi liễu buồn buông lệ bên Hồ Gươm, khi có những người từ đâu không biết, đi rong phố phường bán từng ***g chim ngói, loài chim chỉ xuất hiện mỗi độ thu về...
    Mùa trời lên cao, đất khô đi, cây tự nhuộm mình cho lá mang màu vàng đỏ, lòng người nhớ thương nhau, tìm tri âm tri kỷ, thanh tao thì uống một tách cà phê, dung tục thì đến quán mộc tồn... ấy là lúc có món đặc biệt: Cốm Vòng, chỉ mùa thu Hà Nội có và ngon đến thế.
    Và cũng chỉ một làng cổ, huyện Từ Liêm cổ, quá cửa Ô Cầu Giấy mấy trăm bước chân, làng Dịch Vọng mới có thứ cốm vòng như thế. Ngay cách đấy ít làng, có làng Lũ cũng làm cốm, nhưng chỉ là món quà rẻ cho trẻ em, cứng và bệch bạc, dù đây là nơi chôn nhau cắt rốn của nhà thơ Nguyễn Siêu trong bốn chữ xưng tụng của người đời cùng với Cao Bá Quát "Thần Siêu, Thành Quát".
    Cốm là quà không phải để ăn nọ Ăn cốm là ăn mùa thu vào lòng, vào tâm khảm. Mùa thu Hà Nội trong veo như tâm hồn thiếu nữ, thanh sạch, mát dịu như không chút bụi trần, để con cá chép Lý Ngư cũng phải vượt Vũ Môn mong hóa thành rồng. Sáng bảng lảng sương, chiều dìu dịu nắng, đêm êm đềm ngọt ngào... trong không gian huyền thoại đắm say ấy, sớm sớm những chuyến tàu điện đầu tiên rẽ sương từ Ô Cầu Giấy vào Hàng Ðẫy, Hàng Bông, Bờ Hồ... có những bà, những cô hàng cốm xuống tàu, theo lối quen, tỏa hương thu vào mọi nẻọ.
    Ít người cần rao. Ai cũng có khách quen, có khi quen đã mấy đời. Nếu là khách lạ cứ nhìn chiếc đòn gánh cong một đầu là biết. Ðòn gánh là cả gốc tre già, đánh lên cả gốc, chẻ đôi, dùng từ đời mẹ, sang đời con, nó như cái câu liêm, câu bầu trời xuống ủ cho mềm cốm. Hai bên thúng là từng lớp cốm xanh thoang thoảng hương lúa, mùi mùa phơi thóc, cốm nằm mơ màng trong từng lớp lá sen già đượm thứ hương hoa dâng hiến, hoặc lá khoai ráy xanh non, bóng như một thứ xa- tanh (satin) mát mịn. Dúm một dúm, đặt vào lòng bàn tay, ngửa cổ, thả nó vào đầu lưỡi, nó sẽ tan, sẽ ngấm, sẽ thì thầm thứ vị ngọt mềm của trời đất nước non, cả đầm sen ngan ngát, cả sóng lúa rì rào, cả màu mây lãng đãng... và mơ màng nhớ đến một suối tóc dài thơm hương bồ kết của ai đó đang ngồi giã cốm trong đêm trăng.
    Ăn cốm là nhai từ từ, khoan thai, từng hạt ngọc xanh mà dẹt, mềm mà thơm, ngọt mà mát. Không thể ăn cốm mà xới vào bát rồi lùa như ăn bún, ăn phở. Người Hà Nội ăn riêng cốm, ăn một mình cốm để tận hưởng sắc màu, hương vị thanh thoát, tao nhã đúng là "ăn hương ăn hoa", ăn để mình cũng biến hình vào trời thu, hồn mình lãng du cùng non nước...
    Cũng có người thích ăn cốm với hồng ngọc là thứ hồng đỏ, ngọt sắc cho hai màu tương phản, nâng đỡ âm dương, hoặc ăn cốm với chuối tiêu trứng cuốc, thứ chuối mà chỉ mùa thu mới vàng ươm dệt thêm từng đốm màu nâu vào vỏ để quyến rũ mắt nhìn và dâng hương cho mê tơi khứu giác, dù ăn như thế cốm phải hy sinh một phần hương sắc.
    Người Hà Nội còn ăn chè cốm, cốm xào, chả cốm... nhưng bánh cốm thì cũng đã thành nghệ thuật. Bánh cốm Nguyễn Ninh đường Hàng Than, đã tiêu biểu cho nghệ thuật chế biến món ngon Hà Nội, thành tấm lòng thơm thảo của người con đi xa gửi về biếu mẹ cha luống tuổi, thành sự mừng vui của những ngày sêu Tết.
    Cô hàng cốm xưa, đi chân đất, vấn vành khăn nâu, trên đầu đòn gánh cong, còn tòn ten chiếc chổi mới bện bằng rơm cốm.
    Sau mấy chục mùa thu chinh chiến, nay đất nước lặng im tiếng súng, cốm vòng lại có mặt với miền Nam, mang theo gió thu Hà Nội, mang màu xanh và hương đất Bắc để hòa với mưa nắng của miền Nam.
    Khi lúa nếp uốn câu chưa chín vàng, đã được tuốt mang về. Làng Dịch Vọng um tùm tre trúc, ngập tràn trăng sáng, đầy gió thu mát, điển hình cho làng quê Việt Nam như ca dao, như cổ tích. Trong gió và trăng ấy, thóc nếp được tuốt rồi được rang trên lửa củi, xong đem giã chày tay, rồi sàng, rồi giần quay quay nhè nhẹ êm êm... Lại giã, lại giần, sàng. Hàng chục lượt như thế, vỏ trấu bong ra, cái bổi tơi bời, hạt cốm dẹt mình, bắt đầu tỏa hương vào mùa tu làng xóm. Nó còn được hồ thêm chút lá lúa cho thêm xanh, cho đậm chất đã làm nên hạt lúa. Cuối cùng những hạt ngọc mềm ấy được nằm mơ ngủ say trong lá sen, lá ráy đã lau chùi thật sạch, chờ chuyến xe điện đầu tiên, lên đường vào phố. Tháng tám qua làng Vòng sẽ nghe được nhịp gõ, bộ gõ tiết tấu to nhỏ gần xa, vang vang và trầm đục, tiếng loạt xoạt của rơm xanh, tiếng rì rầm của tay sàn sảy...
    Cốm không thể ăn nhiều. Cô hàng cốm cũng không gánh đi nhiều, không lặc lè như cô hàng gạo, hàng rau. Và cốm cũng không thể làm nhiều như sản phẩm bằng lúa nếp khác.
    Cốm là hạt lúa nếp nhưng đã thành kiếp khác. Nó là tinh hoa, là tài tình, cũng chẳng giống bánh chưng bánh dầy... nó là sáng tạo đã ngàn đời, từ nguyên thủy đến trường tồn dân tộc?
    Nhiều năm cốm tưởng chừng bị mai một. May thay, mùa thu vẫn xanh cùng đất nước, cốm lại được sinh thành, hồi xuân, lại tái hồi cho lòng người nguôi ngoai thương nhớ.
    Bạn phương trời, bao mùa xa vắng! Hà Nội lại gởi lá thư xanh bằng gói cốm lá sen cho bạn đây, một chút "thời trân", một câu thơ lục bát bằng hương và vị... Hãy nhận lấy bạn ơi, để nhớ về một mùa thu Hà Nội đầy mỹ cảm...
    Nore
  6. heoconlonton

    heoconlonton Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    1.298
    Đã được thích:
    0
    Các bac toàn nói về món ăn ,thôi em post 1 bài về "rượu" cho nó vui vậy .
    Rượu nếp tế đoan ngọ
    Bài này em chẳng nhớ tác giả là ai nữa.Mọi người thông cảm.

    Tháng năm lịch trăng có Tết Ðoan Ngọ, hay Ðoan Ngũ, Ðoan Dương. Các loài sâu bọ đều hoảng hốt, trốn chạy vì nhà ai cũng có bữa cỗ "giết sâu bọ" vào sáng sớm, với hoa quả đầu mùa. Ðào mịn lông tơ, mận đủ mùi chua ngọt, chuối ta mập mạp, dưa hấu bổ dọc thành những chiếc thuyền rồng sơn son mịn cát lóng lánh như lân tinh, dứa còn nguyên cái mũ miện xanh rờn óng bạc và cái lòng vàng tươi khêu gợi. Đương nhiên là không thể thiếu món rượu nếp.
    Tác giả món rượu để ăn chứ không phải để uống này là ai? Không biết. Nhưng nó cũng đủ làm hồng đôi má, lâng lâng xao xuyến lòng người. Từ lúc những tia nắng rẻ quạt đầu tiên xuất hiện trên vòm trời cao tít, đã nghe tiếng rao văng vẳng gần xa.
    Cái rá tre cố hữu, đậy miếng vải màn trắng muốt, đầy một chất rượu thơm lừng, mà ta biết dưới đáy chiếc rá có lót lá chuối tươi óng ánh kia, là chiếc bát sành, bát sứ hứng chất nước ngọt lừ ngây ngất, đầy thì rót vào "vịt" và từ cái vòi như cái cổ con thiên nga, thứ mật say ấy được tưới lên bát rượu nếp một mầu vàng ướt át cay tê, ngọt dịu, đủ mùi...
    Bát ăn rượu nếp thường là cái chén múc chè đường, nho nhỏ xinh xinh. Ðôi đũa ăn rượu nếp cũng chỉ nhỉnh hơn chiếc que chơi chắt chuyền của bé gái nông thôn. "Giết sâu bọ" bằng thứ khí giới này thật lạ. Những hạt rượu nếp thuôn thuôn như cái bọng con kiến rừng vàng sậm, tan trên đầu lưỡi cũng đồng thời thấm vào tận sâu thẳm thân ta một chất khác hẳn ngày thường.
    Trẻ con uống rượu là có hại vì nguy hiểm. Nhưng rượu nếp là của mọi người, nam, phụ, lão, ấu, từ cụ già trệu trạo đôi lợi, đến em bé năm ngón xòe hoa chấp chới...
    Làm rượu nếp công phu, phải đồ gạo hai lần, ủ men như làm "cơm rượu" mất nhiều thì giờ, nên ít gia đình có đủ kiên nhẫn và công phu chế biến. Tác giả món rượu nếp thường ở những mái nhà tranh làng quê êm ả. Ngày Ðoan Ngọ sắp đến, làm ít quà nhà ăn là chính và dôi ra thì đem bán khắp phố phường cho mọi người cùng thưởng Tết. Vì vậy mà đôi quang gánh, tà áo nâu, cái nón đội đầu... xuất hiện vào đúng lúc bữa cỗ "giết sâu bọ" sắp đến.
    Ăn rượu nếp không thể bằng bát tô như ăn bún riêu, bún ốc mà phải nhẩn nha, vừa ăn vừa nghe chất rượu nhẹ lâng vần chuyển trong cơ thể, để thẩm thấu một nét đẹp ngàn xưa còn lại trong phong tục dân gian.
    Các nhà khoa học có thể cười thầm vì bữa cỗ giết sâu bọ. Nó chết vì chè đỗ đen hay quả đào thơm phức? Nó chết vì say la đà hương rượu nếp hay vị ngọt thanh dưa hấu? Nhưng lời nhắn gửi truyền đời thì bảo rằng, đây là lúc giao mùa, lúc nắng bắt đầu già, lúc quả bắt đầu ngon, là say nhè nhẹ, là thỏa mãn ước nguyện truyền kỳ mà mọi loại bánh tân thời, mọi thứ rượu nặng, rượu nhẹ Tây, Tàu không thể sánh.
    Từ dụng cụ để ăn (gọi là thực cụ ) như một thứ đồ chơi đến các món ăn thơm thảo vườn quê và men dân dã... đều đáng được lưu tâm, duy trì và phát triển .
    Tiểu ma nữ
  7. CANDYEYEZ

    CANDYEYEZ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/03/2003
    Bài viết:
    540
    Đã được thích:
    0
    Món ăn ngày Tết của người Huế

    Khoảng 27-28 Tết, mọi nhà đều lo gói bánh tét, bánh chưng và các loại bánh khác. Bánh chưng chỉ gói độ vài đôi để bày lên bàn thờ cho đẹp, còn phần lớn là bánh tét được gói bằng lá chuối hột với gạo, đỗ, thịt và làm thành từng đòn như bó giò. Khi ăn phải bóc lá, cắt thành từng khoanh rồi sắp lên đĩa.
    Ngoài bánh tét, bánh chưng, người Huế còn thích ăn một số bánh khác như bánh su sê (phu thê), bánh măng, bánh sen chấy, bánh dừa mận...
    Bánh su sê làm bằng bột sắn có nhân đậu xanh ngào đường với dừa hay tôm chấy (tôm chấy là tôm tươi được rang xát cho nhỏ tơi ra), gói lá dừa đem hấp cách thủy. Còn bánh sen chấy làm bằng hạt sen nấu chín, nhào với đường đem láng cho mỏng, nướng lên, cuộn tròn, để vào thẩu đậy kín để ăn dần. Bánh dừa mận thì dùng xôi nếp giã nhuyễn ngào với dừa và nước đường, đem cán mỏng, cắt thành miếng vuông vừa, bên ngoài bọc lớp mè (vừng) rang, gói lại bằng giấy bóng. Bánh măng thì làm bằng măng tươi thái chỉ đem rim kỹ với đường, nấu lẫn với bột nếp. Sau đó cắt miếng, phủ lớp bột hoàng tinh bên ngoài rồi bọc bằng giấy bóng.
    Các món ăn mặn cũng được các mệ, các o xứ Huế chuẩn bị chu đáo từ vài hôm trước Tết. Trong các món ăn, dưa món là thứ không thể thiếu được trong mâm cỗ Tết của người Huế. Dưa món gồm dứa (thơm) và củ cải thái miếng đem phơi săn trộn với ớt chín, cà muối, đu đủ, tỏi, cà rốt, nước mắm và đường. Món này phải làm trước Tết độ vài tuần lễ cho ngấm. Tiếp đến là các món chả tôm, nem bò lụi, chả da, xà lách gân bò, chả tré, hành dầm dấm, chả lụa...
    Hành dầm dấm là hành củ phơi nắng cho héo đem muối với đường trước Tết vài ba hôm, lúc ăn trộn thêm ớt và tỏi. Chả tré thì làm bằng thịt bò và thịt ba rọi rán vàng thái chỉ, trộn với riềng, ớt, tỏi, muối, đường, thính. Món này ăn với bánh tráng mè và rau ngò thơm. Còn muốn ăn tré chua thì gói chặt thành từng gói nhỏ bằng lá chuối hột, bên trong lót lá ổi. Để vài ba hôm, tré sẽ có vị chua. Nem bò lụi thì dùng bò nạc thật tươi giã nhuyễn trộn với hàn the, da heo, thính, đem viên thành từng viên, nướng vàng. Khi ăn dùng bánh tráng cuộn nem, xà lách, rau thơm, chuối chát non, khế, chấm với nước lèo. Nước lèo là một thứ nước chấm hỗn hợp gồm tương ngọt, nước mắm, hành phi, gan heo giã, nấu lẫn với hành, tỏi. Trước khi ăn còn rắc thêm lạc rang vàng giã nhỏ. Nem bò lụi cũng là một món ăn hỗn hợp của gần 20 thứ khác nhau. Một món ăn khác là chả tôm làm bằng tôm tươi lột vỏ giã nhuyễn, trộn mỡ, hàn the, lòng trắng trứng, cho tôm lên trên mặt lá chuối hấp chín ăn với dưa món và nước chấm. Muốn ăn chả tôm chiên thì sau khi hấp đem chiên chả lên ăn với rau sống. Ngoài ra, món tôm chua cũng là món ăn rất được người Huế ưa thích. Tôm được chọn làm món chua là loại tôm sống, tôm đồng. Tôm đem dầm rượu, cho vô thạp cùng với nước mắm, riềng và đường, đậy kỹ, đem đặt ngoài nắng chừng 5 hôm thì dùng được.
    Có thể chia món ăn Huế làm ba loại: chay, bình dân và ngự thiện. Ngự thiện là những món ngon vật lạ trong cung đình dành riêng cho vua chúa và hoàng thân quốc thích. Sau này, món ăn ngự thiện đã bình dân hóa như món tré nộm, chả giò, nem... Món chay là những món ăn đơn giản, với tài sáng tạo và bàn tay khéo léo của người phụ nữ Huế đã chế biến các loại thực vật bình thường như hoa chuối, nấm rơm, hạt sen, đậu phộng, tàu hũ, nước dừa, củ đậu... thành nhiều món ăn thơm ngon, lạ miệng để cúng vào buổi sáng đầu năm.
    Rượu ở Huế phổ biến là rượu nếp và rượu thuốc đã được hạ thổ lâu ngày cho ngấm men và tăng thêm vị ngọt. Ngày Tết, người Huế rất thích uống trà. Nhiều loại hoa được ướp với trà để dùng như hoa nhài, hoa sen, hoa sói...

    Ice Ice Baby
  8. haythapanhsang

    haythapanhsang Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/01/2002
    Bài viết:
    1.056
    Đã được thích:
    1
    HTAS@ xin trích ra ở đây 1 bài viết của Trần Văn Khuê về ẩm thực, bài này chất lượng lắm các bác ah`.
    Người Việt Ăn Uống Thế Nào và Cách Nấu Nướng Khác Với Người Trung Hoa Ra Saỏ
    Thật ra, tôi rất ngại khi cầm viết ghi lại những câu hỏi đã trả lời cho những bạn bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi:
    Người Việt Nam ăn uống thế nào ? Hay là cách nấu ăn của người Việt có khác người Trung Quốc hay chăng? Vì đó chỉ là những phần nhận xét đã được nhanh chóng đúc kết để đưa ra những câu giải đáp kịp thời chớ không phải do một sự sưu tầm có tính cách khoa học. Trong câu chuyện, một vài bạn trong báo Tuổi Trẻ thấy nhận sét sơ bộ của tôi có phần nào lý thú, nghe vui tai nên nhờ tôi ghi ra thành văn bản. Nể lời các bạn, tôi xin gởi đến các bạn đọc vài mẩu chuyện có thật về cách ăn và nấu ăn của người Việt chúng ta, và xin các tay nghề nấu ăn trong nước đừng cười tôi dốt hay nói chữ, dám múa búa trước cửa Lỗ Bang, đánh trống trước cửa nhà Sấm.
    Trong một buổi tiệc, một anh bạn Pháp hỏi tôi:
    -Chẳng biết người Pháp và người Việt Nam ăn uống khác nhau như thế nàỏ
    -Tôi rất ngại so sánh . . . tôi trả lời . . . vì so sánh là biết rõ rành mạch cả hai yếu tố để so sánh.
    Thỉnh thoảng tôi có ăn uống theo người Pháp nhưng làm sao biết cách ăn của người Pháp bằng người Pháp chính cống như anh. Tôi thì có thể nói qua cách ăn uống của người Việt chúng tôị Để cho anh dễ nhớ, tôi chỉ đưa ra ba cách nấu ăn của người Việt, rồi anh xem người Pháp có ăn như vậy chăng?
    Người chúng tôi ăn toàn diện, ăn khoa học, ăn dân chủ.
    1. Ăn toàn diện: Chúng tôi không chỉ ăn bằng miệng, nếm bằng lưỡi, mà bằng ngũ quan. Trước hết ăn bằng con mắt, và do đó có nhiều món đem dọn lên, nhiều màu sắc chen nhau như món gỏi sứa chúng tôi chẳng hạn: có giá màu trắng, các loại rau thơm màu xanh, ớt màu đỏ, tép màu hồng, thịt luộc và sứa màu sữa đục, đậu phộng rang màu vàng nâu v. v. . . Có khi lại tạo ra hình con rồng, con phụng, trong những món ăn nấu đãi đám hỏi, đám cướị Sau khi nhìn cái đẹp của món ăn, chúng tôi thưởng thức bằng mũi, mùi thơm của các loại rau thơm như húng quế, ngò, hoặc các mùi đặc biệt của nước mắm, của cà cuống. Răng và nứu đụng chạm với cái mềm của bún, cái dai của thịt luộc và sứa, cái giòn của đậu phộng rang để cho xúc cảm tham gia vào việc thưởng thức món ăn sau thị giác và khứu giác. Rồi lỗ tai nghe tiếng lốc cốc của đậu phộng rang, hay tiếng rào rào của bánh phồng tôm, hay tiếng bánh tráng nướng nghe rôm rốp. Sau cùng lưỡi mới nếm những vị khác nhau, hòa hợp trong món ăn: lạt, chua, mặn, ngọt, chát, the, cay v. v. Chúng tôi ăn uống bằng năm giác quan, về cái ăn như thế gọi là ăn toàn diện.
    2. Ăn khoa học: Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu, nhất là ở Nhật Bổn thường hay sắp các thức ăn theo " âm" và " dương" .
    Nói một cách tổng quát thì những món nào mặn thuộc về dương, còn chua và ngọt thuộc về âm. Người Việt thường trộn mặn với ngọt làm nước mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, ướp thịt nướng, luôn luôn có pha một chút đường; mà ăn ngọt quá như chè, ăn dưa hấu hay uống nước dừa xiêm thì cho một chút muối cho âm dương tương xứng. Người Tây khi ăn bưởi thật chua lại cho thêm đường, đã âm lại thêm âm thì âm thịnh dương suy, không đúng theo khoa học ăn uống. Người Việt phần đông không nghiên cứu về thức ăn, nhưng theo truyền thống của cha ông để lại thành ra ăn uống rất khoa học. Người Việt chẳng những để ý đến quân bình âm dương giữa các thức ăn mà còn để ý đến quân bình âm dương giữa người ăn và thức ăn. Khi có người bị cảm, người nấu cháo hỏi: cảm lạnh ( bị mắc mưa, đêm ra ngoài bị cảm sương) thì nấu cháo gừng vì cảm lạnh ( âm) vào người phải đem gừng ( dương) vào chế ngự. Nếu cảm nắng ( bị mặt trời làm cho sốt) thì dương đã vào người phải nấu cháo hành ( âm) . Lại nghĩ đến âm dương giữa người ăn và môi trường; mùa hè thời tiết có dương nhiều nên khi ăn có canh chua ( âm) hoặc hải sâm ( âm) ; mùa đông thời tiết có âm nhiều nên ăn thịt nướng. Ta có câu:
    mùa hè ăn cá sông, mùa đông ăn cá biển
    Quân bình trong âm dương còn thể hiện qua điếu thuốc làọ Thuốc lá phơi và đóm lửa (dương) hít một hơi cho khói qua nước lã trong bình ( âm) để hơi khói thuốc vào cơ thể, nguồn hút có cả dương và âm, không kể nước đã lọc bớt chất nicotine có hại cho buồng phổị Chẳng những cân đối về âm dương mà còn hàn nhiệt nữa: thịt vịt hay thịt cá trê - hàn - thì chấm với nước mắm gừng - nhiệt -. Cách ăn của người Việt Nam khoa học vì phù hợp với nguyên tắc âm dương tương xứng hành nhiệt điều hòạ Ngoài ra trong một món ăn thường đã có chất bột, chất thịt, chất rau làm cho sự tiêu hóa được dễ dàng.
    3. Ăn dân chủ: Trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng chúng tôi có thể những món chúng tôi thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của chúng tôị Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của chúng tôi, chớ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổị Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ.
    Anh bạn người Pháp thích chí cười to: ăn toàn diện, chúng tôi chưa nghĩ đến là về thính giác, ăn mà nghe tiếng động là vô phép nên ăn bớt ngon. Ăn khoa học, thì chúng tôi chỉ nghĩ đến calory mà không biết âm dương và hàn nhiệt. Còn ăn dân chủ, thì hoàn toàn thiếu sót vì đến nhà chúng tôi có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no cũng phải cố gắng ăn cho hết. Tôi xin hoàn toàn hoan nghinh cách ăn của người Việt Nam.
    Về cách ăn uống Việt Nam lại có thêm:
    4. Ăn cộng đồng: Thức ăn đầy bàn mà có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơị
    5. Ăn lễ phép: Con lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mợ Học ăn là trước nhứt, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng.
    6. Ăn tế nhị: Ăn ớt cử cách cắn trái ớt, có khi phải ăn ớt xắt từng khoanh, ớt bằm, ớt làm tương. Nước chấm nhứt là ở miền Trung rất tinh tế ăn món chi phải có nước chấm đặc biệt: bánh bèo, bánh lá, bánh khoái đều có nước chấm khác.
    7. Ăn đa vị: Một miếng nem nướng đã có vị thịt, riềng, muối, tỏi, hành cuốn vào bánh tráng lạt lạt, có chút bún, rau thơm, ớt (cay) , chuối sống (chát) , khế (chua) , tương ( ngọt, mặn cay) có pha hột điều hay đậu phộng xay ( béo) . Ăn có năm vị chánh: ngọt, mặn, chua, cay, béo, có cả ngũ sắc đen (tương) , đỏ (ớt) , xanh (rau) , vàng (khế chín) , trắng (bánh tráng, bún) . Ăn một miếng mà thấy 5 màu, lưỡi nếm 5 vị và có khi hơn thế nữạ
    Một lần khác, một anh bạn của tôi khai trương một tiệm ăn lớn tại Paris. Anh có mời đài phát thanh và báo chí đến để cho biết rằng tiệm của anh có cả thức ăn Trung Quốc và Việt Nam. Các phóng viên muốn biết Việt Nam và Trung Quốc nấu ăn có khác nhau như thế nàỏ Hai đầu bếp Việt Nam và Trung Quốc được mời ra để báo chí hỏi thì hai người đều khẳng định là cách nấu ăn rất khác, nhưng phải xuống bếp coi mới thấỵ
    Nhà bếp nhỏ không chứa được mấy chục phóng viên, và ai cũng ngại hôi dầu hôi mỡ nên ông chủ tiệm nhờ tôi tìm câu trả lời cho các nhà báọ Tuy không phải là một chuyên gia về nghệ thuật nấu bếp, nhưng tôi cũng phải tìm câu trả lời thế nào để cho các nhà báo bằng lòng. Tôi mới nói rằng, tôi không đi vào chi tiết nhưng chỉ đưa ra ba điểm khác nhau trong cơ bản.
    1. Cách dùng bột: Người Việt Nam thường dùng bột gạo trong khi người Trung Quốc thích dùng bột mì, cho nên Việt Nam có phở, hủ tiếu, bún thang, bún bò, bún riêu; mà người Trung Quốc thì chuyên về mì nước, mì khô, mì sợi nhỏ, mì sợi lớn, mì vịt tiềm. Người Việt làm bánh đùm, bánh xếp, bánh cuốn, bánh hỏi; người Trung Quốc thì bánh baọ Chả giò người Việt Nam cuốn bằng bánh tráng bột gạo; còn người Trung Quốc thì cuốn tép trong bánh bằng bột mì.
    2. Nước chấm cơ bản của người Việt nam là nước mắm là bằng cá; còn nước chấm của người Trung Quốc là xì dầu làm bằng đậu nành.
    3. Người Việt thì thường pha mặn ngọt; ngườ Trung Quốc thích chua ngọt.
    Chỉ nói đại khái như vậy mà các phóng viên đã hài lòng; về viết bài tường thuật nêu lên những điểm khác nhau ấỵ Ông giám đốc tạp chí Đông Nam Á, sau lời nhận xét đó, cho phóng viên đến phỏng vấn tôi thêm và hỏi tôi có biết yếu tố nào khác đáng kể khi nói về cách nấu ăn của người Việt khác người Trung Quốc ở chỗ nàỏ Tôi trả lời cho phóng viên trong 40 phút. Hôm nay tôi chỉ tóm tắt cho các bạn những điểm chính sau đâỵ
    ạ Về rau: người Việt tuy có ăn rau luộc, hay xào; nhưng thích ăn rau sống, rau thơm, mà người Trung Quốc không ưa ăn rau sống, cải sống, giá sống.
    b. Về cá: Người Trung Quốc biết kho, chưng, chiên như người Việt Nam. Nhưng người Trung Quốc có cá mặn không làm mắm như người Việt. Có rất nhiều cách làm mắm và ăn mắm: mắm thái, mắm nêm, mắm ruốc, mắm tôm v. v. . . Các nước Đông Nam Á cũng có làm mắm nhưng không có nước nào biết làm nhiều loại mắm như người Việt.
    c. Về thịt: Người Trung Quốc biết quay, kho, luộc xào, hầm như người Việt, mà không biết làm nem, bì và các loại chả như chả lụa, chả quế v. v. . .
    d. Người Trung Quốc ít có phối hợp nhiều vị trong một món ăn như người Việt. Khi chúng ta ăn một món ăn như nem nướng thì có biết bao nhiêu vị: lạt lạt của bánh tráng, bún, hơi mát mát ngọt ngọt như dưa leo, và đặc biệt của giá sống trộn với khế chua, chuối chát, ớt cay, đậu phộng cà bùi bùi, và có tương mặn và ngọt. Người Việt trong nghệ thuật nấu ăn rất thích lối đa vị và tất cả các vị ấy bổ sung cho nhau, tạo ra một vị tổng hợp rất phong phú .
    Cái ăn chiếm phần khá quan trọng trong đời sống của chúng tạ Khi dậy dỗ một trẻ em thì phải cho nó học ăn, học nói, học gói, học mở để biết ăn, nói với người tạ Ra đường phải biết " ăn bận" hay " ăn mặc" cho phải cách phải thế. Đối với mọi người không nên " ăn thua" làm chi cho bận lòng. Làm việc gì phải cẩn thận " ăn cây nào, rào cây nấy" . Trong việc tiêu tiền phải biết " liệu cơm, gắp mắm" và dẫu cho nghèo đi nữa " khéo ăn thì no, khéo co thì ấm" . Không nên ham ăn quá độ vì " no mất ngon, giận mất khôn" . Ra làm ăn phải quyết tâm đừng " cà lơ xích xui" chạy theo " ăn có" người khác. Phải biết " ăn chịu" với người làm việc nghiêm túc thì công việc khỏi bị " ăn trớt" . Không nên " ăn gian, ăn lận" hay bỏ lỡ cơ hội thì " ăn năn" cũng muộn. Trong cuộc sống nên tìm việc làm hữu ích cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước đừng để mang tiếng " ăn hại" " ăn bám" người khác. Khi đàn chơi phải biết lên dây đàn cho " ăn" với giọng ca, hòa đàn cũng phải " ăn" với nhau, " ăn ý" , " ăn rơ" thì mới haỵ Các bạn thấy chăng? Cái " ăn" cũng khá quan trọng nên mới lọt vào một số từ ngữ của tiếng nói Việt Nam.
    Tuy chúng ta không như người Trung Quốc " dĩ thực vi tiên" nhưng phải có ăn mới làm nên việc vì có " thực mới vực được đạo"
    ÍT NGHĨ TỚI MÌNH, NGHĨ NHIỀU TỚI CON GÁI CỦA NGƯỜI KHÁC
  9. CANDYEYEZ

    CANDYEYEZ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/03/2003
    Bài viết:
    540
    Đã được thích:
    0
    Trời mưa chợt nhớ bánh xèo

    Dù đang lúc ở nhà, đi ngoài phố hay ngồi trong quán, trời tự nhiên ẩm ướt, lành lạnh và có mưa lất phất? là lại thấy nhớ đến món bánh xèo vỏ. Bánh được đúc bằng dầu phộng, không có nhân, bột không hề được pha chế và phải ăn với mắm đục, ớt cay.
    Mắm đục là loại mắm chưa đủ ngày để rút nhưng được gạn lọc rất kỹ và phải đựng trong ?otĩn? đất nung mới đúng cách.
    Bánh chín rất nhanh và do quá mỏng, nên phải xếp theo từng cặp một. Được cặp nào người đúc đặt ngay vào đĩa của khách cặp đó. Xắn đôi cặp bánh ra, chấm mắm từng nửa một, rồi đưa lên miệng. Không vội vã và cũng chẳng nuốt ngay, hương vị thơm ngon của bánh sẽ níu lại những khoảnh khắc của sum vầy. Cái nóng hổi từ bánh toả ra, từ trong lòng toả ra, từ những yêu thương toả ra... khiến cái quán nhỏ xập xệ với màu rực đỏ của lửa bỗng như đổi khác. Bỗng huyền ảo lung linh một nét đẹp rời rợi và lạ lùng.

    Ice Ice Baby
  10. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Canh cua thiên lý
    Tản văn của Băng Sơn
    Không ai nấu hoa thiên lý với thịt lợn, thịt bò. Nó không hợp duyên nhau, hay vì ưa nay dân ta vốn nghèo, không phải luôn có thịt cá qua suốt chặng đường dài thời gian, thành thói quen tập quán. Nhà có giàn thiên lý. Mấy cái cọc tre, dăm thanh khác gác lên, ít cành rào vứt lên đó. Nhà khá thì đan mấy cái mắt cáo có hoa thị cho nắng gắt chiều hè lọc qua đấy, phần chói chang bị ngăn lại, trong nhà mát dịu đi. Mùa hè, chiều gió nam,, đêm trăng sáng, bắc cái chõng ra dưới giàn thiên lý đón bóng cây lay động, nhận hương thơm thoáng xa thật dễ chịu. Tắm xong mấy gầu nước giếng thơi mát lạnh tỉnh người ngồi xuống cạnh mâm cơm húp bát canh cua thiên lý, cái mệt biến hết, chỉ còn hương quê mơ hồ lãng đãng không biết từ đâu ra.
    Người đi làm đồng mang theo cái giỏ. Tháng sáu, cua bò ra chân lúa, cứ việc nhặt cho vào giỏ. Chiều về thành bát canh thơm. Loáng thoáng mấy nhánh lá xanh, dăm dùm hoa mỏng mảnh còn màu lá mạ, đúng là màu "thiên lý", màu thắt lưng trinh nữ một thời làm mê đắm bao chàng trai mộc mạc. Bát chiết yêu ấy ngọt thanh man mát, dìu dịu, thơm như tâm hồn ta nhẹ bẫng, cất đi bao nhọc nhằn.
    Canh cua thiên lý không có mùi gây của mỡ bò, không xao lên những vòng tròn mỡ lợn quá béo, không tanh tưởi mùi lươn vị cá. Nó không rớt như rau đay mùng tơi, mà cứ thoang thoảng mùi cốm non pha một chút gió đầm sen, một nhánh cỏ mật, một chút hương ngâu, hương cau, chính xác là mùi hoa thiên lý có từ ngàn xưa để lại.
    Sẵn vại cà nén mặn, quả cà đã trong ra và giòn tan, nó đã chìm đắm bao ngày trong muối, nay là bạn đồng hành nâng vị canh cua thiên lý nên như kẻ tung người hứng, thành đặc phẩm.
    Người thành phố ít được biết đến hương mộc mạc đồng quê của thiên lý, thứ hoa để gài đầu con gái, để nấu canh ăn, cứ mơ hồ dăng mắc hương thơm thanh khiết. Ăn nó trong cảnh tĩnh lặng thanh khiết, trong trăng trong gió, trong yên vui sum họp...thì nó vượt cả gà tần hắc mùi thuốc bắc, vượt chim quay cứng quèo khô khốc, vượt lẩu lươn tanh lòm, vượt tái dê hoi hoi...
    Ai có dịp một lần về quê hương, được ăn một bát canh cua thiên lý, chỉ mới nâng lên ngang cằm.... đã có bao cảm giác thân thương.... thì chắc nhớ nó suốt đời. Cứ thử mà xem.

Chia sẻ trang này