1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những bài viết về tác giả, tác phẩm...(mục lục trang 1)

Chủ đề trong 'Nhạc cổ điển' bởi classic_lover, 12/05/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Những bài viết về tác giả, tác phẩm...(mục lục trang 1)

    Những bài viết này vì ít người reply nên toàn chìm vào mấy trang sau thôi, thế bây giờ mọi người post vào đây nhá. Bác pimpim đính trang này lên đầu hộ em phát.
    --------------------------------------------------------------------
    Em xin mạn phép post lại bài viết của bác trizzeto :

    Tất cả mọi bản nhạc của Franz Schubert đều được tạo ra như một phép mầu, một con người mà phần lớn thời gian sống trong cảnh nghèo khổ, trong sự buồn bã và đấu tranh cho cuộc sống của mình, sự đấu tranh khi không một ai nhận ra được cái chân giá trị của mình, cuộc sống với thể lực nghèo nàn đã khiến ông ra đi khi mới ở tuổi 31. Tuy vậy, cả thế giới cũng đã đủ sững sờ trước vẻ duyên dáng và những giá trị đích thực trong tác phẩm của ông bao gồm hơn 60 tác phẩm cho các nhà hát, 8 bản giao hưởng(bao gồm bản gia hưởng chưa hoàn thành, do ông chỉ viết hai thay vì bốn phần), 50 tác phẩm cho tứ tấu đàn dây, 21 tác phẩm thính phòng, một số lượng lớn các đoạn solo dành cho piano và piano hai người chơi (trên cùng một nhạc cụ > four-hands), một số lượng lớn các hợp xướng và hàng trăm bài hát vẫn được hát lên trong các dàn nhạc giao hưởng trên thế giới.
    Có lẽ không hề sai khi nói Schubert sáng tác mọi nơi mọi lúc, ngay cả thói quen đi ngủ vẫn đeo kính để có thể bắt tay vào sáng tác ngay khi cảm hứng chợt đến khiến ông thức giấc. Mặc dù ông làm việc từ bình minh tới hoàng hôn, tác phẩm đầu tiên của nhà soạn nhạc thiên tài lúc 21 tuổi này là bài hát ?oThe Trout? (?oDie Forelle?) vào lúc nửa đêm mà những nốt nhạc đã tràn lên trang giấy nhanh tới nỗi không kịp dùng cát để thấm cho chúng khô.
    Nhìn vào tốc độ sáng tác kinh khủng như thế (dường như ông cảm thấy cái chết cận kề chăng ?) , chúng ta không khỏi kinh ngạc khi phải nhìn nhận đó toàn là những kiệt tác. Một trong những kiệt tác đó là ?oAve Maria?. Đó là một đoạn nhạc đơn giản(hic, tuy vậy đánh nó hay cũng không đơn giản lắm), được đông đảo mọi người biết tới và ưa thích vào năm 1825 (lúc đó ông 28 tuổi) và là một phần trong các bài hát của vở kịch ?oLady of Lake? của Walter Scott. Theo lời Schubert, thính giả đầu tiên của bản nhạc này (là một trong những người bạn của ông) đã kinh ngạc bởi tính ?othánh ca? sâu sắc của nó ?oTôi nghĩ nguyên nhân của chuyện đó là tôi không bao giờ ép buộc mình vào việc phải viết một bài thánh ca hay cầu nguyện trừ khi tôi bị chế ngự bởi cảm xúc đó, duy nhất cảm xúc cầu nguyện cho bản thân tôi.?
    Ba năm sau khi viết ?oAve Maria?, vào ngày 19 tháng 11 năm 1828, ông đã ra đi sau một cơn sốt và được chôn cất tại tu viện Wahring, gần nơi nhạc sỹ mà ông yêu thích, Beethoven, được chôn cất chỉ trước đó 1 năm. Trong lễ tang của ông, Franz Schober đã đọc một bài thơ vĩnh biệt nhạc sỹ thiên tài.

    ------------------------------------------
    Bài viết của cleg :

    TRyện kể rằng Schubert yêu một nàng thiếu nữ con nhà quyền quý ( hình như nàng cũng iu lại chàng ) , chàng là gia sư dạy đàn cho nàng . Một buổi nhà nàng có dạ hội chàng được mời đến dự và đánh đàn . Schubert rất nghèo để đi đến dạ hội này chàng đã phải thuê bộ lễ phục . .......... tại bưa tiệc khi chàng đang say sưa với bản đàn thì cái mác thuê áo nó tòi ra ( hay là chàng quên tháo ko bit'''''''' ) và lắc lư lắc lư theo nhịp đàn .......... nàng - với bản tính thiếu nữ thơ ngây và trẻ con một chut'''''''' nên đã ko nhịn được cười và cười phá lên , chàng nhận ra .......... đỏ mặt tủi thân tủi phận và bỏ ra về ko bao giờ quay lại nữa . chàng dến một nơi rất xa- hình như là một vùng hồ và viết bản AVE MARIA trong cô đơn đau khổ , còn nàng cũng ko chịu được sự dằn vặt và đau khổ khi mất đi người iu quý nhất ...... một thời gian sau nàng qua đời . Lúc đầu nhiều người ko biết nên đã có một thời gian AVEMARIA được đánh ở nhà thờ và còn được coi là Thánh ca , sau khi biết sự ra đời - tác phẩm đã bị cấm ở nhà thờ .................
    Ko bít chuyện có đúng ko , em đọc từ lâu lém rồi , đọc ở đâu đâu đấy ko nhớ .......................................


    CLASSIC FOREVER​

    Mục lục các bài viết về tác giả tác phẩm.

    Johann Sebastian Bach :
    Thân thế, sự nghiệp?
    Beethoven :
    Thân thế, sự nghiệp?.
    http://ttvnol.com/forum/t_73938/2a?0.3450846
    http://ttvnol.com/forum/t_73938/4a?0.8586221
    http://ttvnol.com/forum/t_73938/5a?0.5620676
    Beethoven - Sonata số 9 cho violin và piano.
    Beethoven gặp Mozart
    Bản dịch bức thư của Beet = tiếng Pháp
    Bản dịch bức thư của Beet = tiếng Anh
    Bản dịch bức thư của Beet = tiếng Việt
    http://ttvnol.com/forum/t_73938/9a?0.8331705 và http://ttvnol.com/forum/t_73938/10a?0.9094967
    http://ttvnol.com/forum/t_73938/10a?0.9094967
    Vài chuyện ?odưa lê? về Beethoven.
    Giao hưởng số 9 của Beethoven- Những nỗi truân chuyên.
    Berlioz :
    Việc chuyển thi hài của Berlioz vào điện Patheon.
    Brahms :
    Thân thế, sự nghiệp?
    Người biều đạt hoàn hảo tâm hồn thời đại
    Chopin :
    Thân thế và sự nghiệp?
    Linh hồn piano.
    Klaviersonata.
    Các bản Mazurka, Nocturne của Chopin.
    Claude Debussy :
    Nhà soạn nhạc Pháp và Âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
    Thân thế, sự nghiệp? http://ttvnol.com/forum/t_73938/11a?0.6088986
    Josquin Desprez :
    Thân thế, sự nghiệp?
    Dvorak :
    Thân thế, sự nghiệp?
    Haydn :
    Thân thế và sự nghiệp? http://ttvnol.com/forum/t_73938/12a?0.5741678
    Cha đẻ của giao hưởng.
    Liszt :
    Thân thế, sự nghiệp?
    Guillanme de Manchaut :
    Thân thế, sự nghiệp?
    Mozart :
    Thân thế và sự nghiệp?
    Thiên tài âm nhạc. http://ttvnol.com/forum/t_73938/10a?0.9094967
    Nhạc Mozart chữa động kinh.
    Giao hưởng số 39, 40, 41.
    Musorgsky :
    ?oNhững bức tranh trong phòng triển lãm
    Paganini :
    Pháp sư của kỹ xảo âm nhạc
    Rachmaninov:
    Đấy là một thiên tài!
    Scarlatti :
    Cha con Scarlatti.
    Schubert :
    Thân thế, sự nghiệp?
    http://ttvnol.com/forum/t_73938/1a?0.6820081
    Nhà trữ tình vĩ đại.
    http://ttvnol.com/forum/t_73938/7a?0.1236673
    Một cuộc đời ngắn ngủi. 1 Schubert ngây ngô ư?. Âm nhạc và cuộc đời dang dở.
    Schumann :
    Thân thế và sự nghiệp?
    Smetana :
    Vltava-dòng chảy dân tộc.
    Đặng Thái Sơn:
    Hai thập niên sau khi đoạt giải Chopin.
    Nghệ sỹ nổi tiếng đạt giải thưởng quốc tế.
    Johann Strauss :
    Những vũ khúc mùa xuân.
    Ông vua điệu valse thành Vienne.
    Tchaikovsky :
    Thân thế, sự nghiệp?
    Hồ thiên nga.
    Gh số 6 ?oPathetique?

    Verdi :
    Cuộc đời, sự nghiệp? http://ttvnol.com/forum/t_73938/12a?0.5741678
    Vivaldi :
    Thân thế , sự nghiệp?
    4 mùa.
    Wagner :
    Thân thế, sự nghiệp?

    ---------------------------------------------------------------------------------------
    Ngày sinh, ngày mất, tuổi thọ của các nhà soạn nhạc.
    Symphonie.
    Thành phố âm nhạc Paris.
    Âm nhạc thính phòng.
    Romance những chặng đường lịch sử.
    Âm nhạc trường phái lãng mạn.
    Âm nhạc với chủ đề đấu tranh anh hùng. http://ttvnol.com/forum/t_73938/10a?0.9094967
    NT múa Việt Nam.
    Lịch sử âm nhạc Việt Nam.
    Nghe nhạc và chơi nhạc (Trần Dũng Minh Dân)
    Đối thoại giả tưởng về âm nhạc thế kỷ 21 (Hoàng Ngọc Tuấn)

    **********************************************************************
    Guitar cổ điển :

    Hector Villa Lobos :
    Nhà soạn nhạc vĩ đại của thế kỷ 20.
    Châu Đăng Khoa:
    Guitar và tình khúc.
    Nghệ sĩ guitar Đặng Ngọc Long :
    ?oDù sống ở đâu làm gì, tôi vẫn là người Việt Nam?
    Rodrigo :
    Concerto de?T Aranjuez.
    Segovia :
    Thân thế, sự nghiệp?
    Fernado Sor :
    Cuộc đời, sự nghiệp?.
    Francisco Tarrega :
    Thân thế, sự nghiệp?
    Người đã cứu sống cây đàn guitar cho nhân loại.

    ---------------------------------------------------------------------------------------
    Guitar qua các thế kỷ.
    Vũ điệu Flamenco - nghệ thuật dân gian Tây Ban Nha.
    Những điều cần biết về Aturias (Leyenda).

    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 06:04 ngày 04/09/2003



    Được dau_khong_co_toc sửa chữa / chuyển vào 07:22 ngày 13/09/2003
  2. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Bài viết của Hetfield :
    Trong số các nhạc sĩ nổi tiếng trong lịch sử âm nhạc,có lẽ Beethoven là người xấu số nhất.Đời ông là cả một chuỗi tháng ngày đau khổ:bị gia đình bỏ rơi,thất vọng vì tình,bệnh tật,nghèo túng.Nếu người nghệ sĩ phải mang kiếp' tơ tằm ' thì những đường tơ của Beethoven quả là những đường tớ phát ra từ quả tim khổ hạnh.
    Mùa xuân năm 1787,Beethoven vừa đúng 17 tuổi,trong lúc đó Mozart đã 31 tuổi.Vào thời ấy,Mozart đã có công ăn việc làm.Nhạc sĩ là thầy dạy dương cầm cho một số thiếu nữ con nhà quý tộc,còn Beethoven vẫn còn lận đận với cuộc sống.Chàng biết là chàng xấu trai nên đời này không ai ưa chàng,ngoại trừ mẹ chàng,một người đàn bà ốm yếu,lưng còng,ho sụ sụ cả ngày.Thân phụ chàng lại là 1 người đàn ông suốt ngày say sưa,lúc thiếu rượu lại lôi con ra đánh đập.
    Nhưng trong hoàn cảnh như vậy mà Beethoven vẫn học chơi được dương cầm là một điều rất lạ.Một hôm bàn tay chàng đang dạo trên phím đàn thì cánh cửa phòng chợt mở.Một người đàn ông,dáng người nhỏ thó,da xanh,mắt đeo kính cận,bàn tay nhỏ nhắn bước vào.Beethoven tự hỏi:'Đó là Mozart sao?Có thể nào như thế được?'.
    Mozart liền bảo Beethoven:
    -Em thử chơi một bản trên dương cầm xem sao!
    Beethoven bỡ ngỡ:
    -Em không thuộc bản nào cả!
    Sự thật là vừa rồi Beethoven đã chơi một sáng tác của Mozart.Và cũng quá cảm động,Beethoven,nước mắt lưng tròng,năn nỉ thầy dạy nhạc cho mình:
    -Thưa thầy,em chơi còn kém lắm.Thầy cố gắng nâng đỡ cho.Và bây giờ thầy cho biết phải chơi bản nào?
    Mozart mỉm cười,bước lại gần chiếc dương cầm,đưa tay lên phím đàn rồi nói:
    -Đây là một điệu ca trong bản nhạc kịch mới soạn của tôi,em chơi thử.Tôi nghe em đây!
    Beethoven nhẹ đưa hai bàn tay lên.Dưới ngón tay bay **** của chàng,bản nhạc được diễn tả rất tài tình và trong lúc Beethoven đang để tâm trí vào âm thanh thì bàn tay của Mozart đã đặt lên vai chàng.Beethoven quay lại lo lắng nhìn thầy.Mozart nghiêng đầu sát Beethoven,âu yếm:
    -Em là 1 thần đồng.Em có đủ tài diễn tả.Ta sẽ dạy em tất cả những gì ta biết.Kể từ ngày mai,chúng ta sẽ bắt đầu việc học tập.
    Nhưng Beethoven không ở lại thành phố Vienne được lâu.Thân mẫu chàng hấp hối trên giường bệnh bắt buộc chàng phải cấp tốc trở về Bonn.Về đến nhà,Beethoven chỉ kịp nhìn thấy mẹ một lần cuối cùng và chàng hứa với người sẽ cố gắng nuôi sống gia đình.Beethoven bắt đầu sáng tác một vài bản nhạc cốt để lấy tiền nuôi người cha nghiện rượu và hai đứa em suốt ngày cãi cọ nhau.Chàng vẫn nuôi ước mộng một ngày rất gần đây chàng sẽ trở lại Vienne để gặp lại Mozart.
    Nhưng Mozart mất vào năm 1791.Qua năm sau,nhờ sự giúp đỡ của một cụ già ở Bonn,Beethoven quay lại Vienne học một lớp hòa âm.Ở đây Beethoven tìm được một học trò để dạy,kiếm chút tiền tiêu,ngoài giờ dạy nhạc,chàng lại sáng tác.Có vài tác phẩm khá thành công nhưng tác giả vẫn phải sống trong một căn nhà lụp sụp,ăn bữa no bữa đói.
    Năm 27 tuổi,tài năng của Beethoven đã được nhiều người biết đến.Vào một buổi sáng nọ,vừa thức dậy,Beethoven nghe như có tiếng mưa đập vào cửa kính.Chàng đứng dậy kéo rèm nhưng nền trời vẫn xanh.Những tiếng động đó ngày càng mạnh thêm theo tháng ngày.Chàng cảm tưởng đó là tiếng mưa rào và sau đó là tiếng nhà máy.Beethoven gọi người giúp việc lên và anh này lắc đầu và cho biết rằng chẳng nghe thấy gì cả.Quá lo sợ,Beethoven nút lỗ tai trái lại nhưng động vẫn không dứt.Chàng tự hỏi:
    -Có lẽ mình mệt chăng?
    Qua ngày hôm sau,chàng vẫn cảm thấy có tiếng vù vù ở bên tai.Beethoven tìm đến giáo sư Frank,một bác sĩ nổi tiếng ở thành phố Vienne.Giáo sư sửa lại gọng kính,nhìn chàng nhạc sĩ trẻ từ đầu đến chân rồi nói:
    -Đây là 1 bệnh ở tai.Ԯg nên nhỏ vài giọt dầu nóng vào lỗ tai,có thể sau 1 tuần bệnh sẽ khỏi.
    Nhưng tuần sau,rồi đến hai,ba tuần sau,bệnh nhân vẫn chưa thấy bệnh giảm bớt chút nào cả.Beethoven ngồi nghe tiếng vù vù bên tai.Bỗng chàng cảm thấy lặng im được 1 chốc,nhưng liền đó tiếng lách tách như búa gõ tào xương sọ lại vang lên mãnh liệt,Mồ hôi toát ra trên trán.Chàng thầm nghĩ,có lẽ mình sẽ điên chăng?­ nhạc là nguốn sống duy nhất của chàng,muốn thoát khỏi ám ảnh đó,Beethoven lao đầu vào công việc.
    Liền trong 1 thời gian ngắn,mấy tác phẩm xuất sắc ra đời,nhưng bệnh tình thì không dứt,chàng cảm thấy 2 tai ngày càng ù thêm.Tuy vậy,những sáng tác giá trị lại lần lượt ra mắt công chúng như'Nhạc khúc thứ V',Nhạc khúc đồng quê'.
    ʹ lâu sau,chiến tranh tràn qua nước o.Quân đội Napoléon tấn công như vũ bão khắp nơi.Tiếng đại bác ầm ầm vang lên khắp thành phố.
    Beethoven nghe rõ và nhủ thầm mình chưa điếc hẳn.Vào ngày 13 tháng 5 năm 1809,khắp thành phố Vienne có bóng quân đội Pháp.Trong không khí sặc mùi bom đạn,Beethoven đã sáng tác thêm một tác phẩm bất hủ:'Nhạc khúc thứ VII'.Beethoven tự an ủi phải làm việc hăng hái lên trước khí cái tai hoàn toàn điếc.Chàng cắm cúi viết ngày viết đêm,hốt hoảng trong cuộc sống.Beethoven cũng có ý định lấy vợ nhưng 3 lần thất bại.Thất vọng về cuộc sống tình cảm,hai tai lại ù thêm nên tính tình của nghệ sĩ lúc này trở nên cau có lạ thường.Các y sĩ gửi chàng đến Teiplitz để chữa bệnh,dịp này Beethoven hân hạnh được gặp gỡ nhà thơ Goethe.Trong lúc hai người dắt tay nhau đi dạo,nửa đường họ gặp Hoàng Hậu và các thị nữ.Beethoven cau mày,kéo tay Goethe lại và nói:'Anh hãy đứng bên tôi.Chính họ phải nhường lối cho chúng ta'.
    Nhưng Goethe không nghe lời,đứng sang một bên đường,cất mũ,kính cẩn chào đoàn người đi qua.Trong lúc đó Beethoven ngước mắt đi thẳng giữa lộ,miệng nở 1 nụ cười ngạo mạn.
    Các nhà xuất bản thời bấy giờ trả nhuận bút cho những tác phẩm của Beethoven bèo đến nỗi nhạc sĩ không đủ sống.Chàng cố giảm bớt các món chi tiêu bằng cách ra chợ lượm ra,mua thịt hôi về và tự mình nấu lấy thức ăn.ʹ lâu sau,chính Beethoven cũng nghiện rượu như thân phụ chàng.
    Đầu thu năm 1815,Beethoven điếc hẳn cả hai tai.Suốt ngày nghệ sĩ im lặng và nhìn thế giới bên ngoài một cách ghê tởm.Những âm thanh du dương của dương cầm,vĩ cầm,đại hồ cầm...không còn văng vẳng bên tai chàng nữa.Nhưng nhạc khúc thứ VIII vẫn ra đời song lại không thành công.
    Beethoven lang thang ngoài phố,dáng điệu trông đến thảm thương.Gặp ai quen thì Beethoven rút trong túi ra 1 cây bút chì,một cuốn sở và bảo hãy ghi ra đấy.
    Hết rủi này đến rủi khác,trong lúc đó người anh của Beethoven qua đời,để lại một đứa con tên là Charles,nhờ Beethoven nuôi dưỡng.Charles là đứa bé tinh nghịch,đủ tật xấu,nói láo như cuội,còn trẻ mà đã rượu chè be bét.Thế mà thằng cháu vô lễ đấy còn mắng như tát nước vào mặt Beethoven.
    Beethoven có nghe thấy gì đâu,vẫn mỉm cười trước những lời chửi bới đó.Charles quá thất vọng,định tự tử nhưng chỉ bị trầy ở má.Beethoven lại đau khổ vô cùng và than với cháu:
    -Chú đối với cháu nhu con của chú.Cháu mà tự tử tức cháu không thương chú!
    Vào lúc ấy,Beethoven đã năm mưới tuổi.Nhạc sĩ vẫn tiếp tục sáng tác.Một tác phẩm khác ra đời.Nhạc sĩ viết thư cho nhà xuất bản,trong đó có đoạn như sau:'Nếu ông rõ tình trạng của tôi thì ông không khỏi ngạc nhiên là tôi vẫn còn sáng tác được.Viết để sống kể cũng khó khăn thật,chính tôi cũng đang ở trong tình trạng đó'.
    Tuy sức khoẻ không được dồi dào,hai tai không còn nghe thấy gì nữa,nhưng đến năm 1822,Beethoven lại muốn điều khiển ban nhạc kịch của mình.Cả ban nhạc không thể nào chơi được dưới sự điều khiển của nhạc sĩ nhưng không một ai có can đảm nói ra điều ấy.Beethoven quay sang phải rồi sang trái,cố tìm trên nét mặt của các nhạc công 1 sự phản đối nào,nhưng tất cả đều im lặng.Beethoven gọi nhạc trưởng lên và trao cho ông này 1 cây viết và mẩu giấy.Shindter(tên của nhạc trưởng)tay run run viết mấy dòng:'Xin thầy đừng tiếp tục nữa,về nhà tôi sẽ trình bày rõ với thầy'.
    Beethoven nhảy đại xuống sàn,la lớn:
    -Thôi,về nhà ngay!
    Về đến nhà,nghệ sĩ nằm vật ra giường,hai bàn tay co quắp lại và ôm lấy hai tai.
    Cuộc sống buồn chán lại tiếp tục.Thỉnh thoảng nghệ sĩ lại có chuyện bực mình với đứa cháu,lại phải lo lắng về tiền bạc và luôn bị chứng đau dạ dày hanh hạ.Năm 1826,Beethoven về sống với người em tên là Johann để hưởng chút khí trời trong lành.Nhưng qua tháng 11 năm ấy,Beethoven bị gọi về Vienne gấp vì đứa cháu đã trở thành 1 tên du côn,sở cảnh sát Vienne đã mất không ít thời gian vì nó.
    Beethoven đi nhờ trên một chiếc xe bò của một người bán sữa đến thành Vienne.Gặp trời lạnh,sức khoẻ lúc này đã kiệt quệ,nghệ sĩ run cầm cập vì cái lạnh,hơi thở khó khăn.Beethoven khạc ra từng dòng máu.Charles,đứa cháu vô hạnh cũng chả buồn gọi bác sĩ.Đến này 5 tháng 1 năm 1827,Beethoven tuyên bố sẽ để lại cho cháu tất cả di sản của ông,ông biết cái chết đã gần kề.Beethoven không buồn,trái lại cảm thấy nhẹ nhõm trong người,tuyên bố với bạn bè:'Các bạn hãy vỗ tay đi,màn kịch sắp đến lúc hạ rồi!'.
    Vào lúc 18h ngày 20 tháng 3 năm 1827,nhạc sĩ danh tiếng nhất thế kỉ đã chút hơi thở cuối cùng.
    Đi theo sau linh cữu của Beethoven có đủ mặt các nghệ sĩ danh tiếng thời ấy và nhiều đám đông quần chúng,suốt cuộc đời ông,chưa lúc nào có nhiều bạn bè đến như vậy

    CLASSIC FOREVER​
  3. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử Âm nhạc VN
    Lịch sử ­ nhạc Việt Nam bị chi phối bởi lịch sử đấu tranh và phát triển của dân tộc Việt Nam. Chúng ta chia ra làm 3 giai đoạn chính và trình bày trong 5 chương dưới đây.
    Giai đoạn 1: Trước năm 1945, khi đất nước còn bị đô hộ bởi thực dân Pháp.
    Giai đoạn 2: Từ năm 1945 đến năm 1975, âm nhạc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và
    thống nhất đất nước.
    Giai đoạn 3: Từ năm 1975 cho đến nay, âm nhạc trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá
    và hiện đại hoá..
    Chương 1: Nền âm nhạc Việt Nam thế kỷ 20 - sự ra đời muộn màng
    Chương 2: Nền âm nhạc Việt Nam thế kỷ 20 - một cách nhìn
    Chương 3: Các dòng âm nhạc và sự phân chia thời kỳ
    Chương 4: Năm tên tuổi lớn của âm nhạc Việt Nam hiện đại
    Chương 5: Việt Nam sẽ trở thành một địa chỉ âm nhạc kinh điển
    --------------------------------------------------------------------------------
    Chương 1
    Nền âm nhạc Việt Nam thế kỉ 20 - Sự ra đời muộn màng
    Mãi những năm cuối thập kỷ 30 người ta mới biết đến nền nhạc mới VN, lúc đó dưới danh nghĩa nhạc cải cách ( hoặc còn gọi là tân nhạc ). Năm 1938, những bài hát đầu tiên của VN có tác giả, được ghi âm theo cách ký âm Tây Phương xuất hiện trên tờ Thời nay ( nhưng lúc đó có khi cả vài năm, chúng đã được trình diễn trong các tư gia, phòng trà, quán rượu, rạp hát và rạp chiếu bóng và có khi trong một nhóm nhỏ..
    Bây giờ lần đầu tiên ở VN xuất hiện tên tuổi những tãc giả âm nhạc mà ta thường gọi là nhạc sĩ sáng tác: các ông Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Khoát, Dương Triệu Tước, Văn Chung, Thẩm Oánh, Lê Yên, Lê Thương, Hoàng Qúy, Ц#7863;ng Thế Phong, có bài hát, có tác giả là có trình diễn và thâu âm có xuất bản âm nhạc v..v...có báo âm nhạc: hãng đĩa Beka và đài phát thanh Pháp á, những nhà xuất bản âm nhạc tư nhân như Hương Giang, Tinh Hoa, á Châu v..v... và tờ báo âm nhạc ra đời hơi muộn mằn đó là tờ Việt nhạc của ông Thẩm Oánh. Cái thiếu duy nhất của thời ấy là thiếu một nhạc viện chính quy. Tính chất tài tử của âm nhạc VN có lẽ được hình thành ngay từ đầu chính bởi cái đặc điểm thiếu duy nhất đó.
    Sự gần gũi giữa nền nhạc mới VN và thơ mới và thơ hiện đại sự hình thành nền âm nhạc mới VN cũng từa tựa như sự hình thành của thơ mới. Duy chỉ có điều khác là trước thơ mới còn có cả thơ cổ điển, còn trước nhạc mới ko có gì cả ngoai trù âm nhạc dân gian và cung đình truyền thống. Cũng bắt đầu từ những năm 30 tuy điểm xuất phát cua nhạc tuy có chậm hơn một chút nhạc mới cũng giống thơ mới là có cùng khuynh hướng lãng mạn. Những tác giả đầu tiên của nó như Lê Thương, Dương Triệu Tước, Ц#7863;ng Thế Phong là những tác giả lãng mạn, có thể đem họ so sánh với Phạm Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận bên thơ. Nếu suy nghĩ tiếp sẽ thấy có hàng chục cái từa tựa khác. Щếu ấy thấy rằng trong quá trình phát triển của nhạc và thơ 6 thập kỉ sau này đương nhiên cả hai sẽ có nhiều nét tương đồng. Không phải chỉ có nét tương đồng mà giữa nhạc mời và thơ mới và thơ hiện đại nói chung có quan hệ rất mật thiết. Lời bài Giọt mùa thu của Ц#7863;ng Thế Phong có thể coi như một bài thơ mới đặc sắc. Chủ nghĩa trong ca khúc Trịnh Công Sơn trước 1975 đôi chỗ táo bạo và giá trị như một nhà thơ cách tân hiện đại. Rất dễ tìm ra những kẻ hát thơ trong số những nhạc sĩ nổi tiếng và cũng không khó tìm ra những người có bài hát nổi tiếng vốn lại là thi sỹ. Sự mật thiết này bộc lộ rõ hơn khi những năm 90 của thế kỉ này rất nhiều nhạc sỹ đã dựa hẳn vào thơ để viết bài hát. Hát thơ, phổ thơ, đồng hành với thơ là một đặc điểm nổi bật khác nữa của âm nhạc Việt Nam thế kỉ này.
    Sự chi phối của dân ca
    Ц#432;ợc sự cổ vũ của cuộc cách mạng DTDC, dân ca đã được đề cao và những yếu tố cơ bản của nó đã được sử dụng để hình thành nền âm nhạc mời VN. Tân nhạc, mặc dù đã được hình thành trên nền tảng kỹ thuật âm nhạc phương Tây, nhưng ngay từ những thành tựu đầu tiên ( chủ yếu là bài hát ) nó đã tìm cách dọn đường về quê. Những thủ lĩnh của nhạc cải cách đã biết kết hợp tri thức âm nhạc Tây phương và chất liệu dân ca để tạo ra các dáng hình đặc biệt cho ca khúc VN. Không cần trải qua nhiều thể nghiệm, Hòn vọng phu của Lê Thương, Màu thời gian của Nguyễn Xuân Khoát, Ц#234;m tàn bến ngự của Ц#432;ơng Thiệu Tước, Bóng ai qua thềm của Văn CHung, Giọt mưa thu của Ц#7863;ng Thế Phong... ngay lập tức trở thành những bài hát mang bản sắc rất đặc biệt VN, nghe là thấy ngay, từ dạo ấy Cách mạng đã tôn vinh dân ca, đưa dân ca lên vai trò chủ đạo trong việc phát triển nền âm nhạc VN hiện đại ở những mức độ khác nhau hầu hết những sáng tác thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đều mang âm hưởng của dân ca và chính nhờ có dân ca mà nhiều nhạc sĩ lãng mạn đã thoát khỏi cái khuôn sáo của âm nhạc cổ điển phương Tây để tiếp cận với những hệ thống biểu đạt mới để rồi trở thành những tác giả khác hẳn về tầm cỡ.
    Ц#7889;i với những nhạc sĩ trẻ, dân ca đã mở đường mới cho công việc tìm kiếm đôi khi đã trở nên bế tắc. Ц#7889;i với những nhạc sĩ bình thường, dân ca đã chắp cánh cho những sáng tác của họ đưa những sáng tác ấy đến những giá trị mà chính họ cũng không ngờ tới. Nguyễn Xuân Khoát, Ц#245; Nhuận, Văn CHung, Phạm Duy thời kì đầu 1943-1951, Lê Yên, Nguyễn Văn Tí, Hoàng Vân, Phan Huỳnh Щểu và những thế hệ nhạc sĩ trưởng thành trong hai cuộ kháng chiến. Sự tiếp thu dân ca của những người này đã mang lại cho nền âm nhạc một bản sắc riêng biệt không thể trộn lẫn và những giá trị cách tân lớn lao giúp cho nền âm nhạc hiện đại VN vượt qua cái giá trị mỹ học tiền chiến đã lỗi thời đang trở thành vật cản đường đối với sự phát triển. Ngay cả sau năm 1975 những tên tuổi tiếp tục nổi của nền âm nhạc VN thống nhất vẫn là những người thấm nhuần dân ca và biết khai thác dân ca một cách triệt để nhất ( Phó Ц#7913;c Phương, Nguyễn Cường, Trần Tiến, Dương Thụ...)
    Nói đến nền âm nhạc VN thế kỉ 20 sự chi phối của dân ca đối với sáng tác có lẽ là một đặc điểm nổi bật nhất.
    Chương 2
    Nền âm nhạc VN thế kỉ 20 - Một cách nhìn
    - Sự du nhập của những yếu tố ngoại lai và tính chất biệt lập của âm nhạc VN đối với khu vực và thế giới.
    - Sự phát triển không cân đối giữa nhạc không lời và bài hát, giữa âm nhạc bác học và âm nhạc đại chúng. Một nền âm nhạc phát triển căn bản ca khúc đại chúng.
    - Khi ông Vi Huyền Ц#7855;c, Vũ Щnh Long viết kịch và dựng kịch theo kiểu Tây trên khấu, thì lúc đó cũng đã có điệu Valse, Tango, Habanera, Swing, Blue với cách cấu trúc tác phẩm chặt chẽ, mạch lạc, chân phương, lối nhạc hai đoạn tương phản, lối viết có nhạc đề, có sự phát triển và lối hòa âm theo công năng cổ điển của Tây phươnng đã bắt đầu thịnh hành trong nhạc của những nhạc sĩ lãng mạn thời bấy giờ. Sự du nhập của những yếu tố ngoại lai này là tất yếu khi nền tân nhạc của chúng ta đang ở giai đoạn hình thành và phát triển bước đầu. Chính vì thế mà nhiều tác phẩm thành công của dòng nhạc lãng mạn và nhạc kháng chiến chống pháp thời kí đầu vẫn vô tình gợi ra cho chúng ta nhiều tác phẩm thành công của dòng lãng mạn và nhạc kháng chiến chống Pháp thơ2ì kì đầu vẫn vô tình gợi ra cho chúng ta cái gốc ngoại: Chiều, Ngọc Lan của Dương Thiệu Tước làm ta nhớ đến Tchaikovsky, Sông Lô của Văn Cao khiến ta liên tưởng đến Johan Strauss và Bizet, nghe Người Hà nội của Nguyễn Ц#236;nh Thi làm sao không nghĩ về Symphonic số 9 của Beethoven...
    Sau 1954, ảnh hưởng của nhạc Nga và nhạc Trung Quốc ở miền Bắc và nhạc Mỹ cùng các nước Tây µ ở mièn Nam là rất lớn và 25 năm cuối thế kỉ 20 này là sự du nhập manhj mẽ của pop-rock-jazz phương Tây vào lĩnh vực nhạc nhẹ mới hình thành ở nước ta. Tuy vậy, những yếu tố ngoại lai này không bóp chết được âm nhạc dân tộc mà chính nó đã mang lại những ảnh hưởng tốt về mặt tư duy âm nhạc và kĩ thuật sáng tác. Chỉ tiếc một điều âm nhạc VN chưa thật chủ động trong việc tiếp thu những thành tựu của âm nhạc nước ngoài, có một chút nào đó còn kì thị với nhạc ngoại, có một chút nào đó còn thiếu tự tin nên chưa mạnh dạn học hỏi tiếp nhaajn mà chỉ lo chống đỡ, ngăn trở. Có thể vì lẽ mà nền âm nhạc của chúng ta hiện nay trở nên quá biệt lập đối với thế giới, nó không biết ( hoặc thiếu khả năng ) tự trình bày mình và dĩ nhiên nó không đóng góp gì đáng kể cho sự phát triển âm nhạc của nhân loại ( điều mà rất nhiều dân tộc khác đã làm được )Hội nhập với khu vực và thế giới mà chỉ là khẩu hiệu của năm âm nhạc cuối cùng của thế kỉ 20.
    Thực tế vẫn còn xa vời. Mặc dù có đến hai nhạc viện lớn ( NV Hà Nội và NV TP.HCM ) có một dàn giao hưởng quốc gia, có nhà hát Nhạc vũ kịch và mặc dù trình độ của nhạc công và nghệ sĩ độc tấu không phải là kém so với khu vực song nền khí nhạc VN chưa đóng đúng vai trò của mình chưa đạt đến tầm vóc mà nó có thể có. Những năm 50 trở về trước, khí nhạc VN hầu như không có gì ngoài hoạt động thiếu chính quy cuả dàn nhạc Ц#224;i phát thanh và dàn kèn nghi thức. Những năm 60, nó bắt đầu có tiếng nói trong sinh hoạt âm nhạc nhưng hình thức lớn của khí nhạc đã có tác giả VN. Người ta nhắc đến Ц#224;m Linh, Nguyễn Ц#236;nh Tấn, Chu Minh, Hoàng Vân, Hoàng Việt, Huy Du... không phải chỉ ở lĩnh vực ca khúc. Nhạc giao hưởng và thính phòng VN đã được giới thiệu trong công chúng qua những đêm diễn của nhạc giao hưởng quốc gia và sóng phát thanh của đài TNVN ở Hà Nội lúc đó đã hình thành được một lớp công chúng của khí nhạc và trong giới trí thức, cán bộ trẻ có học việc nghe nhạc không lời và nhạc cổ điển đã trở thành thời thượng.
    Nhưng thời hoàng kim của khí nhạc không được lâu. Năm 1965 cuộc kháng chiến lần thứ 2 bùng nổ và ngày càng trở nên ác liệt. Không thể có một điều kiện tối thiểu nào cho khí nhạc phát triển. Sự tàn phá của chiến tranh thật là kinh khủng. Sau 1975, hậu quả chiến tranh đã làm cho chúng ta tưởng chừng không gượng dậy nổi, nhiều giấc mơ âm nhạc tiêu tan. Có lúc việc đào tạo của Nhạc viện tưởng như vô nghĩa, sinh viên tốt nghiệp sẽ đi về đâu ? Sáng tác khí nhạc thì ai dựng, ai nghe ? Dàn nhạc vẫn công tính, vẫn công ngành, dàn nhạc nhà hàng ăn uống, dàn nhạc các tụ điểm giải trí đâu có phải là đất dụng võ lí tưởng. Phải đến khi đất nước bước vào đổi mới, tình hình kinh tế ổn định dần và lại bắt đầu mơ. Chúng ta lại nói đến giao hưởng, đến Sonate, dến concerto, đến tam tấu, tứ tấu... của người này, người nọ với một vẻ rì rầm' ngày nào ... Nhưng đã là những năm cuối của TK, vài năm chưa đủ làm nên chuyện gì cả. Có lẽ phải chờ đợi đến TK21 thôi.
    - Ngược lại với khí nhạc, ca khúc Việt Nam phát triển rất mạnh mẽ; người Việt Nam thích hát và thích nghe hát, họ chưa có thói quen nghe nhạc không lời, vả lại nuốn gọi là nghe được nhạc không lời phải có học vấn âm nhạc (học vấn ấy thulượm được nếu không qua nhạc viện thì phải qua nền giáo dục đẳng cấp cao) mà ở Việt Nam ta thì.. cho nên mọi tình yêu và khả năng âm nhạc đều đào tạo.. ca khúc, cho nên ở nước ta mới có chuyển phải có ca khúc nổi tiếng mọi người mới tiết biết tên tuổi nhạc sĩ. Các ông Nguyễn Xuất Khoát, Ц#7895; Nhuận, Hoàng Vân, Huy Du, Chu Minh mặc dù có viết khí nhạc nhưng người ta vẫn biết các ông chủ yếu do các ông là tác giả bài hát. ở ta đã có câuchở thành ngạn ngữ : 'Hát hay không bằng hay hát' để nói nên tính đại chúng của lĩnh vực này.
    Hát và nghe hát. Một bài hát muốn có đời sống nó phải cập nhật, phải dễ nghe và dễ hát. Cho nên với nỗ lực đều rồi rào ca khúc đại chúng kể cả những cách âm và tìm tòi âm nhạc. Hai cuộc kháng chiến với bao nhiêu gian nan lại là mảnh đất tốt cho âm nhạc ca khúc phát triển. Những lúc ấy bài hát cần như cơm, gạo, nó nuôi dưỡng tinh thần của mọi người, nó giữ cho người ta đứng vững..
    Bài hát Việt Nam đã trở thành một cái gì đó hầu như tất cả âm nhạc Việt Nam và ở những khía cạnh nà đó nó được coi như một phần diện mạo tâm hồn của người Việt.
    Việc chuyển sang cơ chế thị trường với nhập cảnh ồ ạt các phương tiện nghe nhìn hiện đại, sự xuất hiện của phòng hát karaoke và dàn máy karaoke gia đình, sự hỗ trợ của kỹ thuật sản xuất băng đĩa tân tiến, một lần nữa đã đưa bài hát (nhất là những bài hát thuộc lĩnh vực âm nhạc đại chúng) lên ngôi, càng làm cho sự mất cân đối giữa khí nhạc và ca khác, giữa âm nhạc bác học và âm nhạc đại chúng vốn có trong quá trình phát triển của âm nhạc Việt Nam thêm trầm trọng, mặc dù những năm cuối TK này Hội nhạc sĩ Việt Nam đã có thái độ rất rõ ràng trong việc tôn vinh âm nhạc nghiêm túc (âm nhạc bác học), tôn vinh khí nhạc.
    Có thể nói 7 thập kỷ âm nhạc Việt Nam vẫn là 7 thập kỷ của ca khúc, 7 thập kỷ của tình ca và hùng ca.
    Chương 3
    Các dòng âm nhạc và sự phân chia thời kỳ
    Từ những năm 30, khi hình thành nhạc mới thì cũng bắt đầu hình thành hai dòng nhạc rõ rệt. Dòng cách mạng và dòng lãng mạn.
    Dòng cách mạng có thể kể bắt đầu tư bài 'Cùng nhau đi hồng binh' của Щnh Nhu trong phong trào Xô Viết nghệ tĩnh. Ц#243; là dòng chính ca gắn liên với lịch sử đấu tranh của dân tọc trong cuộc cách mạng dân tọc dan chủ, XHCN và đấu tranh thống nhất nước nhà. Phần lớn nó là hành khúc bài hát tập thể và sau này là những ca khúc trữ tình, cách mạng, cùng các hình thức khí nhạc từ tiểu phẩm đến giao hưởng và ca nhạc kịch (opera) nữa. Dòng nhạc này khởi từ nhạc đại chúng trong đà phát triển nó chuyển dần sang nghiêm túc (Sèrieux). Ц#226;y là một dòng nhạc có qui mô lớn và được xây dựng hoàn chỉnh nhất ở nước ta và nó đã sản sinh ra nhiều tên tuổi lớn và những tên tuổi được quần chúng yêu thích : Lưu Hữu Phước, Ц#7895; Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Văn Chung, Hoàng Vân, Huy Du, Hoàng Việt, Vũ Trọng Hối, Nguyễn Ц#7913;c Toàn, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Tý, Trần Kiết Tường, Phan Huỳnh Щểu, Hoàng Hiệp, Xuân Hồng, Huy Thục, Văn An, Hồ Bắc ... Trong 7 thập kỷ qua dòng nhạc cách mạng đã cung cấp cho sinh hoạt âm nhạc của người Việt hàng ngàn tác phẩm, trong đó có hàng trăm tác phẩm trở thành di sản tinh thần qui báu của dân tộc.
    Dòng nhạc lãng mạn xuất phát chậm hơn, có thể kể từ bài hát được đăng báo đầu tiên (hiểu theo ý nghĩa tác phẩm được công bố), ta bài 'Hoa cúc vàng của ông Nguyễn Văn Tuyên vào tháng 8/1938 và một số bài được sáng tác và trình diễn cũng khoảng thời gian ấy của các ông Dương Thiệu Tước, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Văn Thương ... Dòng nhạc này được công khai phát triển.
    Từ năm 1938, từ những tác giả là những người có học vấn và là dân thành thị phát triển trong khung cảnh xã hội tạm chiếm, những khủng hoảng cá nhân do bế tắc vì phương hướng sống đã khiến cho dòng nhạc này cũng như phong trào thơ mới sớm rơi vào suy thoái.
    Ц#7847;u tiên là sự từ bỏ của các nhân vật chính Doãn Mẫn Tô Vũ, Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Văn Chung, Nguyễn Văn Chương, Lê Yên.. để đi theo cách mạng.
    Không hướng tới những chân trời mới để rồi phơi phới sống và viết như những nhạc sĩ cách mạng, những nhạc sĩ lãng mạn với chân trời cũ của mình và với khuynh hướng tiểu tư sản thị dân cứ đào bới mãi nỗi buồn, sự tuyệt vọng để rồi bế tắc. Vì thế tác phẩm về hình thức cũng như xúc cảm âm nhạc có những sự lặp lại, không có cái mới và rơi vào khuôn sáo. Tháng 10/1954 Hà Nội được giải phóng, dòng nhạc này lui vào phía Nam, chủ yếu là Sài Gòn và các đô thị lớn ở Miền Nam. Bắt đầu một thời kỳ mới, tạm gọi là hậu lãng mạn, các tác giả chính Phạm Duy, Phạm Ц#236;nh Chương, Hoàng Trọng, Cung Tiến, Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng, Ngô Thuỵ Miên, Y Vân, Vũ Thành An ... Những nhân vật tiền lãng mạn nhưng Dương Thiệu Tước, Le Thương, Thẩm Oánh ... đã chứng lại và có lẽ hầu như không sáng tác nữa. Hậu lãng mạn có một sinh khí mới. Có những nỗi buồn mới. Về ngôn ngữ âm nhạc và ca từ họ hiện đại hơn song vẫn trong phạm vi bán cổ điển (Semi - Classique). Trong số này có 2 nhân vật nổi bật nhất, ảnh hưởng nhiều nhất trong giới trẻ học sinh, sinh viên ở các đô thị miền Nam : Một bậc đàn anh là Phạm Duy và một nhạc sĩ trẻ tuổi xuất hiện những năm đầu thập kỷ 70 là Trịnh Công Sơn. Gạn lọc những yếu tố tiêu cực về mặt nhân sinh quan và thái độ chính trị, dòng nhạc lãng mạn đã để lại nhiều tác phẩm đặc sắc về mặt nghệ thuật và những giá trị nhân bản đáng trân trọng.
    Bên cạnh hai dòng nhạc chính, có một dòng nhạc khác đặc biệt phát triển từ sau 1954 ở Sài Gòn và các đô thị miền Nam, có ảnh hưởng sâu rộng ở vùng quê miền Trung và Nam bộ là dòng nhạc bình dân mà một số người quen gọi là nhạc 'sến', nhạc 'bolero'. Dòng nhạc này kết hợp giữa tiết điệu Tây Phương với âm hưởng dân Nam Trung bộ. Công chúng của loại nhạc này có thể còn lớn hơn nhiều công chúng của dòng nhạc lãng mạn. Tuy giá trị âm nhạc và văn học không cao nhưng nó lại là món ăn tinh thần hàng ngày của dân nghèo thành thị tầng lớp buôn bán nhỏ và dân quê miền Nam. Trong 20 năm phát triển của dòng nhạc này (1954-1975) ngoài những hạn chế về mặt văn hoá nó cũng có công bảo tồn bản sắc dân tộc trong khung cảnh 'xâm lược' mạnh mẽ của âm nhạc Tây phương. Công bằng mà nói nếu loại bỏ những hạn chế về nội dung và ca từ, nhạc 'sến' là một bản sắc Việt Nam, không thể trộn lẫn về mặt âm nhạc và cách hát nếu ta đặt nó bên cạnh âm nhạc của các dân tộc khác.
    Sau một thời kỳ bị gián đoạn từ năm 1986, nhạc 'sến' lại trỗi dậy và mãi đến năm 1996 mới đi vào thoái trào. Nội dung chúng ta có khuynh hướng coi thường và loại bỏ dòng nhạc bình dân này, nhưng sự tồn tại dai dẳng với công chúng đồng đảo, và ảnh hưởng không thể xem thường của nó theo tôi nghiên cứu cần phải đặt vấn đề lại và nhìn nhận nó một cách nghiêm túc hơn.
    ­ nhạc Việt Nam thế kỷ 20 qua cách mô tả trên cho thấy nó có thể chia làm 3 thời kỳ chính :
    - Thời kỳ đầu : từ những năm 30 cho đến năm 1954 là sự tồn tại song song của hai dòng nhạc chính : dòng nhạc cách mạng (nhạc tiền khởi nghĩa và nhạc kháng chiến chống Pháp) và dòng nhạc lãng mạn ở hai vùng đất khác nhau : vùng tự do và vùng 'Tề'.
    - Thời kỳ thứ hai : Từ 1954 - 1975 vẫn tồn tại song song hai dòng nhạc chính : dòng nhạc cách mạng (nhạc miền Bắc XHCN) và nhạc vùng giải phóng miền nam) và dòng nhạc hậu lãng mạn (nhạc Việt Nam trong vùng chính quyền Nguỵ) ở miền nam có thể kể thêm dòng nhạc bình dân...
    - Thời kỳ thứ ba : Từ 1975 cho đến nay, là nền nhạc mới của một nước Việt Nam thống nhất.
    Một phần tư thế kỷ cuối cùng (1975 - 1999), những bế tắc và khai mở. Sau 1975 là thời kỳ hậu chiến, sự hồ hởi của những năm hoà bình đầu tiên, qua đi rất mau. Những biến động về mặt xã hội và ý thức hệ đã thay đổi tâm lý con người. Hoá ra khi người ta quên mình đi để sống cho cái chung lại dễ hơn khi người ta được sống cho mình. Những mối quan hệ phức tạp hơn, nhiều bươn chải mưu sinh đã thay đổi nhiều cách nghĩ cách nhìn. Những đổ vỡ, rạn nứt về mặt tinh thần trong thời kỳ này là những điều không được chuẩn bị trước gây nên nhiều cú 'sốc' tinh thần cho giới sáng tác.
    ­ nhạc cách mạng với đặc tính tuyên truyền vẫn tiếp tục trong đời sống mới. Mất đi cái không khó xã hội đã tạo ra nó trong những năm tháng đấu tranh, sự tuyên truyền thiếu hồn đời sống, trở nên khô cứng. Các sáng tác bắt đầu thiếu sức hướng dẫn. Mặc dù có nhiều nhạc sĩ đã cố gắng bù đắp bằng sự thông minh của tư duy, sự kéo léo của kỹ thuật. Vươn lên cái nền chung, một số tác giả đã sáng tác nhập cuộc và đã cung cấp cho công chúng một số bài hát tuy vẫn có ý nghĩa tuyên truyền nhưng đã có hơi thở nào đó của đời sống mới : Hoàng Hiệp, Phan Huỳnh Щểu, Nguyễn Văn Tý, Xuân Hồng, Phạm Trọng Cầu ... của lớp đàn anh và Phó Ц#7913;c Phương, Trần Tiến, Nguyễn Cường, Trần Long ẩn, Tôn Thất Lập ... của một thế hệ nhạc sĩ trẻ hơn và trong sự nhập cuộc này còn có cả Trịnh Công Sơn, một đại biểu cuối cùng của dòng nhạc lãng mạn.
    Nhưng rốt cuộc, cuộc khủng hoảng về sáng tác đã mở ra vào những năm 80. Công chúng bắt đầu cảm thấy thiếu bài mới để hát, để nghe. Một bộ phận trong số cả nhạc sĩ đã quay về với nhạc 'tiền chiến' (nhạc lãng mạn ăn) và bộ phận khác về với dòng nhạc bình dân (nhạc 'Sến') và đó chính là lúc hai dòng nhạc này sống lại mãnh liệt mặc dù nó bị khai tử 30/4/1975).
    Cuối những năm 80 và thập kỷ 90, công cuộc đổi mới đã mang lại sinh khí cho đất nước. Những bế tắc trong âm nhạc đã bắt đầu được khai thông. Ц#7847;u tiên là sự phân hoá trong lĩnh vực ca khúc, các ca khúc trữ tình chuyển hướng sang tình ca với những cảm xúc riêng tư hơn và đã dành được vị trí trong đời sống âm nhạc. Những tình ca này có vẻ như là một sự tiếp nối tự nhiên ca khúc trữ tình cách mạng và ca khúc lãng mạn thưở nào.
    Bắt đầu có cuộc sống chung giữa cái mới và cái cũ, cái nửa mới nửa cũ. Bên cạnh những bài hát hành nghề tỉnh ca , huyện ca, những ca khúc trữ tình cách mạng có nhạc 'tiền chiến' nhạc 'sến', tình ca mới viết theo phong cách nhạc trẻ, hoặc phong cách 'đờ mi - lãng mạn'. Chung, nhưng thật sự có sự 'đụng độ' giữa các nhóm tác giả khác nhau về phong cách. Ц#226;y là một dấu hiệu tốt cho thấy nền âm nhạc ca khúc ngày càng đa dạng và nó đang chuyển động. Từ năm 1996 tình ca mới viết theo phong cách nhạc trẻ được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng và các hãng sản xuất âm nhạc đã dần dà lấn át tất cả, song nó đã bắt đầu bị thương mại hoá với nhạc 'sến'. Phong trào viết 'tình ca mới' thật dầm rộ đã lối cuốn rất nhiều người không phải là nhạc sĩ sáng tác chuyên nghiệp vào cuộc. Ai cũng có thể viết được tình ca : ca sĩ, nhạc công, thầy giáo, kỹ sư, bác sĩ, cán bộ và cả các thi sĩ ... phổ thơ, hát thơ. Chúng ta bắt đầu gặp lại hình ảnh của phong trào văn nghệ quần chúng thời bao cấp, chỉ có phong cách nhạc và đề tài là khác. Có phong trào thì có nhân vật, những nhân vật của tình ca mới bên cạnh những nhạc sĩ sáng tác đã thành danh từ trước, một số nhạc sĩ trẻ đem đến cho tình ca một hơi thở của đời sống hôm nay và một giai điệu mới mẻ. Có thể tin chắc rằng những nhân vật của phong trào này có thể bước vào thế ký 21 với tư cách là những vai chính trong sáng tác ca khúc.
    Thập kỷ 90 chứng kiến sự hồi sinh trở lại của khí nhạc, với hoạt động của cái dàn nhạc giao hưởng của nhà hát vũ kịch, vì cuộc thi khí nhạc đến kỳ. Sự hội nhập của nó với khu vực và đặc biệt là với hoài bão muốn tự khẳng định mình của các lớp sinh viên sáng tác ra trường, họ còn rất trẻ và đâỳ tham vọng. Mặc dù có nhiều sự bi quan về hiện tượng lạm phát tình ca về tốc độ 'thương mại hoá âm nhạc', về khâu biên tập và quản lý âm nhạc chưa được ổn đời sống âm nhạc vẫn được khai thác và đang đi tới chắc chắn không thể đi vào ngõ cụt. Với năm 1999 những cánh cửa thiên niên kỷ mới của âm nhạc Việt Nam đã mở, dù mở chưa thật rộng,. Hãy nhập cuộc và hãy sống những cái đang diễn ra sẽ cảm nhận được điều đó.
    Chương IV
    Năm tên tuổi lớn âm nhạc Việt Nam hiện đại
    Nguyễn Xuân Khoát, Ц#7895; Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Hoàng Việt là năm tên tuổi lớn của thời điểm khởi đầu của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại.
    Giá trị của nó không chỉ ở trong âm nhạc mà còn ở trong đời sống cách mạng của dân tộc và với những mức độ khác nhau, cả ở trong tiến trình văn hoá của dân tộc.
    Trong số họ có những người được coi là bậc thầy về sáng tạo nghệ thuật, có những người được coi như người anh lớn, kẻ dần đọ là người nghệ sĩ - chiến sĩ địch thực, tấm gương cho mọi thế hệ thanh niên tranh đấu. Có những người được yêu mến đặc biệt bởi sự quyến rũ của chất tài hoa thiên bẩm. Người nào cũng có tác phẩm để đời, người nào cũng lay động, lôi cuốn và ảnh hưởng tới hàng ngàn, hàng triệu người bằng sự nghiệp âm nhạc đặc sắc của mình. Lẽ nào chúng ta quên con voi, tiếng chuông, nhà thờ, hát mừng bộ đội chiến thắng, ca kịch qua cầu sông Cái, hoà tấu bộ gỗ Gióng, trống trận Quang Trung (Nguyễn Xuân Khoát). Du kích Sông Thao, Hành quân xa, Giải phóng Щện Biên, nhạc kịch Cô Sao, Người tạc tượng (Ц#7895; Nhuận); Tiếng gọi thanh niên, Reo vang bình minh, Lãnh tụ ca, Giải phóng miền Nam, Tình Bác sáng đời ta (Lưu Hữu Phước); Suối mơ, Thiên thai, Tiếng quân ca, Làng tôi, Trường ca Sông Lô (Văn Cao), lên ngàn, lá xanh, nhạc rừng, tình ca, giao hưởng quê hương (Hoàng Việt). Năm người là năm khuôn mặt âm nhạc riêng biệt.
    * Nguyễn Xuân Khoát :
    Là nhà tư tưởng và nhà mỹ học thâm thuỷ trong âm nhạc đã đặt nền móng cho những quan niệm mới về âm nhạc ở nước ta theo hướng hiện đại hoá trên cơ sở tinh hoa của âm nhạc truyền thống. Là nhạc sĩ hiểu dân ca, dàn nhạc, quan sát tinh vi tới từng ngón nghề trong lối hát ca trù, chầu văn, hát xẩm, hát chèo ... Và lối chơi nhạc đặc biệt là cách bộ gõ của người Việt. Nguyễn Xuân Khoát đã thoát ra khỏi ảnh hưởng của âm nhạc cổ điển châu µ để mở ra một con đường mới cho sáng tạo. Tiếc rằng người mở đường không có nghĩa người sẽ đi được trên con đường đó. Do rất nhiều lý do khách quan và chủ quan, Nguyễn Xuân Khoát đã không hội đủ điều kiện để thành tựu và thành công như mong muốn.
    Nguyễn Xuân Khoát viết không nhiều, nhạc của ông khúc triết, giầu tính biểu hiện, chất nhạc trong sáng, đôi khi hóm hỉnh, bộc lộ những cảm xúc âm nhạc, những giọng điệu rất mới (nếu ta đem so sánh với từ âm nhạc cảm, với giọng điệu mà phong trào âm nhạc lãng mạn đã để lại ảnh hưởng lâu dài cho tới ngày nay).
    Có thể nói ông đã vượt qua được thứ 'Mỹ học tiền chiến' (thứ Mỹ học đã trở thành trướng ngại vật cho sự phát triển văn hoá dân tộc), vượt qua những ảnh hưởng ngoại lai, thực sự 'Trẻ về làng' để rồi đặt nửa bàn chân vào lộ trình nghệ thuật hiện đại của thế giới. Ц#244;i khi tính cách trí thức (theo ý nghĩa xác thực của người này), sự cách tân trong giọng điệu và kỹ thuật sáng tác đã khiến cho nhạc của ông thuận lợi phổ cập trong đại chúng. Nguyễn Xuân Khopát không phải là con người của đám đông, ông thuộc về một số ít người có quan tâm đến sự phát triển của văn hoá dân tộc. Có thể với ai đó điều này có thể làm cho ông kém giá trị, nhưng sự cô độc cho một kẻ sáng tạo nơi ông lẽ nào lại không giành được sự kính trọng của hậu thế.
    *Ц#7895; Nhuận:
    Một con người hành động, mộc mạc, chân thành, rất người và rất đời, kẻ không mang vỏ bộc hoa mỹ giả rối, người nghệ sỹ chân chính này đã mang đến cho nghệ thuận nước ta một tính cáhoặc đàn ông, rất khoẻ mạnh. ­ nhạc Ц#7895; Nhuận là một sự đối lập giữ dội với thứ nghệ thuật thị dân, èo uột, kiểu cách, hời hợt phổ biến của các đô thị tạm chiếm và có thể còn rơi rớt đến bây giờ. Là một nhà sáng tạo âm nhạc bẩm sinh, một con người gắn bó với bùn đất với người lao động, với văn hoá bình dị lâu đời của vùng thôn quê rộng lớn châu thổ Sông Hồng, Ц#7895; Nhuận đã tạo ra một sự nghiệp âm nhạc có giá trị và bậc nhất ở nước ta.
    Nhạc của ông đôi khi thô thấp song không kém phần duyên dáng. Giọng điệu say sưa và ngang tàng theo kiểu dân giầu cùng khát vọng mãnh liệt của kẻ luôn mơ đến một chân trời mới đã rung động hàng triệu trái tim người Việt yêu nước. Toàn bộ tác phẩm của ông có thể coi là một tiến trình sáng tạo, các tiến trình không chỉ để tạo ra tác phẩm mà cao hơn là tạo ra cái mới, một hệ thống biểu đạt mới đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển, sự phát triển văn hoá của người Việt. Có thể coi ông là một nhạc sĩ có thành tựu đáng kể nhất ở Việt Nam trong hầu hết các lĩnh vực âm nhạc : thanh ca (ca khác, hợp xướng), khí nhạc (nhạc thính phòng) và nhạc kịch.
    *Lưu Hữu Phước:
    Ц#7889;i với các nhạc sĩ cách mạng, Lưu Hữu Phước được coi là một người anh lớn. Ц#7889;i với các nhà nghiên cứu âm nhạc, ông là một 'gương mặt nổi bật trong số những người mở lối, khơi dòng' của phong trào âm nhạc của nước ta từ những năm 30, là vị tiền bối, một bậc thầy của khuynh hướng sáng tác bài hát theo chủ đề thanh niên và lịch sử. Mặc dù về mặt sáng tạo âm nhạc, ông mới chỉ dừng ở mức Việt Nam hoá những yếu tố âm nhạc châu µ (chủ yếu ở thể hành khúc) nhưng Lưu Hữu Phước đã để lại cho ta những hành khúc đặc sắc nhất mà người Việt Nam có thể tạo ra.
    Nhưng có lẽ giá trị to lớn nhất của ông là ở vai trò một người đánh thức, một kẻ dẫn đạo. Nhiều nhạc sỹ cách mạng có tên tuổi hiện nay về điểm này, phải chịu ơn ông, và nói cho cùng cả một thế hệ thanh niên cách mạng trái tim đã đập theo nhịp hành quân của Lưu Hữu Phước. Và nếu muốn chỉ ra một nhân vật lớn nhất của loại nhạc tranh đầu thí đó là Lưu Hữu Phước. Và không có một ai có thể xứng đáng danh hiệu cao quý; nghệ sỹ - chiến sỹ hơn ông.
    *Văn Cao:
    Nổi tiếng hơn Lưu Hữu Phước, có nhiều bài hát được phổ biến sôi động và sống với nhiều thế hệ, nhiều tầng lớp người hơn cả Lưu Hữu Phước là Văn Cao. Nói một bài Tiến quân ca thôi đã có thể tôn vinh ông như một nhạc sỹ nổi danh nhất trong lịch sử âm nhạc Việt Nam hiện đại. Văn Cao, một tài hoa thiên bẩm, nhạc sỹ của nhiều bài hát rung động lòng người, những bài hát đã trở thành một phần trong tài sản tinh thần của nhiều thế hệ người Việt. Mặc dù ông không được đánh giá cao về học vấn âm nhạc và khả năng sáng tạo (hiểu theo nghĩa như một hoạt động cách tân) nhưng ai cũng phải thừa nhận rằng đối với một khẩu vị âm nhạc của người đời, những bài hát của Văn Cao thực tế được quảng đại dân chúng yêu thích nhất, bất kể nó là ca khúc, tình khúc hay hành khúc.
    Từ một nhân vật hàng đầu của dòng nhạc lãng mạn những năm 40 trở thành một nhân vật hàng đầu của dòng nhạc cách mạng những năm 50, Văn Cao là một tấm gương của một người tri thức văn nghệ của cách mạng 'lột xác', 'Nhận đường', không thể quan niệm âm nhạc cách mạng nếu không có Văn Cao : Tiến quân ca, Công nhân ca, Ca ngợi Hồ Chủ Tịch, Tiến về Hà Nội, Bắc Sơn v.v... ở những ai hát chẳng thể có lý trí căng cứng, chẳng thể có hô khẩu hiệu, tất cả đều chân tình đằm thắm và ngay cả ở những bản hành khúc ông vẫn khiến người ta rưng rưng cảm động. Chất trữ tình, sự mơ mộng, một đặc tính của xã hội tỉnh lẻ và nông nghiệp, không hề làm giảm đi giá trị nhân vật trong các bài hát của ông. Một người đã hoàn thành sự nghiệp âm nhạc của mình từ những năm 50, sau 1960 cho đến lúc mất, ông hầu như ngừng sáng tác. Thế nhưng người đời đã không quên Văn Cao, 10 năm cuối ông nổi danh hơn bao giờ hết như đã đến tột đỉnh vinh quang.
    *Hoàng Việt:
    Thuộc thế hệ kế tiếp những đàn anh kể trên, Hoàng Việt là tiêu biểu cho lớp nhạc sĩ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bắt đầu nổi tiếng từ những bài hát phổ biến trong chiến khu miền Ц#244;ng, những bài hát phóng khoáng tươi tắn, trong sáng một thời Nam bộ. Sau 1954, Hoàng Việt tập kích ra Bắc, lại nổi tiếng tiếp với bài 'Tình ca', bản tình ca được thừa nhận là hay nhất của nền âm nhạc cách mạng. Song ông không thoả mãn với thành tựu ca khúc của mình. Những thành công kể trên chỉ là cái đà để Hoàng Việt bước vào âm nhạc lớn. Ԯg đã trau dồi thêm học vấn âm nhạc của nước ngoài (tốt nghiệp nhạc viện Sôphia - Bungari) và trở thành nhà soạn nhạc giao hưởng. Bản giao hướng Quê hương đã đưa ông vào hàng ngũ những nhạc sỹ viết khí nhạc hàng đầu của nước ta thưở ấy. Song cuộc kháng chiến lần thứ hai đã không cho phép ông thực hiện được mơ về khí nhạc của mình. Là một người con của Nam bộ, ông đã trở về quê hương để chiến đầu. Cuối cùng bản giao hưởng của Hoàng Việt lại là bản giao hưởng cuộc đời mà ở chương cuối cùng người nhạc sỹ - chiến sỹ này đã ngã xuống.
    Thế hệ ông - thế hệ kế cận Lưu Hữu Phước và Văn Cao, mà ông là một trong những người đi đầu - đã có công lớn trong việc đưa văn hoá âm nhạc Việt Nam lên một trình độ cao hơn, tiếp cận được ở một khía cạnh nào đó giá trị cổ điển và cận đại của nền âm nhạc thế giới.
    Chương 5
    Việt nam sẽ trở thành địa chỉ của âm nhạc kinh điển?
    Nhạc sĩ Ц#7895; Hồng Quân trả lời báo TT&VH:
    - Sắp bước sang thế kỷ 21, nhạc sĩ có thể phác thảo bức tranh âm nhạc ??
    + Ц#226;y là một vấn đề thú vị, tôi trả lời theo suy nghĩ cá nhân của mình. ­ nhạc ở thế kỷ sẽ phát triển rộng hơn. ­ nhạc cổ điển vẫn phát triển nhưng thu gọn hơn, Khán giả chọn lọc hơn. Sẽ nổi lên những trung tâm âm nhạc mới, đặc biệt là châu á, cho đến nay, thế giới vẫn biết rất ít về âm nhạc truyền thống và âm nhạc chuyên nghiệp của các nước châu á, đặc biệt là Trung Quốc. Tiềm năng âm nhạc của Trung Quốc rất lớn. Việt Nam sẽ trở thành một địa chỉ âm nhạc kinh điển, thậm chí là địa chỉ tốt về tiềm năng, nhạc cảm của Việt Nam cho phép Việt Nam trở thành trung tâm gìn giữ di sản âm nhạc của thế kỷ trước, sự chậm hơn thế giới phát triển một nhịp lại cho phép ta giữ lại những tinh hoa đã được sàng lọc. âm nhạc Việt Nam sẽ phát triển ở khu vực (ASIAN) và phần nào quốc tế hoá đi.
    - Thị hiếu âm nhạc, công nghệ âm nhạc sẽ có gì mới ?
    + Người ta sẽ nghiêng về chất liệu âm nhạc châu á, bởi những chất liệu Mỹ La tinh, đã được khai thác kỹ ở thế giới vừa qua. Nhờ sự phát triển của tin học nên bất cứ sáng tác nào nếu tác giả muốn đều có thể ra mắt bằng cách chính tác giả đó đưa lên mạng. Ц#227; qua rồi thời kỳ sáng tác phải nhờ công nghệ lăng xê; nhờ ca sĩ, nhờ nhà xuất bản. Các nhà sản xuất chương trình âm nhạc phải tìm một con đường kinh doanh khác. Tất cả các KT hỗ cho âm nhạc như nhạc cụ; công nghệ băng đĩa; công nghiệp biểu diễn sẽ phổ cập hơn, giá thành sẽ giảm đi. Trong khi ấy; những gì theo công đoạn kinh điển sẽ đắt lên rất nhiều : Viết nhạc của người sáng tác; lao động của các nghệ sĩ biểu diễn; vào xem các buổi hoà nhạc; xem opera; ballet.
    - ­ nhạc truyền thống; cổ truyền của các dân tộc sẽ tồn tại; phát triển dưới hình thức nào ?
    + Cái vốn quí truyền thống của các dân tộc (như chèo, tuồng, quan họ Việt Nam chẳng hạn) sẽ mang tính nguyên bản hơn (vừa qua có pha tạp để) nhưng chỉ đóng vai trò như những bảo tàng nghệ thuật. Ngườo ta sẽ thưởng thức những gì hay 1; đúng góc 1 qua những nghệ sĩ giỏi khác của các nghệ thuật ấy qua băng đĩa là chủ yếu. ­ nhạc truyền thống nguyên thuỷ sẽ là CL được phổ thông hoá qua hình thức âm nhạc nếu như các tác phẩm khi nhạc hay hình thức Pop; Rock ... Các nhạc sĩ sẽ sáng tác ra ngôn ngữ âm nhạc chỉ nơi đó mới có; nghĩa là mang bản sắc địa phương, bản sắc dân tộc đậm đặc.
    - Có nên định hướng DT; hiện đại bằng hình thức 'giao hưởng DT' không ?
    + Các hình thức biểu diễn nhạc cụ truyền thốg Việt Nam xưa nay chỉ là hoà tấu vài nhạc cụ theo lối tài tử; ngẫu hứng; hình thức max là dàn nhạc Cung Ц#236;nh Huế chỉ là bát âm. Giao hưởng không có nghĩa đơn thuần là nhiều nhạc cụ mà cái chính là nhạc cụ ấy phải có sự giao thoa các âm thanh để có thể cộng hưởng chứ không phải là lệch pha, triệt pha. Lấy một ví dụ : 10 cây nhị dù có đánh một nốt 'đồ' thì 10 nốt 'đồ' chênh nhau, bởi sự ấn dây nông, sâu vào không gian khác nhau của các nhạc công (trong khi ấy; dây violin được ấn chết on dây đàn nên có âm chuẩn) cái mạnh; cái hay của các nhạc cụ Việt Nam là ở sự ngẫu hứng; ở tổ chức người chơi ấn dây, đệ dây nôgn sâu, người phá dài lâu tuỳ hứng. Vậy thì làm sao cùng đánh âm chuẩn trong dàn nhạc giao hưởng để có thể có sự cộng hưởng được. Hơn nữa có những nhạc cụ quá đặc thù as kèn bóp tiếng choé lên làm sao có sự hoà thành với những nhạc cụ khác (VD as mắm tôm trong bát bún thangãe rất ngon but sự có mặt as nó trong tiệc cưới là không thể được. Trên thế giới này nước nào chả có những nhạc cụ truyền thống; dân tộc riêng; nhưng dàn nhạc giao hướng thì vẫn biên chế những nhạc cụ giống nhau như ta thấy : Violin, viola; cello, bass; Flute, bas. choe;clarinet; basson; trumpet, horn, tuba.
    - Với riêng nhạc sĩ năm 2000 được anh đón người như thế nào ?
    + Tôi được Cục Nghệ thuật biểu diễn Bộ VHTT đặt hàng viết 1 giao hưởng 3 chương cho dàn nhạc giao hưởng lớn. Tác phẩm tốt sẽ dựng as 1 tác phẩm NT cháo đón TK21. Tôi nghe người Việt Nam hiện nay vẫn tư duy theo âm nhạc có giai điệu vì thể tôi 'viết theo dòng chính thống (chứ không tìm tòi; phá phách nhiều) vừa mang tính bác học, tính sáng tạo cho ?f cụ thể là Việt Nam. ?f cụ thể đây là cả người nghe để đồng diệu cảm và cả người biểu diễn, họ can chơi được; hiểu được và diễn với sự hứng thú, theo nhịp tim người chỉ huy. Tác phẩm dự tính dài độ 35' mang tên 'Việt Nam quê hương tôi'.
    * Nhạc sĩ Ц#7895; Hồng Quân sinh năm 1956 tại Hà Nội. Tốt nghiệp Ц#7841;i học và nghiên cứu sinh về sáng tác tại nhạc viện Tchailovsky (Nga) 1985. Ц#227; chỉ huy dàn nhạc giao hưởng Việt Nam; Dàn nhạc GHNVHN, Dàn nhạc giao hưởng nhà hát Opera Ballet Việt Nam; Dàn nhạc Giao hưởng thành phố Hồ Chí Minh. Viết nhạc cho hơn 50 film truyện. Nhiều tác phẩm khí nhạc đã được các giải thưởng A của Hội Nhạc sĩ Hội Щện ảnh. Các tác phẩm được chú ý : Rapxodie Việt Nam; Concerto cho Violin và dàn nhạc, Bellet Hông hoang; Giao hưởng mở đất ... Hiện nay là Chủ nhiệm Khoa Lý luận sáng tác chỉ huy Nhạc viện quốc gia Hà Nội; Uỷ viên BCH Hội nhạc sĩ Việt Nam.
    -------------------
    Lấy từ www.giaidieu.net.

    CLASSIC FOREVER​
  4. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Di sản
    Segovia
    Có lẽ không có nhạc sĩ nào vào đầu thế kỷ 20 lại có thể tiêu biểu cho ý niệm lý tưởng của công chúng thế kỷ 19 về mẫu người nghệ sĩ như là danh cầm guitar Andrés Segovia (1893-1987). Suốt sự nghiệp 78 năm trình diễn, con người vĩ đại của cây guitar Tây Ban Nha đã thực sự chuyển tải hình ảnh của một con người giữ nguyên chất thời đại Lãng Mạn, một kẻ duy mỹ không hiểu sao lại lạc bước vào một thời đại khác, kém mỹ miều hơn. Giống như nhạc cảm của ông, tài nghệ âm nhạc của Segovia cũng tinh tế khác thường và tài nghệ ấy càng góp phần tạo nên hình ảnh của một con người thuộc về một thời đại khi mà nghệ sĩ trông giống nghệ sĩ, ăn mặc như nghệ sĩ, và mong đợi công chúng đối đãi với mình như là nghệ sĩ.
    Segovia chào đời ngày 21/2/1893. Từ thuở ấu thơ ở quê nhà Linares, miền nam Tây Ban Nha, Segovia đã mê đắm cây đàn guitar bất chấp sự phản đối gay gắt của người cha; ông ấy chỉ muốn con trai mình đi theo ngành luật. Người cha kinh hãi khi thấy cậu bé đã si mê cây đàn tuy là nhạc cụ dân tộc nhưng vốn bị xem thường ấy. Ԯg cho Segovia học thử piano và cello nhưng các nhạc cụ quý phái kia không thể nào buộc cậu bé từ bỏ được mối tình với cây đàn guitar. Mối tình ấy đã nhen nhúm ngay từ lúc cậu bé được nghe lần đầu tiên trong đời qua âm điệu của những nhạc công flamenco du mục. Người cha đã đập vỡ đến cây đàn guitar thứ ba của Segovia rồi đành bất lực. Ԯg không làm sao lôi kéo được cậu con trai thoát khỏi ma lực của thứ nhạc cụ hạ cấp chỉ dành cho dân di-gan múa may trong những hầm rượu tồi tàn.
    Rốt cuộc ông đành phải cho phép Segovia theo học danh cầm guitar Miguel Llobet một thời gian ngắn. Tuy nhiên, Segovia chủ yếu vẫn tự mình khám phá lấy những kỹ thuật chơi đàn. Segovia được gia đình gửi đi học nhạc ở Nhạc Viện Granada nhưng chỉ một thời gian cậu bé cũng bị 'mời' ra khỏi trường. Không có chỗ cho cây đàn guitar trong thế giới âm nhạc cao quý thời đó! Thế là cậu bé bắt đầu cuộc hành trình cô độc đi tìm lại quá khứ khả kính của cây đàn yêu dấu.
    Segovia nhanh chóng phát triển được một kỹ thuật thượng thừa và một tri thức âm nhạc sắc sảo. Mới 16 tuổi, Segovia đã thực hiện thành công cuộc trình diễn đầu tiên và tên tuổi của cậu bé liền lan truyền khắp đất nước Tây Ban Nha. Sáu năm sau, Segovia làm náo động thế giới âm nhạc Paris khi chàng trình tấu với cây đàn guitar của mình. Thành công đó dẫn dắt Segovia làm một chuyến lưu diễn khắp Nam Mỹ.
    Tuy nhiên, mãi đến lần trình diễn chính thức tại Paris năm 1924, trước sự tham dự và xét nét của những nhạc sĩ và văn nghệ sĩ lỗi lạc, thì Segovia mới thật sự nổi tiếng khắp châu µ. Vào thời ấy, ít người được nghe âm nhạc thần thánh của Johann Sebastian Bach chơi bằng guitar hay thậm chí nghĩ đến một chuyện lạ lùng như vậy. Những nhạc phẩm nguyên thủy được Bach viết cho cây đàn violon quý tộc khi được Segovia chuyển soạn lại cho guitar và trình diễn đã bộc lộ không những thiên tài của chàng trai 'phạm thượng' kia mà còn cho thấy tiềm năng của loại nhạc cụ sáu dây 'đầu đường xó chợ' này.
    New York lần đầu tiên nghe thấy tiếng đàn Segovia năm 1928 trong một buổi trình diễn ở thính đường Tòa Thị Chính. Các nhà phê bình sửng sốt: dưới những ngón tay thần của Segovia, sáu dây đàn guitar phô bày những âm sắc hết sức đa dạng và cực kỳ biểu cảm. Các buổi trình diễn sau đó của Segovia ở New York và các thành phố khác trên đất Mỹ phải chuyển sang những thính đường lớn hơn để đủ chỗ chứa hết số lượng thính giả ngày càng đông.
    Cái tên Andrés Segovia đã ghi vào lịch sử âm nhạc thế giới. Ԯg tiếp tục đeo đuổi sự nghiệp trình diễn và ghi âm thu đĩa của mình với sự trường thọ đáng kinh ngạc bất kể thị lực đã suy giảm vì phải giải phẫu võng mạc vào cuối thập niên 1960. Những nhạc sĩ có sức làm việc bền bỉ và được công chúng yêu mến lâu dài như Segovia chỉ đếm trên đầu ngón tay.
    Nếu không có sự gan lì trong bản chất thì nhà quý tộc với tính khí và mỹ cảm phức tạp ấy đã không trở thành một nghệ sĩ biểu diễn lừng danh trong suốt 78 năm trời. Rất may là từ trẻ ông đã hình thành và không bao giờ đánh mất niềm tin đến mức cuồng tín vào tài năng và sứ mệnh của mình. Chính cái tôi ngạo nghễ của Segovia đã bảo vệ Segovia ?- một yếu tố không thể thiếu cho sự sống còn của bất kỳ người trình diễn nào. Ngay cả những guitarist đồng nghiệp khá nổi tiếng của Segovia cũng
    khó chịu khi biết rằng những ai không trung thành với nghệ sĩ bậc thầy ấy, hay không tuân theo phương pháp hoặc ý nhạc của ông đều có thể bị thất sủng hay bị phủ nhận hoàn toàn.
    Julian Bream, một trong những học trò cưng của Segovia, đã bị thất sủng bởi vì Bream khăng khăng chơi cả đàn lute lẫn đàn guitar. Trước ý tưởng ngoại đạo ấy, bậc thầy phán: ?"Một tôi không thể thờ hai chúa.?" Segovia cũng không đánh giá cao những phiêu lưu trong lãnh vực nhạc pop của một môn đệ người Anh khác, John Williams và đặc biệt là của một số guitarist trẻ trong thập niên 1960 và
    1970 khi họ bắt buộc phải chọn phe trong vấn đề này.
    Bất kỳ ai tự gọi mình là guitarist nhưng lại chọn cây đàn điện hình thù quái dị với dây nhợ lòng thòng như cuống rốn chưa lìa đều lãnh trọn sự khinh miệt của giáo chủ Segovia, bất kể việc một Beatles đã từng tuyên bố rằng Segovia là ?"cha của tất cả chúng ta.?" Segovia bất cần sự tán thưởng của công chúng mà lại đòi hỏi sự chung thủy với truyền thống cổ điển ?- cái truyền thống ấy trong nhiều phương diện chính là một trong những yếu tố tạo dựng ra và duy trì cái tên Segovia.
    Cái tôi quá lớn của Segovia có thể khiến ông phải chọn những vị thế cố chấp: người ta cho rằng ông từ chối trình diễn hay ghi âm ?"Concierto de Aranjuez?" của Rodrigo ?- một tác phẩm phổ thông nhất trong vốn tiết mục trình tấu ghi âm cho đàn guitar ?- chỉ vì nhà soạn nhạc mù người Tây Ban Nha ấy đã đề tặng bản concerto năm 1939 cho Sainz de la Maza, một guitarist khác. Ц#7875; biện hộ cho Segovia, phải nói rằng bản thân ông không ưa chuộng mấy thể loại nhạc hợp tấu (ensemble), mặc dầu thỉnh thoảng ông có chơi các concerto của Ponce và Villa-Lobos, cũng như ?"Fantasia para un gentil hombre?" của Rodrigo ?- một sự kính nể khá muộn màng của Rodrigo khi viết tặng cho chính Segovia bản concerto này vào năm 1954.
    Trong vai trò người biểu diễn, ông vừa là nhung lụa vừa là sắt thép, một sự kết hợp mà cả ngàn môn đệ lẫn những kẻ bắt chước ông trên khắp thế giới không thể sao chép được. Trong tất cả các cầm thủ tuyệt kỷ náo loạn của thế giới guitar ngày nay, không có âm thanh nào lại vừa tự nhiên lại vừa
    được nắn nót tinh vi như là tiếng đàn Segovia, đặc biệt là trong thời kỳ sung mãn nhất của ông. Không ai có thể chơi ?"Leyenda?" của Albeniz sánh được Segovia với những cảm xúc dữ dội bị kềm nén, những dòng âm thanh trào dâng và chùng lắng, những màu sắc đa dạng của thanh âm, và với bầu không khí nhạc Ấn Tượng triền miên.
    Vào thời mà các nhà âm nhạc học lẫn người biểu diễn đều coi trọng cách diễn tấu trung thực theo tính chất của thời đại âm nhạc, cách Segovia thể hiện ?"Chaconne?" của Bach lại nghe rất riêng tư đến thảng thốt và đầy hơi hướm xa vời của chủ nghĩa Lãng Mạn, một cách diễn tấu có thể nói là lỗi thời trong một số phương diện. Thế nhưng những ai có khả năng cảm nhận được nhịp đập của cuộc sống ẩn giấu trong những nốt ký âm vẫn tin rằng dẫu Bach của thời Baroque có sống lại để nghe
    Segovia chơi ?"Chaconne?" thì Bach cũng phải gật đầu.
    Những ngón tay, sự rọi phóng hiển hiện của cái thiên tài khuất lấp, là mối quan tâm không ngừng của Segovia suốt cả tuổi già lẫn những năm tháng son trẻ khi ông tự phát triển một kỹ thuật guitar riêng biệt cho mình, dựa theo những gì biết được từ các bậc tiền bối như Fernando Sor, Dioniso Aguado, Napoleon Coste và Francisco Tárrega. Theo truyền thống, người ta thường chơi đàn với móng của bàn tay phải (phương pháp Aguado) hay bằng đầu thịt của ngón tay (theo kiểu Sor và Tárrega). Segovia học hỏi và kết hợp cả hai kỹ thuật này; một kỹ thuật khiến cho cách trình tấu của ông đầy những âm sắc muôn màu trước đó có lẽ chưa từng thấy ở cây đàn guitar.
    Ԯg hợp tác chặt chẽ với những nhà làm đàn như Ramirez và Hauser để cải tiến cấu trúc của cây đàn guitar sao cho âm thanh nhỏ nhẹ bẩm sinh của nhạc cụ ấy có thể vang xa khắp các hội trường ngày càng lớn với thính giả ngày càng đông khi danh tiếng Segovia ngày càng lừng lẫy. Sự phóng âm ấy rất quan trọng nhất là sau Thế Chiến thứ II, khi giới phê bình và thính giả đã quá quen thuộc với âm lượng áp đảo của những danh cầm piano bấy giờ.
    Bản thân Segovia không bao giờ nhượng bộ với âm thanh khuếch đại qua ampli của thời đại mới. Ԯg đã nghĩ ra nhiều cách lịch sự để làm thính giả im lặng trước khi ông bắt đầu chơi đàn. Những cách thức ấy đã trở thành một biểu tượng mang tên ?"tiếng suỵt Segovia?". Vào những mùa mà những con vi-rút bí ẩn có thể khiến đôi ba thính giả co giật vì những tràng ho bùng nổ, Segovia thường dừng giữa hai bài nhạc và đưa chiếc khăn tay lên miệng như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng. Nghe Segovia trình diễn đòi hỏi một sự nhạy cảm vượt ngoài khả năng tai nghe đơn thuần. ӣ tưởng tượng và sự cảm thông là điều bắt buộc bởi vì như Stravinsky đã nói từ lâu: ?"­ thanh của cây đàn guitar không những nhỏ nhẹ mà còn xa vắng.?"
    Dù không phải lúc nào cũng nghe rõ tiếng đàn Segovia, sự cách tân kỹ thuật thấy rõ nhất của ông ra đời sau Thế Chiến thứ II liên quan đến việc chấp nhận và tán thành sử dụng dây đàn nylon ??" một điều khiến guitarist khắp thế giới mãi mãi ghi ơn. Tất cả đều đồng ý rằng với dây đàn nylon, âm sắc hay hơn và nhất quán hơn trên cả sáu dây đàn, và sự tiện lợi do dây nylon mang lại là vô bờ bến. Dây đàn làm bằng gân thú của thời xưa không những dễ bị lạc giọng hay đứt ngang vào những lúc bất ngờ nhất mà còn làm cho đầu đàn guitar xoắn vặn rối rắm mất thẩm mỹ.
    Với việc giáo dục là một thành phần trong di sản vô giá của Segovia, ông được công nhận như một trong những người thầy vĩ đại nhất thế kỷ này. Thế nhưng khác hẳn với hầu hết mọi đồng nghiệp của mình trong số những người trình tấu nhạc cụ danh tiếng nhất của thế kỷ, bản thân Segovia lại không được đào tạo chính quy. Trước Segovia đã có sẵn một truyền thống guitar cổ điển với những danh cầm tuyệt kỷ như Coste, Aguado và Miguel Llobet, nhưng truyền thống ấy đã bị xem như một thứ âm nhạc nghiệp dư hay chìm vào quên lãng, ngay cả ở Tây Ban Nha. Những danh cầm kiêm sáng tác gia như Sor hay Tárrega lừng lẫy một thời ít được giới âm nhạc chuyên nghiệp biết đến, và đối với giới này thì ngay cả những công phu của Paganini dành cho cây đàn guitar cũng chỉ là những huyền thoại mơ hồ.
    Thực tế mà nói, chính âm thanh của tiếng đàn guitar flamenco được dân gypsy du mục gảy móc thô bạo đã mê hoặc Segovia ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ; một sự mê hoặc tiền định. Segovia và cây đàn guitar như hai người tình của số phận và tiếng sét ái tình duy nhất thuở ban đầu đối với Segovia là những âm thanh gay gắt inh tai. Thế là Segovia bắt đầu mày mò tự học, và trở thành người tình chung thủy với loại nhạc cụ đáng hoài nghi không hề có vốn nhạc trình diễn và chủ yếu chỉ dùng để đệm cho những bài ca dân gian hay vũ điệu flamenco.
    Những danh thủ tiền bối, như Coste, đã từng trình tấu Bach trên cây đàn guitar; nhưng chỉ có Segovia mới có thể làm rúng động cả Paris với sự tinh thông Johann Sebastian trong buổi công diễn đầu tiên tại thủ đô Pháp năm 1924. Lúc đó, ông đã tự tạo cho chính mình và những tín đồ tương lai một vốn nhạc trình tấu, mở rộng nỗ lực chuyển soạn của mình vượt xa hơn nhạc của Bach để tìm tới âm nhạc của những tiền bối khả kính xa xưa hơn như Scarlatti, Handel và Purcell, đồng thời cũng dò tìm
    trong kho tàng âm nhạc của những danh cầm đàn lute cổ xưa như Sylvius Leopold Weiss và Dowland. Ԯg còn ?"xâm lược?" (những kẻ xấu miệng đã từng bảo như thế) sang cả vốn nhạc piano linh thiêng ?- Chopin, Brahms, Albeníz, Granados, Debussy and Scriabin. Các nhạc sĩ nổi danh khác như Castelnuovo-Tedesco, Tansman, Rodrigo, Ponce, Lauro, và Moreno Torroba cũng đã sáng tác hàng
    chục tác phẩm cho Segovia hay cho các môn đệ của ông.
    Hàng hàng lớp lớp các môn đệ cũng như đối thủ, những kẻ đã được công chúng chấp nhận nhờ thành công của Segovia, đã chiếm lĩnh những đỉnh cao mà Segovia đã giành được, tràn ngập các phòng hòa nhạc và phòng ghi âm. Ttrong số đó không chỉ có Julian Bream và John Williams mà còn có Rey de la Torre, Eliot Fisk, Laurindo Almeida, Siefried Behrend, Christopher Parkening, Kazuhito Yama****a, David Starobin, Frederic Hand, Sharon Isbin, Liona Boyd, Konrad Ragossnig, Alirio Diaz, Pepe và Angel Romero, Narciso Yepes, Ida Presti, Alexandre Lagoya và Leo Brouwer, v.v???
    Danh sách ấy còn có thể kéo dài hơn nữa. Vị chỉ huy già đã ngã xuống nhưng ngọn cờ của ông vẫn tung bay. Яàn quân của ông xông tới củng cố những đồn lũy mà ông đã khó khăn mới chiếm giữ được và không ngừng chiêu mộ những tân binh mới vào hàng ngũ. Guitar cổ điển trở thành một bằng cấp tiêu chuẩn ở nhiều đại học và nhạc viện, và đây đó đã xuất hiện những nhà phê bình âm nhạc có hiểu biết về cây đàn guitar và kho tàng âm nhạc của nó. Những nhà phê bình này có lẽ chính là đài
    tưởng niệm ghê gớm nhất của Segovia, một 'giống loài âm nhạc' được khai sinh và tồn tại hoàn toàn nhờ công sức của một mình ông.
    Suốt một cuộc đời dài đầy những thành tựu mang tên mình, Segovia chắc chắn phải hiểu rõ giá trị của mình hơn bất kỳ nhà phê bình nào. Kẻ tự học kiêu hãnh này thích thú bông đùa về lợi thế của việc không có thầy: ?"Cho tới hôm nay, thầy và trò chưa hề có trận cãi nhau nghiêm trọng nào.?"
    Bằng cách nào Segovia có được đôi cánh mạnh mẽ đưa ông bay bổng tới những tầng trời cao nhất của nghệ thuật? Щều đó mãi mãi là một bí mật. Ngay khi còn sống, ông đã chiếm lĩnh một vị trí trong ngôi đền của những danh cầm thế kỷ, bên cạnh Rubinstein, Casals, Toscanini, Heifetz và Horowitz. Giống như các danh cầm kia, ông quyến rũ được công chúng là nhờ ghi âm thu đĩa. Sự nghiệp nửa thế kỷ ghi âm của Segovia bắt đầu tại London ngày 2 tháng Năm 1927 và kết thúc với lần
    thu tại Madrid ngày 23 tháng Sáu 1977. Vào những năm cuối đời, Segovia vẫn còn nhận được tiền tác quyền của đĩa nhạc ghi âm đầu tiên dạo ấy. Segovia đã ghi âm hơn 30 đĩa nhạc và các đĩa ấy đã được tái bản liên tục cho tới bây giờ.
    Trong những thập niên cuối cùng, Segovia tổ chức nhiều lớp chuyên tu (master class) ở Santiago de Compostella, Tây Ban Nha cũng như ở nhiều nhạc viện trên khắp thế giới. Ba tháng trước khi từ trần, Segovia vẫn còn giảng dạy trong những khóa chuyên tu như vậy ở Nhạc Viện Manhatten và thính đường Carnegie Hall, Hoa Kỳ. Ԯg cũng từng giảng dạy nhiều năm ở Siena, Italia. Ц#432;ợc thụ giáo Andrés Segovia là một nhãn hiệu công nhận quốc tế đối với nhiều guitarist thế hệ sau như Julian Bream, John Williams, Eliot Fisk và Christopher Parkening.
    Cuộc hôn nhân đầu tiên của Segovia kết thúc bằng một quyết định ly dị năm 1951. Mười năm sau, ông thành hôn với người vợ kế Emilia del Corral. Khi ấy ông đã 68 tuổi trong khi Emilia chỉ mới ngoài 20. Emilia từng là môn đệ guitar của ông suốt 12 năm trời. Cậu con trai của họ, Carlos Andrés, chào đời khi Segovia đã 77 tuổi. Cậu bé này cách biệt hai người con đầu của Segovia đến nửa thế kỷ! Segovia có lần bông đùa với một nhà báo trong một cuộc phỏng vấn: 'Tôi nổi tiếng là một người cha hơn là một nhà nghệ sĩ!'
    Sức khỏe dần suy giảm theo thời gian, Segovia không còn duy trì được nhịp độ căng thẳng của 100 lần biểu diễn một năm như trước. Ԯg lui về nghỉ ngơi trong một ngôi nhà trên đỉnh đồi ở Granada quê hương. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục duy trì khoảng 10 buổi trình diễn mỗi mùa và dạy các lớp chuyên tu gần như đến tận cùng cuộc đời mình ?- một cuộc đời với tình yêu bất diệt dành cho cây đàn guitar.
    Nhìn lại lịch sử âm nhạc, thật ngạc nhiên khi thấy rằng chỉ có ít nhạc sĩ có thể làm thay đổi đáng kể lịch sử của loại nhạc cụ họ chọn lựa. Listz, Paganini và Casals đã làm thay đổi lịch sử của piano, violon và cello, chủ yếu qua những cải tiến cách mạng về mặt kỹ thuật. Wanda Landowska đã làm thay đổi số phận của cây đàn harp. Trong danh sách cực kỳ ngắn ấy, ta có thể thêm vào cái tên Andrés Segovia. Thế giới âm nhạc đã từ lâu công nhận rằng Segovia không những đã hoàn thiện kỹ thuật của một vài người tiên phong ở thế kỷ 19 mà còn vượt xa hơn cả các bậc tiền bối ấy trong tài soạn nhạc nữa.
    Những gì Segovia đạt được trong sự nghiệp biểu diễn chính là sự tái sinh ?- một số người dám nói là sự khai sinh ?- của cây đàn guitar như một nhạc cụ trình tấu nghiêm túc. Cả cuộc đời ông là một cuộc thánh chiến để cứu vớt chiếc đàn sáu dây này thoát khỏi cảnh thấp hèn của một nhạc cụ ??odu đãng?".
    Giờ đây, khi thế kỷ 21 bắt đầu ló dạng, sứ mệnh của nhà tiên tri đã hoàn thành. Cây đàn guitar cổ điển ?- sở dĩ được mang cái tên này là do cấu trúc truyền thống và phương pháp chơi đàn chứ không phải vì vốn nhạc của nó ?- đã có chỗ đứng đàng hoàng trên sàn diễn bên cạnh những nhạc cụ độc tấu nổi bật nhất: violon, piano, cello.
    Khi Segovia bước vào những năm tháng cuối đời, những buổi trình diễn của ông vẫn liên tục đầy ắp thính giả. Segovia là một minh chứng cho sự trường thọ và sung mãn. Ԯg là một trong số rất ít những nhạc sĩ vẫn còn trình diễn ở tuổi 80 và 90. Lúc cuối đời, khi mắt ông bị cườm và thị giác đã mờ phải dùng đôi mắt kính dày cộm mới thấy rõ, một người bạn quan tâm hỏi ông sao vẫn tiếp tục làm việc quá sức ở cái tuổi già lão này. Ԯg đáp - một câu trả lời đối nghịch tiêu biểu Segovia: 'Tôi còn cả thiên thu để an nghỉ. '
    TDT
    (theo Donald Henaban, ??oThe Segovia Legacy???)

    CLASSIC FOREVER​
  5. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Bài viết của lola
    -------------------------------
    Francisco Tarrega. (Villa-Real, 1852 ??" Barcelona, 1909)
    Tarrega, Francisco (1852-1909) ở Vicente Meneu
    Francisco Tarrega-Eixea sinh tại Vila-Real vào 21/11/1852, trong một ngôi nhà cạnh nhà thờ thánh Paschal Baylon. Cả cha Francisco Tarrega - Tirado và mẹ ông Antonia Eixea-Broch đều là người trông nhà thờ cho đức mẹ Clarisas. Do công việc của cha mẹ như vậy, Cậu bé Francisco được chăm sóc cẩn thận bởi 1 người trông trẻ. Có một lần, Francisco trốn khỏi người giữ trẻ và ngã vào một con kênh tưới ruộng ở gần đó. Tai nạn đó đã cướp đi đôi mắt của ông vĩnh viễn.
    Cha ông nghĩ rằng Francisco đã mất hoàn toàn khả năng nhìn, vì vậy họ chuyển đến Castellon để Francisco có thể tham gia các lớp học nhạc. Như vậy dù bị mù nhưng cậu vẫn có thể kiếm tiền bằng cách chơi nhạc. Và cũng thật đặc biệt, cũng chính 1 thầy giáo mù Eugeni Ruiz là người đã dạy Tarrega những bước đầu tiên. Rồi một nhạc sĩ mù khác, Manuel Gonzalez nổi tiếng với ??oEl cego de la Marina??? (chỗ này chẳng biết dịch là cái quái gì )
    là người đã đưa Francis vào thế giới âm nhạc. Người đàn ông này kiếm sống bằng chơi nhạc và ông biết các thủ thuật để hấp dẫn khán giả, và ông đã dạy những điều bí mật này cho Tarrega.
    Năm 1862, 1 nhóm công séc tô nổi tiếng thời đó là Julian Arcas đã chơi ở Castellon và đã nghe cậu bé Tarrega chơi nhạc. Họ thật sự rất ấn tượng bởi khả năng của cậu bé và đã khuyên cha cậu đưa cậu đến Barcelona để có thể thật sự phát triển khả năng của cậu. Vì vậy Tarrega đến Barcelona. Tuy nhiên cậu lại từ bỏ ngôi nhà bà con của cậu nơi cậu đã chơi nhạc trong 1 ban nhạc trẻ, để chơi ở các quán rượu và quán nhậu để kiếm tiến thay vì đến trường. Khi cha cậu biết tin này thì ngay lập tức ông đến Barcelona và lôi cổ cậu con về nhà.
    Tuy nhiên vấn đề tài chính của gia đình đã khiến Tarrega một lần nữa phải kiếm sống. Sau khi tham gia vài buổi hoà nhạc ở vài làng háng xóm, cậu đã kiếm được 1 chân piano tại sòng bạc Burriana. Trong khoảng thời gian này, cậu đã liên tục thay đổi nghề kiếm sống bằng piano với 1 tình yêu mãnh liệt cho cây đàn guitar. Một thương nhân giàu có, Antonio Canesa đã đài thọ một chuyến đi đến Madrid cho Tarrega để tăng cường hiểu biết của cậu tại Trường nhạc Tây ban nha. Tại nơi đó, Tarrega đã có cây đàn đầu tiên có chất lượng, được làm bởi Antonio Torres từ Sevilla, cây guitar mà đã theo ông suốt cả cuộc đời.
    Những năm sinh viên của cậu thật sự là rất khó khăn. Ở đây, Piano là nhạc cụ được yêu thích nhất cây guitar không còn vị trí độc tôn ở đây và chỉ là một nhạc cụ rẻ tiền. Bị đánh giá chơi hoà tấu không tốt, vai trò của cây guitar chỉ còn được coi là thứ phẩm đánh đệm cho các ca sĩ.
    Và một lần, chính tại trường nhạc tây ban nha, sau buổi hoà tấu chất lượng cao của cây đàn guitar do Tarrega đảm nhiệm, thầy giáo Arrieta của cậu đã ôm chầm lấy cậu và nói : ??oCây đàn guitar cần cậu, và cậu được sinh ra để cho guitar???. Bắt đầu từ đó, Tarrega rời bỏ cây piano và dành toàn tâm toàn lực cho cây đàn yêu thích của mình.
    Mùa đông 1880, Tarrega thay thế bạn của ông và Guitarist Luis de Soria trong một buổi hoà nhạc ở Novelda (Alicante), thành phố mà ông gặp ý trung nhân của mình sau này Maria Rizo. Ԯg càng ngày càng nổi tiếng và tâm hồn chơi nhạc của ông đã thật sự cuốn hút khán giả, Năm 1881 ông đến France. Sau một buổi hoà nhạc tuyệt diệu ở Lyon, Ԯg đến Paris và đã gặp một số nhân vật quan trọng. Ԯg đã chơi ở vài nhà hát, và được mời đến chơi cho Hoàng hậy của Vua Tây Ban Nha Isabel II. Sau đó, ông tiếp tục cuộc lưu diễn đến London. Rồi từ đó ông quay trở về Novelda để cưới Maria Rizo
    Sau khi lập gia đình, ông chuyển sang sống ở Madrid, cũng là nơi sinh ra và mất đi của cô con gái đầu lòng của ông Maria Josefa. Sau đó họ đến Barcelona và đến nhiều nơi khác nữa để phục vụ cho các buổi biểu diễn của ông. Đây có lẽ là một giai đoạn đẹp đẽ trong cuộc đời của Tarrega. Ԯg bắt đầu tổ chức lưu diễn định kỳ ở : Perpignan (Pháp), Cadiz (Tây ban nha), Nice (Pháp), Mallorca (Tây ban nha), Paris, Valencia,... Tại Valencia, ông đã gặp một người phụ nữ, một người mà sau này có ảnh hưởng rất lớn với ông : Conxa Martinez. Người goá phụ giàu có này đã tạo cơ hội để ông luôn sống trong nghệ thuật. Bà đã cho ông và gia đình thuê một căn nhà ở Sant Gervasi (Barcelona). Đây chính là nơi mà Tarrega đã sáng tác ra hầu hết các tác phẩm kiệt xuất bậc thầy của mình. Trở lại Granada sau cuộc hành trình, ông đã viết nên bản Tremolo (vê) 'Recuerdos de la Alhambra' cực kỳ nổi tiếng
    (có lẽ giới mộ điệu guitar ko ai ko biết bản này) hay còn gọi là ??otưởng nhớ Alhambra???. Còn bản ??oDanza Mora??? - Điệu nhảy Morish được sáng tác khi ông đang sống ở Algeria. Cũng chính ở nơi này ông đã gặp nhà soạn nhạc Saint-Saens, và cũng sau đó ông viết gần hết bản ??oEstudios???, ??oCapricho Arabe??? để tặng người bạn thân thiết và nhà soạn nhạc Breton.
    Tuy nhiên, Tarrega không hoàn toàn thoả mãn với các tác phẩm của mình và ông đã rời bỏ cây đàn guitar của mình vào năm 1902 khi đang 50 tuổi. Ԯg bắt đầu cắt móng tay cho đến khi phần thịt lộ ra. Điều này càng ngày càng tồi tệ cho đến khi ông đạt được những âm thanh ngọt ngào đầy tính cách trong ngôi trường của ông.
    Ԯg tiếp tục bản hoà nhạc vĩ đại của mình tại Bilbao(TBN), Geneve, Milano, Firence, Naples và Rome(Italy). Ԯg đã trình diễn tác phẩm vô tiền khoáng hậu này khắp đất nước và đã có rất nhiều người đã hâm mộ ông. Nhưng sự nổi tiếng không làm thay đổi cách của riêng ông. Là một người đàn ông đa cảm và quyến rũ, ông đã mở rộng cánh cửa cho tất cả bạn bè mà không quan tâm đến địa vị xã hội của họ. Tarrega rụt rè đến mức độ ông chỉ thích những buổi hoà nhạc kiểu gia đình với số ít khán giả hơn là một buổi hoà nhạc lớn. Sống như thế, ông đã tiêu gần hết số tiền kiếm được, đến mức mà cậu em trai Vicente đã phải nhiều lần giúp dạy học trò của Tarrega khi ông đi du lịch.
    Tuy nhiên Tarrega đã không còn may mắn và cái tháng 1 1906 quái ác ấy. Ԯg đã bị liệt nửa người bên trái. Căn bệnh quái ác này hồi phục rất chậm và gây nên nhiều đau đớn. Biết hoàn cảnh của ông, những người bạn của ông đã giúp đỡ ông, để trả ơn cho những việc mà tarrega đã làm cho họ trước kia. Họ đã tổ chức một chùm các buổi hoà nhạc định kỳ mỗi tháng 2 lần và họ đã trả cho các buổi hoà nhạc này.
    Tarrega hồi phục và bắt đầu lưu diễn lại. Tháng 10/1908, nhớ nhà, ông quyết định trở lại Castellon. Sau đó ông đến Novelda năm 1909, trở lại Valencia, Cullera và Alcoi để chơi một số buổi hoà nhạc. Ԯg đã sáng tác tác phẩm cuối cùng của mình ??oOremus??? vào 2/12 tại picanya. 3/12 thấy sức khoẻ của mình đã bắt đầu trở nên tồi tệ ông quyết định trở lại Barcelona, cư trú tại ngôi nhà ở đường Valencia. Vào buổi sáng 15/12/1909 ông qua đời khi 58 tuổi.

    CLASSIC FOREVER​
  6. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Bài viết của anh Beethoven
    -----------------------------------
    Bản Sonate số 9 cho violon & piano của Beethoven
    Đây là bản "Sonate tặng Kreutzer" nổi tiếng, ra đời vào khoảng 1802 - 1804. Tác phẩm này đợc xuất bản với lời đề tặng sau: "Bản sonate cho đàn piano - Frote và violon trong phong cách hoà tấu gần nh một bản concerto đợc sáng tác tặng cho Kreutzer, thành viên Nhạc viện parigi, violon thứ nhất hàn lâm viện nghệ thuật Hoàng gia. Tác giả:: LV Beethoven".
    Tác phẩm này nhấn mạnh một cách rõ rệt những ý đồ chính xác và đặc biệt của Beethoven: "Phong cách hoà tấu" chỉ ra rằng nó không có ý nghĩa gì là một bản Duo - sonate trong tinh thần phối hợp, cộng tác giữa hai nhạc cụ mà trái lại, nó là sự đối đầu giữa piano và violon, ở đây tinh thần của âm nhạc thính phòng tạm thời dừng lại nhờng chỗ cho phòng hòa nhạc lớn với nhà nghệ sĩ điêu luyện tài hoa
    Đầu tiên tác phẩm không phải định viết cho Kreutzer mà Beethoven gửi gắm nó cho một ngời có tên là Brigetowe, nghệ sĩ violon nổi tiếng với một tên gọi khác là "ông Hoàng xứ Abyssine". Nhưng trong khi nghiên cứu bản sonate, Brigetowe đã tự ý thêm thắt vào các nét chạy, các cadanza...Beethoven tức giận liền rút lại lời đề tặng. Trong bức th gửi cho nhà xuất bản Beethoven đã viết "Bản sonate này đợc viết ra chính là để dành cho một nhà nghệ sĩ violon thực sự có khả năng, nó đợc tặng cho Kreutzer là rất đúng đắn. Tôi yêu thích sự giản dị trong nghệ thuật và phơng thức diễn tấu của ông...". Nhưng Beethoven lại không có duyên may với nhà nghệ sĩ mà ông khâm phục. Kreutzer tuyên bố là tác phẩm "cực kỳ khó hiểu" và ông không bao giờ biểu diễn nó.

    CLASSIC FOREVER​
  7. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Antonio Lucio Vivaldi sinh ngày 4-3-1878 tại Venice,Italy và mất năm 1741 tại Vienna,thủ đô nước áo.Là con trai c trong 9 người con của Giovanni Battista Vivaldi và Camilla Calicchio.Thời kì đó là kỉ nguyên của xu hướng nghệ thuật Baroque.Ông đã xuất hiện trước công chúng một cách khá ấn tượng.Bắt đầu học Violin từ khi còn rất nhỏ do người cha của mình dạy,ngay lập tức Vivaldi đã cho thấy ông là 1 người có nhiều triển vọng về âm nhạc,sau đó Vivaldi đã trở thành 1 trong những nhà soạn nhạc và nghệ sỹ violin lừng danh nhất mọi thời đại.<BR>Khi mới 15 tuổi,ông bắt đầu khoá học để trở thành1 thầy tu mà mãi gần 10 năm mới kết thúc và khi đã trở thành 1 thầy tu chín chắn,đủ lông đủ cánh vào năm 1703,Vivaldi đã nhanh chóng đi đến quyết định sẽ thôi không đi diễn thuyết trong các buổi lễ nhà thờ nữa,nhưng thực ra sức khoẻ của ông ko được tốt nữa.Nhìn bề ngoài thì không có vẻ gì là bất bình thường với ông khi thôi phục vụ tại các buổi lễ nữa,nhưng lại than vãn về căn bệnh đau ngực,ông luôn giận giữ đồng thời viết ra những giai điệu mới cho các bn Concerto rất cẩu th.<BR>Mặc dù ưu tiên hàng đầu của Vivaldi là viết và trình diễn âm nhạc nhưng ông vẫn rất chú tâm vào việc giáo dục những cô bé mồ côi mà có mà có đến hàng trăm trường hợp ở Venice lúc bấy giờ,ông cũng có sự liên hệ với một trong những tổ chức từ thiện lớn nhất Venice thời gian đó.Và Ospedale della Pietà đã trở thành 1 trường dạy nhạc,sau này được biết đến khá nổi tiếng.<BR>Trẻ em ở đây được giáo dục theo khuynh hướng thiên về âm nhạc,tất c đều được học và luyện tập bằng nhạc cụ của Vivaldi cũng như của 1 số người khác cung cấp cho họ.<BR>Điều này dẫn đến rất nhiều buổi hoà nhạc được thể hiện bởi các học sinh trẻ tuổi nhưng cũng được đánh giá rất cao,và trở thành cái gì đó rất thu hút ở Venice.Vivaldi còn đóng vai trò chủ yếu trong việc chuẩn bị và dàn dựng những buổi hoà nhạc,thậm chí còn mời c những nhà soạn nhạc và những nhạc công nổi tiếng thời bấy giờ đến tham dự.<BR>Năm 1703,khi đã ở tuổi 25,ông tập trung vào việc sáng tác âm nhạc,các tác phẩm đầu tay của ông được phát hành năm sau đó.Ông luôn đi du lịch khắp Châu Âu để bán và trình diễn những bn Concerto của mình,Vivaldi không những chỉ thích sáng tác nhạc mà còn rất tích cực trong việc diễn tập và chỉ đạo cho tốt những buổi biểu diễn.<BR>Là 1 nhà sáng tác có rất nhiều tác phẩm,trong thời gian từ năm 1703 cho đến khi qua đời,ông đã viết ra đến 750 tác phẩm,1 con số đáng kinh ngạc,hầu hết trong số đó đều có chất lượng rất cao,thậm chí còn rất đặc biệt và ấn tượng.<BR>Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông sáng tác cho Violin và chi với dàn nhạc là tác phẩm ??oBốn mùa???.Và có lẽ nổi tiếng nhất mà được viết với cùng 1 mạch cm hứng là những bn Concerto dành cho Vilolin,đàn Guitar,kèn Fagot(Basoon) và đàn Violõngsen(Cello).<BR>Ngoài ra,còn có 46 vở nhạc kịch được ghi trong phần mục lục(mặc dù trong bức thư của ông để lại vào năm 1737 rằng có đến gần 100 tác phẩm,nhưng chỉ còn lại khong 50 tác phẩm,số còn lại đã bị thất lạc)và khá nh

    CLASSIC FOREVER​
    Được sửa chữa bởi - classic_lover vào 12/05/2002 18:31
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 07:47 ngày 14/02/2003
  8. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Bài viết của Odetta
    -------------
    Bản Klaviersonate âm u nhất, mạnh mẽ nhất của thời romantic, lời tranh luận của nhà soạn nhạc thiên tài về cái chết.
    Trong thế kỉ XIX, sonat được coi là dòng nhạc "độc quyền" của các nhà soạn nhạc người Đức. Vậy nên Frédéric Chopin - nhà soạn nhạc và nghệ sĩ piano người Ba Lan, người khơi cho tâm hồn của cây đàn Klavier lên tiếng - đã chiếm được cảm tình sâu đậm của châu Âu khi viết những "Polonaises", "Mazurkas", "Nocturnes" hay "Walzes". Song không ai trong thế giới âm nhạc cổ điển ngày đó tin rằng chàng trai người Ba Lan kiêu hãnh và nhạy cảm đó có thể tiến vào lãnh địa của sonat.
    Khi bản sonat với đoạn "tang nhạc" của Chopin ra đời, bản thân Robert Schumann, một nhà soạn nhạc nổi tiếng và cũng là người hâm mộ Chopin hết mức, cũng vô cùng kinh ngạc thốt lên: "Xin các ngài hãy ngả mũ, kính chào một thiên tài!". Bản sonat du dương và táo bạo được xây dựng bay bổng xung quanh trọng tâm của nó - đoạn "tang nhạc" nổi tiếng. Bản sonat được viết xong năm 1839, nhưng đoạn nhạc này đã được ông viết từ năm 1837. Dù được thai nghén trong một thời gian dài, bản sonat vẫn là một thể thống nhất tuyệt vời. Sau những nhịp khởi đầu chậm rãi, u uất, đoạn chính đầu tiên bắt đầu bằng một quãng ba náo động, hối hả lặp lại, một quãng ba thứ nhỏ. Chủ đề lớn đầu tiên xuất hiện từ đó. Đối lập với nó là một giai điệu kỳ diệu, chủ đề thứ hai, dựa trên một quãng ba lớn. Cấu trúc nhịp điệu như của những vần thơ này vươn lên, khát khao không gì cưỡng nổi, bay trên mọi khổ đau, mọi bóng tối. Trong bản sonat - khoảng 3 phút sau khi bắt đầu - nỗi thống khổ và nét mềm mại trữ tình đan quỵên vào nhau, chiến đấu chống lại nhau. Đoạn nhạc đầu kết thúc trong giọng trưởng uy nghi. Đoạn thứ hai, tuyệt vời tinh nghịch và náo động, lại bắt đầu một cách ngang bướng điên cuồng trong giọng thứ. Song phần giữa du dương của đoạn nhạc này tìm được phần kết thúc êm ái trong giọng trưởng. Sau đó xuất hiện đoạn "tang nhạc", dồn tất cả vào trạng thái u uẩn. Đây là đoạn nhạc được chơi nhiều nhất, thường là với dàn hơi, trong những tang lễ tại châu Âu. Tang nhạc của lịch sử âm nhạc thế giới! Không biết đã bao lần trái tim người ta bùi ngùi hoà giọng: "Giờ đây người đâu còn cùng chúng tôi uống rượu vang", mỗi khi dòng âm thanh của Chopin đưa tiễn một người bạn về nơi yên nghỉ. Người ta nghe thấy trong đoạn nhạc này đồng thời tiếng trống chào bão tố, nhịp chân đi đều đều tao nhã và một giai điệu an ủi tuyệt vời như của thiên đàng gửi xuống. Những gì đến sau đó trong đoạn kết, thật vươn xa khả năng thấu hiểu của con người. Những triple thật nhanh, thật khẽ. Người ta không thể xếp những âm thanh khủng khiếp này vào khuôn địa chật hẹp của "sự an ủi" hoặc "niềm tuyệt vọng". Nhợt nhạt, hư ảo mà điên cuồng, giục giã - câu trả lời của đoạn

    CLASSIC FOREVER​
  9. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Bài viết của Beethoven
    ----------------
    Chải bành tô lỗi nhịp
    Tại Heiligenstadt, Beethoven có một bà láng giềng là quả phụ Schuster, sống với cậu con trai tên Gustave Adolphe, 12 tuổi. Vì là chỗ quen biết từ lúc sinh thời của ông Schuster nên Beethoven thu'ờng đi lại thăm viếng hai mẹ con quả phụ này.
    Một hôm, Beethoven vui vẻ bu'ớc vào nhà bà láng giềng và nói với chủ nhà:
    - Thu'a bà, hôm nay tôi phải mời bà thu'ởng thức một bản đàn tuyệt diệu mới đu'ợc!
    - Thu'a vâng, hân hạnh lắm, ông Ludwig.
    Beethoven cởi chiếc áo choàng, lơ đễnh vứt xuống bên du'ới cây đại du'ơng cầm, rồi ngồi vào đàn say su'a thả hồn theo cảm hứng của mu'ời đầu ngón tay thần diệu...
    Trong lúc ngu'ời quả phụ đang mơ màng thu'ởng thức ngón đàn của nhạc sĩ, cậu con trai cúi xuống nhặt chiếc áo bành tô của ông, đi kiếm một bàn chải và bắt đầu chải bụi trên áo một cách rất u' là... cẩn trọng. Beethoven vẫn tiếp tục đánh đàn một lúc, rồi bỗng ông đứng lên với vẻ mặt giận sôi sùng sục và giáng xuống má cậu bé một cái tát nẩy lửa, vừa la lớn:
    - Đồ u mê! ít nhất cậu cũng phải biết chải cho đúng nhịp chớ!...
    Về sau, Gustave Adolphe Schuster thu'ờng kể lại cho con cái ông câu chuyện này và kết luận:
    - Các con thấy không? Mấy ai đu'ợc hu'ởng nhu' cha niềm vinh dự ăn một cái tát của đại nhạc sĩ Beethoven?
    [Lê Cao Phan (biên soạn), Giai thoại âm nhạc, NXB. Trẻ, TP.HCM, 1990, tr. 17 - 18]

    CLASSIC FOREVER​
  10. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Đặng Thái Sơn,
    hai thập niên sau khi đoạt giải Chopin.
    Như qúi vị độc giả đã rõ, Đặng Thái Sơn là người `Châu đầu tiên đoạt giải Dương cầm thế giới Chopin, và các giải đặc biệt khác như: Concerto, Mazurka, Polonaise... kỳ thứ 10 tại Balan, năm 1980, khi anh mới 22 tuổi. Giải Dương cầm Chopin có từ năm 1927, và cứ 5 năm thi một lần. Những cuộc thi Piano: Chopin (Balan), Leeds (Anh), Queen ɬisabeth (Bỉ), Tchaikovski (Nga), Van Cliburn (Mỹ), là những giải Dương cầm quan trọng nhất trên thế giới. Thấm thoát mà đã hơn 20 năm người nghệ sĩ tài hoa của Việt nam dành được vinh dự này. Nhân dịp Đặng Thái Sơn sắp đến Đức quốc (Frankfurt, và Stuttgart) trình tấu, do Hội văn hóa Đức Việt mời, chúng tôi xin gởi đến qúi vị, và nhất là những người am điệu bài phỏng vấn sau đây.
    Phạm Trung Chính (PTC): ĐặngThái Sơn có thể cho biết về kỳ thi năm 1980: Tất cả bao nhiêu thí sinh ghi danh, số được tham dự, điều kiện như thế nào, và phải qua bao nhiêu vòng thi?
    Đặng Thái Sơn (ĐTS): Kỳ thi năm 1980 có tất cả 220 người ghi danh, 180 được chọn, 140 đến dự. Cuc thi có tất cả 4 vòng, sau vòng 1 còn lại 42 thí sinh, 15 vào được vòng 3, đến chung kết thì còn lại 7 người. Hồi đó muốn dự thi phải có thư giới thiệu của trường, hoặc thầy dậy nhạc.
    PTC: Trong cuộc thi Sơn đã đàn những tác phẩm nào, và phải chuẩn bị trong bao lâu?
    ĐTS: Phải đàn tất cả mọi thể loại của Chopin như: ɴude, Mazurka, Nocturne, Prélude, Polonaise, Scherzo, Sonate, Valse, và Concerto để đàn chung với dàn nhạc. Thời gian từ khi nộp đơn cho dến lúc thi là một năm rưỡi, do đó mình chuẩn bị cũng khoảng cùng thời gian như vậy.
    PTC: Sơn đã đến với nhạc Chopin như thế nào, ai là người đàn nhạc Chopin gây ấn tượng nhiều nhất khiến Sơn yêu thích sáng-tác-gia này?
    ĐTS: Trong thời gian đi tản cư, những đêm thanh vắng, tĩnh mịch mình được nghe thân mẫu đàn những bài Mazurkas, Nocturnes...Từ đó nét nhạc của Chopin đã đi vào tâm hồn. Và đặc biệt là năm 1970 mẹ của Sơn được mời tham dự cuộc thi Chopin, với tư cách thính gỉa danh dự, khi về mang theo sách, và đĩa nhạc. Lần đầu tiên trong đời mình được nghe Martha Argerich đàn bài Concerto số 1, cách trình tấu đã gây ấn tượng rất xâu xa. Và có lẽ nhạc của Chopin nhẹ nhàng, thơ mộng, trữ tình ... cho nên hợp với thể dạng của mình.
    PTC: Nhiều bình luận gia âm nhạc gọi là trường phái Nga, khi nhắc đến các Danh cầm xuất thân từ những Nhạc viện của Nga, Sơn có thể cho biết về trường phái này, và sự khác biệt với các trường phái khác, nếu có?
    ĐTS: Trường phái Nga đã đào tạo ra rất nhiều Danh cầm như: Anton Rubinstein, S. Rachmaninov, V. Horowitz, S. Richter, E. Gilels... . Nhạc cổ điển đã du nhập vào Nga từ thế kỷ thứ 19, do đó trường phái Nga rất đồ sộ, vững vàng về kỹ thuật, sở trường về cách trình tấu nhạc Lãng-mạn, và nhất là lối đàn như hát.
    Trường phái Pháp thì thiên về tinh tế, đẹp, bóng bẩy, và tri hơn về nhạc Baroque, Cổ điển ( xin hiểu là loại nhạc của thế kỷ thứ 18).
    Riêng ở Mỹ, những Dương cầm thủ ngày xưa cũng thừa hưởng gia tài của trường phái Nga, vì Rachmaninov, Horowitz đã di-tản sang Hoa-kỳ sau năm 1917.
    PTC: Có rất nhiều người thắc mắc, là: Tại sao sau khi đoạt giải Chopin Sơn lại trở về Nhạc viện Tchaikovsky tiếp tục học, mà không nhận nhiều Hợp-đồng đi biểu diễn?
    ĐTS: Mình sang học ở Nhạc viện Tchaikovsky năm 1977, đến khi được giải Chopin mới tròn 3 năm, Sơn nhận thấy là muốn xây dựng mt nền tảng vững bền cho tương lai, vì nghề biểu diễn là cả đời, do đó mình đã trở lại học cho đến năm 1986.
    PTC: Xin cho biết cảm tưởng sau 21 năm đoạt giải thưởng, và những kỷ niệm vui, buồn trong những lần đi trình tấu.
    ĐTS: Tháng 10 năm ngoái, mình được mời làm dự thính viên danh dự cho cuc thi Chopin, khung cảnh ấy làm Sơn bùi ngùi khó tả. Nghe những người đi sau đàn, mình thấy mt sự thay đổi thế hệ. Hai mươi năm trước `châu chưa có nhiều thí sinh tham dự. Sau hai mươi năm các thí sinh `châu đã thống trị cuộc thi. Kỳ thi vừa qua là một người Trung-hoa đoạt giải nhất, nhì là `căn đình, thứ 3 là Nga. Tuy nhiên người hạng nhất năm nay không được các giải đặc biệt như: Concerto, Mazurka, Polonaise... .
    Vui, buồn khi đi biểu diễn ( cười..) Sống cái nghề làm dâu trăm họ này thật là khó. Mọi người khi thấy Sơn ra sân khấu lúc nào cũng tươi vui, ngỡ là sung sướng lắm, thật ra miệng cười, lòng rơi nước mắt. Đi lưu diễn giờ giấc thay đổi, mệt cách mấy cũng phải đàn, nhiều khi bị cảm-sốt, không còn cảm hứng vẫn phải lên sân khấu, chẳng cáo bệnh như đi làm bình thường được, đàn hay thì được khen, dở thì bị chê.
    PTC: Cách trình tấu Chopin của Sơn có khác gì hơn, so với 20 năm trước, và nếu khác thì như thế nào?
    ĐTS: Khác nhiều lắm, ngày xưa mình đàn theo cảm tính, với một tâm hồn ngây thơ, trong trắng. Bây giờ già hơn, thích đi về chiều sâu, và mình giữ được quân bình giữa tình cảm, và lý trí trong ngón đàn.
    PTC: Sau Chopin, sáng-tác-gia nào Sơn đàn nhiều nhất, tại sao?
    ĐTS: Nói chung thì mình đàn hầu hết những nhà soạn nhạc thuộc trường phái Lãng-mạn, tuy nhiên, Sơn rất thích những tác phẩm của các sáng tác gia người Pháp: Debussy, Fauré, Franck, Ravel...Bởi vì mình cũng chịu ảnh hưởng trường phái Pháp rất nhiều, phát xuất từ thân mẫu, vì mẹ của Sơn thuc trường phái Pháp. Ngoài ra mình cũng có học với một Danh cầm người Pháp, bà Yvonne Lefébure, vì vậy những nhà phê bình nói mình đàn thành công loại nhạc này, tuy nhiên nhạc Nga cũng chiếm một vị trí quan trọng trong nhạc-mục biểu diễn của mình.
    PTC: Được biết anh sắp đi µ-châu lưu diễn, và sẽ trình tấu tại Đức. Xin anh cho biết là sẽ đàn những tác giả nào?
    ĐTS: Trong dip ghé Đức tôi sẽ biểu diễn ở Stuttgart ngày 22 tháng 2, Frankfurt ngày 23 tháng 2, và sẽ đàn những Tác phẩm của: Debussy, Liszt, Chopin, Mompou, và Ravel.
    PTC: Mười một năm trước Chính có hỏi Sơn: Sao không đàn những sáng tác gia cận đại, Sơn trả lời: Mình cổ lắm thành ra chỉ thích nhạc Cổ thôi. Tuy nhiên trong những chương trình biểu diễn năm nay của Sơn mình thấy có Mompou, một sáng tác gia cận đại, phải chăng có sự thay đổi lớn nơi Sơn?
    ĐTS: (Cười)Thay đổi là luật tự nhiên, triết lý chuyển động, có thay đổi cũng là chuyện bình thường trong đời sống.
    PTC: Tại sao lại chọn Mompou, mà không chọn Satie, Szymanovsky, Boulez?
    ĐTS: Sơn chọn Mompou, thứ nhất vì ông cũng thuộc trường phái Pháp. Ԯg từng theo học sáng tác ở Nhạc viện Paris. Tiếp đến mình thích mầu sắc nhạc, sức cuồng nhiệt kiểu Tây-ban-nha (Mompou người Tay-ban-nha), lối hòa thanh đơn sơ. Và nhất là ông cũng yêu thích Chopin, ông đã viết những biến tấu (Variations) dựa trên một Prélude cung La Trưởng của Chopin.
    PTC: Với một tác phẩm mới, Sơn tập-luyện như thế nào? Từ sơ khởi cho đến khi đi trình tấu?
    ĐTS: Từ thị-tấu trở đi, thông thường được chia làm 4 giai đoạn:
    1- Đàn chậm để dò nốt, nhìn tổng quát về âm-nhạc-tính của bài, ý muốn đàn như thế nào.
    2- Quyết định đàn kiểu nào. Bắt đầu tập tỉ mỉ, chi tiết, và làm hoàn thiện.
    3- Đối với một số Dương cầm thủ, thì đây là lúc học thuc lòng, riêng Sơn thì từ giai đoạn 2 mình đã học thuộc lòng rồi.
    4- Đàn thử trọn bài cho bạn bè, hoặc thầy khoảng 5, 6 lần mới trình làng. Tuy nhiên cũng có một số bài mình thấy dễ thì lại khó đạt được hồn nhạc, cho nên đôi khi mình phải bỏ một số tác phẩm đã biểu diễn rồi, để chừng 10 năm sau mới tập lại. Một vài tác phẩm thấy khó thì lại dễ, thí dụ bài Sonata số 6 của Prokofiev khi mình mới tập Giáo sư Bashkirov nói là bài này không hợp với thể-dạng của mình, vậy mà cuối cùng mình lại tập thành công, và bây giờ Tác phẩm này nằm trong nhạc mục biểu diễn của mình.
    PTC: Sơn thích đàn Piano hiệu nào nhất?
    ĐTS: Cũng như đại đa số các Dương cầm thủ khác, mình thích đàn hiệu Steinway, bởi vì hiệu đàn này có nhiều sức mạnh, âm thanh đẹp, và làm được nhiều mầu sắc. Có nghĩa là nó hoàn hảo hơn những hiệu đàn khác.
    PTC: Có hy vọng một Đặng Thái Sơn thứ hai cho Việt nam?
    ĐTS: Sơn nghĩ là phải có Chính ạ, vì người Việt chúng mình rất giỏi, nhưng còn phải gặp Thầy dìu dắt, thì mới thành công. Cổ nhân có câu:'Không Thầy đố mày làm nên'.
    PTC: Sơn có tâm sự gì cùng các bạn trẻ đang theo học Dương cầm?
    ĐTS: Thứ nhất, cùng các bạn đang học chuyên nghiệp. Sơn rất thông cảm, vì theo học Nhạc là một hy sinh lớn lao cho những bậc làm cha mẹ, vì rất tốn kém, và không mấy chắc chắn cho tương lai, nhưng bù lại thì được một món qùa tinh thần to tát. Riêng với các bạn học như là nghề phụ, giải trí, thì là một điều đáng qúi, vì các bạn sẽ hiểu ­-nhạc hơn, để thưởng thức được cái hay, đẹp của âm-nhạc. Mình ước mong có nhiều người Việt.nam học Nhạc.
    PTC: Xin cám ơn Sơn đã giành cho buổi phỏng vấn này.
    ĐTS: Cảm ơn Chính, Sơn mong được gặp đông đảo bà con Việt-nam trong hai đêm trình tấu tại Stuttgart, và Frankfurt.
    Bad Vibel, tháng 1 năm 2002.
    Phạm Trung Chính.

    CLASSIC FOREVER​

Chia sẻ trang này