1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những bí ẩn của Lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Hector, 07/06/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Việt Nam-từ quân chủ đến dân chủ
    Ai là người đầu tiên phổ biến cái tên Việt Nam vào đầu thế kỷ XX ? Trả lời câu hỏi thoạt nhìn có vẻ vô-thưởng-vô-phạt này sẽ giúp ta nhận thức rõ hơn về vai trò của PBC và QPH.
    Quốc hiệu Việt Nam nguyên đã có từ đầu thời vua Gia Long, nhưng trên thực tế không mấy khi được sử dụng. Sử sách chép là vua Gia Long lúc đầu khi mới lên ngôi (1802) muốn đặt quốc hiệu là Nam Việt, nhưng vua Gia Khánh nhà Thanh không chấp thuận, lý do là quốc hiệu này khơi lại chuyện Triệu Đà và chính quyền cát cứ ở nước Nam Việt đời Hán ngày trước. Thanh triều chỉ chấp thuận sai sứ sang phong vương sau đó hai năm (1804) khi quốc hiệu Nam Việt đã được đổi ngược lại thành Việt Nam.7 Bước sang thế kỷ XX, trong khi người nước ngoài đều dùng tên " An Nam " để chỉ nước ta, theo thiển ý của chúng tôi, PBC là người đầu tiên đã phổ biến cái tên Việt Nam ngay từ khi mới sang Nhật Bản. Bằng cớ là Phan đã dùng tên Việt Nam trong các trước tác viết trong thời kỳ Đông Du : Việt Nam vong quốc sử (1905), Tân Việt Nam (1906), Việt Nam thảm trạng (1907?), Việt Nam quốc sử khảo (1908). Ngoài ra, sau khi giải tán Duy Tân Hội, như đã nói ở trên, Phan cùng các đồng chí cũng đã dùng tên Việt Nam (thay vì An Nam hay các tên khác) khi đặt tên QPH vào năm 1912.
    Tuy QPH có một lịch sử đáng chú ý, nhưng điều ngạc nhiên là trước đây ít người nói tới. Những điều giới thiệu sau đây có thể tìm thấy ngay trong Phan Bội Châu niên biểu (hay Tự phán) chứ không phải tìm đâu xa xôi. Trước hết, QPH không chỉ là hội đoàn theo nghĩa thông thường mà trên thực tế là một " chính phủ lâm thời " (lưu vong), có quy định cả quốc kỳ, quân đội (Việt Nam Quang phục Quân), quân kỳ, và phát hành cả giấy bạc (dưới dạng " quân dụng phiếu ") " in bằng điện, tinh xảo như giấy bạc Tàu ". QPH cũng đã quy định lá quốc kỳ đầu tiên của Việt Nam. Theo lời kể lại của PBC, " một sự quái lạ " là trước đó " nước ta chỉ có cờ hoàng đế mà không có quốc kỳ ". Bởi vậy, QPH mới " chế định cờ ngũ tinh " (năm ngôi sao) làm lá quốc kỳ đầu tiên. Năm ngôi sao trên lá cờ này có hình liên kết với nhau (ngũ tinh liên châu), tiêu biểu cho ba kỳ của Việt Nam, cộng thêm Lào và Căm-puchia (!). Quốc kỳ QPH có nền vàng, tượng trưng cho nhân chủng da vàng của người Việt, màu hồng của năm ngôi sao biểu tượng cho vị trí phương Nam của nước Việt (" Nam phương thuộc hoả, hoả sắc hồng "). Hình dạng quân kỳ cũng giống như quốc kỳ, điểm khác nhau là thay vì hồng tinh (sao hồng), quân kỳ dùng bạch tinh (sao trắng), nhằm " tỏ rõ mục đích " của Việt Nam Quang phục Quân là " cốt đánh đổ chính phủ người da trắng ". Bốn năm sau (1916), trong cuộc khởi nghĩa của Thái Phiên, Trần Cao Vân và vua Duy Tân, quân kỳ ngũ tinh với 5 sao trắng này đã được dùng.
    Tôn chỉ " độc nhất " của QPH là " khôi phục nền độc lập của Việt Nam " và thành lập một nước " cộng hoà dân quốc ". Nói một cách khác, với sự thành lập của QPH, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chủ nghĩa quân chủ bị phủ nhận và chủ nghĩa dân chủ " được xác định ". Dĩ nhiên PBC đã đóng một vai trò quan trọng trong sự chuyển hướng đường lối của QPH.8 Cho dầu việc thay đổi " ngọn cờ quân chủ " (mà PBC đã đề cao để chống Pháp lúc xuất dương) thành lá cờ dân chủ phần nhiều là do ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, nhưng trong bối cảnh lịch sử nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, sự kiện này có ý nghĩa như một khúc nhạc dạo đầu báo hiệu sự cáo chung của chế độ quân chủ ở nước ta mà trên thực tế sẽ xảy ra trong quá trình ba, bốn mươi năm sau đó.
    " Bạo động kịch liệt " và bế tắc
    Khác hẳn với chủ trương ôn hoà của PCT là duy tân để tự cường rồi giành độc lập ; PBC chủ trương bạo động, một phần vì bản tính (" sinh bình tôi vốn ôm chủ nghĩa cấp khích "9) và một phần do áp lực của " bọn anh em trong phái cấp khích ở Nghệ Tĩnh... hối thúc tôi trong việc quân giới ".10
    Lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp bằng phương tiện võ trang (quân sự), đối với Phan, là phương cách duy nhất để lấy lại độc lập cho Việt Nam. Tuy nhiên, Phan cho rằng người Việt tự mình không địch nổi người Pháp, do đó phải cậy vào một cường quốc khác. Sở dĩ Phan và các đồng chí trong Duy Tân Hội chọn Nhật Bản để cầu viện vì Nhật là một nước " đồng văn đồng chủng " mà lại vừa mới thắng Nga. Sau khi bị nhà đương cuộc Nhật trục xuất ra khỏi Nhật, Phan chuyển hướng, muốn liên kết với các nước " đồng bệnh " - trước hết là Trung Quốc - chống lại " cường quyền ". Tuy nhiên, suốt đời Phan không rời chủ nghĩa Liên á (Asianism), tin rằng nếu không có sự giúp nước của các nước " đồng văn đồng chủng " như Trung Quốc, Nhật Bản... thì Việt Nam không thể nào lấy lại độc lập.
    Nhận thức về quan hệ quốc tế của Phan vừa lỗi thời vừa rất chủ quan. Có thể nói một trong những lý do khiến Phan thất bại là vì mặc dầu đứng trong tư thế người lãnh đạo một phong trào chống Pháp, Phan không bao giờ có ý định tìm hiểu về người Pháp và nước Pháp. Theo phương châm ngày xưa " kẻ thù của địch là bạn ta ", Phan ngỏ ý cầu viện một cách bừa bãi các nước mà Phan coi là có quyền lợi xung đột với Pháp lúc bấy giờ : Đức, Nga, và đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. Phan cả tin và chủ quan về những " nước bạn ", rồi với trạng thái tâm lý được diễn tả và châm biếm qua câu ca dao " Thương thì thương cả đường đi, ghét thì ghét cả tông chi họ hàng " (hoặc " Thương thì trái ấu cũng tròn, không thương trái bồ hòn cũng méo "), Phan tưởng rằng những " nước bạn " sẽ là những đồng minh muôn thuở, bất luận trong tình huống nào, và vô hình trung cho rằng " Pháp là nước duy nhất có ý đồ xâm chiếm Việt Nam ". Vì Phan hoạt động trong giai đoạn mà ý thức hệ (hệ tư tưởng) chính trị - những hư cấu (fictions) của nhân loại trong thế kỷ XX - chưa chia phối hàng ngũ người Việt trong nước cũng như ở hải ngoại, nên mặc dầu những thuật ngữ Phan dùng có thể khác những thuật ngữ của các thế hệ sau, nhưng phải nói là trạng thái tâm lý nói trên vẫn thể hiện đậm nét trong quan niệm đối ngoại của Việt Nam ít ra mãi cho đến gần đây.
    Chủ trương bạo động của PBC tuỳ thời điểm có mức độ khác nhau. Chẳng hạn, sau khi sang Nhật để xin viện trợ quân sự chống lại Pháp, Phan gặp Lương Khải Siêu, và sau khi nghe lời khuyên chí tình của họ Lương, Phan mới chuyển hướng sang việc gửi thanh niên sang Nhật du học. Qua bút đàm, Lương khuyên Phan : " Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập... Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí, và nhân tài ". Mặc dầu thời kỳ Đông Du là khoảng thời gian mà chính Phan xem là " đắc ý " nhất trong đời, Phan vẫn còn vương vấn với khuynh hướng " bạo động " nên cũng không hết lòng tin tưởng vào vai trò của giáo dục. Phan mượn câu nói của Mã-Chí-Nê (Mazzini) làm chủ thuyết của mình : " Giáo dục dữ bạo động đồng thời tịnh hành " (Giáo dục và bạo động cùng tiến hành song song).11 Sau khi bị trục xuất ra khỏi Nhật (1909), bôn ba sang Xiêm, rồi cuối cùng trở về Quảng Đông thành lập QPH (1912), Phan chủ trương " bạo động kịch liệt " nhằm " tìm cái sống trong muôn vạn cái chết " và những mong bạo động sẽ là " môi giới để cải lương giáo dục " !
    Trái hẳn với PBC, châm ngôn của PCT là " Vọng ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử " (" Không nên cậy vào nước ngoài, cậy vào nước ngoài là ngu ; không nên bạo động, bạo động là chết ") và " ỷ Pháp cầu tiến bộ " mà trên thực tế có nghĩa là phải tạm thời chấp nhận chính quyền thuộc địa nhằm mở mang dân trí và cải cách chế độ cai trị của người Pháp, rồi từng bước phục hồi nền độc lập quốc gia. Khi bị tù ở Côn Đảo, PCT đã từng nói : " Chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có nhờ cậy sức nước ngoài chỉ diễn cái trò ?~đổi chủ làm đầy tớ lần thứ hai?T, không ích gì... mình không tự lập, ai cũng là kẻ cừu của mình, Triều Tiên, Đài Loan, cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn người Pháp ".12
    PCT là nhà sĩ phu đầu tiên hô hào dân quyền ở nước ta.13 Ông chống bạo động, dấy phong trào duy tân " chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh " và chủ trương " tự lực khai hoá " không phải vì ươn hèn hay sợ hãi, mà bởi vì ông thấy dân trí nước ta còn quá thấp. Theo ông, trong tình trạng như vậy thì cho dầu có giành được độc lập " cũng không phải là điều hạnh phúc cho dân ". Ông là người quả cảm, có khí phách, không sợ hiềm nghi hay gièm pha, dám đưa một chủ thuyết khác hầu hết mọi người đương thời. Phan Tây Hồ là một nhà cách mạng theo đúng nghĩa của nó.
    Vì PBC theo chủ thuyết bạo động nên không phải ngẫu nhiên mà phần lớn những sinh viên du học ở Nhật và Trung Quốc vào đầu thế kỷ (dưới ảnh hưởng của Phan) đã theo học những trường quân sự, và đại đa số những người này cuối cùng đã hy sinh trong những vụ bạo động, mưu toan ám sát người Pháp cùng những người ********* tác với chính quyền thuộc địa, hay các binh biến lẻ tẻ. Than tiếc cho sự việc này, PCT đã viết: " Phải chi dùng số người xuất dương đó phân tán trong nước, đem trí thức, trình độ cao đó khiến cho mười mấy triệu người trong nước cũng có trí thức cao lên để tranh giành với Pháp ".14
    Bởi vậy, trong lời tựa của tập tự truyện Phan Bội Châu niên biểu mà tác giả đã viết với sự cân nhắc và phản tỉnh sâu lắng trong tuổi già, PBC ghi : " Chân trời góc bể gần ba mươi năm, vì liên luỵ với tôi mà kẻ chết người tù, hoạ tràn quận quốc, độc trôi đồng bào... Anh em chúng ta nếu xem cái gương thất bại trước mà gấp lo tìm cách cải lương, sẽ mở một lối thành công sau... ". PBC khuyên đồng bào nên xem cuộc đời hoạt động của mình như một " chiếc xe đã bị lật đàng trước nhằm cảnh giác " (tiền xa phúc, hậu xa giới) mà mở lối thành công. Những lời này của PBC nên được xem như là những lời phản tỉnh và nhắn nhủ chân thành của một nhà đại hào kiệt " có lòng thương nước " nhưng vô tình đã " không biết cái đạo thương nước " - xin mượn lối nói thẳng thừng của Tây Hồ tiên sinh.15
    Nền độc lập mà PBC cùng các sĩ phu khác vào đầu thế kỷ hằng mơ ước ngày nay đã về trong tay người Việt. Nhưng vấn đề dân chủ, dân trí, dân sinh mà PCT hằng nhắc nhở từ đầu thế kỷ và cũng là những vấn đề hiện thực nóng bỏng của đất nước sau chiến tranh, vẫn chưa thấy có hướng đi lên, thậm chí có mặt đi lùi lại. Thực tâm giải quyết những vấn đề này sẽ mang lại sinh khí cho dân tộc, đất nước nhờ đó sẽ được hồi sinh.
    PBC và PCT là hai nhân vật kiệt hiệt của đất nước, nhưng chỗ đứng của họ trong cuộc hành trình dân tộc trong một trăm năm qua lại khác nhau như âm với dương. Mặc dầu chúng ta cần đánh giá vai trò thức tỉnh hồn nước và ý thức quốc gia quốc dân của PBC, nhưng đồng thời cần nhận thức rằng Sào Nam tiên sinh không phải là người đã đề xướng dân chủ, dân trí, và dân sinh. Làm việc đó đã có tiếng nói hùng hồn của PCT. Có điều là giấc mơ của PCT cho đến nay vẫn chưa thành hiện thực. Bởi thế nên khi đọc lại những lời Tây Hồ viết vào đầu thế kỷ, ta vẫn nghe sang sảng tựa hồ như tiên sinh đang đăng đàn diễn thuyết đâu đây.
    Vĩnh Sính

    1. Trích lại từ Stanley Karnow, Vietnam : A History (New York, Penguin Books, 1984), trang 116.
    2. Tự phán (TP, tức Phan Bội Châu niên biểu) (Huế : Nxb Anh Minh, 1956), trang 27. Khi trích dẫn từ sách này, chúng tôi đã tham khảo nguyên văn chữ Hán và đôi khi đã sửa đổi vài chỗ trong bản dịch quốc ngữ cho sát với nguyên văn và nghe thuận tai hơn.
    3. Xem Nguyễn Q. Thắng, Huỳnh Thúc Kháng _ Con người và thơ văn (Sàigòn : Phủ Quốc-Vụ-Khanh đặc trách Văn hoá, 1972), trang 278.
    4. Đặng Thai Mai, Văn thơ Phan Bội Châu (Hà Nội: Nxb Văn Học, 1967), trang 105.
    5. Xem Việt Nam quốc sử khảo, trong Những tác phẩm của Phan Bội Châu (Hà Nội : Nxb Khoa học Xã hội, 1982), trang 223-237.
    6. Như trên, trang 217.
    7. Xem Kawamoto Kunie, Etsunanjin no ketsudan (Quyết đoán của người Việt), trong cuốn Kanji minzoku no ketsudan (Quyết đoán của những dân tộc dùng chữ Hán) do Hashimoto Mantarô, Suzuki Takao, và Yamada Hisamu biên soạn. (Tokyo : Taishukan Shoten, 1987), trang 481.
    8. Về các tư liệu trích trong phần này, xem TP, trang 146-154.
    9. TP, trang 150.
    10. NTT, trang 51.
    11. TP, trang 53.
    12. Minh-Viên Huỳnh Thúc Kháng, Thi tù tùng thoại (Sàigòn : Nam Cường, 1951), trang 105.
    13. Xem Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Duy Tân (Đà Nẵng : Nxb Đà Nẵng, 1995), trang 107.
    14. Phan Châu Trinh, Pháp Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam (Nước Việt Nam mới sau khi liên hiệp với Pháp), bản dịch của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Văn Tường, trong Nguyễn Q. Thắng, Phan Châu Trinh _ Cuộc đời và tác phẩm (Tp Hồ Chí Minh : Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1987), trang 252.
    15. Như trên, trang 251.
  2. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Đọc đâu đó có đề cập tới chuyện Phan Bội Châu đã từng tiếp xúc cả với phái bộ Quốc tế CS của Nga tại Trung quốc. Hai bên thương lượng không thành. Nếu chuyện này là thật thì Phan Bội Châu đã tiếp xúc với chủ nghĩa CS còn sớm hơn cả.....
    Bác Hector có biết gì về chuyện này không?
    Quang Phục Hội về sau có gửi Quang Phục Quân theo chân Nhật về chiếm Lạng Sơn khi Nhật đảo chính Pháp. Nhật Pháp thương lượng với nhau. Kết quả Nhật bỏ rơi Quang Phục Quân cho Pháp đánh. Tướng của Quang Phục Quân là Trần Trung Lập tử thủ Lạng Sơn và bị giết.
    Trung với Đảng - Hiếu với Dân - Khó khăn nào cũng vượt qua - Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!
    ....sửa cho gọn......
    Được spirou sửa chữa / chuyển vào 20:24 ngày 22/01/2004
  3. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Sự hi?nh tha?nh cơ cấu chính trị Đại Việt
    Tham khảo từ trang web BBC
    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2004/01/040122_vietnamearlytime.shtml
     
    Ai tặng thơ chi làm ta nhớ.Nhưng, nhớ, ích gì cũng như không.Ta ước thời gian ngược trở lại.Thế thì người kia dám nói không?

Chia sẻ trang này