1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những bài viết về tác giả, tác phẩm...(mục lục trang 1)

Chủ đề trong 'Nhạc cổ điển' bởi classic_lover, 12/05/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Chỉ trong 2 tháng mùa hè năm 1788, Wolfgang Amadeus Mozart đã liên tiếp viết ba bản giao hưởng, hoàn chỉnh nhất, đặc sắc nhất, đó cũng là ba bản giao hưởng cuối cùng của đời mình(từ đó đến khi mất, năm 1791, Wolfgang không còn viết thêm một bản giao hưởng nào nữa). Ba bản này là : bản giao hưởng cung mi giáng trưởng, bản giao hưởng cung son thứ, và bản giao hưởng lớn, cung đô trưởng, còn gọi là bản Jupiter.
    Bản giao hưởng cung Mi giáng trưởng (số 39 theo thứ tự cũ, nay được xếp lại số 50), được viết xong ngày 26 tháng Sáu năm 1788 ở Vienna. Đó là một bản nhạc thể hiện những tình cảm yêu đời chân thực và da diết , hoà hợp được những tình cảm cao thượng, lý tưởng và những cảnh tượng của đời sống hàng ngày. Những nhạc sĩ của chủ nghĩa lãng mạn về sau gọi bản nhạc này là "tiếng hát thiên nga" của Mozart. Chủ đề chính trong phần một Allegro đã phác lên được những gì mơ mộng, khao khát đẹp đẽ của con người trước những chân trời xa chưa đi dến, và cũng thoáng một chút buồn vì chưa hiểu hết cuộc đời quá đẹp. Chủ đề ấy lại được lặp lại ở phần cuối, nó gợi một khung cảnh thật hài hoà, hạnh phúc, mà sức người còn phải lâu lắm mới khám phá ra, mới bước chân được tới gần, như một ngôi sao lý tưởng. Đó là mục đích xa nhất của đời người mà trường phái lãng mạn thích gọi bằng một từ viết hoa: "Nơi Ấy".
    Try not. Do. Or do not. There is no try
  2. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Bản giao hưởng cung son thứ(số 40 theo thứ tự cũ, nay là số 51), được viết xong ngày 25 tháng 7 năm 1788, là một bản nhạc phẫn uất, bi thương, như một lời than thở về quá nhiều điều mất mát của con người, trước bao nhiêu bất công, trở lực trong cuộc đời. Giai điệu bi thương hết sức gần gũi với mọi nỗi đau khổ cần an ủi của con người, nó rất trực giác, lan truyền một nỗi niềm đồng cảm sâu xa... Nhưng đồng thời bản nhạc vẫn giữ được một nét chìm trầm tĩnh, tuy dịu dàng nhưng rắn rỏi, không khuất phục, nó là mầm sống bền bỉ, lòng phản kháng dũng cảm còn ẩn náu đến cũng trong mọi nỗi đau, và không cho phép con người tuyệt vọng. Nhiều nhà nghiên cứ, phê bình âm nhạc đã đánh gá bản giao hưởng này là bản nhạc giầu tình nhân đạo nhất của Mozart. Trong đoạn cadence kết thúc, con người trữ tình trong tác phẩm, mặc dầu bị bao suy nghĩ cô đơn và cực khổ dày vò, đã được trải lại một chút nhấp nhánh của hy vọng, nó trải rộng dần ra như tía nắng dọi loang xuống cánh đồng, như những búp chồi xanh mọc lại trên thân cây trụi. Rồi một mùi hương đồng nội rất chất phác, dân dã đã toả đến, để xoa dịu đi nỗi u buồn. Đó là quy luật vĩnh cửu và thiêng liêng của cuộc sống !. Những cảm thụ sâu xa nhất trong nét nhạc của Mozart ở bản giao hưởng này (và cả bản Jupiter kế tiếp) về sau đã được Beethoven và Schubert thừa hưởng và phát triển, mỗi người theo đường đi riêng, độc đáo của mình.
    Try not. Do. Or do not. There is no try​
  3. classic_lover

    classic_lover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/12/2001
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Bản giao hưởng lớn, cung đô trưởng, thường được gọi là Jupiter, theo thứ tự cũ là số 41, nay là số 52), là bản giao hưởng cuối cùng, được viết xong ngày 10 tháng 8 năm 1788. Chủ đề của nó là: hạnh phúc biết chế ngự mọi điều kiện vật chất tầm thường của đời sống, và sử dụng nó cho mục đích lớn của con người, vươn lên tới những đỉnh cao ánh sáng và trí tuệ. Bản giao hưởng đã tạo nên một cảm giác xúc động hùng vĩ qua nhiều cung bậc khác nhau, rất biến hoá và phong phú về giai điệu cũng như hòa âm, và gây một ấn tượng mãnh liệt về sức trưởng thành sức đi và đến của con người khi đã có ý thức về mình. Jupiter là một bản trường ca, từ âm ỉ tới nổ bùng của ý thức con người trước vận mênh, con người giác ngộ ra chức năng chân chính của mình, con người tiên tri, và biết cách vượt lên để nắm bắt lấy tương lai mà mình định truowcs. Trong bản giao hưởng cuối cùng này, W A Mozart đã vạch một tiền đề xứng đáng cho những bản giao hưởng tràn đấu hơi thở chiến đấu khốc liệt của Beethoven khoảng 15 năm sau đó. Bản Jupiter, trong bản chất của nó, là bản nhạc đã có chứa đựng những yếu tố của âm nhạc Beethoven. Vì thế Paul Becker, nhà nghiên cứu âm nhạc Đức, đã viết một câu thật hay : "Nếu đấu tranh là đối tượng biểu hiện trong âm nhạc Beethoven, thì nó thực chất đã là tiền đề, mà trên đó tựa lên mọi sáng tác của Mozart".
    Với loạt giao hưởng cuối cùng này, Mozart đã đóng góp vào lịch sử âm nhạc thế giới 3 đỉnh cao sáng tạo, có tính mẫu mực của trường phái cổ điển Vienna, tạo một cửa mở cho những thế hệ âm nhạc tiếp theo tìm tòi và phát triển xa hơn. Cấu trúc của thể sonata(1), tới Mozart đã trở nên hoàn chỉnh, và về bản, nó được giữ tới ngày nay. Những bản nhạc của Mozart, dù là ca khúc, độc tấu, tam tấu, tứ tấu, sonata, fantasia, concerto hay giao hưởng đều ghi rất đậm dấu ấn cá nhân tác giả. Cũng Paul Becker, đã nói "Mozart là người đầu tiên làm cho nghệ thuật trở thành tấm gương phản ánh trung thành và trực tiếp mọi khát vọng và bản sắc con người mình, cung với cả nội dung tư tưởng của nó."
    --------------------------------
    (1) Thể sonata : là hình thức sáng tác cơ bản của nhạc cổ điển, dựa trên sự xây dựng hai chủ đề song song đối kháng (thiện và ác, tươi vui và tăm tối, dịu dàng và dữ dội...) và phát triển trong tác phẩm, dẫn tới cao trào, rồi lặp lại ở phần kết thúc bằng sự khẳng định của chủ đề chính. Các bản giao hưởng, concerto, sonata đều viết theo thể này.
    Try not. Do. Or do not. There is no try​
  4. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    http://www.ttvnonline.com/forum/topic.asp?TOPIC_ID=28766
    Cây vĩ cầm ba dây
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  5. trantrunghai80

    trantrunghai80 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/01/2002
    Bài viết:
    2.037
    Đã được thích:
    0
    NHƯ CÓ BÁC TRONG NGÀY VUI ĐẠI THẮNG
    Nhạc và lời: Phạm Tuyên

    Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng
    Lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng
    Ba mươi năm đấu tranh giành trọn vẹn non sông
    Bao mươi năm dân chủ Cộng hoà
    Kháng chiến đã thành công
    Việt Nam- Hồ Chí Minh
    Việt Nam- Hồ Chí Minh
    Việt Nam- Hồ Chí Minh
    Việt Nam- Hồ Chí Minh
    Tiểu sử
    Phạm Tuyên sinh ngày 12 tháng 1 năm 1930, quê ở xã Lương Ngọc, huyện Bình Giang, Hải Dương, hiện cư trú tại Hà Nội. Nguyên công tác tại Bộ Văn hoá- Thông tin. Ðã nghỉ hưu.
    Những bài hát nổi tiếng
    Thời gian miền Bắc xây dựng hoà bình và đấu tranh thống nhất đất nước, ông có ca khúc Bài ca người thợ rừng, Bài ca người thợ mỏ, hợp xướng Miền Nam anh dũng và bất khuất...
    Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước: Bám biển quê hương, Chiếc gậy Trường Sơn, Gãy đàn lên hỡi người bạn Mỹ, Từ một ngã tư đường phố, Như có Bác trong ngày vui đại thắng....
    Hòan cảnh sáng tác :
    Trung tuần tháng 3/1975 tin tức chiến thắng từ miền Nam dồn dập. Mọi người háo hức theo dõi chiến sự từng ngày. Tối 28/4, sau khi nghe tin phi công Nguyễn Thành Trung ném bom xuống Dinh Ðộc Lập...Nhạc sĩ Phạm Tuyên linh cảm ngày chiến thắng đang tới gần. Trong lòng tràn ngập hứng khởi, ông ngồi viết một mạch gần hai tiếng đồng hồ thì xong phần giai điệu và ca từ bài hát. Sáng 30/4, ông đến Ðài phát thanh tiếng nói VN và bài hát được Dàn nhạc giao hưởng VN cùng Dàn nhạc của Ðài khẩn trương tập và cho thu thanh ngay bài hát này. 5h chiều 30/4, khi Ðài tiếng nói VN loan báo với thế giới miền Nam đã hoàn toàn giải phóng thì cùng lúc đó bài hát được phát đi phát lại nhiều lần trên đài.

    iloveyou, when the children cry.
    jackychan_MU _quách phú thành_lylienkiet_and my girlfriend_my friends
  6. lady_in_red82

    lady_in_red82 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    194
    Đã được thích:
    0
    Schubert - Nhà trữ tình vĩ đại
    Nếu như gọi Beethoven là người anh hùng, là nhà cách mạng vĩ đại trong lĩnh vực âm nhạc, thì phải gọi Schubert là nhà trữ tình vĩ đại. Mọi vấn đề của cuộc sống, quan hệ giữa con người với con người và với hiện thực bao quanh, Schubert đều nhìn nhận và thể hiện bằng những cảm xúc trữ tình.
    1. Tuổi thơ nghèo khó
    Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 trong một gia đình bố là nhà giáo có nề nếp. Nhà Schubert nghèo, chỉ là một căn nhà nhỏ bé ở ngoại ô thành Vienna. Schubert cất tiếng khóc chào đời và vĩnh biệt cuộc đời cũng ở dưới mái nhà này.
    Trong căn nhà nhỏ bé này luôn có tiếng đàn, tiếng hát vì bố và hai anh lớn của Schubert đều là giáo học, mà thời đó dạy học văn hóa phải kiêm luôn dạy nhạc cho học sinh, cho nên làm thầy là phải biết nhạc lý cơ bản, biết hát và chơi được một thứ nhạc cụ nào đó. Sống trong môi trường đó, ngay từ nhỏ Schubert đã rất yêu nhạc và có năng khiếu khác thường về âm nhạc. Cũng là một thần đồng âm nhạc như Mozart, chỉ khác là bố Schubert không có trình độ nhạc giỏi như ông Leopold - bố của Mozart, để đào tạo được Schubert thành một "Mozart" thứ hai. Không có tiền thuê thầy dạy, cho nên Schubert được học nhạc muộn hơn so với Mozart.
    Tuy vậy Schubert cũng được bố dạy chơi đàn violon, và cha cố Holxero dạy lý thuyết âm nhạc và chơi đàn organ. Ông Holxero nhớ lại: "Khi tôi muốn giới thiệu cho Franz (Schubert) một cái gì mới thì hóa ra cậu ta đã biết rồi... Do đó không phải tôi dạy, mà là nói chuyện với anh ta để rồi ngạc nhiên vì sự hiểu biết của cậu ấy..."
    Năng khiếu trời phú đã giúp Schubert được nhận vào học trường dạy nhạc nội trú của nhà thờ, gọi là "Cônvích", trường dạy giỏi nhất ở Vienna, nơi vốn chỉ nhận con em các gia đình quí tộc. Schubert đến trường xin học, dáng dấp rụt rè vì thấy tòa nhà của trường quá đồ sộ, lại bị học sinh nhà trường chế giễu vì quần áo quá nghèo nàn. Nhưng nhờ có giọng hát tốt và khả năng đọc nhạc nhanh nên Schubert đã được nhận học. Đó là vào năm 1808 khi Schubert đã 11 tuổi.
    Học ở trường, Schubert đau đầu nhất với môn toán, ngoài ra ăn không đủ no, vì chế độ ăn nội trú quá tồi tàn, thường gia đình phải tiếp tế thêm mà gia đình Schubert không có điều kiện vì quá đông con. Nhưng âm nhạc thì rất được nhà trường chú trọng. Trường có dàn nhạc học sinh, những tứ tấu và tứ ca của học sinh và dàn hợp xướng. Tối nào dàn nhạc cũng phải hòa nhạc nhiều loại tác phẩm. Schubert chơi violon trong dàn nhạc, do đó có điều kiện làm quen với nhiều tác phẩm, tác giả. Chính nhờ đó mà ông học được kỹ thuật sáng tác, và đã sáng tác rất nhiều. Tính từ sáng tác đầu tay của ông năm 1810, cho đến năm 1813 là khi ông rời ghế nhà trường, Schubert đã viết hàng loạt ca khúc, balat, tứ tấu đàn dây, hợp xướng và nhiều bản giao hưởng
    2. Khát vọng nghệ thuật
    Ra khỏi trường, ông buộc phải đi dạy học, làm phụ giảng tại trường nơi bố ông dạy, vì nếu không sẽ bị gọi và phục vụ trong quân đội 14 năm liền (nghĩa vụ quân sự ở nước Áo thời đó là 14 năm). Việc dạy học chiếm nhiều thời gian, lương thấp, Schubert phải nhận dạy thêm để kiếm sống. Nhưng chính thời gian này sức sáng tác của ông thật dồi dào và ở một số lĩnh vực đã đạt đến độ chín, có bản lĩnh cao.
    Có lần trong một ngày ông viết 8 ca khúc. Chỉ trong một năm 1815, vừa đi dạy học, kể cả dạy tư, Schubert đã sáng tác 144 ca khúc, 4 opera, 2 bản giao hưởng một tứ tấu đàn dây, hai bản sonata cho piano và hàng loạt tác phẩm khác nữa. Sáng tác của ông thật phong phú về thể loại, đến năm 1817, ông đã có hơn 300 ca khúc, trong đó có những bài nổi tiếng cho đến tận ngày nay, như: "Con cá Phoren", "Thần rừng", "Người lữ hành", "Cô gái quay xa".v.v... 5 bản giao hưởng (ông viết tất cả 9 bản). 7 trong số 15 sonata và nhiều tác phẩm lớn khác.
    Schubert vốn chán nghề dạy học do bị mất quá nhiều thời gian sáng tác âm nhạc, nên sau khi dạy đủ số năm qui định, ông thôi việc để tập trung vào sáng tác. Nhưng vì không còn lương để sống, lại bị bố cắt đứt quan hệ do giận ông không theo nghề truyền thống của gia đình, nên Schubert lâm vào cảnh túng quẫn. Dạy đàn tư thì tiền thu được nhiều khi không đủ tiền thuê đàn (không có tiền mua đàn, phải thuê). Trong khi đó, vì lòng tự trọng, ông khước từ không đến diễn tại các phòng khách của những gia đình quí tộc giàu có, một công việc có thể giúp ông vượt qua cảnh đói nghèo, nghèo đến mức không đủ tiền mua đủ giấy nhạc để ghi lại các tác phẩm của mình.
    Bản "Serenata" nổi tiếng của ông chính là đã ra đời trên một thực đơn của nhà hàng, Schubert viết ở mọi nơi có thể, dường như trong đầu ông chen chúc nhiều giai điệu, chỉ chờ có dịp là tuôn trào ra như thác lũ (trong cuộc đời ngắn ngủi 31 năm Schubert đã viết hàng ngàn tác phẩm trong đó có hơn 600 ca khúc).
    3. Bản giao hưởng bỏ dở...
    Schubert sống thêm được sau cái chết của Beethoven - người nhạc sĩ mà ông yêu quí và khâm phục nhất - hơn một năm. Ông ra đi vào ngày 19 tháng 11 năm 1828, vì thiếu thốn, bệnh tật, kiệt sức. Bi kịch trong đời người nghệ sĩ này là cho đến khi chết hầu như không được dự một cuộc trình diễn nào những tác phẩm lớn của mình. Bản "Giao hưởng bỏ dở" nổi tiếng của ông viết năm 1822. Khi ông còn sống, tổng phổ bị thất lạc. Người ta chỉ tìm lại được sau khi ông chết mấy chục năm.
    Cuộc đời của ông thể hiện tính bi kịch nội tâm của người sẽ nhận biết được sự xấu xa của hiện thực thời gian ấy nhưng không nhìn ra những con đường và phương thức khắc phục. Ông thu mình trong những suy tư của mình, chao đảo giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa bóng tối và ánh sáng. "Giờ đây không còn thời kỳ hạnh phúc mà mỗi thứ tưởng chừng như được bao bọc trong ánh hào quang của tuổi thanh xuân, thay vào đó là điều bất hạnh khi nhìn thấy hiện thực đau buồn mà nhờ trời, tôi cố tô điểm bằng trí tưởng tượng của mình cho nó đẹp lên...". Đó là những dòng nhật ký ảo não của chính Schubert viết trong mấy năm cuối đời.
    Đời sống của Schubert giản dị và ngắn ngủi, hầu như chỉ ở thành phố Vienna, không phải trong những tòa lâu đài lộng lẫy nơi Mozart được đón tiếp khi đang là một thần đồng, nơi Haydn được hoan nghênh nồng nhiệt và Beethoven còn tìm được những người hâm mộ. Schubert chỉ sống tại vùng ngoại ô Viên, nơi những căn nhà nhỏ bé và lụp xụp, dân chúng nghèo. Ông không biết được sự thành công rực rỡ nào, không đóng một vai trò gì đáng kể trong đời sống âm nhạc thời ấy. Nhưng hậu thế biết đến ông và đã đánh giá đúng cống hiến to lớn của ông cho kho tàng âm nhạc của nhân loại. Bia mộ của ông ghi dòng chữ: "Ở đây, cái chết đã chôn vùi một kho báu và cả những niềm hy vọng còn quí báu hơn".
    (Giáo dục & Thời đại - số 17/1998)
    *****************
    Tôi là khách qua đường. Em hãy nhận lấy ...
    ****************
  7. Ludwig65

    Ludwig65 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    22/01/2002
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    0
    FRANZ SCHUBERT - MỘT CUỘC ĐỜI NGẮN NGỦI​
    Ba năm trước thế kỷ của Victor Hugo, Berlioz, Chopin, Schumann, ngày 31.1.1997, Franz Schubert ra đời ở Vienne (Áo). Trong 31 năm sống trên cõi đời, ông chỉ tích luỹ những kiệt tác: hơn 600 bài dân ca, 10 bản giao hưởng, nhiều tác phẩm cho đàn dương cầm và cho nhạc thính phòng.
    Schubert sống trong cảnh nghèo khổ và là một con người không có Thượng đế: không phải ông thiếu niềm tin mà vì là con người đã não lòng. Nietzche nói: "Trời mưa, và tôi nghĩ đến những người nghèo đang chất đống với tất cả những gánh nặng lúc này mà họ không còn có thể che giấu được". Schubert thuộc về những con người đó. Ông xấu xí và không được phụ nữ ưa thích. Người nhỏ thó, bụng phệ, cặp môi dày và sớm trụi tóc vì mắc chứng giang mai khi một lần quan hệ ******** với gái điếm.
    Ông có một cảm giác đặc biệt về giai điệu: đối với ông, nó tách biệt và ngắn gọn như hai câu thơ Alexabdrin (12 âm tiết). Điều làm nên sức mạnh của Beethoven lại là điểm yếu của ông: sự phát triển. Nhà soạn nhạc giao hưởng vĩ đại rút ra từ đấy cái tốt nhất trong nội dung của ông, còn Schubert ông kiệt sức. Ông tìm cách xây dựng những bản xônat mênh mông trên những giai điệu thật hoàn hảo những cũng quá kín đáo mà ông thường buộc phải lặp lại, thay đổi, và tái tạo lại. Chính sự không hoàn hảo tuyệt vời đó đã làm chúng ta xúc động biết bao và tại sao Schubert lại thân thiết đến thế: không cái gì ở con người lại xa lạ với ông. Tất cả đều nói lên nỗi đau, nhưng ở ông, cũng chính là để nói lên ông đang chịu đựng. Bậc thầy của dân ca đó, người đã biết tạo ra một vở opera thật sự từ một bài hát nhỏ, cầm tay chúng ta. Và chúng ta đi theo ông trong chuyến đi, đi tìm đường hơn là lần bước để đi.
    Bỏ sang bên một vài chuyến đi với ca sĩ Vogi, ông không bao giờ rời khỏi Vienne. Đi đây đi đó, để làm gì? Cuộc đời của con người "đang tàn" đó, như lời Thomas Mann, chỉ là một cuộc sống trôi giạt. Người ta thấy rất rõ: nhà soạn nhạc đó, có một đầu óc hài hoà phi thường, đôi khi lại lẫn lộn trong những tiếp hợp hoà âm. Chính vì ông không biết sẽ đi tới đâu. Đó là nỗi khốn khổ của ông.
    Schubert như một loại nhà luyện đan: ông có thể biết nỗi đau khổ thành niềm thích thú. Ông viết: "Những tác phẩm của tôi là những đứa con của khoa học âm nhạc và của nỗi thống khổ của tôi. Niềm thích thú duy nhất mà tôi nhận được, chính từ nỗi thống khổ đã hiến cho tôi". Còn chúng ta, khi nghe ông, chúng ta cảm thấy cái gì? Nỗi thống khổ, niềm thích thú hay còn một cái gì khác? Có lẽ là lòng trắc ẩn ?

    Cuộc đời như giấc mộng
    Hạnh phúc được là bao
  8. Ludwig65

    Ludwig65 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    22/01/2002
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    0
    MỘT SCHUBERT NGÂY NGÔ Ư?​
    Với cuốn sách tiểu sử tựa đề ?oSchubert? đã được dịch ra tiếng Pháp từ nguyên bản tiếng Đức, Peter Hartling muốn tính sổ tất cả những hình ảnh xưa nay mà mọi người đã làm cho ông phải khốn khổ.
    Đấy là một giọng nói giản dị, gần gũi, xác đáng, hoàn toàn phù hợp với một con người nổi bật giữa các nhạc sĩ thuộc giai đoạn lãng mạn ở tính khiêm tốn, nhún nhường? Không lên mặt anh hùng như Beethoven, cũng chẳng khụng khiệng, điên rồ như Schumann? Không đâu! Trong con mắt Hartling đấy lại là một kẻ lữ hành nhỏ bé tốt bụng trên các dãy phố quanh co, khúc khuỷu ở thành Vienne, hoặc các con suối chảy qua các gốc điền ma ở ngoại ô. Chàng tiểu thị dân vào đời bằng nghề giáo học này cũng chẳng lãng mạn hơn ai, cuộc sống của anh ta đơn điệu và nhạt nhẽo cũng chẳng ai bằng, anh chỉ có một ?ochiến công thế kỷ? là mắc bệnh giang mai, và chết vì nó năm 31 tuổi.
    ?oLàm thứ âm nhạc không chia rẽ, mà tập hợp lại? Hartling nói vậy khi bình luận về sự dồi dào của các tác phẩm cho dương cầm 4 tay. Cơn sốt chiếm cứ Schubert không phải là cái dụng ý tuyên truyền vận động ?omà do nỗi buồn thèm khát một không gian rộng lớn và những chuyến đi xa. Trong Schubert có một cái gì rộn lên, ông không biết đi đâu? Hệt như một ý tưởng không thành lời?. Những công thức như thế, sung sướng thay, lại được đem vào thế giới của một con người lang thang nhưng bất động, con người ngao du bằng tâm thức, mà tuyệt tác ?oDu lịch mùa đông? đầy hư ảo, đắm chìm trong cô đơn và giá lạnh, đã được viết ra trong một căn gác xép.
    Có điều rằng người ta muốn đi xa hơn một chút nữa, vẽ kỹ hơn bức chân dung, và đào sâu cá tính. Nhiều huyền thoại, khá là ngốc nghếch, bao quanh Schubert ?osống sờ sờ?, nhưng quá mờ nhạt, quá ngớ ngẩn, để có thể chinh phục những cô nàng mà Schubert ao ước một cách vô vọng. Khốn thay quyển sách của Hartling lại nhâm nhi những hình ảnh ấy, chứ không có gì khác hơn. Những cuốn tiểu sử âm nhạc đều luôn đương đầu với vấn đề: ?oPhải chăng một nhà sáng tác âm nhạc chỉ là một anh ngốc đáng thương, được liên hệ với trời xanh một cách bí ẩn vào những lúc xuất thần? Một sự ngu xuẩn nối mạch với các tinh xảo của vũ trụ?? Hình như Peter Hartling chấp nhận cái nhìn khù khờ của sự sáng tạo âm nhạc, được khích lệ bằng 200 năm lảm nhảm về tác giả của bài ?oSe-re-nat? lừng danh. Một cuốn sách liệu có tác dụng gì, nếu cứ nói dai dẳng về những điều ai cũng biết. Schubert tiến ra, mặt che kín giống những người vĩ đại vẫn thường làm. Dưới cái vẻ bể ngoài ?oChàng trai gan dạ?, ông vật lộng kịch liệt chống lại cô đơn, thất vọng và cái chết. Và còn xa ông mới là bộ óc đơn giản để chơi dương cầm, thật khó mà tưởng tượng rằng người viết ra một tác phẩm sâu sắc và gắn bó như thế, lại không có ?otư duy?. Cái đó xin mời các tiểu sử gia minh định.
    Thêm một thiếu sót của thiên điều tra: cuộc sống ******** của Schubert không đến nỗi tệ, ngốc nghếch như Hartling trình bày. Rất mê những cô gái nhưng không với tới, mà sống vô gia cư, ở nhờ nhà của bạn bè và có khi ngủ chung giường với họ.
    Nhưng nếu nghĩ có một Schubert tài năng và bị hiểu nhầm thì chỉ cần làm cái việc ?ocảo thơm lần giở trước đèn?, điểm lại những tác phẩm của ông viết ra trong năm 1828. Trong năm đó, Schubert viết ra 3 bản Sonate vĩ đại nhất, bản ngũ tấu với 2 cây Cello, một khúc nhạc cho lễ Mi-sa, 3 tác phẩm quan trọng cho đàn Piano, những ca khúc về ?otiếng hát Thiên Nga?, bản Fantaisie gam Fa thứ cho piano, và một số khác. Người ta hay nói đến năm 1828, cái năm cuối đời và rất tiêu biểu, hay về 20 tháng cuối cùng của ông tiếp sau cái chết của Beethoven, mà thời gian đó cho phép ông thêm vào 24 ca khúc của ?oDu lịch mùa đông?, 2 bản tam tấu và 8 Impromptus ...
    Đứng trước sức sáng tạo phi thường đó, người ta có thể tự hỏi: Phải chăng Schubert biết là mình sắp chết, và vì thế phải vội vàng. Hoặc giả ông nghĩ là mình đang bước vào một thời kỳ đặc biệt sung sức trong sáng tác mà cái chết đã can thiệp vào một cách thô bạo.
    Là một nghệ sĩ có tài và bị hiểu lầm, một con người không chịu hài lòng và bị căn bệnh nguy hiểm sớm cướp đi sinh mệnh, Schubert từng nói rằng không thể yêu nếu tình yêu của ông không biến thành nỗi đau khổ và không thể đau khổ nếu nó không biến thành tình yêu. Với 7 cuốn ca khúc được xuất bản, người ta chỉ từng hát lên cuốn đầu tiên. Người ta hiện tại chỉ chơi không đến ¼ những bản Sonate ông soạn cho piano, và hầu như không đụng gì đến những nhạc phẩm ông viết cho đàn violon. Người ta đã bỏ rơi đi một cách đáng xấu hổ một khối lượng khổng lồ về thanh nhạc và trữ tình của ông. Người ta trao quyền cho những người yêu xác chết để hoàn thành những tác phẩm bỏ dở của ông, như thể đấy là một vỉa hè mà một tay thợ nề lơ đãng bỏ quên (như bản Symphonie gam Si thứ và bản sonate ?oReliquie?). Và điều đó đã khiến cho bà Margot phải than khóc trước lò sưởi và bỏ mặc bà giá lạnh và khô cằn như mặt trăng. Bà chỉ muốn cười và khóc như tên của nhạc phẩm đẹp đẽ ?oLachen und Weinen? (cười và khóc) mà Schubert soạn năm 1823, không phải năm cuối đời, và về cái đó, hỡi ôi, người ta chẳng bao giờ quay thành một bộ phim nào cả.
    Vậy Schubert nào đây: Schubert ngây ngô nhạt nhẽo của Hartling hay một Schubert của tình yêu lớn và nỗi đau lớn ./.
    Được Ludwig65 sửa chữa / chuyển vào 18:43 ngày 28/01/2003
    Được Ludwig65 sửa chữa / chuyển vào 18:45 ngày 28/01/2003
  9. cardiophileforever

    cardiophileforever Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2003
    Bài viết:
    116
    Đã được thích:
    0
    Bạn Lugwid65 có vẻ thích Schubert nhỉ. Công nhận Schubert quả là một thiên tài. Những tác phầm của ông được sáng tác trong thời gian rất ngắn nhưng vẫn rất sâu; còn giai điệu thì đẹp tuyệt với. Tớ thích nhất cái tứ tấu "Trinh nữ và tử thần"(The Death and the Maiden). Còn cái chùm bài hát Winterreise tớ nghĩ dich là "Hành trình mùa đông" hay hơn chứ "du lịch" nghe chuối chuối thế nào ý.

    _______________________
    Cardiophileforever
  10. Ludwig65

    Ludwig65 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    22/01/2002
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    0
    FRANZ SCHUBERT : ÂM NHẠC VÀ CUỘC ĐỜI DANG DỞ​
    Tên tuổi của Franz Schubert, nhạc sĩ thiên tài người A'o, lập tức gợi nên những ý tưởng về thể loại lider (ca khúc thơ thường có đàn piano đệm theo). Bởi vì chính ông là người có công phối hợp đến mức tuyệt vời giữa thể loại thi ca, giai điệu và nhạc đệm. Tất nhiên, Schubert vẫn là nhạc sĩ của tình yêu tha thiết cuộc đời, khát vọng sống và dâng hiến. Kể từ thời J.S.Bach, Amadeurs Mozart, L.V.Beethoven, chưa từng có một nhạc sĩ thiên tài nào có được trực giác linh cảm kỳ lạ về giai điệu như Schubert".
    Schubert để lại cho kho tàng âm nhạc cổ điển nhân loại 10 bản sonate, 20 bản tứ tấu, 10 bản giao hưởng, 5 vở opera và 6 bản mixa. Trong số 10 giao hưởng đồ sộ của ông, có một bản giao hưởng giọng si thứ (sáng tác nZm 1822 ), ông chỉ viết có 2 chương và chưa hoàn thành. Sau này, giới phê bình âm nhạc đặt tên là " Giao hưởng bỏ dở". Mãi về sau người ta mới phát hiện ra rằng Schubert rất hay bị đau ốm. Cho nên ông không thể hoàn thành trọn vẹn bản giao hưởng tuyệt vời đó. Thế nhưng chính sự dang dở ấy lại để lại những âm hưởng bất tận, đầy sự da diết. Mặc dù chỉ có hai chương song bản giao hưởng dường như khai mở một mạch nguồn âm nhạc vô tận, tưởng chừng không bao giờ kết thúc. Biết đâu đấy chẳng phải là ý định của thiên tài Schubert. Có lẽ ông thầm mong muốn để cho đời sau phát triển tiếp những tư tưởng âm nhạc bỏ dở của ông theo cảm xúc của riêng mỗi người, mỗi cuộc đời tự cảm nhận và chiêm nghiệm. Đây là bản giao hưởng duy nhất trong lịch sử âm nhạc cổ điển mà chỉ có hai chương. Giao hưởng danh dở nhưng thực ra là mở ra cả một nguồn cảm hứng không có kết thức.
    NZm 1815, Hoàng đế nước Pháp Napoleon bị phế truất. Niềm hy vọng về tự do và cách mạng thổi bùng trên khắp châu Âu. Các nước lớn họp nhau ở Hội nghị Viên. Ban ngày, người dân bàn tán về số phận của châu Âu, ban đêm người ta khiêu vũ trong các quán rượu, nhà hàng và các lâu đài quý tộc. Thực ra chính đây là nơi sinh ra những bước nhảy đầu tiên của những điệu valse mà sau này dòng họ Johann Strauss đã khai thác triệt để và trở thành những bản valse bất tuyệt của nhân loại. Các nhạc sĩ đương thời thường cùng Schubert quây quần trong các phòng khách hoặc các quán bia ở thành Viên. Ông thường thết đãi bạn bè bằng những bản nhạc do mình sáng tác. Những buổi dạ hội như vậy từ đó được mang tên ông "Những buổi tối Schubert". Bản thân ông, cũng như Beethoven rất yêu thích được làm việc ở nơi thôn dã, đồng nội. Thiên nhiên mang lại cho ông sự yên tĩnh cùng những cảm hứng sáng tạo vô cùng tận. Những sáng tác của Schubert rất được các nhạc sĩ đương thời ngưỡng mộ. Ông rất thành công trong các buổi biểu diễn không lấy tiền, chỉ vì lòng mến mộ của công chúng. Oái oZm thay, ông lại không được công nhận là một nhạc sĩ thành danh. Ông cũng chưa bao giờ có được vị trí xứng đáng như một nhạc sĩ hàng đầu ở kinh thành Viên. Thiên tài Schubert phát sáng đến thế nhưng cuộc đời ông lại quá nghèo túng. Đôi khi ông viết tới 12 giai điệu âm nhạc trong một ngày chỉ để mong muốn một cách ngây thơ là kiếm được một khoản kha khá của các nhà xuất bản âm nhạc ở Viên. Trong khi đó, nhà xuất bản chưa kịp in hết hàng chục sáng tác của ông vừa hoàn thành trước đó một tháng. Trong con người ông dường như có một nguồn sáng tạo không bao giờ cạn với những giai điệu du dương, sâu lắng ngày càng bộc lộ. Đặc biệt phát tiết rực rỡ trong những nZm cuối cùng của cuộc đời. Có thể nói âm nhạc của ông bao phủ lên toàn bộ con người ông với sức mạnh phi thường đến mức một Quatuo (khúc nhạc bốn phần) đối với ông cũng chỉ là một trò chơi không tốn mấy thời gian. Ngay trong khúc nhạc hoà tấu của ông, một khúc nhạc chỉ tắt cùng với ánh mặt trời hoặc khi tiếng chim sơn ca ngừng hót.
    Ông đã từng gửi các bản sáng tác lider của mình cho Gớt, đại thi hào người Đức. Tuy nhiên, Gớt lại không mấy chú ý tới thiên tài âm nhạc của Schubert. Thêm nữa, nhạc sĩ trẻ tài nZng còn bị người ta "rút ruột" một cách nhẫn tâm. Một nhà xuất bản chỉ chịu trả cho 6 bản lider của Schubert "Hành trình mùa đông" (gồm 24 ca khúc) với giá rẻ mạt: 15 franc. Schubert vẫn miệt mài lao động sáng tạo. Các tác phẩm để lại cho hậu thế của Schubert thấm đượm nỗi u buồn và sự chịu đựng phi thường. Trong bản tứ tấu cung rê thứ, ông đưa vào chương Andante một loạt nZm biến tấu theo chi đề của bản lider " Cô gái và thần chết" ông để lại cho nhân loại những tác phẩm tinh tế và đau buồn nhưng cũng thấm đậm tính nhân vZn sâu sắc và hồn nhiên. Tác phẩm ca ngợi sự chịu đựng phi thường của con người trước số phận và cuộc đời nhiều bất hạnh song cũng chan chứa tình yêu cuộc sống cho đến phút cuối cùng của cuộc đời. Thế giới vẫn còn ngân vang mãi mãi, không thể lãng quên những khúc nhạc chiều Serenate bất hủ của ông. Chúng vẫn còn làm rung động hàng triệu trái tim nhân loại. Song, có một điều kỳ lạ mà không mấy người đời sau hiểu được là vừa viết xong bản nhạc, vừa hoàn thành tác phẩm là Schubert đã quên ngay. Khúc nhạc chiều bất hủ của ông sáng tác là để tặng nhân ngày sinh của một thiếu nữ. Để làm cho cô gái bất ngờ, ông nhờ một người bạn thân là một ca sĩ trình bày bài hát ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó người ta bí mật lặng lẽ khiêng cây đàn piano vào trong vườn. Tất cả đã sẵn sàng cho biểu diễn lãng mạn và độc đáo đó. Ca sĩ đã có mặt, còn Schubert thì lại quên không đến. Trớ trêu thay, chính cô gái ấy lại đem lòng yêu chàng ca sĩ đó chứ không phải dành trái tim cho Schubert, người hằng thầm yêu trộm nhớ nàng. Vào một ngày mùa đông tháng 11 nZm 1828, nhạc sĩ thiên tài nước A'o. Ông kết thúc cuộc đời ngắn ngủi của mình, một cuộc đời chan chứa những giai điệu vĩnh cửu, những niềm xúc động và đau thương. Ông mất vì bệnh thủy đậu tại nhà một người anh em ở ngoại ô thành Viên. Vậy mà cách đấy một nZm, chính tay ông đã từng cầm cây nến tiễn đưa nhạc sĩ thiên tài Beethoven tại nghĩa địa trong nỗi đau lay động cả đất trời. Khi ra khỏi nghĩa trang ra về, ông đã dừng lại ở một quán rượu để nâng cốc chúc: "Một ai đó sẽ đến lượt mình đi liền theo bước chân Beethoven". Có ngờ đâu chính câu nói định mệnh ấy lại vận vào cuộc đời Schubert.
    Cho đến khi ông mất, người ta kiểm kê tài sản và đếm được chỉ có vẻn vẹn 8 Silinh đồng sáu xu. Nhưng cả một đống bản thảo viết tay, biết đâu trong đó chẳng còn có những tác phẩm mà ông sáng tác trong những ngày cuối đời. Những tài sản vô giá không ai ngờ tới của một thiên tài bạc mệnh đã bị phát tán khắp nơi trong kinh thành Viên. Ba mươi nZm sau, một chàng trai tên Acter Sulivan cùng một người bạn từ nước Anh quốc sang, hy vọng tìm được một vài trang bản thảo bị bỏ quên đâu đó. Họ đã phát hiện ra dưới gầm một đồ dùng trong nhà phần còn thiếu trong khúc độc tấu rodamon. Họ thức suốt đêm, cắm cụi chép lại những mảnh giấy vô giá đó. Họ không kìm nổi niềm sung sướng tột cùng trước những khám phá quý báu về thiên tài âm nhạc mà họ tôn thờ. Họ cứ thế mê mẩn trong niềm hạnh phúc và chờ trời sáng. Bản viết tay cuối cùng của Schubert có thể chính là bức thư ông viết cho bạn cũ, người mà ông đã chung sống hồi đầu nZm. Trước ngày phải dọn đi nơi khác vì không đủ tiền trả phần nhà mình thuê ông để lại lá thư ngắn ngủi đó. Franz Schubert, với dáng hình có vẻ nặng nề, nước da xanh tái, đôi mắt cận thị nhưng trái tim thì luôn nóng bỏng. Trái tim ấy không bao giờ còn dâng biến cho nhân loại những dòng nhạc tuyệt vời nữa. Tưởng đâu chợt thấy trong khu vườn cây cối xanh tươi nhà ông những bầy chim sẻ vẫn bình thản sà xuống thảm cỏ xanh. Tưởng chừng nếu đứng sát đầu giường hoặc ngay bên cây đàn piano đã thấm bao mồ hôi lao động cật lực của Schubert vẫn nghe thấy những giai điệu chứa chan tình yêu da diết đối với cuộc đời này.
    (Sưu tầm)
    Được Ludwig65 sửa chữa / chuyển vào 21:13 ngày 22/02/2003

Chia sẻ trang này