1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những bức ảnh có thể bạn chưa biết trong Kháng chiến chống Mỹ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 28/03/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vFork

    vFork Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/12/2012
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    [YOUTUBE]5kjFwiPXZrs[/YOUTUBE]

    Coi mà rớt nước mắt, người Việt nào không yêu nước ta ơi...
  2. nguoihoathu

    nguoihoathu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    29/05/2012
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    21
    Xem mới hiểu ngoài bọn điên cuồng chống phá quê hương ra thì cũng có ko ít người quan tâm thật sự tới đất nước.
    Dạo này thấy bà con hải ngoại bắt đầu quay về đất nước, mấy lão CCCĐ bị cô lập thì bọn chó điên này có bài , chiêu trò hòa hợp dân tộc mục đích cũng để bòn rút USD gửi về VN cho CSVN ăn chơi, bọn này đúng là phát biểu ko não (nực cười là nhiều thằng mở miệng ra chê bai chính quyền,chê bai VN dốt đói, tổ chức biểu tình họp hội đủ thứ bên mẽo thì cũng quay về đất VN để ăn chơi ), USD gửi về cho người thân nó xài để ăn hay làm ăn trong nước chứ có phải cho ko nhà nước như của chùa đâu mà bảo người khác bòn rút, dụ khị nó =)) , còn nếu ko làm như thế thì nó lại bảo chính quyền CSVN đàn áp dân hải ngoại, chia rẽ dân tộc bla bla bla =)) , nói mãi mà ko chịu thông mà chỉ dám lên mạng mở miệng toàn loz má lolz mẹ là ngon, cãi lí ra éo thuyết phục nổi ai trong nước (trừ mấy đứa đậu hũ hám tiền hám quyền như con gì đó được các chiến sĩ hải ngoại ca tụng lên tận mây xanh vì dám đấu tranh cho dân chủ tự do bla bla bla nhưng lên facebook của nó thì "mong quan thầy trung quốc dạy chúng nó 1 bài học " ), tối ngày chỉ biết lừa tiền lừa tình bà con hải ngoại, dùng tiền dụ khị con nít trong nước, lên mạng tự sáng tác ra mấy cái clip mấy cái báo lá cải trời ơi đất hỡi, ngồi viết tự sự đặng đổi màu lịch sử là giỏi, dạo này còn có phong trào giả tàu giả khựa lên diễn đàn kích động bưng bô TQ nữa chứ =))

    Ko biết quăng ở đâu quăng đại đây vậy

    Lời tự thú của các phi công Mỹ
    Xem mới hiểu ngoài bọn điên cuồng chống phá quê hương ra thì cũng có ko ít người quan tâm thật sự tới đất nước.
    Dạo này thấy bà con hải ngoại bắt đầu quay về đất nước, mấy lão CCCĐ bị cô lập thì bọn chó điên này có bài , chiêu trò hòa hợp dân tộc mục đích cũng để bòn rút USD gửi về VN cho CSVN ăn chơi, bọn này đúng là phát biểu ko não (nực cười là nhiều thằng mở miệng ra chê bai chính quyền,chê bai VN dốt đói, tổ chức biểu tình họp hội đủ thứ bên mẽo thì cũng quay về đất VN để ăn chơi ), USD gửi về cho người thân nó xài để ăn hay làm ăn trong nước chứ có phải cho ko nhà nước như của chùa đâu mà bảo người khác bòn rút, dụ khị nó =)) , còn nếu ko làm như thế thì nó lại bảo chính quyền CSVN đàn áp dân hải ngoại, chia rẽ dân tộc bla bla bla =)) , nói mãi mà ko chịu thông mà mở miệng thì toàn loz má lolz mẹ, cãi lí ra éo thuyết phục nổi thằng nào trong nước , tối ngày chỉ biết lừa tiền lừa tình bà con hải ngoại, dùng tiền dụ khị con nít trong nước, lên mạng tự sáng tác ra mấy cái clip mấy cái báo lá cải trời ơi đất hỡi là giỏi, dạo này còn có phong trào giả tàu giả khựa lên diễn đàn kích động bưng bô TQ nữa chứ =))

    Ko biết quăng ở đâu quăng đại đây vậy
    Xem mới hiểu ngoài bọn điên cuồng chống phá quê hương ra thì cũng có ko ít người quan tâm thật sự tới đất nước.
    Dạo này thấy bà con hải ngoại bắt đầu quay về đất nước, mấy lão CCCĐ bị cô lập thì bọn chó điên này có bài , chiêu trò hòa hợp dân tộc mục đích cũng để bòn rút USD gửi về VN cho CSVN ăn chơi, bọn này đúng là phát biểu ko não (nực cười là nhiều thằng mở miệng ra chê bai chính quyền,chê bai VN dốt đói, tổ chức biểu tình họp hội đủ thứ bên mẽo thì cũng quay về đất VN để ăn chơi ), USD gửi về cho người thân nó xài để ăn hay làm ăn trong nước chứ có phải cho ko nhà nước như của chùa đâu mà bảo người khác bòn rút, dụ khị nó =)) , còn nếu ko làm như thế thì nó lại bảo chính quyền CSVN đàn áp dân hải ngoại, chia rẽ dân tộc bla bla bla =)) , nói mãi mà ko chịu thông mà mở miệng thì toàn loz má lolz mẹ, cãi lí ra éo thuyết phục nổi thằng nào trong nước , tối ngày chỉ biết lừa tiền lừa tình bà con hải ngoại, dùng tiền dụ khị con nít trong nước, lên mạng tự sáng tác ra mấy cái clip mấy cái báo lá cải trời ơi đất hỡi là giỏi, dạo này còn có phong trào giả tàu giả khựa lên diễn đàn kích động bưng bô TQ nữa chứ =))

    Ko biết quăng ở đâu quăng đại đây vậy

    Lời tự thú của các phi công Mỹ

    http://www.baomoi.com/Loi-tu-thu-cua-cac-phi-cong-My/119/9966204.epi
    "Chúng tôi thiết tha mong rằng những người lãnh đạo của nước Mỹ chấm dứt ngay những cuộc ném bom này. Họ cần làm mọi việc để cuộc chiến tranh chấm dứt ngay, để chúng tôi sớm được trở về với gia đình", thiếu tá không quân Carl H. Jeffcoat gửi lời cầu xin từ Hỏa Lò (Hà Nội)
    "Bám đuôi nhau mà về"?
    Đại úy hoa tiêu B.52 Robert G. Certain khai rành rọt sau khi bị bắt sống: "Chúng tôi xuất phát từ đảo Guam. Khi chúng tôi đang giải trí ở câu lạc bộ sỹ quan, một số đã chuẩn bị đi ngủ thì lệnh trên gọi đi ngay. Lệnh cấp tốc. Hoạt động nhiều tốp. Cùng một lúc.
    Chưa bao giờ huy động lớn đến thế. Ai cũng bất ngờ.
    Bất ngờ hơn nữa là nghe phổ biến nhiệm vụ: đánh vào vùng Hà Nội.
    Chúng tôi lo ngại nhìn nhau. Có đứa bảo: Thế là hết Noel.
    Mấy viên đại tá cơ quan tham mưu bảo chúng tôi: "Không có gì phải lo cả. Đi ném bom đêm. Bay cao. Cứ bám đuổi nhau cho chặt. Chiếc nọ thẳng hàng chiếc kia. Rồi bám đuôi nhau trở về. Sẽ trở về đủ. Không có gì đáng lo cả!".
    Robert còn được các chỉ huy đảm bảo "đi đánh đêm, MIG và trận địa tên lửa không nhìn thấy được", rồi thay vì được ngủ một giấc tại Guam, là đi thẳng vào "Hilton" Hỏa Lò ngủ dài ngày lẫn đêm.
    Còn trung tá lái chính B.52 Henry Ian thì không thể quên những ngày trước khi vào Hỏa Lò "nghỉ ngơi": "Mọi người lên xe Jeep đi tới một dãy nhà một tầng màu xám. Ở đó người ta họp phổ biến nhiệm vụ cho các phi công trước khi đi ném bom. Không khí lặng lẽ và chìm đắm. Những ai chưa đến lượt đi thì nằm tại buồng riêng thở dài, nghĩ đến gia đình. Những người sắp lên máy bay thì lặng lẽ nhìn nhau, không nói chuyện nhiều như trước.
    [​IMG]
    Ảnh tư liệu của Mỹ.



    Trong cuộc họp, người ta còn nói tới cả những hoạt động đi cứu của phi vụ hôm trước, nhưng không nói rõ thiệt hại ra sao. Việc giấu diếm úp mở này càng làm khủng hoảng thêm về tâm lý đối với những người sắp ra đi như tôi lúc bấy giờ. Tất cả là màu xám. Một phòng họp màu xám dưới một bầu trời màu xám.
    ... Hôm ấy là ngày 22/12, máy bay tôi đi đầu tốp thứ 3 trong số 4 tốp của hướng chúng tôi, xuất phát từ Utapao (Thái Lan) lúc 1h30' sáng. Máy bay của tôi chở bom 700 và 500 cân Anh. Lúc bấy giờ chúng tôi đang ở độ cao 10km, tốc độ khoảng 900km/h. Khoảng 4 phút trước khi tới mục tiêu (Hà Nội) thì chúng tôi được báo động có hiện tượng nghi ngờ là máy bay MIG đang săn đuổi. Ngoài ra, với mắt thường, chúng tôi có thể thấy nhiều tên lửa SAM bay vút lên phía chúng tôi.
    Máy bay của tôi bị liên tiếp 2 tên lửa SAM. Sau khi bị hỏng vì quả SAM thứ nhất, chúng tôi không liên lạc gì được với nhau. Tôi đang cố gắng giữ cho máy bay thăng bằng thì bị tiếp quả SAM thứ 2, máy bay bị hỏng nặng. Cửa kính chắn gió ở buồng lái vỡ tung, hệ thống điện trong máy bay hoàn toàn mất hiệu lực, 2 động cơ máy bay bị cháy, cánh trái cháy, điện đài liên lạc để cứu cũng không liên lạc được.
    Tôi là phi công lái chính, và là người chỉ huy phi hành đoàn. Tôi rất muốn liên lạc với mọi người trong nhóm, nhưng cả người lái phụ tôi cũng chẳng biết số phận anh ta ra sao. Ghế dù bật tôi ra khỏi máy bay, chiếc máy bay khổng lồ 8 động cơ mà tôi lái đang cháy sáng rực như một quả cầu lửa lớn. Xung quanh tôi tên lửa, đạn pháo nổ, réo vun vút. Thật là kinh khủng. Khi dù sắp hạ tôi xuống đất thì đã có rất nhiều người chờ sẵn để bắt tôi".
    Trong một kíp bay khác, trung úy, hoa tiêu William Thomas Mayall thì than phiền với những người bắt mình: "Theo quy định của giáo trình dạy người lái B.52, nếu gặp bất trắc phải xử lý nhảy dù thì người lái chính phải ra lệnh cho toàn kíp. Sau đó thứ tự nhảy dù quy định như sau:
    Thứ nhất, người giữ súng được nhảy đầu tiên. Thứ 2 và thứ 3 là hai hoa tiêu, vì không cần đến họ nữa. Thứ 4 là sỹ quan điện tử. Thứ 5 là phụ lái và cuối cùng là lái chính, vì 2 người này phải giữ cho máy bay thăng bằng, phải cầm lái đến giây cuối cùng, đảm bảo an toàn cho kíp bay lần lượt nhảy dù hết. Tài liệu nhắc rõ là người lái chính phải nhảy dù cuối cùng, khi trong máy bay không còn ai.
    Thế nhưng trong máy bay của tôi, hai thằng lái lại nhảy trước tiên. Chúng nó cầm lái, chúng nó nhận ra nguy hiểm đầu tiên. Và chẳng ra lệnh gì cả. Tự chúng nó, hấp! Thoát thân! Mặc chúng tôi. Cũng may, tuy bịt kín tai bằng máy nghe, nhưng tôi thấy máy bay rung mạnh, ngước nhìn lên thì chẳng thấy thằng nào còn ngồi ở ghế cả.
    Tôi liền vội bấm nút nhảy dù. Tôi ngồi tầng dưới, hệ thống nhảy dù của tôi không phải bật lên mà là tụt xuống dưới. Từ bụng máy bay bật thẳng xuống, rơi tõm theo hướng thẳng đứng, khá mạnh. Chậm một tý nữa, máy bay lật ngửa bụng là tôi chết cháy".
    Bị bắt mới biết còn sống
    Còn trung úy bắn súng máy B.52 Robert M. Hudson (trên máy bay Ebony 02) thì thở phào thuật lại tại Hỏa Lò: "Sân bay bao trùm một không khí nặng nề. Phải nói là buồn, rất buồn. Những ngày Noel xấu nhất. Tôi không thấy một ai chạm cốc với bạn bè. Chúc nhau "một Noel vui vẻ" chỉ là những câu chúc gượng gạo và mỉa mai. Tôi cảm thấy có một không khí chán nản, thậm chí bực bội đối với lệnh đi ném bom. Chưa bao giờ, vâng, chưa bao giờ sân bay B.52 lại có cái không khí khổ sở đến thế!
    Bọn hạ sỹ quan B.52 chúng tôi có một mối thắc mắc cố hữu: Sao không cho tên kỹ sư nào đặt ra cái khẩu súng máy này trên máy bay B.52 đi một chuyến cho nó biết?
    Không có việc gì làm. Không phải lo nghĩ gì về đường bay, tốc độ, độ cao, máy điện tử... như năm thằng kia. Tôi chỉ có mỗi một việc là ngồi yên để mà sợ. Nhiệm vụ của tôi là sợ, nhiệm vụ tiếp theo cũng là sợ, nhiệm vụ cuối cùng cũng vẫn là sợ.
    Tôi lại ngồi ở cuối máy bay. Họ dành cho tôi chỗ rất rộng, nơi tên lửa đuổi theo nổ thì chết trước ai hết! Vâng, vào đây tôi mới yên trí là tôi còn sống. Chứ cứ đi mãi, cứ ngồi ở đuôi B.52 mãi, thì khó tránh khỏi cái chết, không còn đường về với gia đình...".
    Việc B.52 bị bắn rơi ngày càng nhiều và nhân viên phi hành bắt sống liên tục đã gieo sự sợ hãi lên cả chỉ huy của chính họ. David L. Drummond, đại úy phụ trách lái B.52 khai: "Suốt 4 hôm (từ 18-21/12), không khí sân bay rất căng thẳng. Câu lạc bộ vắng hẳn. Ít chuyện trò, chẳng ai nói đùa, khôi hài như trước.
    Các cuộc thông báo (briefing) càng căng thẳng hơn. Đại tá David (Chỉ huy Biên đội 307-NV) đứng dậy hỏi chúng tôi: "Các anh xem có cách nào tránh khỏi máy bay bị trúng đạn và khỏi rơi không?". Chúng tôi ai cũng biết con số 11 máy bay B.52 đã bị rơi theo Đài phát thanh Hoa Kỳ. Có lẽ con số ấy còn thấp. Không một ai trả lời câu hỏi của David. Nhiều người quay lại bọn E.W.O (sỹ quan điện tử), bọn này cũng im lặng. Đến ngày 25 thì không khí còn căng thẳng hơn nữa".
    Trong khi đó, tại Hà Nội, William W. Conlee (trung tá điều khiển máy điện tử B.52) thừa nhận: "Chúng tôi được đến tận nơi xem một dãy phố dài, một bệnh viện lớn. Chúng tôi rất ngạc nhiên và rất hổ thẹn. Chúng tôi bị cấp trên lừa. Vâng. Đúng là sự lừa dối. Họ bảo là mục tiêu quân sự, nhưng thật ra là vùng đông dân. Bom ném theo bản đồ được đánh dấu kỹ, không thể lầm lẫn!".
    Sự ám ảnh của Conlee trong những ngày bị bắt tại Hà Nội rất khó có thể phai nhòa: "Tôi cứ nhớ mãi quanh cảnh những hố bom giữa Hà Nội. Cái bảng lớn đề những dòng chữ màu đỏ và đen: Đời đời ghi xương khắc cốt tội ác của giặc Mỹ (Conlee không nhớ nguyên văn - NV) cứ ám ảnh tôi. Tôi biết rằng người Việt Nam lúc bắt tôi dù có đánh và xé xác tôi ra, chúng tôi cũng phải chịu.
    Thế nhưng các ông không đối xử như thế. Vào đến đây, mọi suy nghĩ của chúng tôi bị đảo lộn. Đảo ngược hẳn. Cứ muốn giữ những hiểu biết và quan niệm cũ, nhưng thực tế lại khác. Đất nước chúng tôi trải qua một thời kỳ xấu, rất xấu".
    Còn Louis H. Bernasconi (trung tá hoa tiêu B.52) đã hình dung ra sự thật của lệnh ném bom hủy diệt Hà Nội từ tổng thống Mỹ: "Ở trường huấn luyện đội ngũ người lái chiến đấu của Bộ Chỉ huy không quân chiến lược tại căn cứ tại Califonia, người ta dạy chúng tôi rằng B.52 là để ném bom những mục tiêu cực lớn, những khu liên hợp quân sự rộng hàng chục dặm vuông. Mục tiêu loại này ở Việt Nam không hề có. Tôi hiểu rằng dùng B.52 ném bom những vùng đông dân chính là để sát thương thật nhiều nhằm mục đích gây sức ép".
    Carl H. Jeffcoat (thiếu tá phi công B.52) thì khẳng định sau khi được đưa tới chứng kiến sức tàn phá của bom Mỹ tại bệnh viện Bạch Mai: "Thế là rõ. Chúng tôi bị lừa. Chỉ có thể là như thế. Họ bảo chúng tôi là ném bom mục tiêu quân sự. Đánh liền bốn lần vào một bệnh viện lớn, với hàng chục tấn bom thì không thể gọi là nhầm lẫn được.
    Tôi thất vọng. Tôi buồn. Vì lòng tin của tôi vào Tổng thống của chúng tôi sụp đổ. Bây giờ thì những điều các ông nói đều đúng. Cuộc chiến tranh này rất xấu.
    Tôi xin nói thật, nếu biết rằng bom rơi xuống những vùng đông dân ở như thế, thì tôi, và nhiều người chúng tôi sẽ không đi!".
    Trong khi đó, tại Washington, các nghị sỹ đảng Dân chủ ra tối hậu thư: "Không có yêu cầu dân tộc nào hơn yêu cầu chấm dứt ngay lập tức sự dính líu của chúng ta (Mỹ) trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam".
    Ngày 30/12/1972, Nixon rốt cuộc đã phải xuống thang, tuyên bố chấm dứt ném bom hoàn toàn miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, có hiệu lực từ 7h ngày 28/1/1973. Kisingger đã phải thừa nhận với các đại biểu Việt Nam tại Paris rằng: "Các ngài không những anh hùng lại thông minh".
    12 ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không" đã là đòn giáng mạnh vào "Tư tưởng sùng bái công nghệ và máy móc, coi học thuyết ném bom chiến lược như một giải pháp cho mọi cuộc xung đột và bom là thứ thuốc bách bệnh của Mỹ" (E.Tinpho, "Không quân Mỹ làm được gì ở Việt Nam?")./.
    ----
    Trường Minh

    (Trong loạt bài này, phóng viên có sử dụng, tham chiếu các ấn bản, tài liệu, bài viết, tư liệu của Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng, các tác giả Quỳnh Vân, Đỗ Lai Hùng (báo Phòng không - Không quân) và nghiên cứu của nhiều tác giả khác. Trân trọng cám ơn các tổ chức, cá nhân đã giúp đỡ phóng viên và báo VietNamNet hoàn thành loạt bài này).
  3. ttanh919

    ttanh919 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2008
    Bài viết:
    518
    Đã được thích:
    148
    Cái đoạn trần thuật của ông trung úy hoa tiêu làm em mém chết sặc vì cười [:D]
  4. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Có một chút thắc mắc nhỏ bác nào giải đáp dùm, đó là thời gian qua truyền thông VN cả dân sự cả QS đã "lộ" hết bí mật bài vở đánh B52. Ví dụ như tiết lộ đài ra đa cao xạ miễn nhiễm với gây nhiễu địch, băng sóng, dải tần, rãnh đan, chiến thuật đón lõng MB Mỹ ngoài biên giới..v..v.trước đây không tháy nói vậy chỉ phỏng đoán lờ mờ, thế thì tại sao ta lại rộng rãi thông tin như thế, mặc dù biết đó chỉ là cái PA chung chung, không chi tiết:-w
  5. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Đúng ra mình nên đưa link để tham khảo, nhưng dán luôn để ace cùng chiêm nghiệm quan điểm, tư tưởng và phong cách của lãnh đạo cao nhất của NN CHXHCNVN

    B]'Không lợi ích nào khác ngoài lợi ích Tổ quốc'[/B]
    Cập nhật lúc :2:52 PM, 14/12/2012
    Bài viết của ************* Trương Tấn Sang nhân ngày kỷ niệm 68 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam.
    Kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, tôi muốn tiếp tục nói lên những suy nghĩ của mình về tình hình đất nước hiện nay liên quan đến hai nhiệm vụ chiến lược, là bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

    Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 22-12-1944. Đó là ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, dựa vào sức mạnh của nhân dân và nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam, sự đoàn kết, giúp đỡ của nhân dân và quân đội các nước anh em, vừa chiến đấu vừa xây dựng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển từ nhỏ đến lớn, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn và trưởng thành vượt bậc. Sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam thể hiện trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược bắt nguồn từ truyền thống yêu nước được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tình đoàn kết quân dân, đoàn kết nhất trí giữa cán bộ và chiến sĩ, mưu trí dũng cảm trong chiến đấu, năng động, sáng tạo trong sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật phù hợp với nghệ thuật quân sự Việt Nam, chiến trường Việt Nam.

    Kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, bên cạnh niềm tự hào về một quân đội bách chiến bách thắng, còn là dịp để chúng ta nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc hơn tất cả những gì mà quân đội của chúng ta đã từng và đã trải, đã chiến đấu, hy sinh, để trưởng thành lớn mạnh, để thắng lợi vẻ vang; là dịp để chúng ta tôn vinh tất cả những thế hệ đã hiến dâng cuộc đời mình cho vinh quang của dân tộc, cho độc lập, tự do của đất nước; là dịp chúng ta tưởng nhớ những người đã mất và cố gắng làm tròn trách nhiệm của những người còn sống, đang sống...

    Ngày 22-12 sẽ mãi mãi là một Ngày Anh Hùng!

    Nhưng ý nghĩa của ngày này chỉ trở nên thật đầy đủ khi chúng ta phát huy thật tốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước hôm nay.

    Mấy vấn đề thực tế

    Quý vị độc giả hãy miễn thứ, và nếu có thể, hãy chia sẻ với tôi nếu như đôi chỗ trong bài viết này không đi theo khuôn mẫu thường thấy. Sự dè dặt, thận trọng quá mức và khuôn mẫu thường đem đến cảm giác an toàn cho người phát biểu, nhưng trong nhiều trường hợp, nó thật sự chưa thể lột tả được bản chất của vấn đề.

    Có thể thấy được nguyện vọng thiết tha của mọi đảng viên và công dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, trên đất liền, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc, trong xây dựng Đảng, củng cố Nhà nước, xây dựng đất nước, trong việc không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Đó luôn là nguyện vọng, là quyền đòi hỏi chân chính và cấp bách. Đòi hỏi ấy đang đứng trước những thách thức to lớn.

    Tôi muốn trước hết đề cập đến vấn đề kinh tế và tư tưởng. Kinh tế có mạnh, tư tưởng có vững, cả dân tộc có đoàn kết thống nhất, thì Quân đội mới có khả năng để trở thành một quân đội vô địch. Không có một quân đội mạnh trên nền tảng một xã hội chia rẽ, mất tinh thần, không sẵn sàng chiến đấu, đất nước thiếu sinh lực. Sức mạnh của quân đội, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc phải trên cơ sở sức mạnh của quốc gia. Đó là sức mạnh tổng hợp của cả chính trị, kinh tế, tư tưởng; của quân đội và nhân dân; tiền tuyến và hậu phương; đối nội và đối ngoại... Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng dân giàu, nước mạnh và đặc biệt là đoàn kết toàn dân tộc thì kẻ thù nào cũng sẽ không dám xâm lược nước ta, nếu có, chúng chỉ chuốc lấy thất bại mà thôi.

    Về kinh tế, sau nhiều năm đất nước phát triển đầy hưng phấn, nay do nhiều nguyên nhân, cả bên trong và bên ngoài, đang lâm vào tình trạng suy giảm. Nguyên nhân bên trong có nhiều nhưng trong đó phải kể đến khuyết điểm của lãnh đạo và quản lý... Gần đây, báo chí và dư luận hằng ngày đề cập đến những “nhóm lợi ích”, đâu đó có hành vi thâu tóm quyền lực kinh tế làm cho lòng dân không yên, các định chế tài chính hoạt động bộc lộ yếu kém, nợ công cao, đầu tư dàn trải và tệ tham nhũng, lãng phí gây thiệt hại nghiêm trọng các nguồn lực quốc gia; lạm phát ở mức cao; thu nhập thực tế và đời sống của người dân khó khăn hơn; cùng với các tai, tệ nạn xã hội có dịp bùng phát; lối sống ích kỷ, suy đồi, vô cảm, vô trách nhiệm hiện diện ở nhiều lĩnh vực của cuộc sống... Tất cả những thực tế đó làm suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

    Về tư tưởng, chưa bao giờ như trong vòng một năm qua, xuất hiện rất nhiều dư luận, trong đó có những tư tưởng và dư luận nguy hiểm, gây chia rẽ trong Đảng, giữa Đảng với nhân dân; cá biệt có người đòi “phi chính trị hóa quân đội”. Thử hỏi trên thế giới này có ở đâu và bất cứ việc gì lại ít nhiều không mang tính chính trị? Họ khoét sâu những yếu kém trong lãnh đạo, quản lý đất nước hoặc những khuyết điểm, sai phạm của một số cán bộ để gây phân tâm trong dư luận xã hội và ở chừng mực nào đó, họ đã đạt được những “kết quả” nhất định, làm cho xã hội trở nên bất ổn hơn.

    Không thể không đề cập đến một mối lo ngại trong xã hội về khả năng xảy ra xung đột trong khu vực, liên quan đến Việt Nam; lo ngại về khả năng ứng phó của Đảng, Nhà nước, Quân đội ta trong tình hình thế giới rất khó lường hiện nay. Đã có nhiều cuộc đối thoại trong, ngoài nước và nhiều bài viết trên báo chí về chủ đề này. Một số hãng tin nước ngoài đã dùng chủ đề này như một phương tiện hữu hiệu để chuyển sự chú ý của dư luận theo hướng phục vụ cho ý đồ của họ. Có những trang mạng xã hội còn gây nghi ngờ trong nhân dân về chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, thậm chí họ còn vu cáo, xuyên tạc rằng Đảng ta “bán rẻ đất nước”. Những luận điệu kiểu đó rất nguy hiểm, cần phải cảnh giác, bởi nếu không, nó sẽ gieo những mầm mống độc hại, cùng với những áp lực xuất phát từ những khó khăn trước mắt về kinh tế và tư tưởng, làm cho đất nước ta càng thêm khó khăn.

    Sự hình thành và phát triển của Đảng đã chứng minh, Đảng ta không ngại phê bình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có loại phê bình xây dựng và có loại phê bình không phải là xây dựng, thậm chí là phá hoại. Không phải ai và lúc nào cũng phân biệt được sự phê bình xây dựng với sự phê bình phá hoại, và trong những lúc trắng đen chưa rõ ràng, thì dư luận dễ bị lạc hướng; những thiện chí bị lợi dụng bởi những tư tưởng có hại, đầu độc bầu không khí chính trị của đất nước. Nếu chúng ta không ý thức đúng mức những lo lắng của cộng đồng và bị những tư tưởng độc hại chi phối, sẽ bị dao động về ý chí, thậm chí bất mãn, ngả theo kẻ xấu, trở thành công cụ cho bất kỳ kẻ nào thừa cơ hội đứng lên khoác áo “nghĩa hiệp” và đưa đất nước đi đến chỗ hỗn loạn.

    Tình trạng suy giảm kinh tế và sự suy thoái về tư tưởng chính trị nếu không được sớm chặn đứng, sẽ đặt tương lai của đất nước ta trước thử thách khốc liệt. Đúng như nhận định của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) là những nguy cơ đó liên quan đến sự “tồn vong” của chế độ, đồng thời nó cũng đe dọa trực tiếp đến sự thành công của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    Chúng ta phải làm gì?

    Trước hết, với tư cách là người có trọng trách trong Đảng và là người đứng đầu Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, tôi xin khẳng định rằng: Đảng, Nhà nước ta không bao giờ bán nước cho các thế lực bên ngoài như những kẻ xấu vu cáo.

    Dù còn những khuyết điểm, yếu kém, nhưng Đảng và Nhà nước ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.

    Hành động bán nước hay những việc làm tương tự sẽ chịu sự nguyền rủa, oán hận của các thế hệ sau này, cũng như chúng ta đã từng phê phán nghiêm khắc những nhân vật và những chế độ như thế trong lịch sử.

    Non sông đất nước ta, khắp nơi, những cảnh, những người, những phong tục tập quán, đâu đâu cũng đẹp và lòng chúng ta đau đớn khi nghĩ đến những nét đẹp ấy có thể bị vùi dập hay thậm chí bị lãng quên. Chúng ta không thể để cho viễn cảnh đen tối đó trở thành hiện thực.

    Chúng ta có lúc tự ti hay bi quan về một số việc chúng ta làm chưa được bằng người, nhưng chúng ta cũng hiểu rằng, để phát triển và hoàn thiện không chỉ cần có thời gian, mà cần cả mồ hôi, nước mắt, kể cả máu. Không thể ngồi đó, so sánh và chẳng làm gì để xây dựng, thậm chí lại chửi bới - thái độ đó làm hạ thấp giá trị của mỗi một chúng ta và làm suy yếu hơn nữa khả năng phát triển đất nước. Không có hành động nào làm tàn hại đất nước nhanh hơn sự kích động, gây chia rẽ dân tộc; bởi trong một hoàn cảnh vô tổ chức, không một công việc gì của tập thể có thể thực hiện được, huống hồ là những mục tiêu to lớn, cao đẹp, mà để thực hiện, đòi hỏi phải có sự nỗ lực lớn lao của cả cộng đồng dân tộc.

    Thái độ cần thiết hiện nay, dù có khác biệt nào chăng nữa, thì tất cả các giai tầng xã hội, các tầng lớp nhân dân cần hành động với một động cơ duy nhất, đó là vì lợi ích của dân tộc, vì sự ổn định chính trị, vì sự bình yên của xã hội để làm ăn và phát triển kinh tế, cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình đại đoàn kết, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Mọi hành động phá hoại mục đích đó hoặc khoét sâu thêm những bất đồng để đẩy đất nước đến bờ vực của sự hỗn loạn, phải bị loại trừ và lên án.

    Thái độ tích cực đó cần được thể hiện trong mọi khía cạnh của cuộc sống, trong đó có việc cấp bách hiện nay là tiếp tục kiên trì thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống phải bị chặn lại. Tham nhũng, tiêu cực phải kiên quyết loại trừ để cho bộ máy thực sự trong sạch vững mạnh, nhưng đồng thời phải làm sao giữ được sự ổn định, tránh sa vào những sai lầm ấu trĩ có thể dẫn đến những hậu quả tồi tệ về chính trị-xã hội. Mặt khác, cũng không thể nhân danh sự ổn định chính trị- xã hội để dĩ hòa vi quý và thỏa hiệp với cái xấu, cái sai. Đây thực sự là một yêu cầu khó khăn, đòi hỏi sự tỉnh táo, sự quyết tâm, sự đoàn kết nhất trí và bản lĩnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Tôi nhận thức sâu sắc rằng, nhân dân ta, các lực lượng vũ trang ta trông đợi vào kết quả thực chất của công cuộc này để củng cố lòng tin của mình vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta. Đây là thời cơ chính trị chúng ta phải nắm lấy, tạo ra sự chuyển biến mới như một cột mốc trong quá trình phát triển. Được như vậy, sức mạnh của chúng ta sẽ tăng lên gấp bội, trong đó có sức mạnh quốc phòng-an ninh.

    Một trong những bất cập chính trong công tác quản lý nhà nước hiện nay là có việc thì tập trung quá mức, có việc thì lại phân cấp quá mức nhưng lại thiếu kiểm tra, đặc biệt là công cuộc cải cách hành chính quá chậm chạp và có nguyên nhân từ sự suy thoái của một số cán bộ, công chức các cấp, các ngành, đang cản trở sự phát triển đất nước. Toàn dân ta không ai muốn duy trì tình trạng này.

    Tôi cũng mong muốn tất cả mọi người nhìn nhận đúng đắn một thực tế đáng buồn là, phải chăng sau khi đã trở nên khá giả hơn, một bộ phận người Việt Nam trở nên ít khát vọng trong sáng, thậm chí trở nên sa đọa về đạo đức lối sống. Những người như vậy cần nhìn nhận điều đó một cách cầu thị, thay đổi cách nghĩ, đồng hành cùng dân tộc, vì sự nghiệp chung, tiếp nối giá trị văn hóa tốt đẹp của cha ông thì cuộc sống mới có ý nghĩa.

    Nhưng quan trọng hơn, cần phải có những “cú huých” đủ mạnh từ phía luật pháp, chính sách và dư luận để làm cho xã hội tốt đẹp hơn, ở đây tôi muốn kêu gọi cả sự thức tỉnh của đạo đức, của lương tâm để có sự chuyển biến mạnh mẽ.

    Rõ ràng, thực tế đang đặt ra những yêu cầu cao đối với công tác quản lý nhà nước, chống lại tệ quan liêu, trì trệ, tham nhũng, “lợi ích nhóm” hay lợi ích cục bộ của ngành này, ngành khác; phải có những tiêu chí mới để đánh giá cán bộ trên cơ sở hiệu quả thực chất, vì lợi ích chung, chứ không phải những quy định mà người ta có thể lợi dụng theo ý muốn của mình.

    Tất cả mọi việc đều có nguyên nhân từ con người. Để có cán bộ tốt, không thể chỉ kêu gọi chung chung, mà trước hết phải bằng chính sách, luật pháp, kỷ luật, kỷ cương và tất nhiên cao hơn thế nữa là phải xây dựng đạo đức con người ngay từ khi còn nhỏ, khi cắp sách đến trường. Chúng ta có thành công hay không trong việc thực hiện những mục tiêu xây dựng và bảo vệ đất nước, khâu cốt yếu tùy thuộc ở yếu tố cán bộ và dựa trên tinh thần kỷ luật, kỷ cương. Có kỷ luật, kỷ cương thì bộ máy mới tốt và vận hành thông suốt. Bộ máy càng lớn, kỷ luật càng trở nên cấp thiết, nếu không sẽ xuất hiện tình trạng vô tổ chức. Vì thế, hơn lúc nào hết, luật pháp và kỷ luật cần phải được tôn trọng triệt để.

    Chúng ta phải làm mọi điều có thể để trong ngắn hạn phải ổn định kinh tế vĩ mô, lấy lại sự hưng phấn trong phát triển kinh tế cũng như niềm tin của nhân dân và doanh nghiệp. Không có niềm tin thì người dân, doanh nghiệp, cả nhà đầu tư nước ngoài, không ai dại gì đầu tư, kinh doanh để phải chấp nhận rủi ro. Bài học trong suốt 67 năm qua là, khi nào có niềm tin của nhân dân, thì dù có khó khăn đến đâu, chúng ta cũng nhất định vượt qua và vươn tới.

    Đã đến lúc chúng ta phải hành động quyết liệt, phải tháo bỏ các rào cản phục vụ cho tăng trưởng, điều hòa các lợi ích xã hội; phải đổi mới và cương quyết thực hiện bằng được những mục tiêu về chính trị-kinh tế-xã hội đã đề ra.

    Nhân đây, tôi cũng đánh giá cao vai trò của các cơ quan truyền thông, báo chí và cả các trang mạng thông tin có trách nhiệm đối với đời sống xã hội, các bạn hãy thực sự là người “chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng”, bên cạnh việc đấu tranh mạnh mẽ với cái xấu, hãy cổ vũ và làm nảy sinh những điều tốt đẹp vì nước, vì dân của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, góp phần tăng cường niềm tin vào tương lai tốt đẹp của đất nước nhất định sẽ thành hiện thực; và rằng: Hiện tại không có con đường nào khác ngoài con đường xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng và bảo vệ đất nước mình. Tôi tin rằng, nhân dân ta cũng rất muốn nghe các bạn kể những câu chuyện tốt đẹp có thật trong cuộc sống, khả dĩ có thể nhân rộng, lấn át đi những cái xấu, có tác dụng làm sáng trong và tươi đẹp tâm hồn.

    Chắc chắn các bạn sẽ làm tốt điều đó!

    Tôi ý thức một cách rõ ràng rằng, để thực hiện hữu hiệu các mục tiêu bảo vệ và xây dựng Tổ quốc không chỉ bằng những lời hô hào, kêu gọi. Lúc này, rất cần lòng nhiệt huyết, niềm tin và sự chung tay, góp sức của toàn dân tộc. Quân đội và các lực lượng vũ trang ta, càng không phải ngoại lệ, không chỉ với những vấn đề thuần túy quốc phòng-an ninh, mà cả với các vấn đề quốc kế dân sinh.

    Sức mạnh của dân tộc chúng ta

    Thực hiện hiệu quả những công việc nói trên cũng là góp phần thiết thực nâng cao năng lực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Xét cho cùng, cái gốc của bảo vệ Tổ quốc cũng chính là lòng dân. Lòng dân chính là sức mạnh không có giới hạn. Chúng ta đã nói nhiều đến “thế trận lòng dân”, “nền quốc phòng toàn dân”, nghệ thuật quân sự độc đáo của chúng ta chính là “nghệ thuật chiến tranh nhân dân”. Đó cũng là đặc trưng của Quân đội nhân dân Việt Nam, có truyền thống từ ngàn xưa. Dân là gốc. Đã là người sĩ quan, chiến sĩ Quân đội nhân dân thì phải luôn đề cao tính chính trị, tuyệt đối trung thành với Nước, với Dân, với Đảng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Xây dựng và bảo vệ đất nước là hai nhiệm vụ chiến lược quyện chặt vào nhau. Thời bình Quân đội phải giúp dân, cùng với Đảng, chính quyền và dân chăm lo phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, hướng vào những vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn; biên giới và hải đảo mà có dân cũng là cách bảo vệ biên giới và hải đảo tốt nhất...

    Theo nhiều nhà phân tích chiến lược, thế giới và khu vực đang bước vào một cuộc chạy đua vũ trang mới. Chúng ta chưa bao giờ là người khởi xướng những cuộc chạy đua như vậy. Đó cũng không phải là sự lựa chọn phù hợp với chủ trương và khả năng của chúng ta.

    Sách trắng quốc phòng của Việt Nam ghi rõ, “sức mạnh quốc phòng được xây dựng bằng nguồn lực mọi mặt của đất nước và con người Việt Nam, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đồng thời tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của các nước bè bạn có chung mục đích đấu tranh cho hòa bình, độc lập và phát triển của khu vực và thế giới. Việt Nam không tham gia bất kỳ hoạt động nào sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực với các nước khác, nhưng sẵn sàng tự vệ chống lại mọi hành động xâm phạm lãnh thổ trên bộ, vùng trời, vùng biển và lợi ích quốc gia chính đáng của Việt Nam; không chạy đua vũ trang nhưng chúng ta luôn củng cố sức mạnh quốc phòng đủ để tự vệ”.

    Tôi cho rằng, bản chất và động lực phát triển của chúng ta không dựa trên những nhân tố bạo lực, mà đòi hỏi ở Đảng và Nhà nước ta một sự lãnh đạo sáng suốt, mềm dẻo, khai thác hợp lý những nhân tố phi bạo lực, những cơ hội trong bối cảnh hiện tại để tìm cách phát triển. Đồng thời đối với chúng ta, đầu tư cho quân sự, cho quốc phòng là nhằm mục đích tự vệ, bảo vệ Tổ quốc, không gây lo ngại về an ninh cho các nước khác. Trên thực tế, dù chúng ta có dồn hết mọi nỗ lực của đất nước vào lĩnh vực quốc phòng thì cũng chưa đủ, bởi do nguồn lực hạn hẹp nên chi phí quốc phòng của chúng ta thấp hơn nhiều so với các nước phát triển hoặc các nước lớn. Chúng ta xây dựng quân đội trong khả năng có thể, bao gồm cả tiềm lực chính trị, kinh tế, khoa học-công nghệ và quân sự.

    Sức mạnh của chúng ta phải là ở sức mạnh của chính nghĩa, được thế giới ủng hộ. Việt Nam phải là “lương tri của thời đại” như thế giới từng tôn vinh.

    Sức mạnh của chúng ta phải là sức mạnh của lòng dân, của tinh thần đoàn kết, nhất trí toàn dân tộc. Đất nước sẽ không thể đứng vững bởi sự chia rẽ. Sự chia rẽ dân tộc chính là cơ hội cho những kẻ xâm lược.

    Sức mạnh của chúng ta là ở truyền thống quật cường đã được hình thành từ hàng ngàn năm lịch sử, từng là nguyên nhân để chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù hung bạo; sức mạnh của chúng ta còn là sức mạnh của cách đánh, khả năng tác chiến và cách thắng...

    Nhân dân Việt Nam yêu hòa bình; hữu nghị, hòa hiếu vốn là truyền thống văn hiến của dân tộc ta. Chúng ta làm tất cả để hòa bình luôn được hiện diện. Sinh lực của cộng đồng dân tộc chúng ta đã từng được huy động tối đa vào các cuộc kháng chiến giành độc lập đầy hy sinh, giờ đây, những sinh lực ấy phải là của báu để bảo vệ và phát triển đất nước.

    Độc lập và phát triển đất nước luôn là mục tiêu và động lực chính yếu của dân tộc chúng ta.

    Khi có kẻ thù nào xâm lược nước ta, thì như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Chúng ta sẽ huy động tất cả mọi sức mạnh để tự vệ và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

    Đôi lời cảm xúc

    Nhân Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12, cho phép tôi với tư cách đồng đội, xin chia sẻ niềm vui với toàn thể các vị tướng lĩnh, sĩ quan, cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng, các đồng chí cựu chiến binh, các gia đình liệt sĩ, các đồng chí thương binh, bệnh binh trên cả nước.

    Vào những ngày này, âm hưởng của những bài thơ, bài ca cách mạng, những bài hát ca ngợi người chiến sĩ từng làm xúc động bao trái tim Việt Nam, đang đầy ắp trong xúc cảm và hồi ức của chúng ta.

    Hôm nay không phải lần đầu tiên tôi cảm thấy vô cùng tự hào về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, tự hào về hình ảnh "Bộ đội *****”- một biểu tượng không chỉ đẹp về thể chất mà còn ở những nét đẹp của tinh thần đoàn kết, nỗ lực vượt qua khó khăn, gian khổ, trên hết là tình yêu Tổ quốc, yêu nhân dân nồng nàn, sâu lắng và có những nét nổi trội khó có thể thấy được ở những đội quân nào khác... Trong niềm xúc động, tự hào đó, tôi xin dừng bài viết này bằng việc dẫn câu thơ của Nhà thơ Vũ Cao, như một lời nhắn nhủ:

    “Anh đi bộ đội sao trên mũ/Mãi mãi là sao sáng dẫn đường...”.

    Theo Báo Quân đội Nhân dân
  6. bachluutuan

    bachluutuan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/11/2012
    Bài viết:
    35
    Đã được thích:
    5
    các bác nen xem bộ phim "sống giữa trời và đất" của Oliver Stone dựa theo hồi ký của bà Lệ Lý có thể mọi người sẽ thấy thế nào là CT rõ hơn, CT qua lâu rồi, chửi rủa nhau làm, gì cùng một nòi giống người VN âu chỉ là quan điểm khác nhau cuả từng người. Có người tin CHXH người không đấy là chuyện BT thôi
  7. dongthap10

    dongthap10 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    20/07/2006
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    22
    Không lực đề thất tại VN
    [​IMG]

    [​IMG]

    40 năm Biện Biên Phủ trên không

    [​IMG]

    [​IMG]
  8. rongdoiday

    rongdoiday Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2012
    Bài viết:
    32
    Đã được thích:
    1
    CHIẾN CÔNG THẦM LẶNG CỦA TÌNH BÁO QUÂN ĐỘI



    (Petrotimes) - Trái ngược với nỗi lo sợ về sức mạnh hủy diệt khủng khiếp của B-52 tưởng như có thể san phẳng cả Hà Nội, đưa Hà Nội trở về “thời kỳ đồ đá” như kẻ thù hăm dọa, Tổng hành dinh - nơi Bộ chỉ huy thống soái của cuộc quyết chiến chiến lược vẫn không hề rời Hà Nội. Các tướng lĩnh, lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước có mặt trong thành cổ, ngay dưới hầm chỉ huy để kịp thời xử lý mọi tình huống, ban ra những mệnh lệnh chính xác.
    Trong 12 ngày đêm tháng Chạp 1972 ấy, điều gì đã xảy ra ở Tổng hành dinh? Một trong số ít người nắm chắc những câu chuyện ấy là Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến (Bộ Tổng tham mưu)…
    “Kiểm định” tên lửa
    Trong 12 ngày đêm ấy, ông đảm trách nhiệm vụ trực ban tác chiến phòng không tại Tổng hành dinh. Ông cũng là người được giao nhiệm vụ trực tiếp bấm nút còi báo động mỗi lần B-52 bay vào Hà Nội.
    Trong vô vàn khó khăn của việc tìm tòi cách đánh B-52, theo Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh, có một cái khó “trên trời rơi xuống”. Khoảng năm 1967 đến 1968, B-52 được Mỹ cải tiến gây nhiễu rất mạnh, gần như kẻ thù “bịt mắt radar” của ta. Không dừng lại ở đó, ngày 5-6-1967, quân đội Ai Cập choáng váng trong đợt tập kích của Israel, radar không phát hiện được, nhiều bộ khí tài tên lửa của Liên Xô bị thu giữ.
    Có những bộ khí tài này, Mỹ đã dày công nghiên cứu và vô hiệu hóa hệ thống chống nhiễu cũng như không còn khả năng điều khiển tên lửa sau khi phóng. Với sự thay đổi “âm thầm” này, quân Mỹ hết sức chủ quan, coi thường tên lửa Việt Nam, coi như đã loại được tên lửa ta ra khỏi cuộc chiến với B-52.
    “Trong tác chiến công nghệ cao, nó làm nhiễu, bịt mắt mình thì ai cũng hiểu, địch thì bịt mắt, ta thì vạch nhiễu tìm thù nhưng bây giờ nguy hiểm hơn là ở chỗ cái rãnh của tên lửa. Nó biết tần số, nó nhằm vào cái rãnh, tạo nhiễu vào rãnh là không điều khiển được tên lửa nữa, làm cho đạn rơi xuống. Suốt một thời gian dài, ta bắn tên lửa toàn bị rơi xuống đất là vì thế. Có trận ở Hải Phòng, ta bắn tới 90 quả tên lửa không diệt được máy bay B-52 nào cũng vì thế.
    Lại có chuyện một quả tên lửa rơi xuống nhà dân, làm chết cả gia đình, khiến bộ đội ta day dứt lắm. Lúc đó, có nhiều ý kiến chủ quan, vội cho rằng bộ đội ta bị “nhiễu tư tưởng”, nhưng sự thật đâu phải thế” - Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh nhớ lại.
    [​IMG]

    Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh (trái)
    Một bữa, ông Nguyễn Xuân Mậu, Phó chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân mời ông Ninh, trên cương vị là Trợ lý tác chiến Phòng không của Cục Tác chiến xuống quân chủng. Ông Mậu chẳng nói chẳng rằng, mời ông Ninh đi thẳng xuống một đơn vị chiến đấu, lệnh mở máy rồi mời ông Ninh vào xem. Nhiễu dày đặc. Ông Mậu nói nhiễu dày cũng không nguy hiểm bằng phóng đạn ra lại rơi ngay xuống đất. Trung đoàn tính toán thấy nhiễu thế không đánh được. Ông Mậu nói, không phải chúng tôi “nhiễu tư tưởng” đâu mà dường như kỹ thuật có vấn đề rồi! Phải nghe bộ đội, giờ anh bảo tôi phóng, tôi phóng ngay nhưng…
    Từ thực tế đó, ông Ninh và lãnh đạo Quân chủng Phòng không - Không quân đã đi đến một nhận định hết sức đúng đắn: Phải nghiên cứu nghiêm túc, phải đặt vấn đề với chuyên gia Liên Xô. Đây là một vấn đề tối mật. “Quả tên lửa lên không trung rồi, muốn điều khiển nó, có những lệnh sang phải, trái đều được mã hóa, nó báo cáo về, đài tự động giải mã, lệnh liên tiếp nhưng không công khai, thế mà địch nó biết vì nó lấy được bộ khí tài của Ai Cập, nó nghiên cứu rất sâu… Kiến nghị và nhận định của chúng tôi đã được Bộ Quốc phòng ghi nhận” - ông Ninh kể.
    Suốt năm 1968, tên lửa chỉ đánh vu vơ, bộ đội tên lửa lo lắng. Rất may là khi đặt vấn đề với Liên Xô, bạn đồng ý ngay, đưa cả tổng công trình sư của tên lửa sang Việt Nam nghiên cứu. Ông tổng công trình sư có mặt, mắt thấy tai nghe nhiều cú phóng thất bại. Cuối cùng ông đã gật đầu: Phải quyết định cải tiến cả bộ khí tài và cả tên lửa. Cải tiến rất cơ bản. Ông cũng rất khâm phục phát hiện của bộ đội Việt Nam, đây là một phát hiện có tính lịch sử, đã được trả giá bằng máu. Nếu không có cải tiến này, khó mà có chiến thắng B-52 năm 1972.
    Thêm một chuyện mà các nhà tên lửa chưa tính đến. Theo thiết kế, các bộ khí tài thường không được cơ động xa, trong khi để đánh máy bay Mỹ, ta cho khí tài cơ động vào Nam ra Bắc, nhiều thiết bị bị “xộc xệch”. Bộ đội Việt Nam đặt vấn đề phải “kiểm định” lại toàn bộ khí tài tên lửa. Phía Liên Xô đồng ý.
    “Một ông đại tá đi máy bay, mang cả một phòng thí nghiệm sang, kéo hết khí tài về đo chỉnh, chuẩn hóa lại nhiều thứ tần số, phải mất 3 tháng trời, đến ngày 22/12/1971 mới xong. Như vậy, mình được 3 năm cật lực để chuẩn bị và bước vào 1972 với bộ khí tài đã được “chỉnh sửa”, chúng ta tự tin có thể đánh được các loại máy bay của Mỹ, xử lý được các loại nhiễu. Việc này có công lao rất lớn của các bạn Liên Xô” - ông Ninh khẳng định.
    chiếm ưu thế chủ động
    Là một cán bộ tác chiến, ông Ninh rất chú ý đến việc vì sao chúng ta không bị bất ngờ trong câu chuyện B-52. Khi đó, mặc dù Richard Nixon dùng “động tác giả”, điện cho ông Phạm Văn Đồng coi như hiệp định đã xong, có thể ký được rồi. Còn Kissinger thì nói hòa bình trong tầm tay. Mỹ còn ngừng ném bom từ cầu Hàm Rồng ra bắc, chỉ đánh khu 4 rất ác liệt để ta tưởng sắp ký đến nơi và giành thế bất ngờ.
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc đó bận vô cùng nhưng ngày 28/6/1972 đã có buổi làm việc với Tư lệnh Phòng không - Không quân Lê Văn Tri. Ông Ninh cũng được tham dự. Đại tướng nói: “Giờ thì ai cũng có thể dự báo B-52 đánh vào Hà Nội rồi nhưng chúng sẽ đánh như thế nào? Rồi Đại tướng khẳng định ngay, “ta phải đánh lớn” và giao cho Bộ Tổng tham mưu mở chuyên đề về việc này.
    Sau 7 ngày chuẩn bị, ngày 6/7/1972, khi địch đang đánh miền Bắc, hội nghị đã diễn ra dưới một tòa nhà 2 tầng, thành phần chỉ có 10 người.
    [​IMG]

    Kiểm tra xác chiếc B-52 đầu tiên bị rơi (ông Nguyễn Văn Ninh đứng giữa phía sau)
    Trong số người dự họp, có cả ông Ninh dù khi đó mới mang hàm thiếu tá nhưng ông là Trợ lý tên lửa và trực ban Tác chiến phòng không ở Sở chỉ huy của Bộ Tổng tham mưu. Vai trò trực ban tác chiến rất lớn, có quyền báo cáo thẳng Tổng tham mưu trưởng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
    Tại cuộc họp bàn cách đánh B-52 ở Bộ Tổng tham mưu hôm ấy, còn có đại diện của Cục Quân báo (Tổng cục 2 ngày nay). Báo cáo tổng hợp về B-52 do ông Phan Mạc Lâm trình bày đã “mở màn” cho hội nghị, làm cơ sở để mọi người thảo luận. “Để có được chiến thắng B-52, vai trò của Cục 2 rất lớn, rất quan trọng nhưng đáng tiếc là công việc rất thầm lặng, đến nay rất ít người biết việc này. Ngay cả các thế hệ cán bộ Tổng cục 2 hiện nay cũng không nắm hết được. Mới đây, nhân kỷ niệm 40 năm Điện Biên Phủ trên không, một đồng chí lãnh đạo của Tổng cục 2 đã đến nhà riêng gặp tôi, xin được nghe tôi kể lại chiến công của Cục 2 ngày ấy” - Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh kể.
    Giữa tháng 4/1972, cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân Mỹ lần thứ hai bắt đầu, 26 vạn người dân thủ đô đã đi sơ tán. Đến chiến dịch 12 ngày đêm, số người đi sơ tán lên đến gần 50 vạn. Các trọng điểm bị đánh phá ác liệt ở ngoại thành cũng phải sơ tán triệt để.
    Trong thời gian chiến tranh phá hoại đến khi B-52 đánh vào Hà Nội, thành phố đã có 40 vạn hố cá nhân và 90.000 hầm tập thể, đủ chỗ trú ẩn cho 90 vạn người. Mỗi người ở Hà Nội có 3 hầm trú ẩn ở trong nhà, ở cơ quan và trên đường phố.

    Để tìm hiểu được thông tin về B-52 lúc đó là câu chuyện khó như mò kim đáy bể. Nhiều ý kiến nêu, để có thông tin, chỉ còn cách cài điệp viên vào không quân chiến lược của Mỹ nhưng thực tế ta không thể làm được chuyện này. Thế mà Cục 2 cũng đã có cách riêng của họ.
    Đầu năm 1972, Cục 2 đưa một tổ trinh sát kỹ thuật thuộc Trung đoàn 75 vào Quảng Bình, trèo lên những điểm cao nhất, trang bị cho anh em máy thu tin, ghi chép toàn bộ thông tin của không quân và ngoài Hạm đội 7 của Mỹ, nghe nhiều, nghe kỹ để thu nhận được tin liên quan đến B-52. Có được tin nào phải báo ngay về cho Cục Tác chiến và cho đồng chí Phan Mạc Lâm để Tổng hành dinh xử trí và hành động.
    Tại Tổng hành dinh lúc nào cũng có một chiếc bảng đen, phía trên có dòng chữ “Tin cục 2”. Cán bộ Cục 2 đi trinh sát lúc đó phần đông là sinh viên tốt nghiệp đại học, mới được tuyển vào nhưng rất giỏi, tận tụy với công việc, thu được rất nhiều tin, giải mã tốt.
    Trở lại với “Hội nghị Diên Hồng” bàn chuyện đánh B-52 tại Tổng hành dinh, báo cáo chuyên đề về B-52 của ông Phan Mạc Lâm dài tới 30 trang, tóm tắt từ tính năng chiến thuật đến bom, nhiễu khiến mọi người rất chú ý. Ông Mạc Lâm cũng được cả bộ chỉ huy hỏi rất nhiều điều. Trong đó, có một câu hỏi thú vị được đặt ra: “B-52 đánh Hà Nội thì đã rõ, nhưng nếu đánh thì nó đánh đêm hay ngày?”. Trước đó, B-52 đã nhiều lần đánh chiến trường phía Nam nhưng chỉ đánh ban ngày. Ông Lâm, bằng sự mẫn cảm của một nhà phân tích đã nói ngay: “Nhiều khả năng sẽ đánh đêm”. Nhận định ấy được đồng tình vì Mỹ đánh đêm thì sẽ loại trừ được không quân ta. Hơn thế, lúc đó, Mỹ rất “khinh thường” tên lửa Việt Nam sau sự kiện Ai Cập, cho rằng đó là loại tên lửa “không ăn thua”, cổ lỗ sĩ.
    Tư lệnh Phòng không - Không quân Lê Văn Tri là người phát biểu hăng hái nhất. Ông khẳng định ngay: “Tôi nghĩ rằng nếu B-52 vào, ta có nhiều vũ khí để hạ nó. Tên lửa vẫn đánh được, không quân cũng đánh được, pháo cáo xạ, nếu là loại pháo 100 ly thì khi B-52 bay ở độ cao 10 km vẫn “tóm cổ” được nó”.
    Ý kiến của ông Tri được chấp nhận. Sau này, ta đã cho pháo 100 ly tham gia đánh B-52, ở Hà Nội có mấy đại đội công nhân, tự vệ kéo pháo 100 ly ra huấn luyện; ở Thái Nguyên có một trung đoàn pháo 100 ly. Thực tế sau này cũng chứng minh nhận định của ông Tri là đúng, cả 3 loại vũ khí, tên lửa, máy bay, pháo 100 ly đều tiêu diệt được B-52.
    Tin chiến thắng từ cột cờ Hà Nội
    Số anh em trinh sát ở Quảng Bình đã được điều về Hà Nội để thu tin. Ngày 17/12, Cục 2 báo cáo, 6 hàng không mẫu hạm Mỹ đã di chuyển vào Vịnh Bắc Bộ, ta báo động cho tất cả lực lượng vũ trang miền Bắc sẵn sàng chiến đấu cao. Cán bộ chủ chốt đi phép đều được gọi về. Trung đoàn tên lửa 261 định đi vào Nam cũng được giao nhiệm vụ ở lại phía Bắc.
    12 giờ trưa 18/12, anh em đã thấy sóng B-52 “dồn dập lắm rồi” dù trên màn hình radar “chưa có gì”.
    16 giờ, ông Mạc Lâm chạy sang Bộ Tổng tham mưu báo cáo đã nhận được điện B-52 cất cánh rồi. Nhiều tốp B-52 từ Guam đến phía đông Philippines, đang tiếp dầu.
    [​IMG]

    50/60 vạn nhân dân Hà Nội đi sơ tán sau trận bom B-52 đầu tiên đêm 18/12/1972
    “Lúc đó, tôi dựa vào ba nguồn tin. Một là, tin Cục 2 như đã nói ở trên. Hai là tin từ tổng trạm radar phòng không với bản tiêu đồ mi-ca do trạm 45 của Trung đoàn 291 báo cáo lúc 18 giờ. Ba là, nguồn tin… truyền miệng. May mắn lúc tôi đang trực thì khoảng hơn 16 giờ, ông Phùng Thế Tài đi đâu về đã chạy xuống sở chỉ huy. Gặp tôi, ông Tài nói:
    - Ninh, đồng chí Lê Đức Thọ, Trưởng cố vấn đàm phán ở Paris, sau nhiều ngày đấu với Kissinger vừa về nước rồi.
    - Thật không anh?
    - Thật chứ, tôi vừa đi đón ông ấy ở sân bay Gia Lâm về. Tình hình căng lắm. Nó cắt từ ngày 13 không họp nữa. Cứ tưởng ông Lê Đức Thọ ở đó chờ ý kiến Bộ Chính trị nhưng không ngờ ông Thọ cũng bỏ về luôn. Căng lắm rồi!”.
    Cuối cùng ông Tài kết luận: “Cậu phải ở lỳ đây mà trực, nó đánh đấy!”. Ông Ninh đứng nghiêm: “Tuân lệnh”.
    Có ba nguồn tin trong tay, ông Ninh hội ý 3 đồng chí trong sở chỉ huy rồi báo cáo Cục trưởng Vũ Lăng, giọng ông run run:
    - Căng lắm rồi anh ơi, phải gọi kíp trực ban tăng người!
    Ông Lăng nghe tình hình thì đồng ý ngay, điều thêm một số đồng chí nữa vào làm việc, có cả trực ban không quân. 19 giờ, ông Ninh báo cáo Tổng tham mưu trưởng. Ông gọi điện cho Thượng tướng Văn Tiến Dũng, đề nghị cho báo động phòng không sớm 5 phút, khi máy bay cách Hà Nội chưa đến 100 km cũng kéo còi luôn. Ông Dũng đồng ý và nói:
    - Tôi sang ngay!
    19 giờ 10 phút, ông Ninh tiếp tục báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng rất bình tĩnh chỉ thị:
    - Cậu Ninh cứ 5 phút báo cáo tôi một lần!
    Tại Tổng hành dinh lúc này, ông Trần Độ là trực ban trưởng ngồi trước mi-crô, bật lên thông báo tình hình. Mọi tiếng nói trong tổng hành dinh sẽ được truyền đến Bộ Chính trị, lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng nghe.
    “Tôi chạy lại ấn nút còi báo động cho Hà Nội, nó vang lên trên nóc hội trường Ba Đình. Quy định còi đó rú lên thì tất cả các còi khác của Hà Nội đều phải lên tiếng. Hà Nội lúc này có 16 cái còi điện, 500 loa to, rú vang khắp. Hàng loạt điện thoại trong sở chỉ huy, mấy chục cái đều réo lên. Có đồng chí cán bộ cấp cao hỏi “tập hay là thật đấy?”. Chúng tôi lúc đó được tăng cường khoảng 6-7 người, chỉ trả lời một câu: “Mời đồng chí xuống hầm” mà không nói “thật hay giả” - Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh nhớ lại.
    Lúc đó khoảng 19 giờ 40 phút, việc báo động được thực hiện trước 25 phút, bom rơi và Hà Nội náo động. Một tổ trinh sát được cử lên trực ở cột cờ Hà Nội, có nhiệm vụ quan sát. Nhìn thấy gì thì cứ thế nói như thuyết minh… đá bóng, thông tin sẽ truyền về loa ở Tổng hành dinh. Tôi còn nhớ cậu Trần Đức Thịnh, quê ở Thái Nguyên trong tổ đó.
    Khi bom rơi cũng là lúc đồng chí Văn Tiến Dũng và đồng chí Lê Hiến Mai, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị vào sở chỉ huy. Cuối cùng là đồng chí Phùng Thế Tài vừa từ đâu chạy về, mồ hôi ướt đầm lưng áo. Họ phân công nhau điều hành. Lúc này, ông Ninh mới cảm thấy thở được vì cả ngày hôm đó, ông chưa ăn uống gì. Đồng chí liên lạc thấy thế thương quá, dúi cho một thanh lương khô.
    20 giờ 30 phút đêm 18/12/1972, vẫn chưa có máy bay rơi. Không khí hầm chỉ huy như ngột ngạt, nóng bỏng. Bỗng từ chiếc loa kết nối với tổ trinh sát trên cột cờ Hà Nội vang lên tiếng nói hồn nhiên của chiến sĩ Thịnh:
    - Ối trời! Cái gì rơi kìa! Cháy to, cháy to lắm!
    Chiến sĩ ấy đâu biết tiếng nói của anh dội vào sở chỉ huy, mọi người nhìn nhau cười sung sướng. Mấy phút sau, chuông điện thoại từ Quân chủng Phòng không - Không quân réo vang. Tin báo: B-52 rơi rồi, Tiểu đoàn 59, Trung đoàn 261 bắn rơi rồi. Ông Ninh là người nhận tin, vui sướng đến trào nước mắt. Ông nói với Phó tư lệnh Quân chủng Nguyễn Quang Bích: “Anh báo cáo trực tiếp với anh Văn đi, anh Văn đang mong lắm!”.
    Không xa hầm trực ban, hầm Đại tướng ở phía trước, chỉ cách chừng 100 mét. Ít phút sau khi nhận được tin, Đại tướng mừng lắm. Ông leo lên mặt đất. Trời rét đậm nhưng ai cũng thấy khoan khoái lạ thường. Tại tổng hành dinh, mọi người, tướng lĩnh và sĩ quan đều ôm lấy nhau. Ai cũng khóc vì vui sướng.
    Trong 12 ngày đêm, 81 máy bay Mỹ bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc B-52. Phi công Mỹ bị tiêu diệt 43 tên, bắt sống làm tù binh 44 tên. Phía Mỹ thừa nhận 15 B-52 bị bắn hạ, 5 chiếc hư hại nặng (có 1 chiếc rơi ở Lào), 5 chiếc bị thương nhẹ, 43 quân nhân tử vong và 49 quân nhân bị bắt làm tù binh.
    Phía Việt Nam có 2.380 người dân bị chết, 1.355 người bị thương.


    Ghi chép của Nguyễn Văn Minh
  9. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Riêng ở Hà Nội, địch sử dụng 441 lần chiếc B.52 cùng nhiều máy bay chiến thuật ném hàng ngàn tấn bom xuống các khu phố, sân bay, nhà ga, bệnh viện, trường học... Nixon muốn biến Hà Nôi thành Hiroshima và Nagasaki mà không cần bom nguyên tử.

    Nixon đã huỷ diệt nhiều phố xá, làng mạc; phá sập 5.480 ngôi nhà, trong đó có gần 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, nhà ga; giết chết 2.368 dân thường, làm bị thương 1.355 người khác.

    Vào đêm 26/12, sau một đêm nghỉ Noel, từ 21h 44 đến 23h 12, Mỹ đã huy động 105 lần chiếc B52 và 90 lần máy bay chiến thuật cùng lúc đánh phá vào 3 khu vực Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, nhằm bảo đảm mật độ bom lớn hơn mật độ hỏa lực phòng không hòng gây sức ép qúa tải làm rối loạn hệ thống phòng không của ta, Ở Hà Nội, địch tập trung 66 lần chiếc B52 đánh phá dã man nhiều khu vực.

    Nixon đã ra lệnh cho B.52 rải thảm huỷ diệt phố Khâm Thiên, khu vực có mật độ dân số đông nhất Hà Nội.

    Bom Mỹ đã tàn phá cả chiều dài khu phố trên 1.200 mét, gần 2.000 ngôi nhà, đền, chùa, trường học, trạm xá bị phá sập, 287 người chết, 290 người bị thương.

    Máy bay B.52 còn rải bom xuống hơn 100 điểm dân cư khác trong Thành phố (Bệnh viện Bạch Mai, Gia Lâm, Yên Viên, Uy Nỗ, An Dương...) làm hơn 1.000 người chết, bị thương…

    Cùng lúc, chúng huy động 21 lần chiếc B52 đánh phá nhà máy xi măng, Sở Dầu (Hải Phòng); 18 lần chiếc đánh phá ga Lưu Xá (Thái Nguyên). Đây là mức huy động cao nhất số lượng B52 trong đợt tập kích đường không chiến lược này.

    Khi mà những cựu phi công Mỹ thừa nhận: “Chúng tôi được đến tận nơi xem một dãy phố dài, một bệnh viện lớn. Chúng tôi rất ngạc nhiên và rất hổ thẹn. Chúng tôi bị cấp trên lừa. Vâng. Đúng là sự lừa dối. Họ bảo là mục tiêu quân sự, nhưng thật ra là vùng đông dân. Bom ném theo bản đồ được đánh dấu kỹ, không thể lầm lẫn!”.

    Thì lại có những có những kẻ cho rằng "TRƯỚC SAU NHƯ MỘT KHÔNG QUÂN MỸ KHÔNG ĐƯỢC PHÉP ĐÁNH VÀO KHU DÂN SỰ!"
  10. Khoam

    Khoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    1.572
    Đã được thích:
    841
    Ăng bum lính Mỹ giải ngũ từ Chiến tranh Việt Nam

    Đây là đầu lâu của người lính Việt Nam do các nhà sưu tầm Mỹ can đảm mang về từ Chiến tranh Việt Nam. [​IMG]
    Bây giờ, nên hiểu, - những người Mỹ đang lấy những đầu lâu Serbia, Irag và Libya.
    [​IMG]
    Ngày mai là Sirya hoặc Iran.
    [​IMG]
    Ngày kia Trung Quốc và cả của chúng ta (Nga), có thể.

    Điều này gọi là DEROS - Date Estimated Return from Overseas, ngày được mong đợi lâu dài hơn cả trong cuộc sống của lính Mỹ những năm 60s khi anh ta sẽ rời Việt Nam. Người lính mà ở người đó ngày này không còn xa, được gọi là short-timers. Nhiều người trong số họ đã ghi nhật ký giải ngũ cho mình, ở đó đánh dấu những ngày trước DEROS.

    Và đây là những mẫu sáng tác: [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Photo từ site foto.history

Chia sẻ trang này