1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những câu chuyện cho F177 - Truyện mới cập nhập từ trang 12 ^^

Chủ đề trong 'Làm quen - rút ngắn khoảng cách' bởi chuottrang1984, 20/10/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Từ một miền không đáy
    nguyễn thị thanh bình​
    Thoạt đầu cô còn do dự chưa muốn giết hắn. Cô cần một người đàn ông để yêu.
    Lắm lúc cô nghĩ, đàn ông là một thứ thức ăn càng nhai càng thèm nhưng rất dễ bị ngộ độc. Hắn là một loại vi khuẩn mà cô thật khó lòng tránh xa.
    Dạo sau này hắn hay ngáp vặt trước tình yêu của cô và tệ hại đến nỗi chẳng cần lịch sự che giấu. Những người đàn ông nghệ sĩ thường rất cuồng nhiệt mà lại rất đỗi mau chán. Hắn chỉ có thể yêu hắn lâu hơn là yêu những người đàn bà và như thế không phải là lỗi của cô.
    Thật phiền là cô càng phân tích càng không rõ hắn có yêu cô chăng. Cô biết, điệu này có ngày hắn phải chết dưới tay cô. Hẳn hắn khó tin như vậy vì hắn vẫn hay lên giọng rằng thì là mà... cô luôn luôn chết dưới người hắn. Đêm cùng hắn đã có nhiều lúc không gian như nín thở. Mọi sự im bặt lắng nghe cơn dã thú man dại của con mạnh đè lên con yếu. Hình như hắn đã tỏ ra rất khát cô. Kỳ thực hắn đã uống cô như một tên khát máu, nhưng cô cũng không vừa gì khi gậm nhấm xương tuỷ hắn cho đến khi cạn kiệt. Hắn bảo cô là thuốc mê làm hắn ngất đi, còn cô bảo hắn là thuốc độc làm cô tan theo bóng đêm. Ban đêm khi ngủ lại với cô, môi hắn trơn mướt như miếng thạch. Cô không cách gì không yêu hắn. Cô khóc ấm ức, đòi hắn phải nói thật cho cô biết bao giờ hắn sẽ thôi đến với cô. Lúc đầu nghe cô khóc nhỏ nhoi, hắn trả lời thoái thác là cuộc đời mấy ai biết được ngày mai. Hắn bảo cô cứ yêu nhau đi, sắp tận thế tới nơi rồi, thắc mắc làm chi cho mệt. Cô khóc lớn hơn, hắn tìm cách chạy lòng vòng: chiến tranh nguyên tử hay bom vi trùng sắp bùng nổ, hắn và cô có thể toi mạng bất cứ lúc nào, vậy xin cô đừng tỏ ra hối tiếc khi yêu hắn mà hãy tận hưởng hết mình những giây phút đang có. Lần này cô gào lên, sau khi đã vặn hết âm thanh nức nở. Hắn đành chọn lối trả lời mà như không trả lời: vậy thì nếu hắn nói hắn sẽ đến với cô dài dài, liệu cô có tin không. Cô chụp ngay trái tim đen của hắn: hắn không nên đem chữ nếu để đặt vào lòng bàn tay của người đàn bà cả tin như cô. Nhưng dù nhẹ dạ cách mấy, cô cũng biết hắn trẻ hơn cô những mười tuổi và rồi cô chẳng còn gì để cho hắn. Chắc cô chạm đến lòng trắc ẩn giữa người với người trong hắn nên hắn an ủi: tuổi tác đâu thành vấn đề một khi hắn đã chọn cô. Dưới mắt hắn, cô vẫn còn quyến rũ và dư sức làm mất thời giờ cả khối người. Trong thâm tâm, cô thừa biết hắn thuộc típ đàn ông có khiếu nói xạo. Hắn ít khi thất bại trong việc làm cho đàn bà tin mỗi lần hắn trổ tài tán láo. Hắn biết lựa ra những ưu điểm (dù xoàng xĩnh, nhưng ai mà chả có một chút gì) của người khác phái để khen nhặng cả lên mà không đỏ mặt. Nhiều lúc cô tự hỏi nếu hắn có tình yêu với cô thực sự thì cách biểu tỏ ********* đàn ông của hắn liệu có khác đi chút nào chăng. Chẳng lẽ lúc ái ân với cô, hắn không biết nhắm mắt lại cảm tạ những ân sủng (?!) Vậy thì lúc ******** với một con điếm, người đàn ông không hề nhắm mắt (vì lo nghĩ bệnh giang mai hay bệnh AIDS?) và miệng cứ tỉnh bơ nhai kẹo chewinggum hoặc giả mở mắt ít là trong dăm bảy lượt động tác (?!)
    Thật ra, đêm sâu hoắm với hắn chỉ khác với tay đĩ đực (có sòng phẳng) là nhờ vào cái tên gọi thần thánh (hay quỷ dữ?) là tình yêu và những bờ lưỡi ấm nóng. Tình yêu và sự động cỡn khác nhau ở những môi hôn ấy.
    Hắn cũng khác những tên đàn ông đã đi qua đời cô với cái định nghĩa về tình yêu thật giản tiện: đừng thèm gắn cho tình yêu một định nghĩa gì cao cả. Chỉ tổ khó hiểu thêm thôi. Tốt hơn là đồng nghĩa với sự có mặt của hắn bên cô và những phút giây ấp ủ trong nhau. Cô bảo cô chưa biết rõ nhiều điều về hắn, chỉ mơ hồ nhận được một lần hắn cao hứng đi ngang nhà để lại một ngụm thơ no nê tình ái, kiểu tân kỳ hậu hiện đại (chứ nếu là một bài thơ lục bát loại vè thì không biết số phận tình yêu của cô và nhà thơ đang lên hay chưa-lên-đã-xuống ấy sẽ trôi về đâu) và một con chim két đã tập nói được ba chữ "I Love You". Có lẽ nhờ những tín hiệu trị giá bảy trăm đô la của con chim và cái ***g nên cô ngu ngơ để nhà thơ hiện sinh đâm thẳng vào đời cô sau một vòng quay 180 độ. Không dưng cô vừa yêu cái môi cười nửa miệng (đượm chút tinh ranh của ngọt ngào và độc tố) vừa muốn bổ lên đầu hắn câu hỏi: tình yêu với những người đàn ông đã quì mọp dưới chân cô là sự sống. Không có nó nghĩa là chết. Sao hắn có vẻ bất cần tình yêu và chỉ nghĩ đến những giây phút hiện hữu? Hắn cười và chỉ biết nhả những nụ cười mê hoặc: hắn đã thèm muốn điên cuồng đôi môi cô biết mấy và hãy tận hưởng tình yêu như vậy đủ rồi, không thì đời người bỗng vụt đi nhanh lắm. Đời người ư, cô thoáng mường tượng đến chén thanh xuân sắp cạn của mình và thấy rõ không ai áp đặt cô phải yêu hắn. Lâu lâu cô muốn vặn cổ hắn vì vẻ lừng khừng vui đâu chuốc đó của mẫu người chúa ghét những lời hứa hẹn. Cô tức tối nhìn hắn nhởn nhơ, sẵn sàng làm bất cứ những gì hắn khoái mà không cần biết là lòng cô hỗn độn đến chừng nào. Hắn là người đàn ông tàn nhẫn đã phá tung những trật tự của đời sống cô. Hắn làm cô muốn nổ bung xác mình hay xác hắn. Cô chẳng biết tại sao cô lại gọi hắn đến, khi cô đang toan tính bỏ cuộc đời mà đi. Hắn có giúp ích cô được gì đâu hoặc chỉ tổ làm cô không chịu nổi hắn thêm một lần nữa. Cô hỏi và hắn tránh nhìn vào đôi mắt rợn ngợp đến nao lòng của cô: hôm qua sao hắn lại manh tâm dung dăng dung dẻ, tay trong tray với con đĩ ngựa "nhí" nào đó. Thoạt đầu hắn chối và thoạt đầu cô còn do dự chưa muốn giết hắn. Cứ để hắn sống vì hạnh phúc chẳng qua chỉ là một sự lừa dối của ảo tưởng.
    Thoạt đầu thì như thế nhưng hắn cứ còn định "thanh minh thanh nga" một điều gì nữa. Hắn nói: nghĩ cho cùng hắn có yêu cô đâu mà đòi hỏi sự công bằng và quyền hạn tối thiểu của một tình nhân. Cô giật nẩy mình và hét vào mặt hắn (cũng như cô đã hét vào khoảng trời cao không biết bao nhiêu lần, và chỉ có những ngôi sao bé nhỏ lạnh lẽo bày tỏ những nhấp nháy cô đơn). Trời ơi, cô biết cô là người rồ dại trong tình yêu , nhưng chính vì thế mà cô không xấu xí, tệ hại như hắn. Cô không chọn kiểu yêu đương chảng hảng mà làm gì hay nói đúng hơn trái tim cô không cho phép, cho đến khi hắn cút xéo ra khỏi đời cô. Hình như hắn nghinh mặt khi thấy cô ôm mặt khóc (mặc dù cô không hiểu tại sao cô không dằn được những giọt nước mắt vô nghĩa). Hắn còn bảo cô cứ khóc nữa đi, khóc cho thật nhiều, khóc thật to lên, khóc cho trôi hết những nỗi buồn, khóc cho đã nư, khóc phủ mờ tấm gương soi này đến tấm gương soi khác, khóc long lanh những vì sao chín rực trên cao, khóc mềm hết những hộp giấy thấm Klenex, khóc vinh danh một thứ tình yêu mê muội, khóc... Hắn càng nói cô càng thấy mình cần phải câm miệng lại và càng muốn họng súng để sẵn dưới nệm nuốt chửng lấy hắn. Nhưng rồi hắn lại cười, nụ cười sáng trắng ảo diệu như những đường chiêm bao cô vẫn gặp trong mộng mị của riêng mình. Giọng hắn trầm trầm như đang đọc lời cầu kinh: đàn bà sinh ra không phải để khóc cho những cuộc tình phi lý. Hắn yêu cầu cô mạnh dạn đứng dậy, lau chùi tất cả những giọt lệ và hãy cười những nụ thật quyến rũ. Cô cười không nổi ư? Thôi thì hãy cứ cười gượng, cười gằn trước, rồi từ từ cô sẽ cười ngạo, cười một mình, và sau đó hãy nghĩ đến tất cả những hài hước trong cuộc đời để cười nhạo, và cuối cùng thì cô sẽ cười miếng chi, cười toét miệng và cười tươi như hoa (dù là hoa nở muộn). Mặc cho hắn giảng giải về lợi ích của những nụ cười (hắn bảo thật dễ dàng: cứ cười thôi, một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ...) cô vẫn không tài nào hái được mấy nụ héo hon để tặng chính mình.
    Cô bảo cô muốn ăn tươi nuốt sống con đĩ ngựa nào đó đã cướp hắn ra khỏi tay cô và chỉ có lúc đó cô mới cười toét miệng được. Hắn cười phá lên, cười ngặt ngoẽo, cười lăn cười lộn, cười rũ ra và cười... chê cô: chắc là cô sẽ không được gì, khi cười gian ác như thế. Lần này cô bỗng cười khanh khách: mặc kệ, cô sẽ tụ tập những người đàn bà "hận kẻ bạc tình" để lập một hội kín với "hội chứng khóc cười". Hắn còn nói chêm vào: nhưng trước hết phải bắt những hội viên phải: "Em nên điểm phấn tô son lại" thì mới có thể "Ngạo với nhân gian một nụ cười" được chứ.
    Hình như hắn tưởng là hắn có thể xúc phạm đến cô, vì cô đã lỡ móc trái tim máu me của mình ra khoe hắn. Cô nghĩ, đã đến lúc hắn không thể làm cô thương tổn. Nếu hắn đã khiến cô cười được để bắt đầu yêu hắn, thì khi hắn làm cô khóc, hắn sẽ phải bị chấm dứt. Chấm dứt đồng nghĩa với cái chết. Nhưng mà, thoạt đầu cô còn do dự chưa muốn giết hắn.
    Cô muốn hắn phải khóc để nhớ cô, dù phải bước qua thế giới khác. Nếu người ta có thể chữa được bệnh sầu não bằng những nụ cười thoạt đầu gượng gạo rồi từ từ đến trạng thái cười vỡ bụng, cười nôn ruột thì hẳn là hắn phải khóc, phải van xin; phải chết dưới tay cô, cô mới... cười được. Coi một tuồng diễu trên TV chưa hẳn là phương pháp chọc cười hữu hiệu và đôi khi lại quá tầm thường. Lẽ nào người ta không thể nghĩ đến những điều hạnh phúc hoặc đau khổ đã qua hoặc sắp đến để cười hoặc để khóc. Hoặc giết người trong mộng hay trong thực cũng là một cách thế giải sầu ghê gớm. Để những tay xảo thuật trong tình trường như hắn dở trò mãi coi bộ không ổn. Cô muốn giết con vi khuẩn tình yêu tàn bạo là hắn.
    Cô nghịch ngợm quay tròn ổ súng trên tay. Hắn bảo là chuyện đâu còn đó, cô đừng đùa giỡn với tử thần. Cô tỏ vẻ quyết liệt: ai rồi cũng phải chết một lần mà thôi. Mọi con đường thù hận, mọi ngã rẽ ân tình đều dẫn đến cái chết, chỉ khác là tuỳ theo tốc độ nhanh, chậm mà theo lẽ thường tình, người ta càng chọn con đường thù hận thì càng dễ nộp mạng sớm.
    Hắn đã làm cô thù hận, vì thế hắn phải chết trước, như vậy là hợp với lý lẽ thường tình và lý lẽ đàn bà. Đàn ông vẫn tự ban cho mình cái quyền hạn của một trái tim không đáy, để có thể chứa một lúc vô số hình bóng lổn ngổn đàn bà. Hắn cũng tưởng là chỉ có hắn mới được quyền như vậy. Hắn không cho phép cô phản trắc đã đành, trái lại còn lên giọng: đàn bà phải biết lúc nào cần giả mù, để không phải ***g lên như sư tử mà sớm mất đàn ông. Cô thật tình không hiểu tại sao hắn không biết giả điếc (?!)
    Hình như hắn vừa thụp người xuống làm viên đạn đầu coi như chỉ bị thủng tường. Chắc hắn nghĩ cô chỉ giỏi bắn những phát súng cảnh cáo chỉ thiên. Không đâu, cô muốn viên đạn phải xuyên qua tim hắn. Vậy mà hắn lại ôm bụng, với một bụm máu loang ra thật nhanh. Những cơ mặt nhăn nhúm như cố dằn cơn đau. Một tay ôm bụng, một tay bám lấy chân cô, đau đáu mắt nhìn của một chú nai trúng đạn. Hắn không ngờ từ một vai vế thiện xạ lại có thể xuống cấp như thế. Cô chờ hắn khóc thật to như cô đã khóc, nhưng cô lầm vì hắn chỉ gượng cười (dù nụ cười như mếu) và nhất định không khóc. Một lát không lâu, hình như hắn chịu hết nổi vì bàn tay ôm bụng máu đã bắt đầu run lẩy bẩy. Những tiếng rên hừ hừ kéo theo sau đó, dù chắc hắn đang cố kiềm hãm cho thật nhỏ để giữ chút kiêu hãnh của giống đực. Cô hất tay hắn làm hắn mất đà ngã lăn ra sàn nhà, nhưng cô nhất định không tội nghiệp. Cô bảo hắn nếu cần cứ rên la thật to như mọi lần đè lên người cô tìm nhục cảm. Hắn nhắm mắt như mỗi lần ******** hay hôn cô và van xin cô hãy để cho hắn sống. Hắn bảo hắn cần sống, hắn cần được sống... Cô nghe hắn bật ra một cái tên thật lạvẳng lên từ cổ họng đắng ngắt ấy, như thể tên cô. Cô cũng có một cái tên cho một tình nhân bất trắc như hắn gọi kêu? Một cái tên từ cuống họng đã sắp bị vọt máu bởi bàn tay cô. Bờ môi hắn chừng như đã băng lạnh, và tên cô vẫn chỉ rít lại như những tiếng gió lùng bùng không thoát ra được từ cổ họng. Hình như cô thấy những tia mắt như máu đỏ của hắn sắp nhỏ xuống từng dòng. Mắt hắn sẽ phải mở thao láo như thế, vì người vuốt mắt chắc chắn không phải là cô. Hắn thừa biết từ yêu đương đến thù hận, đàn bà có thể đổi lốp cừu non thành sói già như chơi.
  2. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    - Ngày xửa ngày xưa...
    Cụ mới bắt đầu có thế, lũ trẻ đã thiu thiu ngủ. Cụ dừng lại không kể nữa. Duy nhất còn đứa bé tò mò xin cụ đừng vì lũ trẻ kia mà bỏ dở. Hai ông cháu bên buổi chiều tháng tư, rù rì tâm sự với nhau. Rồi cụ chết đi, câu truyện truyền lại cho đứa trẻ duy nhất ấy. Cũng may, vì thế mà hôm nay còn dấu tích câu truyện này.
    Ðứa bé đó rồi cũng đến ngày thành cụ già. Ngày nọ, cụ già thứ hai này cũng lập lại y chuyện xẩy ra hơn ba phần tư thế kỷ về trước. Ðặt ly trà xuống chiếc khay, cụ bắt đầu:
    - Ngày xửa ngày xưa...
    Mới bắt đầu có thế, cụ nghĩ đến ngày còn bé như mấy đứa trẻ đây, lũ trẻ ngày xưa đã ngủ hết nên không đứa nào biết được câu truyện u uẩn kỳ thú này, chỉ riêng chú bé là chính cụ được biết thôi, cảm động, cụ rưng rưng nước mắt. Lũ trẻ thấy cụ khóc, chẳng đứa nào hiểu gì, chúng cùng nhau cười rồi kéo nhau chạy. Còn lại một đứa tật nguyền thấy cụ khóc, nó thương cụ ở lại kiên nhẫn nghe. Dĩ nhiên cụ già rồi cũng chết đi. May mắn nhờ đứa ốm yếu ấy mà câu truyện không bị tuyệt tích...

    (1) Truyện Cổ Tích chưa được kể
    Truyện kể rằng ngày xửa ngày xưa có mấy cha con lái buôn từ phương Bắc xuống phương Nam làm ăn. Họ sống bằng nghề làm xiệc. Mỗi cha con quẩy một đôi gánh tòong teng. Búa, liềm, khóa tay, xích sắt đủ thứ để diễn trò...
    (2) Mẹ May Mắn Hơn Con
    Chàng linh cảm có chuyện gì chẳng lành đang xẩy ra trong gia đình nàng. Từ tháng nay nàng thay đổi, hỏi gì cũng không nói. Chỉ buồn. Chàng không còn vào nhà nàng chơi như xưa. Ðạp xe qua ngõ vòng nữa. Không nhìn thấy nàng. Chỉ biết nhớ...
    (3) Bàn Tay
    Ðời ông đi từ những khe hở nho nhỏ của lương tâm về số phận con người cho đến ý thức bừng lên, vỡ òa ra như quả trứng bị đập vỏ, ông hoàn toàn phủ nhận con người không sinh ra từ định mệnh và phải chấp nhận định mệnh...
  3. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    TRUYỆN CỔ TÍCH CHƯA ĐƯỢC KỂ​
    Sau khi nhấp miếng trà, cụ chậm rãi đặt chiếc ly sành nhỏ xuống mặt bàn đen bóng màu gỗ gụ, bắt đầu câu chuyện:
    - Ngày xửa ngày xưa...

    Cụ mới bắt đầu có thế, lũ trẻ đã thiu thiu ngủ. Cụ dừng lại không kể nữa. Duy nhất còn đứa bé tò mò xin cụ đừng vì lũ trẻ kia mà bỏ dở. Hai ông cháu bên buổi chiều tháng tư, rù rì tâm sự với nhau. Rồi cụ chết đi, câu truyện truyền lại cho đứa trẻ duy nhất ấy. Cũng may, vì thế mà hôm nay còn dấu tích câu truyện này.
    Ðứa bé đó rồi cũng đến ngày thành cụ già. Ngày nọ, cụ già thứ hai này cũng lập lại y chuyện xẩy ra hơn ba phần tư thế kỷ về trước. Ðặt ly trà xuống chiếc khay, cụ bắt đầu:
    - Ngày xửa ngày xưa...
    Mới bắt đầu có thế, cụ nghĩ đến ngày còn bé như mấy đứa trẻ đây, lũ trẻ ngày xưa đã ngủ hết nên không đứa nào biết được câu truyện u uẩn kỳ thú này, chỉ riêng chú bé là chính cụ được biết thôi, cảm động, cụ rưng rưng nước mắt. Lũ trẻ thấy cụ khóc, chẳng đứa nào hiểu gì, chúng cùng nhau cười rồi kéo nhau chạy. Còn lại một đứa tật nguyền thấy cụ khóc, nó thương cụ ở lại kiên nhẫn nghe. Dĩ nhiên cụ già rồi cũng chết đi. May mắn nhờ đứa ốm yếu ấy mà câu truyện không bị tuyệt tích. Ðứa bé thấy câu truyện ly kỳ, nó ngày ngày ôn lại để nhớ. Sinh ra đời tật nguyền, trí kém, nó phải phấn đấu lắm mới nhớ được câu truyện. Ngày nào cũng phải tự kể cho mình nghe kẻo sợ quên mất. Rồi một ngày kia cũng già theo thời gian. Ðến lúc biết mình gần đất xa trời, cậu nhỏ tàn tật ngày xưa ấy, bây giờ là cụ già chống gậy đỡ từng ngày. Trước khi chết không bao lâu, cụ già thứ ba này gọi đám trẻ lại, kể cho chúng nghe câu truyện năm xưa.
    - Ngày xửa ngày xưa...
    Cụ mới bắt đầu tới đấy thì đã có đứa bỏ đi. Lũ trẻ này lạ lắm, chúng không thể hiểu mấy tiếng "ngày xửa ngày xưa" là gì, đối với bọn trẻ này, chúng tưởng cụ nói ngôn ngữ của người chết. Mỗi đứa xách theo đôi giầy có bánh xe, gắn vào chân, chúng chạy vù vù như gió làm cụ chóng mặt. Câu truyện hay quá. Cụ tiếc vì có khi câu truyện tuyệt tích mất. Chỉ còn lại có đứa cháu ngoại bị bố bỏ, thấy cụ tật nguyền là hay ở bên cạnh mà săn sóc cho cụ. Qua đứa này, cụ kể hết từng chi tiết cho nó nghe.
    Rồi Cụ chết đi. Có đứa cháu ngoại là người biết gốc gác câu truyện thôi. Ðến khi đứa cháu ấy về già thì tính sơ qua mà đã ngót ngót hai trăm năm chứ đâu ít ỏi gì. Thời gian đi mau thế đấy. Thấm thoát mới có mấy chữ "ngày xửa ngày xưa" mà đã hai thế kỷ đi qua.
    * * *
    Truyện kể rằng ngày xửa ngày xưa có mấy cha con lái buôn từ phương Bắc xuống phương Nam làm ăn. Họ sống bằng nghề làm xiệc. Mỗi cha con quẩy một đôi gánh tòong teng. Búa, liềm, khóa tay, xích sắt đủ thứ để diễn trò. Có mấy con chó, cặp khỉ, hai con gà trống cho đá nhau, cặp rồng và mấy cặp rắn. Phương Nam hiền hòa, dân chúng đa số nghề nông, ở thành từng làng. Mấy cha con cứ tuần tự đi hết làng này đến làng khác. Mỗi nơi dăm ba bữa, diễn xong trò thì kéo nhau đi. Chẳng có trò gì ra trò, nhưng dân quê phương Nam thấy thế là lạ mắt lắm rồi. Chỗ nào đông đúc làm ăn được, cha con họ dừng chân lâu hơn. Họ cũng chỉ ở lâu vừa đủ, nghề nghiệp mà, không bao giờ tham lam ở chỗ nào lâu quá, cho dù có làm ăn được, họ sợ ở lâu dân chúng sẽ học mất nghề. Chịu khó chông gai, rày đây mai đó, dân chúng chỗ nào cũng là khách mới, nên đến đâu cũng có người vỗ tay.
    Vùng quê mà. Xích sắt, để cho người xem khóa tay hẳn hoi rồi lão chỉ trùm tấm khăn đỏ lên, múa một vòng là người xem có thể hoa mắt, lão gỡ xích ra lúc nào không hay. Búa liềm sáng choang, khách xem thử chém thì cây chuối lớn như đầu người cũng đứt ngọt, thế mà lão chém bùm bụp vào mấy đứa con không đứa nào bị sao cả. Dân quê cứ lè lưỡi ra kinh ngạc. Nhiều người tin rằng cha con họ có bùa ngải. Lão ta biết tâm lý đám nhà quê lắm. Thỉnh thoảng lim dim nói dăm ba câu thần chú, nói mà làm như cố ý không cho người khác biết. Lão làm ra có vẻ che che, đậy đậy. Ấy thế mới ăn tiền. Dân chúng càng tin cha con lão có phép mầu. Chuyện ma quỷ bùa ngải lúc bấy giờ đắt khách lắm. Chả mấy người không tin có những chuyện hoang tưởng ấy. Mấy cha con Bắc phương biết rõ yếu tố dân phương Nam, cứ đấy mà móc túi tiền. Cũng có những tay thông minh, lăm le muốn cắp nghề. Nhưng đó chỉ là chuyện hão, lão luyện, giang hồ tứ phương thì sao mà qua mặt lão già được.
    Ở vùng kia có hai làng xích mích nhau, một bên họ Lê, một bên họ Trần rồi thù hận mãi về sau. Một bên trồng bắp, một bên trồng lúa. Lão lái buôn mớm tí mồi, bày mưu cho bên trồng lúa thuê người từ xa đến mua hết râu bắp ngô của làng bên. Giá bao nhiêu cũng mua, dân chúng đua nhau vặt hết râu bắp đem bán. Ai ngờ khi cái bắp không còn râu che chở, nó không lớn lên được. Ðến ngày mùa, một ruộng bắp lèo tèo được vài cái. Mất mùa, dân chúng làng trồng bắp đói khốn khổ, phải làm công vay nợ cho dân làng trồng lúa. Dân bên trồng lúa khoái lắm vì thấy mình thông minh vượt bực. Bây giờ giàu có, làm chủ, có kẻ hầu người hạ. Mối hận ấy sâu lắm. Bên trồng bắp phải tìm cách mà rửa nhục.
    Lão lái buôn lại bày trò khác, cha con lão xui bên trồng ngô gởi người phương xa đến mua móng chân trâu. Lợi quá, có mấy cái móng mà bán được bao nhiêu con bạc. Dân làng trồng lúa cậy hết móng chân trâu mà bán. Ðến mùa rét, trâu không cày được, lăn ra mà chết. Cứ thế, người cày thay trâu. Dân bên trồng bắp cười đến nôn ruột vì đã trả thù được. Bên nào cũng tự nhận là thông minh cực kỳ nên cả hai đều khốn khổ, đói rách lầm than.
    Lão lái buôn cứ quẩy đôi gánh toòng teng giả ngu giả điếc, bị dân phương Nam gọi là lão già dốt nát. Về sau, mãi mãi về sau, con cái dân phương Nam bao giờ cũng nhận mình thông minh hơn người. Dân nào chê họ dốt là chết ngay. Thích khen lắm. Lão lái buôn xúi giục, bày mưu cho mấy tay trưởng làng thôi, rồi giấu mặt. Dân cứ tin rằng thông minh kia, mưu chước nọ là của làng mình chứ ai hay là do chính lão lái buôn kia bày trò. Con cái họ cũng cứ tin là họ thông minh. Vì thông minh nên họ không bao giờ tự đặt vấn đề. Thông minh, thế tại sao họ không giàu có? Thông minh, thế tại sao lại cứ triền miên nghèo đói hết đời cha đến đời con? Họ không cần biết, hễ mà được khen là thông minh thì hài lòng rồi. Về sau, ai muốn gì của con dân phương Nam thì cứ bảo là họ thông minh nhất, thế nào cũng được việc. Chuyện gì cũng có nguồn gốc cả đấy.
    Cặp rồng và rắn của tay lái buôn cứ như yêu tinh. Chúng làm đủ trò. Tinh khôn quỷ ma. Lúc ấy dân phương Nam nhà nào cũng nuôi rồng, không có rắn. Hồi đó người phương Nam chỉ nói "rồng tiên" chứ không nói "rồng rắn" như bây giờ. Tại sao bây giờ lại nói là "rồng rắn"? Câu chuyện khá dài dòng. Cái gì cũng phải có nguyên nhân của nó. Hồi đó làng nào cũng có từng bầy rồng. Mùa hội, rồng bay khắp trời Nam, cứ như lụa đào trong gió xuân. Dân Nam nuôi rồng để múa hội. Các ngày hội làng là chiêng, trống, cồng âm vang lưng trời. Trai gái làng này đối tài mưu lược làng kia. Vui lắm chứ không như bây giờ. Hội hè liên miên. Dân phương Nam thích đàn ca múa hát. Mỗi kỳ hội là dăm ba ngày, có khi cả tháng. Ðời sống thong thả, thư thái, an hòa. Vì thế nhà ai, làng nào cũng có rồng. Hồi ấy không có vẽ rồng, khắc rồng như bây giờ. Nhất là không ai làm rồng giả bằng giấy. Vì có nhiều rồng thật. Ðêm rằm là trai thanh, gái lịch cưỡi rồng vờn trăng cứ như tiên bay lượn. Ðẹp lắm. Vui lắm. Thanh bình bốn bể.
    Tay lái buôn từ phương Bắc đem theo cặp rắn và rồng để làm xiệc. Về sau này, bao nhiêu đời nghiên cứu mà cũng không rõ là con rồng của tay lái buôn kia có là rồng thật hay chỉ là con rắn già. Những nhà chuyên môn tìm hiểu không đồng ý với nhau. Rồng tại sao nó trườn như rắn? Rồng phương Nam chỉ bay và nhào lộn. Muốn đi là bay mà tới. Nhưng con rồng của lão lái buôn cứ trườn dưới đất không ngại sâu bọ, đất dơ. Nó làm nhiều trò rất thông minh, kỳ tài, dân chúng xem biểu diễn mà mát mắt, không ai mà không say mê con rồng của tay lái buôn. Chỉ có điều nó không thanh tao thôi. Phe nghiên cứu dốt thì kết luận đơn giản rằng đấy chỉ là con rắn già, không phải rồng, kết luận vậy là dễ nhất! Phe muốn tỏ ra mình là nhà nghiên cứu trí thức thì nói đấy là rồng thật, nhưng sống chung với rắn, được huấn luyện để làm trò với rắn nên nó pha máu rắn. Chả biết bên nào đúng, nhưng câu chuyện là thế.
    Như truyện đã kể, rồng phương Nam chỉ nuôi để chơi vui trong ngày hội. Từ khi lão lái buôn phương Bắc tới, đem theo con rồng kia, nhiều dân làng quê thấy hay quá, thuê lão lái buôn dạy cho con rồng của làng mình cũng biết trườn, biết làm trò. Chẳng mấy chốc, những con rồng phương Nam cũng học nhiều trò mới như con rồng của lão lái buôn. Từ làm trò đến học cách đấu nhau. Từ những ngày ấy, mỗi ngày hội là đem rồng ra đấu, dân chúng đứng chung quanh vỗ tay gào thét cổ võ. Ngày xưa, có hội là cưỡi rồng ca múa. Nghệ thuật múa rồng đòi nhiều tài năng, muốn ca múa phải tập luyện, mỗi kỳ hội làng là một bức tranh văn hóa không dễ vẽ đâu. Nói rằng dân phương Nam quanh năm ăn chơi, không có nghĩa là biếng nhác làm việc. Ăn chơi với vũ điệu, với văn chương thi ca, hát hò quan họ là cả một công trình đấy. Cho nên phải nói đời sống của họ là một vũ điệu mới đúng. Chẳng hạn như bay với rồng mà thả con diều. Diều phải lên cao, mà diều phải đón gió cho tiếng sáo xuống trần. Cả là một nghệ thuật tinh vi. Từ khi lão lái buôn dạy cho đá rồng thì dân chúng thích trò chơi mới này, không phải tập tành gì, chỉ việc đứng chung quanh sân đình mà xem rồng đá nhau thôi. Vỗ tay quá trời. Rồng đá tóe máu, có con chết đứt đầu. Càng vỗ tay.
    Lão huấn luyện cho rồng biết vờn rắn. Hai con thi tài lừa nhau xem con nào gian xảo hơn. Con nào lừa được con kia là thắng cuộc. Các ngày hội sôi động hơn xưa, khác xưa nhờ những cuộc đấu rồng. Rồng lối xóm đấu với nhau, đấu vui rồi đấu ăn thua quyết liệt. Qua làng đó, làng bênh cạnh cũng vui lây, lão lái buôn lại phải đi huấn luyện những con rồng khác. Hắn đi khắp nơi để huấn luyện. Cuộc chơi càng ngày càng tàn bạo. Bây giờ đá rồng đã lan khắp cả. Ðể vui hơn, ngày hội họ thi đá rồng làng này với làng kia. Rồng họ này đấu với rồng họ kia. Rồng Nam đấu với rồng Bắc. Muốn thắng thì phải có rồng hay, thế là họ tranh nhau mời cha con lão lái buôn huấn luyện. Bây giờ, mấy cha con lão không phải làm xiệc kiếm sống nữa. Không bao giờ cha con lão dạy hết nghề. Làng nào trả nhiều vàng bạc thì lão tới. Một thời gian ngắn, cha con lão gánh không biết bao nhiêu vàng về quê cũ.
    Vàng bạc nhiều, lòng tham nổi lên, cha con lão cãi nhau, đánh nhau rồi giải tán gánh xiệc. Mỗi người một giang sơn, tranh nhau gây thanh thế. Vàng bạc mà. Thế là bao nhiêu miếng võ độc ác đưa nhau truyền cho rồng phương Nam. Bây giờ rồng phương Nam mới có cơ hội học nghề thực thụ. Lão già trấn thủ một giang sơn. Mỗi đứa con một vùng. Người nào cũng đem hết mưu mô để thanh thế mình là bậc thầy. Ðến kỳ hội năm, làng nào cũng hồi hộp không biết rồng nào thắng trong cuộc tranh tài. Cứ như thế mấy mươi năm cho đến khi cha con lão lái buôn rủ nhau về quê cũ, phương Bắc.
    Sau này, con cháu dân phương Nam tìm về cội nguồn, nghiên cứu kỹ lại gia phả mới khám phá ra câu chuyện ly kỳ. Nhớ nhé, lão là lái buôn thì chỗ nào có vàng bạc, châu báu là lão tới. Lão là tay xiệc, huấn luyện cho rồng rắn làm trò, là bậc thầy làm trò thì chính lão phải biết làm trò. Cái chuyện cha con lão cãi nhau rồi giải tán gánh xiệc chỉ là một trò xiệc thôi! Cha con lão giả vờ để dân làng phương Nam đua nhau mời cha con lão, cung phụng cha con lão dạy rồng cho riêng làng mình. Cha con lão nháy nhau cười dân làng phương Nam đến đứt ruột mà dân phương Nam cứ tưởng bở. Một ngày nọ, cha con lão cùng nhau ngược phương Bắc về quê với không biết bao nhiêu châu báu mà dân làng phương Nam cất giữ từ thời tổ tiên.
    * * *
  4. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    TRUYỆN CỔ TÍCH CHƯA ĐƯỢC KỂ ​
    Kể đến đây, cụ già chảy nước mắt. Hai đứa cháu ngồi nghe im lặng thương cụ quá. Cụ nghẹn ngào không kể tiếp được, cụ nấc lên rồi gục đầu tắt thở.
    Hai đứa cháu mơ hồ hiểu chuyện vì sao suốt đời cụ cứ băn khoăn khổ sở. Về sau hai đứa cháu ghi lại câu chuyện rồi lần mò đi tìm tiếp những đoạn cuối để chắp nối lại. Sau này, sống ở Phương Tây mà chúng là những nhà nghiên cứu lỗi lạc nhất về Phương Ðông. Mỗi đứa đem theo một dòng họ, chia làm hai, một tìm về hướng Bắc, một xuôi hướng Nam. Với những phương pháp khoa học cực kỳ tinh vi, hai đứa cháu của cụ già kia đào lên những tháng ngày của mấy trăm năm về trước. Vệ tinh trên trời tìm chụp lại các bóng hình quá khứ. Các làn sóng vi âm chạy trong lòng đất. Rồi một ngày kia, thời gian cũng lại đến, tất cả đều già. Bên tách trà nhỏ, hai nhà nghiên cứu ấy thành hai cụ già, họ chậm rãi kể truyện cho các cháu của họ nghe:
    Ngày xửa ngày xưa... Chắc có một cuộc đánh nhau ghê gớm lắm. Các cháu có biết không, cụ tìm được nhiều dấu vết, cụ kể các cháu nghe. Câu chuyện tính cho đến nay chắc là ba, bốn trăm năm rồi. Sông ngòi thay đổi, nước lũ trên rừng soi mòn, lụt lội làm thay đổi quá nhiều, phải công khó lắm mới ghép nối lại được. Chắc chưa đủ đâu. Cụ kể, mai mốt có đứa nào đi tìm tiếp, viết cho xong câu truyện.
    Những bộ xương người đào được ở hướng Bắc đa số đều có đeo một thẻ đồng khắc hình dấu chữ Hồ. Còn những bộ xương hướng Nam khắc dấu in hình chữ Ngô. Xương thì giống nhau. Khảo nghiệm cho biết một trăm phần trăm là cùng một nguồn gốc. Dĩ nhiên các cháu biết đó, nếu mà đánh nhau thì xương phải lẫn lộn chứ. Ðúng như vậy, lẫn lộn cả hai thẻ đồng các cháu ạ. Có khi bộ xương khắc dấu Hồ nằm lẫn bộ xương mang dấu Ngô. Như là hai bộ xương đang vật lộn với nhau. Rất nhiều như thế. Khắp cả. Hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu, không biết cơ man nào mà đếm. Chính vì vậy mà người ta cho rằng có cuộc chiến tranh rất dữ dội.
    Cụ không kể chuyện ma đâu, chuyện có thật đấy. Trong một tối kia, ở chân rặng núi, oan hồn người chết khóc ngất. Tiếng khóc kỳ lạ ai oán ghê lắm. Bên cánh rừng nọ, xình từ cái hồ nông nước gẳn lên mùi thối xác người. Ghê lắm. Nhặng bay đàn đàn, bầy bầy, o e trên những xác người chặt cụt chân tay. Ghê lắm. Ghê lắm. Có ba người không quần áo gì cả, bị lột trần truồng trói ôm vào ba gốc cây bỏ đói. Ngày thứ nhất, một người bị vặn đầu từ từ cho đến khi đứt mà chết. Ghê quá. Ghê quá. Cái cổ cứng vậy sao mà vặn đứt được. Thế mà vặn được đấy. Hai mắt lồi lên. Càng vặn nó càng lồi. Sau cùng nó rớt ra ngoài. Ðầu mà, đỉnh cao trí tuệ mà. Ðến ngày thứ hai. Người kế tiếp. Không bị bịt mồm gì cả, cứ để thế cho la hét. Ghê quá. Họ lấy dao khoét hậu môn rồi kéo hết ruột ra. Ghê quá. Tiếng la đinh tai, buốt thấu óc. Vì thế dân phương Nam vẫn nói, "đau như cắt ruột." Cái gì cũng phải có nguyên cơ, nguồn cội. Lũ trẻ nhỏ la lên. Cụ kể chuyện ma! Ghê quá! Ghê quá! Cụ kể chuyện ma! Không đứa nào dám nghe.
    Cụ già biết nói ra không đứa nào tin. Như chuyện hoang đường. Sự thật làm người ta sợ. Sự thật bao giờ cũng là sự thật. Nó còn đó không bao giờ phai màu. Chỉ có điều ai không dám nghe hay không muốn nghe thì đừng nghe thôi. Lũ nhỏ không tin chuyện có thật. Chúng bảo là cụ kể chuyện ma. Ðến khi cụ đem cái máy thu hình quá khứ ra bấy giờ chúng mới kinh hoàng. Máy móc điện tử thần kỳ, khi những tín hiệu tìm thấy xương người dưới đất, chỉ việc báo cho cái máy vệ tinh ở trên trời là chúng nó phóng những tia vi điện vô cùng mầu nhiệm tìm bắt tất cả những gì liên quan đến bộ xương ấy. Với máy móc như thế thì làm sao mà giấu được quá khứ.
    Các cháu đừng sợ, không có ma quỷ gì cả, họ là những con người như các cháu. Xem lại những hình ảnh ấy mà thương họ. Các cháu có biết họ là ai không? Là tổ tiên của các cháu đấy! Các cháu sợ tổ tiên của mình à? Với những chiếc máy này không còn gì giấu kín được nữa. Các cháu sống thế nào thì mai sau lịch sử ghi lại y như thế. Không thể giấu được. Kinh Thánh bảo không có gì giấu kín mà không bị tỏ lộ ra. Ðúng như thế.
    - Thưa cụ, thế những người giết họ là ai? Là người đeo dấu chữ H hay chữ N.
    - Cụ không cho các cháu biết được. Cụ muốn các cháu thử tự tìm xem.
    Một đứa khác lại hỏi:
    - Thưa cụ, làm sao mà họ thù ghét nhau như thế?
    - À, chuyện này mới dài, cụ cũng để xem cháu nào tìm được lý do.
    Hai câu hỏi ấy cụ biết chứ, mà đau lòng quá không trả lời nổi. Cụ thấy chính mình cũng sợ sự thật. Kinh Thánh nói sự thật sẽ giải phóng chúng con. Bây giờ chạm sự thật, cụ thấy linh hồn buồn quá. Khi Ðức Kitô bị đóng đinh, tổng trấn Philatô cũng hỏi câu hỏi ấy: Sự thật là gì. Cụ ngưng câu chuyện không kể tiếp nữa.
    Mấy đứa bé tò mò tiếp tục hỏi chuyện nhau. Hai đứa ra chiều thông minh:
    - Tao biết làm sao tụi nó đánh nhau rồi!
    - Mày không được gọi là "tụi nó", cụ đã chẳng bảo họ là tổ tiên của mình đó sao.
    - Ừ, đúng rồi, tao biết làm sao tổ tiên chúng ta đánh nhau, tại họ dạy cho bày rồng đánh nhau đấy, lúc nào cũng muốn rồng nhà mình thắng, rồi rồng làng mình phải thắng, nên họ mới thù nhau. Ai cũng muốn rồng làng mình là vua.
    - Nhưng mà tao biết họ dạy cho rồng đánh nhau là ngày xửa ngày xưa, có một ông lái buôn từ phương Bắc...
    - Nhưng mà làm sao ông lái buôn lại dạy cho tổ tiên ta đem rồng của mình ra đấu nhau?
    - Ờ.. ờ.. tao không biết!
    Ðể trả lời câu hỏi ấy, sau này một đứa đem hết đời mình tìm kiếm. Thế là mất mấy trăm năm sau con cháu phương Nam mới có câu trả lời. Nhưng rồng của dân phương Nam không còn là rồng như ban đầu nữa, nó không biết bay, nó thích trườn dưới đất, quanh co, mưu mô nhưng không hút nước phun lên trời như rồng ngày xưa. Rồng của những vương quốc lân bang bơi lộn vùng vẫy ngoài khơi sóng nước Thái Bình Dương, tranh đua với trời, hưởng phúc lộc thiên nhiên mây gió trời ban. Rồng phương Nam chỉ loanh quanh trên bờ, nhiều con lộn xuống biển, ôi! chết không biết bao nhiêu là cơ man.
    Sau bao năm tìm kiếm, hai đứa cháu đến thăm cụ. Những ngày cuối đời, cụ thao thức, buồn lặng lẽ trong hồn, cụ hỏi:
    - Tại sao rồng chung quanh bơi khắp Thái Bình Dương, còn rồng dân phương Nam thì không?
    Ðứa cháu của cụ thành một nhà nghiên cứu lỗi lạc, bảo cụ rằng:
    - Trải qua mấy trăm năm, bây giờ gọi là rồng chỉ vì gốc tích ngày xưa thôi, theo nghiên cứu thì rồng phương Nam hết chất rồng rồi.
    Cụ già sửng sốt. Ngạc nhiên kinh hoàng hỏi:
    - Thế.. thế là rắn mất rồi sao?
    Cụ già run lên. Ðứa cháu nhìn cụ không biết phải làm gì. Rung toàn thân người, cụ nấc lên rồi chết.
    Ðứa cháu, nhà nghiên cứu lỗi lạc, nhớ lại ngày xưa cụ không dám trả lời khi nó hỏi: "Làm sao họ ghét nhau thế." "Bên nào có dấu chữ H, bên nào chữ N." Bây giờ ông ta hiểu, cụ sợ sự thật không dám trả lời. Cũng như bây giờ, chính ông ta chỉ nói cho cụ biết là rồng phương Nam hết chất rồng rồi, chứ không dám trả lời hẳn câu hỏi của cụ vậy bây giờ là rắn rồi sao. Ông ta nhủ thầm, lại tới phiên mình sợ sự thật. Còn lại hai người, ông ta quay sang hỏi người bạn cũ, kẻ mà lúc nhỏ ngồi nghe cụ kể chuyện rồi sau đó hai đứa đã đua tài trí thức xem ai biết nhiều, ông hỏi:
    - Bây giờ có cách nào làm cho rồng dân phương Nam trở thành rồng thật mà ganh đua với các rồng lân bang được không?
    Người bạn năm cũ thản nhiên trả lời bằng một câu tiếng ngoại quốc: "I DON''T KNOW. I DON''T CARE." Rồi bỏ đi.
    Còn lại một mình. Ông cũng không biết rồi đây có cách nào rồng phương Nam bay lộn hào hùng như rồng thật của mấy trăm năm về trước nữa không hay là hết chất rồng thật mất rồi. Ông ta cặm cụi ghi lại tất cả nối kết của mấy đời các cụ xưa đang kể mà chết ngang chừng, thành một câu chuyện. Câu chuyện bắt đầu bằng mấy chữ: Ngày xửa ngày xưa...
  5. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Mẹ May Mắn Hơn Con
    Chàng đạp xe qua ngõ nhà nàng đã mấy vòng, không muốn vào. Ngại. Hai lần qua, mới dựng chiếc xe vào gốc vú sữa, đã có tiếng trong nhà vọng ra: "Nó không có nhà". Từ hôm đó, chàng thấy ngại làm sao ấy. Quen nàng có tới nửa năm nay rồi thì phải. Tình yêu như những đám mây, có đó mà sao thấy mong manh. Không ai dám giơ tay bắt sợ vuột mất sẽ đau. Chàng linh cảm có chuyện gì chẳng lành đang xẩy ra trong gia đình nàng. Từ tháng nay nàng thay đổi, hỏi gì cũng không nói. Chỉ buồn. Chàng không còn vào nhà nàng chơi như xưa. Ðạp xe qua ngõ vòng nữa. Không nhìn thấy nàng. Chỉ biết nhớ.
    Tiếng cô chiêu đãi viên hàng không vang lên. "Yêu cầu quý khách đáp chuyến bay Hồ Chí Minh City đi Taipei khẩn trương ra cửa số 2 để khởi hành." Thế là chấm dứt một hy vọng. Chuyến bay sẽ khởi hành đúng giờ. Nàng không còn hy vọng vào giờ chót máy bay sẽ hư động cơ để được hoãn lại nữa. Tiếng cô chiêu đãi viên lại vang lên hối thúc. Khách đã lục đục kéo nhau ra cổng. Một chuyến đi dài nhất trong đời. Bây giờ nàng chán quá. Không còn cách nào khác để quay về.
    Lúc nãy, chia tay nhau ở cổng, cả nhà đều khóc. Nhiều người khóc cho nhiều cảnh chia tay khác nhau. Ngày nào ở phi trường mà không có nước mắt tiễn đưa, nhưng cuộc ra đi của nàng rất khác. Nàng có cảm tưởng rằng tất cả mọi người đều ái ngại nhìn tâm trạng nàng lúc mà gia đình đứng ngoài hàng rào giơ tay vẫy. Những dòng nước mắt rất lạ. Ngày mai ra sao chưa biết. Cho đến lúc này, cuộc ra đi của nàng rất đỗi xót xa.
    Nàng biết rồi sẽ có lúc thế này, nhưng không ngờ nó mệt mỏi đến như thế. Nếu biết rõ vậy, dứt khoát sẽ không đi. Tương lai thế nào, nàng chưa thấy, sẽ hạnh phúc hơn, hay hôm nay vẫn là hạnh phúc so với những ngày sắp tới trước mặt. Nàng không còn sức để so sánh hiện tại với tương lai chưa tới. Ngay lúc này đây, một nỗi tuyệt vọng. Mẹ đã chuẩn bị tinh thần cho nàng từ mấy hôm nay, mà sao ngày ra đi vẫn bi ai quá. Ngược về mấy tuần lễ qua, từ cái ngày khởi đầu ấy, từ tò mò về chuyến đi xa đến băn khoăn háo hức, từ sung sướng đến lo âu tiếc nuối, từ sợ hãi đến chán nản, và lúc này là muốn quay về. Nàng không còn tâm sức để nghĩ, chỉ hy vọng rằng hôm nay là ngày đau khổ nhất, nàng đã đến đỉnh dốc, hy vọng rồi nó sẽ xuống dần.
    Máy bay lao vun vút trên phi đạo, một cái lắc mạnh của thân phi cơ, nâng nàng lên khỏi mặt đất, giật mình. Tất cả là xa lạ, bây giờ không còn ai để mà khóc, nước mắt trong lòng cũng từ từ vơi. Mọi chuyện đã quyết định xong. Con sóng trào lên đến độ cao nhất là lúc nó tung vỡ, rồi cũng phải rơi xuống, rút ra xa. Tâm hồn nàng cũng vậy, nó đã vỡ thành những hạt nước vụn, đang rơi xuống. Con sóng lui ra rồi lấy sức đẩy con sóng khác, có khi còn tàn bạo hơn. Ðiều ấy chưa cần nghĩ tới. Bây giờ con sóng đang lui xa, hãy nghỉ ngơi đã, tâm trạng nàng là thế. Không phải cái chán nản đang từ từ thay đổi, chỉ là nghỉ ngơi mà chờ những con sóng khác. Nàng tựa đầu vào thành ghế. Không muốn nhìn bất cứ sự gì chung quanh mình. Nhắm mắt. Một màn tối.
    Có lần mẹ nói với nàng, con sẽ đi máy bay. Mấy đứa em nhỏ biết chị sắp được đi máy bay, đứa nào cũng lè lưỡi kinh ngạc, vừa thích thú vừa đe dọa chị, coi chừng nó rơi đấy. Nàng chưa bao giờ được đi máy bay. Bố mẹ nàng cũng thế. Cả đời ông bà không bao giờ mơ tưởng tới. Mẹ cứ thỉnh thoảng nói không biết đi máy bay nó thế nào. Nó lên cao như con chim thế kia thì sợ lắm. Bố nàng bảo nặng thế mà làm sao họ bay lên được, tài tình thật. Nàng cũng không biết làm sao mà khối sắt khổng lồ kia lại lao đi giữa trời mênh mông không có gì chống đỡ. Nó mà hư máy thì không cách nào táp vào lề như những chiếc xe gắn máy nàng vẫn thấy xẩy ra hàng ngày. Ðời nàng cũng vậy, đâu có ngờ cất cánh bay lên như thế này. Không giải thích nổi. Trong gia tộc từ đời ông cụ kỵ qua bố mẹ rồi đến nàng, nàng là người đầu tiên trong dòng họ được đi máy bay. Nàng cũng có lúc tò mò hồi hộp nghĩ đến ngày nào đó được ngồi trong máy bay như hôm nay. Thế giới tưởng tượng bao giờ cũng đầy hoa gấm. Bây giờ nàng đang bay giữa trời đất, không một chút gì là thú vị. Ào ào tiếng động cơ, chung quanh kín mít. Không ngờ nó tẻ nhạt đến thế. Vậy mà cả nhà bảo rằng nàng là người đầu tiên trong dòng họ được đi máy bay đấy. Thực tế và mộng mị sao khác nhau quá thế này. Tương lai trước mặt của nàng sẽ ra sao đây.
    Những ngày cuối, bà mẹ tìm hết cách động viên tinh thần con gái bà. Bà dỗ con gái như dỗ một đứa bé, bà đem cả chuyện con gái sẽ được đi máy bay mà nói. Ðúng là thế, lần đầu tiên gia đình bà được ra phi trường, nhìn những khối sắt khổng lồ bay lượn. Ðối với nàng, chuyện đi máy bay chỉ là viên kẹo cho đứa con nít đang bị sâu răng, nó khóc đầm đìa nước mắt nhìn ông bác sĩ cầm cái kìm, hơi sức đâu mà ăn. Duy có lời mẹ nói rằng con đi ba bữa nửa tháng rồi con lại về thăm thầy mẹ, bây giờ họ đi Ðài Loan như đi chợ ấy mà, nàng hy vọng vào những lời nói ấy. Bà động viên tinh thần con gái, nhưng đấy cũng chính là lời động viên tinh thần cho bà. Nếu con bà phải ra đi không bao giờ trở lại, chưa chắc bà đã chịu để con đi. Máy bay mới cất cánh mà nàng đã nghĩ tới lúc quay về thăm mẹ rồi.
    Ðã gần ba năm xa nhà, vẫn nhận thư mẹ và các em, thư nào cũng nói con sẽ về thăm gia đình ngày gần đây. Thấm thoát, gần ba năm rồi, kể cũng là lẹ, nhưng nó không lẹ đâu, dài như ba thế kỷ. Lúc xuống phi trường, không có ai bên chồng chờ đón như gia đình nàng đã tiễn đưa nàng. Người chồng Ðài Loan bảo nàng đứng đó đợi, giả sử lúc đó anh ta bỏ đi thì nàng sẽ chết, nàng cảm thấy bắt đầu cần anh ta. Trở lại với hai cái vé xe buýt, họ lên xe chờ khởi hành. Cuộc tiếp đón trên đất Bắc, nơi mà nàng sẽ làm dâu vọn vẹn có thế.
    Ba năm với căn phòng trọ thuê này rồi. Những ngày đầu không sao nàng ngủ được. Ở cuối một con hẻm trong thành phố, các cao ốc chung quanh như những lô cốt khổng lồ vây chặt đám xóm nhỏ. Chủ đang đuổi dần người thuê để bán đất cho các công ty xây cất chung cư. Suốt ngày đêm, những chiếc cần cẩu cao ngất đóng cừ sắt ầm ầm chung quanh khu nàng ở. Taipei vào mùa hè nóng hơn quê của nàng. Cát bụi từ các cao ốc đang xây dở dang lúc nào cũng bay mù mịt. Căn trọ thuê của hai vợ chồng gồm một phòng ngủ, cái phòng khách bằng ba manh chiếu lớn xếp lại và khu bếp. Ðồ đạc không có gì mới. Chủ nhà không sửa sang, máng nước đã hư, vòi nước trong bếp chảy rỉ rả, lạch tạch cả ngày. Họ bảo sắp phá đi xây lại thành chung cư mười mấy tầng. Ðã mấy mươi năm, căn hộ này qua không biết bao nhiêu con người. Lâu rồi cũng phải quen, nếu cứ như ngày đầu chắc nàng sẽ chết. Rời phi trường, từ bến xe buýt, người đàn ông, chồng nàng đó, lấy taxi về căn trọ này. Thấm thoát thế mà đã gần ba năm.
    Cuộc đời là những ngỡ ngàng nối tiếp những ngỡ ngàng. Nàng lo quá không biết từ phi cơ xuống, gia đình chồng xúm xít chờ đón thì nàng biết làm sao. Nhưng điều ấy không xẩy ra, lặng lẽ, nhưng thôi cũng được, nàng đỡ phải đối phó với những khó khăn phức tạp. Nhưng trong tâm trí, nàng hoàn toàn không thể nghĩ là chỉ có hai người lấy xe buýt đi như thế về căn nhà trọ. Chồng nàng ôm đồ, xách vali vào, nàng hiểu đấy là tới nhà rồi. Cứ như những người câm điếc. Hai người không hiểu nhau một chữ. Cái gì cũng lạ, ngay cả đôi dép, cái bình nước cũng không giống như ở quê nàng, nhất là cái giường, phải mất bao nhiêu ngày tháng trăn trở. Không biết ở đây tạm đôi ba ngày hay đây là nhà hai vợ chồng sẽ ở suốt đời. Bố mẹ anh em chồng ở đâu, họ có biết nàng đã có mặt trong gia tộc họ hàng của họ chưa. Tuyệt đối, nàng không hiểu một tí gì. Bàng hoàng, lạ lùng. Nàng đã nghe kể những vụ buôn con gái đem sang Trung Ðông, Bangkok, Taiwan bán cho các ổ chứa gái. Nàng sợ run người. Cả tuần lễ nàng không dám đi đâu, chồng đi làm, tối về. Giả sử nàng bị ông ta giết, cũng không ai biết chuyện gì xẩy ra. Bây giờ chỉ biết cầu Trời Phật độ trì, nàng hoàn toàn bất lực, trông dựa lòng thương xót của người đàn ông xa lạ kia thôi.
    Ðàn ông Taiwan qua nước Nam tìm vợ rất nhiều. Tờ China News số ra ngày 19 tháng 6, 1996, thông tin rằng con số đàn ông Ðài Loan qua đất Nam tìm vợ khỏang 30 người mỗi tháng. Tính trung bình mỗi ngày một người con gái xứ Nam về làm dâu xứ Bắc. Ấy thế mà chuyến bay của nàng ngày ấy có một mình nàng thôi. Chia đều ra, có thể ngày trước đó đã có một thiếu nữ và ngày sau đó cũng lại một thiếu nữ nữa. Vào những năm nước Nam nghèo đói, người Taiwan qua đó làm ăn rất nhiều. Các khách sạn sang trọng đều có mặt người Taiwan. Hết thời kỳ mà chiếc xe đạp của bố nàng gẫy cái bi đan bàn đạp, ông nhất định không chịu mua cái bi đan made in Taiwan rồi. Bây giờ Taiwan ngang nhiên vào thị trường kinh tế thế giới bằng những sản phẩm tinh vi. Hồi bấy giờ người ta gọi mấy người như chồng nàng là chú chệt, ở dơ. Bây giờ người Taiwan xách samsonite ra vào những khách sạn lớn. Người dân nước Nam nhìn họ đồng nghĩa với sự giàu có, thèm muốn. Họ là những con buôn qua mở công ti, hãng xưởng. Nếu họ là những người sang trọng giàu có vậy mà không lấy được vợ thì không biết xứ sở họ thế nào. Hay là họ chê con gái xứ Bắc không xinh đẹp, duyên dáng như con gái xứ Nam? Nếu họ qua xứ Nam tìm vợ thì phải có vấn đề chứ.
    Chồng nàng qua xứ Nam cưới nàng không phải là chê con gái xứ Bắc, nhưng là chàng không lấy được vợ. Chàng cũng không phải là người qua xứ Nam với tiền rừng bạc bể để mở công ti, chỉ để tìm vợ thôi. Ngày ở phi trường, nếu chàng nói được tiếng Việt mà gọi nàng là em, chắc không ai hiểu là gì, nàng phải gọi là chú mới đúng tuổi tác chứ. Như giấc mộng, thấm thoát ba năm em làm dâu nhà người.
    Nàng còn nhớ như in, mới có gần ba năm chứ nửa thế kỷ nữa nàng cũng không quên được. Mẹ nàng và người đàn bà mối lái nói chuyện cả buổi chiều. Mỗi lúc đi ngang qua, bà mối lái nhìn nàng quan sát từ đầu tới chân. Sau đó mẹ nàng bắn tiếng dạo này nhiều con gái nước Nam lấy chồng Ðài Loan quá. Có đứa mới đi vài tháng mà đã về chơi. Người Ðài Loan muốn lấy vợ Việt vì họ khen con gái Việt biết chăm nom chồng con, làm ăn giỏi giang hơn con gái Tầu. Khối người sau khi lấy vợ Việt rồi mua đất cho vợ lập nghiệp luôn ở đây để lấy cứ điểm làm ăn. Thời buổi tân tiến, sáng ở Ðài Loan chiều đã ở Sài Gòn rồi, cứ như là đi chợ. Người Ðài Loan cũng giống y như người mình. Từ những bắn tiếng xa gần, đưa đẩy của mẹ rồi sau cùng nàng về làm dâu xứ Bắc. Chồng nàng không là doanh thương chê thiếu nữ Tầu, không xách somsonite với từng xấp đô la, nên đã mặc cả kỹ lưỡng. Ba ngàn đô la, giá trung bình như bao nhiêu giá những người con gái khác. Một ngàn rưỡi là phần người móc nối và chạy giấy tờ. Bố mẹ nàng một ngàn rưỡi.
    Một ngàn rưởi cũng nhiều chứ, những ba cây vàng cơ mà. Bố nàng chỉ cần có một cây để sắm chiếc xe đẩy cà rem. Ngày ông đi cải tạo, vợ con lên vùng kinh tế mới làm ăn, lúc về, ông sống dựa vào mấy công rẫy đó. Mấy năm cải tạo không chết, về đến nhà rồi còn tai nạn. Trời vẫn thương mới còn hôm nay, cưa trái mìn lấy sắt, sao nó không nổ banh người ông ra, chỉ mất có một con mắt. Bây giờ sắm chiếc xe đẩy cà rem mất có một cây, vẫn còn hai cây, đời ông mãn nguyện. Bà bàn với ông, sắm một cái xe nước mía có mô tơ chạy điện để ép mía nữa rồi cho con Tư trông coi.
    Từ hồi con gái về xứ Bắc làm dâu, bà bắt đầu có những ước mơ. Cái xe đẩy kem đã thành sự thật. Cái xe nước mía đã thành sự thật. Rồi cao hơn, bà nghĩ ngày kia thằng con trai sẽ có cái xe gắn máy. Hồi thím Tư chết, nếu có cái xe thì mấy mẹ con chỉ việc đèo nhau đi vài tiếng là tới nơi. Bây giờ nhà ai cũng cố sắm lấy một cái, cần lắm. Rồi bà sẽ mua một cái tivi, sáng trưa, chiều tối, lúc nào buồn buồn là mở cát sét nghe nhạc. Gia đình sẽ rộn ràng. Biết đâu có tủ lạnh làm đá uống vào những lúc trời nóng như hôm nay. Rồi biết đâu nữa một ngày nào đấy, bà gầy được cái xạp nhỏ bán tạp hóa. Lúc đó con Ba, con Tư sẽ đi chạy hàng. Những giấc mơ vẽ ra rất đẹp trong tâm trí bà. Bà nghĩ vài tháng là con bà sẽ về thăm, rồi căn nhà sẽ được quét sơn, một màu tươi mới sẽ đưa gia đình sang một trang sử khác. Gần ba năm rồi chưa thấy con về, ước mơ chưa chết, nhưng nó làm bà thao thức quá. Ngày con gái mới đi, rồi ông già đẩy cái xe cà rem rực rỡ nước sơn mới, với tiếng chuông leng keng, rồi chiếc xe mía ở đầu ngõ, cả lối xóm đều kinh ngạc. Nhiều người thèm thuồng có con gái được như con gái bà.
    Ðứa con gái đầu lòng của nàng thức giấc, cái miệng dễ thương làm sao, đang ngáp ngủ. Hai con mắt mở to nhìn nàng nhoẻn miệng cười. Cái cằm tròn như quả táo con. Dễ thương quá đi thôi. Cúi xuống hôn lên má con. Bé con thích chí giơ tay khuờ khoạng muốn mẹ bế. Ngày sinh con, nàng nhớ rõ lắm, ngay trong nhà thương, lúc còn mệt vì đau, chồng nàng đã không muốn nhìn con. Tiếng Tầu, nghe câu được câu không, đến bây giờ cũng vẫn thế, nàng chỉ biết mang máng, họ nói chuyện với nhau là bà ấy đẻ con gái. Nàng không là phúc trời đem cho đất Bắc. Nối dõi tông đường mà là con gái làm sao được. Từ hai năm nay, chồng nàng đã luống tuổi rồi, lắm lúc ông nói những tràng tiếng Tầu thật dài, nàng không hiểu được, chỉ biết là ông bực lắm, ông chỉ tay vào đứa con mà nói. Nàng biết đấy là oan khiên.
    Ðám bạn bè chồng nàng chắc cũng người cùng quê với chồng từ Hoa Lục. Chả mấy lúc không sầu muộn, hoài hương bằng những cuộc say vô lại. Hôm nay, lúc ngà ngà rượu, họ chỉ trỏ cả hai mẹ con rồi riễu cười tít mắt. "Thuê một con ở Philippine mỗi tháng phải trả bao nhiêu tiền mà không được ********. Như lão nhà đây là sướng nhất rồi đấy, rẻ chán!" Nàng không giỏi tiếng Tầu, nhưng nàng cũng có thể hiểu họ nói chuyện gì với nhau chứ. Nghe vậy, nàng chỉ giả vờ như không biết gì. "Ðất Nam nghèo quá nên mới có người xứ Bắc đến mua mẹ. Chứ con sinh ra là gái ở đây rồi mai sau lấy ai đến trả giá hả con." Cúi xuống, nàng nói với con nhỏ như thế rồi ứa nước mắt.
    Ðài Bắc 19 tháng 6, 1996
  6. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    BÀN TAY
    Không mấy người để ý về chuyện biến mất của ông ăn mày. Mười mấy năm rồi, ông đi từ làng nọ sang làng kia xin ăn, giáp vòng, ông quay trở lại, đường ông đi tuần tự như cuốn lịch. Vùng quê có đến gần chục ngôi làng nối nhau nằm theo con hương lộ bụi đất. Ông xuất hiện rất sớm vào từ độ dân di cư 1954 bỏ Bắc xuôi Nam. Mười mấy năm nay ông cứ đi xin ăn như thế, ai mà không nhẵn mặt ông. Chẳng ai bận tâm về gốc tích của ông, như bài học thuộc lòng đã quen, hễ nghe tiếng chó sủa, thấy ông ghé ngõ, là người ta chuẩn bị cho ông một vốc gạo.
    Thế rồi ông biến mất vào một ngày không ai biết. Ông đi đâu? Khi người ta thắc mắc hỏi nhau thì ông đã cao bay xa chạy, hay chết ở một nơi nào đó rồi. Vì sao ông lại biến mất như thế? Không ai có thể nghĩ ra một lý do hợp lý. Lâu không thấy ông trở lại xin ăn, người ta tò mò đặt câu hỏi thì đã quá trễ. Tin ông già ăn xin biến mất thành đề tài thời sự vì tính chất bí mật của nó. Từ đấy nhiều huyền thoại ma quái được những kẻ giàu óc tưởng tượng thêu dệt ra. Có người quả quyết ông bị cắt cổ chết vì ông có bao nhiêu vàng. Có người nói ông trốn đi vì là gián điệp miền Bắc mới bị khám phá. Càng tò mò thì sự cố ông già ăn mày biến mất càng huyền bí. Không ai tin ai là người biết rõ chuyện.
    * * *
    Thời gian trước 1954
    Mấy tá điền trói người đàn ông bên đống rơm. Ðã sang ngày thứ hai. Ðất Bắc vào tháng hai trời mưa lai rai, nó rét như cắt thịt thế mà người đàn ông chưa xỉu. Ông ta bị bọn tá điền đánh một trận đau quá sức. Người đàn ông run cầm cập, môi xám lại. Vừa rét, vừa đói, ông không biết cái nào sẽ đưa ông chết. Ngay khi bị bắt, ông đã cúi lạy bọn tá điền như tế sao mà họ không tha.
    Ðất Bắc vào những ngày này đâu mà chả có điền chủ và tá nông. Những ông Lý, ông Huyện là một thứ vua con. Ði đâu cũng dù che, gậy chống, xa xa những người mang nợ thấy họ là khúm núm vái chào. Người đàn ông bị trói bên góc sân lát gạch rộng có đến như sân đình. Dẫy nhà ngói vàng rựa dài như nhà quan chính trên phủ huyện đủ cho biết chủ nó là ai rồi. Từ lúc bị bắt đến giờ người đàn ông vẫn không thấy ông Lý đâu. Cứ tưởng dẫn về tới nhà, ông Lý phải ra ngay mà nhìn mặt xem quân ăn cắp là đứa nào chứ. Người đàn ông không thể đoán được những gì sắp xẩy đến cho định mệnh khốn nạn của mình. Ðã gần hai ngày bị trói. Cái rét làm ông không chịu nổi. Cứ thế này thì chết mất thôi. Vợ con ở nhà bây giờ thế nào. Lạnh run mà lòng dạ người đàn ông bỏng như lửa thiêu. Nếu người ta biết vì đi ăn trộm bị bắt, ông còn mặt mũi nào mà sống với dân làng. Chợt nghĩ đến đấy, ông quằn quại ruột gan. Có khi nào ông Lý thương tình tha cho ông không? Nó như giấc mơ gần lắm mà sao sợ hãi quá, chắc không bao giờ là sự thật. Cầu Trời độ lượng phù trì. Người đàn ông khóc rấm rức.
    Sau cùng thì ông Lý cũng xuất hiện. Người đàn ông cúi lạy xin ông tha cho lần đầu. Chỉ một câu nói của ông Lý, lũ tá điền sẽ cởi trói. Người đàn ông mới nghĩ đến đó đã cảm động rơi nước mắt. Ông thề hứa với hồn thiêng sẽ không bao giờ có chuyện này trong đời nữa, kinh hoàng quá rồi. Ðêm qua người đàn ông đã được đưa vào góc nhà ngang chứa đồ. Tên tá điền đổ bao khoai trước mặt người đàn ông. Chứng cớ. Người đàn ông cúi sầm mặt không dám nhìn, không nói một câu. Ông Lý không giận dữ chửi mắng nguyền rủa gì cả. Ông bảo tay tá điền bỏ khoai vào rổ cất đi. Người đàn ông đã chờ cây gậy của ông Lý ra oai, nhưng điều ấy không xẩy đến. Giọng ông Lý bình thường, ba chuyện lặt vặt này có đáng chi cho ông bận tâm. Rồi ông bỏ đi. Người đàn ông cám ơn Trời Phật đã phù trì. Giấc mơ đang thành sự thật chăng? Hồn ông bà thiêng lắm nên ông mới được ông Lý thương như thế. Ông Lý sẽ tha cho ông chăng?
    Ðất Bắc nơi vùng này có được mùa cũng chẳng phải ai cũng đủ ăn. Nghèo đói là bạn quanh năm. Thiếu đất, thiếu ruộng, được người thuê mướn là như mang ơn, mang nghĩa. Vào những năm mất mùa, gió bão, trộm cắp nổi lên như tôm. Nhà các ông Lý, ông Tổng chẳng mấy đêm mà quân canh không đuổi trộm chạy huỳnh huỵch. Xui cho người đàn ông bị bắt. Cầm lòng chẳng đặng, túng quá rồi, bụng đói đầu gối phải bò. Vợ chồng nhìn nhau không ai bảo ai, những u ẩn kín đáo về một lối đi là làm sao để có cái gì cho vào bụng. Trằn trọc bao đêm, người đàn ông không sao chợp mắt được. Không phải chỉ cái đói, cái rét gió trời, nhưng tiếng khóc của mấy đứa con. Nó như dao chém vào lòng.
    * * *
    Cu tí ôm củ khoai lớn như cái chày giã cua nóng bỏng xuýt xoa khoái chí. Người đàn ông vui quá. Cái mùi khoai nướng chảy mật bốc thơm đầy nhà. Bóc cái vỏ cháy xém là phô ra cái màu vàng sậm thật mướt. Ông chảy rãi không chờ cho củ khoai kịp nguội. Còn vợ ông nữa, lâu lắm hôm nay mới thấy bà tươi một chút. Mọi sự trong nhà thay đổi như cơn mưa chợt đến không ngờ. Ngồi bên thềm cửa nhìn mấy đứa con xúm xít bên rổ khoai bốc khói, chà! ông mới nhận ra không biết gia đình đã vắng tiếng cười từ bao giờ. Bỗng có tiếng con nít òa khóc, ré lên buốt giọng. Giật mình dậy, đấy lại chỉ là một cơn mơ.
    Cả tuần nay, chẳng mấy đêm ông không mơ thấy giữa nhà ông là rổ khoai đầy. Giấc mơ nào ông cũng thấy mình ăn no. Giật mình dậy nó phũ phàng làm sao. Vẫn mấy đứa con khóc vì đói. Vợ ông không cười như trong giấc mơ. Giấc mơ càng đẹp, lúc tỉnh mộng lại càng đau. Nó vẽ ra những hình ảnh không có thật làm người ta càng tiếc. Chớ gì được một ngày như thế.
    Cứ thế, tâm trí ông lảng vảng như người không hồn. Lúc thật lúc tỉnh. Trong giấc mơ nào cũng thấy của ăn. Có khi là mùi cơm cháy, có khi miếng giò, cũng có những giấc mộng mị rất sang, chẳng hạn như ngồi bên mâm cơm thịt gà béo ngậy. Ðĩa thịt rang tiêu hành. Nó thơm đến từng tế bào. Nhưng bao giờ cũng kết thúc bằng tiếng đứa con khóc hay cơn gió bay thốc, nước mưa tạt vào mặt. Những lúc tỉnh dậy như thế ông không thấy tiếc mà đôi khi thấy cũng "đã", vì trong những giấc mơ ấy được ăn quá ngon. Chỉ khi sáng bừng xua hết ảo ảnh, mặt trời khua đám con nít bảo chúng nó là chúng đang đói, nhìn vợ không biết tính toán chuyện gì hôm nay, bấy giờ ông mới thấy những giấc mơ có bữa cơm ăn là độc ác.
    Ông xách cái bao đi về cuối làng. Trời chạng vạng tối. Ruộng khoai ông Lý không có người canh. Gốc đầu tiên kéo lên nặng đã đôi tay. Chùm khoai sai mùa như những quả mướp béo tròn. Ông lanh lẹn bẻ ngọn cho vào bao. Ðâu có gì khó khăn quá sức như ông nghĩ trước khi xách bao đi đâu. Thế mà phải mất mấy ngày chuẩn bị tinh thần. Mấy ngày liền, cứ chợn vợn tối là người đàn ông lại rảo vài vòng, gần xa ruộng khoai. Ông tưởng tượng ra đủ đường, đủ ngõ, đủ cách, mà cách nào cũng chông gai. Bây giờ đang đứng trong ruộng khoai rồi, đã bới lưng túi mà trời vẫn vô tư, đất không bạo hành. Ông khám phá thêm một chân lý mới trong cuộc sống. Người ta cứ lo quá mức đấy thôi. Sự tưởng tượng là kẻ thù ghê gớm của đời sống. Việc gì cũng vậy, thực tế không đến nỗi tàn bạo như những gì vẽ ra trong đầu. Ông không ngờ ông có thể bình tĩnh như thế giữa ruộng khoai. Chung quanh vắng như tờ, giả sử ông có bới thêm một túi nữa cũng không sao. Ông nghĩ bụng, đời phải liều. Cái luân lý mô phạm đôi khi chỉ là dở hơi.
    Ðang bới, túi đã gần đầy, chợt tiếng chó cắn oang. Quay lại thì đám tá điền đã đâm cái sào tre nhọn hoắt vào gần mặt. Ông kêu ré lên. Giật thót mình bật dậy. Ðây là đâu? Mồ hôi đầm đìa. Xoa tay úp mặt. Thì ra lại một cơn mơ.
    Tỉnh dậy, nhìn chung quanh. Vắng lặng. Vợ ông nằm thiêm thiếp giấc ngủ chập chờn. Thằng cu chúi đầu ôm cái gối rơm. Mỗi đứa con lăn lóc một nơi. Trong giấc ngủ đêm, ngồi nhìn cả nhà, ông mới thấy gia đình ông rời rạc như những hạt cơm nguội. Ðứa nào lo ôm cái đói của đứa ấy, ngay cả đến ông và vợ ông cũng thế. Trong giấc mơ có bóng hình yêu thương vợ ông đâu. Chỉ thấy toàn chuyện ăn.
    Mà sao giấc mơ đêm nay hãi hùng quá, ông bị bắt à. Tỉnh rồi ông mới thấy bới trộm được một rổ khoai không phải là chuyện bỡn. Tiếng chó sao mà ghê hồn. Trong những giấc mơ, người đàn ông khám phá thêm rằng những cái rất tầm thường hàng ngày, nó không là gì cả, nhưng khi đúng thời điểm của nó, nó mang một giá trị sống chết chứ chẳng chơi đâu. Thí dụ, hàng ngày, tiếng chó có là gì, thế mà nó có thể giật sập ông xuống bẫy. Hàng ngày, một củ khoai có là gì, thế mà lúc đói, củ khoai cũng trở thành ông thần. Cuộc đời lạ quá. Con người lại còn khó hiểu hơn nữa vì có lúc nó không giá trị bằng rổ khoai. Nhìn mình đi bới trộm khoai trong giấc mơ, ông cười mỉa mai trong bóng đêm, chả nhẽ ông lại bị bắt vì trộm khoai à, như thế thì còn gì là con người, còn gì là nhân phẩm. Hình ảnh chỉ là mơ, nhưng lúc lũ tá điền ập đến, ông thấy kinh hoàng thiệt. Tim ngừng thở. Tỉnh cơn mơ, ông mừng hú vía, thấy mình thoát nạn! Mơ chứ không phải thật.
    Ngoài trời gió lạnh vỗ phành phạch qua phên cửa nhưng trán ông rịn mồ hôi. Chỉ là cơn mơ mà rợn người. Chùm khoai sai mùa vẫn in hình nguyên vẹn trong giấc mơ trước mặt ông. Bàng hoàng, chỉ là một giấc mơ thôi sao? Cho tới sáng, ông không sao nhắm mắt được, trăn trở suốt đêm về giấc mơ quái lạ. Ðiều ông thấy trong giấc mơ với thực tế lại quá khác xa nhau. Mới chợt đây thôi, chân lý ông tìm thấy trong giấc mơ về cuộc sống là: "Người ta cứ lo quá mức đấy thôi. Sự tưởng tượng là kẻ thù ghê gớm của đời sống. Việc gì cũng vậy, thực tế không đến nỗi tàn bạo như những gì vẽ ra trong đầu." Bây giờ ngồi đây ông thấy chân lý ấy sai. Vừa lúc trước ông bình tĩnh đứng trong ruộng khoai, thấy rằng không chuyện gì là không thể làm được. Nhưng khi bị bắt ông mới thấy những chuyện tưởng dễ mà lại không dễ tí nào. Thế giới thật và mơ nó mù mờ quá, vừa một giây lúc trước là đúng, một chớp mắt đã là sai. Thực và mộng sao cách biệt thế.
    Liên tiếp gần tháng nay, chẳng đêm nào trong giấc ngủ của người đàn ông không chờn vờn ác mộng. Cơn mơ nào thấy mình bị bắt mà bừng dậy thấy vẫn ở trên giường là ông mừng như nhặt được vàng. Người đàn ông ngẫm nghĩ trong đêm vắng. Ừ, hạnh phúc đơn sơ vậy thôi sao, thoát chết trong giấc mơ là hạnh phúc à. Hay là những hạng người như ông thì chỉ có hạnh phúc trong giấc mơ như thế mới là hạnh phúc thật?
    * * *​
  7. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    BÀN TAY​

    Bây giờ ông đang bị trói. Người đàn ông tỉnh tỉnh điên điên hỏi mình, thực hay mơ? Chẳng lẽ ông bị bắt thật à. Không thể ngờ đời ông lại xẩy ra nông nỗi này. Nhưng mơ hay thực thì ông biết rõ rồi. Không phải là mơ đâu. Khủng hoảng, dật dờ, người đàn ông cứ khóc rấm rứt. Mộng mị đêm đen, sự thật ban ngày, chúng lẩn quẩn vào nhau. Cái nhìn hiền từ của ông Lý thì sao? Người đàn ông không thể hiểu nổi. Người ta đồn thổi nhiều về những người điền chủ độc ác, giàu có mà hành hạ gia nhân không xót lòng. Nói đến những ông Chánh, ông Tổng là ai cũng sợ. Quyền sinh sát trong tay, tiền hô hậu ủng. Thế sao ông Lý lại không quất cho ông ít là vài gậy cho ra quyền dạy bảo của kẻ làm lớn? Ðây có là thật hay lại chỉ là mộng? Người đàn ông đã nhìn rõ ông Lý ôn tồn bảo tay tá điền cất rổ khoai đi cơ mà. Ðiên đầu, ông chóng mặt vì toàn những chuyện ngược dòng. Tưởng đến ánh mắt rực lửa thì ông Lý lại nhìn mình bằng con mắt nhân từ. Không thể ngờ có ngày bị bắt thì bây giờ đang bị trói ngồi đây. Thực và hư, Cuộc đời. Chóng mặt.
    Ðêm là thày dạy nhiều tàng ẩn chôn kín khó nhìn. Bóng tối có một thứ ánh sáng rất lạ. Ðêm và tối soi vào tâm thức con người những ý nghĩ xót buốt không ngờ. Những đêm không ngủ, giật mình dậy giữa cơn đen, đen trong nghĩa thật là đêm, nghĩa bóng là đời mình, người đàn ông thấy trí tuệ mình bừng mở. Trong cái bừng mở ấy của trí tuệ, ông phải trả một giá đau thương cho những suy tư của ông về cuộc đời.
    Tại sao có những con người thừa ăn, dư mặc? Tại sao có những con người khốn khổ như ông? Cái nghèo có là tiền định của ông trời? Trằn trọc trong đêm, người đàn ông đi tìm câu trả lời. "Giấy rách phải giữ lấy lề." Người đàn ông rủa thầm. "Rách thì vứt nó đi chứ giữ làm cái gì!". Giá mà say, mà điên thì hạnh phúc biết mấy. Vào ngày mùa, cái sân nhà ông Lý đầy người, trai tráng, thanh niên, phụ nữ, đập lúa vang chuyện cả đêm. Tại sao trên đời có ít ông Lý thế, mà hạng người nghèo khổ như ông thì đầy. Cái giàu có kia có là may mắn ông trời ban cho không? "Con quan thì lại làm quan, con nhà sãi chùa thì quét lá đa." A! thế ra cuộc đời đã sắp sẵn như vậy rồi sao. "Ðói cho sạch rách cho thơm." Người đàn ông lại rủa thầm. "Ðói làm sao mà sạch, rách làm sao mà thơm, toàn chuyện rởm đời!" Nhưng xã hội bắt như thế. Ông không lội ngược dòng được với những định chế ấy. Hoàn cảnh nào thì ông cũng phải sạch, phải thơm mới là con người. Ông bắt đầu muốn phủ nhận nhiều khuôn thước cuộc đời đã bắt ông đi. Chính ông đã dạy lũ học trò như thế mà. "Ðói phải cho sạch, rách cho thơm". Bây giờ ông thấm thía hơn về cái năng chức thầy giáo người ta gọi ông. Tại sao người ta bắt ông phải sạch hơn nữa, thơm hơn nữa chỉ vì cái tên gọi ông giáo ấy. Nếu ông chỉ là tay đánh dậm, tát cá cầu ao có lẽ lúc này lương tâm ông bớt xốn xang.
    Bóng tối vẽ ra những vực sâu ý thức không đáy. Ðịnh mệnh con người là cái giếng, đừng tìm hiểu nó, cứ sống cho đến ngày chết thì xuôi tay, ngó vào hỏi số phận là gì, định mệnh là gì thì cũng như xúc đất mà tìm nó, càng tìm nó càng sâu. Ðừng nhìn xuống, quên đi thì nó đầy. Nếu thế, mấy đứa con của ông mai này lấy chồng, lấy vợ xong, cứ đêm đêm rồi lại cũng tiếp tục những giấc mơ như của bố nó, mong một rổ khoai giữa nhà. Rồi đến lượt con cái chúng nó lớn lên, giấc mơ này đẻ giấc mơ kia, nối tiếp đến đời nào cho hết thân phận một kiếp nghèo. Cái may mắn của một người từ khi sinh ra và cái định mệnh lầm than như ông, hai dòng sông không thể chảy vào nhau. Xã hội của ông Lý và người đàn ông chỉ là phản ánh cái xã hội lớn của đất nước. Chảy rộng lan ra, nó là phản ánh của cả con người, có những dân tộc như là bất hạnh từ tiền kiếp, có những đất nước như sinh ra để làm cảnh sát của ông trời dòm ngó hết lục địa này đến lục địa kia. Hai dòng sông không chảy vào nhau được. Bất hạnh đối kháng.
    Người đàn ông nhìn đàn cò bay. Những cánh sau cùng nhỏ bóng mất tiêu mà vẫn chưa hết ruộng của ông Lý. Cái lẫm chứa thóc kia bao giờ mới vơi. Chỉ cần nhổ lên vài gốc khoai là cả nhà ông đều no. Tại sao một dòng sông ngập nước còn một dòng sông cạn khô. Cái đối kháng giai cấp giữa hai dòng sông là đối kháng phát sinh từ đâu? Nếu con người sinh ra trong số phận nào, phải chấp nhận số phận đó, nếu đấy là tiền định của trời, thì làm sao lại có cái đối kháng giai cấp trong ý thức? Nó là tiếng gọi thâm sâu của linh hồn. Cái ý thức này đến từ một lương tâm. Người đàn ông cho rằng cái ý thức về một dòng sông tràn nước và dòng sông cạn khô kia nhắc cho ông rằng con người không sinh ra trong định mệnh và phải chấp nhận định mệnh. Nếu là định mệnh thì ông phải an lòng mà sống chứ? Nếu là định mệnh thì ông phải an vui mà nhìn lũ con khóc vì thiếu ăn chứ? Lòng ông dấy lên một ý thức về tương quan con người với con người. Ông không chấp nhận định mệnh. Lấp ló đâu đó trong những khe nứt lương tâm, người đàn ông thấy một tiếng gọi mù mờ, chưa thành hình, nhưng đủ ấm để giữ một ngọn than chờ ngày thành lửa.
    Ðất Bắc đang vào mùa thu. Không phải sương thu của bốn mùa mà là mùa thu có những bài ca nhắc nhở con người sinh ra không phải để chấp nhận định mệnh. Tiếng hát mùa thu bao giờ cũng có sức hút ma quái quyến rũ. Tự mùa thu đã là sầu muộn rồi. Tiếng thu gieo sầu trong tim những con người như đang tự hỏi mình về thân phận đất nước, thân phận làm người như người đàn ông.
    Cách mạng bùng nổ. Mùa thu đấu tranh. Toàn nước đánh đuổi thực dân dành độc lập. Vang khúc hành ca mừng định mệnh bị đổ vỡ. Người đàn ông có mặt trong đoàn người anh hùng ấy. Mấy chục năm sau này, từ miền Nam, lúc tuổi đời ngả bóng, ông giáo làng ngày xưa ấy hồi tưởng lại những đấu tố kinh hoàng của miền Bắc. Trong đêm đen, ông lại khốn khổ tự hỏi mình, tất cả những sự cố ấy xẩy ra có phải là định mệnh? Khởi đầu là mấy gốc khoai bới trộm ở khu vườn nhà ông Lý, rồi "định mệnh" đưa ông vào say mê cách mạng mùa thu. Tòa án nhân dân. Trả thù. Í thức hệ. Nhận thức. Lỗi lầm. Ðủ mọi màu sắc, quay tít như chiếc chong chóng, nhưng hết gió, khi chiếc chong chóng ngừng quay, cuộc đời lại cũng trở về có một câu hỏi, thế nào là định mệnh, là số phận con người.
    Ðời ông đi từ những khe hở nho nhỏ của lương tâm về số phận con người cho đến ý thức bừng lên, vỡ òa ra như quả trứng bị đập vỏ, ông hoàn toàn phủ nhận con người không sinh ra từ định mệnh và phải chấp nhận định mệnh. Cuối đời nhìn lại một kiếp sống đi qua, ông thấy cái mầm của mọi thứ chủ nghĩa cũng chỉ là một ý thức hệ về số phận con người như ông đã từng đối kháng. Ông không chấp nhận nhìn những ruộng khoai dư thừa kia mà lũ con mình đói không có ăn. Ông nhớ rõ lắm cái đêm quyết định xách bao đi về hướng cuối ruộng khoai. Ông cũng sợ bị bắt chứ, ông cũng sợ tiếng đời mỉa mai chứ, nhưng ông không sợ tiếng lương tâm. Một sự đứng dậy rất sâu trong tiếng nói của lương tâm cho phép ông dứt khoát giật lên những gốc khoai vì lũ con đói lạnh quá.
    Từ tiếng gọi đối kháng của hai dòng sông cách biệt, tiếng gọi đứng lên tháo chiếc mặt nạ định mệnh xuống, người đàn ông yêu mến Marx trong nhận thức khi Marx nói tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ con người. Sau này, nhìn lại những biến cố đi qua, ông thấy những người rao truyền tôn giáo cũng mang một tội không nhỏ khi tôn giáo không trả lời rõ ràng thế nào là số phận đời người. Nếu tôn giáo gỡ chiếc mặt nạ định mệnh xuống thì liệu Marx có cơ hội đứng ra thay thế tôn giáo để gỡ nó không? Sau Marx, cả Châu Mỹ La Tinh với cái gọi là nền thần học giải phóng cũng chỉ là loay hoay như Marx, tìm cách tháo gỡ cái mặt nạ định mệnh 75 phần trăm dân chúng nghèo đói trong khi tất cả đất đai nằm trong tay có 25 phần trăm thuộc giai cấp thống trị. Ông không cần tôn giáo nói gì, nhưng tiếng nói đi tìm sự công bình, đối với ông là tiếng nói lương tâm. Ðối với ông, tôn giáo nào không đi tìm sự công bình là tôn giáo giả hiệu.
    "Tại sao những tay phú ông tin rằng họ được may mắn là do định mệnh trời ban mà không tin rằng tiếng gọi cách mạng mùa thu cũng chỉ là định mệnh của ý trời?" Người đàn ông cười nửa miệng. À, thì ra ai cũng tin số mệnh. Chỉ khác là những gì đe dọa đến cơ nghiệp họ thì đấy không phải ý trời, họ sẽ chống lại. Thuyết nhà Phật bảo cứ bỏ tham sân si đời sẽ bớt khổ. Thuyết nhà đạo bảo hãy yêu thương nhau đời sẽ hết khổ. Sau cùng thì Marx đến với búa và liềm.
    Thế nào là công bình, là may mắn? May mắn có là một định mệnh trời dành riêng cho ai thì người ấy được không? Từ ngày bị bắt vì trộm khoai, rồi theo tiếng nhạc quân hành của mùa thu cách mạng, rồi nhiệt thành giơ cao lá cờ tổ quốc, đến hối tiếc, đến bỏ Bắc xuôi Nam, rồi cuối đời nhìn lại, người đàn ông vẫn không định vị được thế nào là may mắn, là duyên số.
    Ðấy không phải là ý thức xót xa riêng của người đàn ông. Nhiều kẻ mở nắp giếng ấy ra rồi vội vàng đóng lại. Có người nhìn sâu xuống, sau cùng chóng mặt tự kết thúc đời mình. Có người lần mò tìm vào tôn giáo để giải quyết, chân bước se sẽ không dám đi mạnh, nên tôn giáo lại không giật mình đủ tỉnh mà trả lời.
    * * * ​
    Suy Tư:
    Soi bóng mình qua người đàn ông, tôi thấy ngôn ngữ của tôi phải cực nhọc mà không nói được rõ nghĩa của số phận và cơ may là gì. Cơ may nào cũng có những nguyên nhân rất sâu để rồi đến cõi cuối cùng thì dường như nó lại không còn là cơ may nữa. Nhìn xuống đời mình, số phận tôi có may mắn không? Trong tương quan so sánh thì có những cái may mắn này nhìn thấy được là do cái bất hạnh kia của người bên cạnh nổi lên. Rồi cái may mắn của kẻ khác vẽ đường cho tôi thấy bất hạnh của mình. Cứ lẩn quẩn trong một nhùng nhằng khó có lối ra.
    Bỏ nước ra đi, tôi không biết định mệnh hay cơ may cho tôi ngày hôm nay ngồi đây soi đời mình trong những suy tư của người đàn ông trong câu chuyện tôi đang viết. Nếu không ra đi, có lẽ biết đâu bây giờ tôi đang chấp nhận số phận như hàng triệu người Việt Nam vượt biên không thành đang lầm lũi ở một cánh đồng nào đó. Và có lẽ sẽ chẳng bao giờ để nổi lên một ý thức muốn đem những định đề số phận, cơ may này xuống chữ nghĩa. Tôi có may mắn hơn nhiều người, điều ấy đúng chứ.
    Nhưng cái may mắn ấy là gì? Hai mươi năm may mắn cắp sách đến trường với chữ nghĩa là cái giá phải trả không rẻ. Số tiền lớn ấy đến từ đâu? Giáo Hội đã tốn biết bao nhiêu tiền cho tôi từ những năm đầu đời trung học cho tới ngày thành linh mục, tiền ấy đến từ những bàn tay có khi rất nghèo như của bà góa trong Phúc Âm. Tôi có thể gọi đời tôi là may không? Không có những con người như bà góa trong Phúc Âm đóng góp cho Giáo Hội thì hôm nay tôi thế nào? Tất cả đó là những chi phiếu mang ơn, cách này hay cách khác, ý thức hay vô thức, biết hay không biết. Nếu đã là may thì không đi tìm nguyên nhân được. Nếu đã là may thì có cần trả ơn? Có nguyên nhân thì làm sao mà gọi được là may? Hai mươi năm cắp sách đến trường, chợt nhìn thì xem ra tôi may mắn, nhưng may mắn nào cũng có những nguyên nhân, có khi xa, có khi gần, chỉ có điều tôi có nhận đó là nguyên nhân hay không thôi. Mắt xích này nối vào mắt xích kia, tận cùng, tôi thấy cái mà người ta thường gọi là may mắn chẳng còn gì là may mắn nữa.
    Nếu hôm nay những người con ông Lý có thành công, thì cũng nhờ cái giàu có của ông Lý để lại. Ông Lý giàu có nhờ những mẫu ruộng mênh mông kia thật đấy, nhưng ông có được những mẫu ruộng ấy là nhờ có những con người nghèo khó như người đàn ông nọ. Vì nếu ai cũng nhiều đất đai như thế thì làm sao ông làm chủ như vậy được, làm sao con cái ông có của cải mà thành công.
    Cái giếng ý thức này sâu thật. Có lẽ vì thế không ai muốn nhìn kỹ. Nhìn kỹ, nhìn lâu có thể nó quật ngược lại nhiều dòng suy tư đã cố định từ lâu. Cái bật rễ đó tốt hay xấu chưa là vấn đề nói tới, nhưng mới thấy bật rễ, điều ấy đã làm con người hoảng sợ. Khi nói người ta may mắn nên được cuộc sống khá giả. Ðiều ấy tự động cắt nghĩa là tôi không mang ơn ai, nợ ai. Sau cùng, con mộc kết luận được đóng xuống là vì không mang ơn nghĩa nên tôi không có trách nhiệm phải chia sẻ những gì tôi có được với những kẻ nghèo đói. Cái bi kịch của người đàn ông năm xưa bên sân nhà ông Lý là thế. Ðối với ông Lý, ông có cơ may sinh ra là thừa hưởng cơ nghiệp của tổ tiên để lại. Ông không nghĩ là có trách nhiệm về cái bần cùng của người đàn ông.
    Cách mạng mùa thu với 30 năm nội chiến, với mấy trăm ngàn người bỏ mình trên sóng xanh rợn biển cả, với 70 triệu người nghèo đói hôm nay cũng là phát xuất từ ý thức chống lại cái tự cho mình là có cơ may không cần phải san sẻ với những con người như người đàn ông kia. Tự hỏi mình thế nào là may mắn, tôi thấy cái giếng ấy sâu quá, khó mà trả lời. Không có cái may nào mà không liên quan đến cái rủi của người khác. Khi tôi may mắn nhặt được cây vàng này thì ai là người không may đánh mất nó? Khi tôi may mắn vào được hãng xưởng này thì ai là người không may đã bị từ chối? Khi tôi may mắn được một nền giáo dục như thế này, đạt được mảnh bằng như thế kia để hôm nay tôi có thể thu về hàng chục ngàn đô la, khi tôi được ngồi trên chính thể này làm chủ hàng chục mẫu đất, tôi có thực sự là may mắn không? Mặt trái đất này chỉ có thế, khi tôi dẵm chân chiếm giữ khoảng đất này thì người khác mất chỗ. Tất cả những gì mà tôi tưởng tôi không có trách nhiệm chia sẻ với con người chỉ vì tôi không mang ơn họ dường như chỉ là luận lý đến từ một lý luận thiếu luận lý.

    con tiep [/]
    Được chuottrang1984 sửa chữa / chuyển vào 08:30 ngày 29/11/2005
  8. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    BÀN TAY​
    Ông giáo làng theo tiếng quân hành ca dưới ngọn cờ Marx vì Marx muốn lấy liềm để cắt, búa để đập. Với búa và liềm, Marx nghĩ con đường ấy thức tỉnh cái ý thức ngủ mê kia về liên hệ huynh đệ giữa con người và con người. Marx muốn xây dựng một thế giới bình đẳng. Có thể Marx có lòng nhiệt thành, nhưng điều sai lầm cay đắng của Marx là tiêu diệt lương tâm. Í thức thế nào là may mắn, định mệnh, chia sẻ giữa con người với con người, không phải chỉ cần tri thức soi sáng là thấy, nhưng cần năng lực yêu thương để thực hiện. Ðiều này cần đến tôn giáo. Chính Ðức Kitô đã khởi xướng ý thức này bằng ý thức tôn giáo sâu nhất trong tôn giáo của Ngài. "Ai cho những người bé nhỏ này một bát nước lã là cho chính Ta." Ðó là một tuyên ngôn vô cùng siêu bạo về ý thức tôn giáo của Ngài lập ra. Nó siêu bạo và trở nên căn bản vì Ngài đồng hóa chính Ngài là Thượng Ðế trong thân phận một kẻ nghèo. Marx và những người theo Marx hô hào một ý thức bênh vực người nghèo nhưng họ không bao giờ dám đồng hóa họ với người nghèo như Ðức Kitô. Chính vì thế người nghèo chỉ trở thành phương tiện đấu tranh mà thôi. Các thầy tư tế đóng đanh Ðức Kitô cũng vì Ngài chống một ý thức tôn giáo dùng giáo điều cai trị. Ngài quật dậy ý thức không ai có quyền nhận mình may mắn hơn người khác mà chối từ trách nhiệm giúp đỡ kẻ nghèo hơn mình. "Các ngươi nhận nhưng không thì cũng hãy cho đi nhưng không". "Có gì tôi có mà không là do từ Thiên Chúa." Dọc theo giáo lý của Ngài là tiếng kêu sống dậy ý thức ấy. Ðiều đó đụng chạm vào tư lợi của một lớp người, sau cùng Ngài phải chết. Tôn giáo không sai, con người sử dụng sai tôn giáo. Tôn giáo không là thuốc phiện, chỉ có những con người sử dụng tôn giáo như thuốc phiện. Như thế, đáng lý Marx phải dùng tôn giáo mà làm đòn bẩy cho cái ý thức hệ kia. Nhưng Marx đã lầm lớn khi khai trừ tôn giáo. Cái lầm bi đát của những người theo Marx là họ tưởng chỉ cần tiếng kèn thúc quân sẽ làm bừng sáng lên cái ý thức con người hãy chia sẻ với con người. Họ tưởng rằng tiếng đạn AK là đủ khua vang lên ý thức ấy. Họ không biết rằng ý thức chỉ là phạm trù trí tuệ, còn hành động chia sẻ thuộc phạm trù yêu thương, nó cần xám hối, cần xót xa, cần rung động của con tim. Ðiều này chìm trong tôn giáo.
    Mấy mươi năm sau ông giáo làng thuở xưa mới thấy cái ngày ra đi sau sự cố bị trói ở sân nhà ông Lý là bồng bột quá. Cuối đời, ông cố sống thảnh thơi. Vì ông cũng cho rằng ông Lý đối xử tệ với ông cũng chỉ vì những ý thức thế nào là may mắn, là số phận trời cho là một ý thức nghèo nàn mù mờ trong trái tim ông.
    * * *
    Sang ngày thứ ba, ông Lý tha cho ông giáo làng kia về. Nhưng mộng và thực lại dính chùm vào nhau, không biết đâu mà lường. Cái nhìn thương tình của ông Lý hôm đó là một hỏa ngục trá hình. Ngay khi ông Lý bảo tay tá điền cất rổ khoai đi, ông biết ông phải làm gì đối với tay ăn trộm khoai này. Chung quanh nhà ông có tường xây, tre mọc kín. Mấy tay tá điền dắt kẻ bị bắt trộm ra bên giếng trừng phạt. Con dao phay sáng choang như mới mài. Kinh hoàng. Ông giáo làng run cầm cập không tin vào mắt mình. Chuyện gì nữa đây? Thực hay chỉ là mơ? Con dao thật à?
    Chỉ ít lâu sau, tin ông giáo biến mất loan đi khắp làng. Ông đi đâu? Ông đi từ hồi nào? Không ai biết được. Sau bóng hình ông, còn lại chỉ là những câu chuyện thêu dệt của những tay giàu óc tưởng tượng.
    Cuộc đời thăng trầm như những ý thức hệ trong lịch sử, bay nhào nhào như cánh chuồn chuồn rồi cũng ào ào lao xuống như con diều đứt giây. Rồi cũng lại thực hay mơ, bỗng dưng một ngày ông Lý không còn sản nghiệp gì. Nào là cải cách ruộng đất, nào là đấu tố cường hào ác bá, nào là xây dựng thế giới đại đồng dưới ngọn cờ chủ nghĩa Mác Lê. Mới hôm qua nhà cao cửa rộng, qua một đêm đổi đời ông Lý thành trắng tay. Bây giờ không phải là người đàn ông ăn trộm khoai hỏi mình nữa mà là ông Lý: "Chỉ là mơ hay là thực?" Mùa thu cách mạng bay về đem khói Marxist chảy khắp mọi nẻo đường quê. Ông Lý bị tố là cường hào ác bá, điền chủ độc ác. Ðến phiên ông lầm lũi bỏ của chạy lấy người.
    * * *
    Thăng trầm có là định mệnh? Ông Lý bị hành quyết mà không chết. Cách nào trốn vô Nam được thì không ai biết.
    * * *
    Vùng quê, nên hầu hết ai cũng chỉ cho ông ăn mày gạo thôi. Ông ăn mày ngả nón, hai tay hứng chiếc túi đựng gạo. Gia chủ cũng là một ông già, cố bốc mà gạo cứ rơi. Bàn tay ông già chủ nhà bị cụt hai ngón, vụng về mấy ngón còn lại cố bốc mà lòng bàn tay trơn tru quá, gạo cứ rơi xuống thôi. Tay ông không còn khỏe nữa, run run đổ gạo vào bao cho ông ăn mày. Bàn tay cụt mấy ngón cứ chìa ra với đám gạo rơi trước mặt ông già ăn xin. "Ông cảm phiền vậy nhá, tay tôi bị cụt nên làm cái gì cũng khó khăn." Ông già ăn xin nhìn kỹ hơn bàn tay cụt hai ngón. Cơ hồ một làn điện chạy dọc tủy sống ông lạnh buốt. Ngẩng mặt nhìn gia chủ, ông không tìm thấy nét gì quen thuộc. Thoang thoáng những bóng chớp lóe lên rối rắm của mấy mươi năm trước hiện về. Ông chợt nhớ lại cái ngày tháng hai gió lạnh bên giếng nước với gã ăn trộm khoai. Buột miệng ông hỏi một câu mà vỡ toang một quá khứ mấy mươi năm khóa chặt. "Làm sao ông bị cụt mấy ngón tay thế?". Ông già chủ nhà đáp:
    � Chuyện thì dài lắm cụ ơi, nhưng cụ hỏi thì tôi cũng kể cụ nghe, già rồi chả biết có còn gặp cụ được mấy lần. Thoát chốc mà cuộc đời trôi qua có ai ngờ. Ðời cứ như thực như mơ. Tôi chẳng giấu gì cụ, ngày xưa ở Bắc thì cụ biết đấy, nghèo quá, nhiều người phải đi mò trộm củ khoai, đào trộm củ chuối mà ăn. Vào năm ấy mất mùa đói kém quá thể, "đói cho sạch rách cho thơm" cụ ạ, nhưng nhìn mấy đứa con không có ăn tôi cầm lòng không nổi, một đêm nọ tôi đào trộm khoai nhà ông Lý. Chẳng may bị bọn tá điền bắt. Tôi thấy ông không nói gì, cảm động quá vì thấy ông thông cảm thương tình hoàn cảnh tôi. Nào ngờ ông cho lũ tá điền dẫn tôi ra bên giếng nước xem bàn tay nào bới khoai rồi chặt đứt mấy ngón.
    Ông già ăn mày cúi đầu chú ý nghe. Còn gia chủ, đã mấy mươi năm với bàn tay cụt hai ngón mà không hề có ai thắc mắc hỏi han gì, lần đầu tiên kể từ ngày xẩy ra sự cố, bây giờ mới có người hỏi đến lịch sử của nó, ông xúc động kể. Như người sắp xa cuộc đời, ông muốn tâm sự cho vơi nỗi niềm hay cho sống lại một quá khứ bi tráng nhất đời. Ông chậm rãi tiếp thêm câu chuyện:
    � Hồi ấy tôi là ông giáo làng, cụt mất mấy ngón tay cầm phấn rồi làm sao mà dạy học được nữa, vả lại còn mặt mũi nào với dân làng. Tôi bỏ làng đi biệt, bỏ nghề giáo tôi cũng bỏ luôn lương tri nhà giáo. Như cụ biết đấy, cha ông thì bảo "giấy rách phải giữ lấy lề", từ ngày ấy tôi bảo giữ làm gì nữa. Tôi theo tiếng gọi cách mạng mùa thu. Chỉ mấy củ khoai rồi mấy ngón tay mà đem đời đi xa như thế đấy. Bây giờ nghĩ lại thấy đời như bóng mơ. Tôi cũng chẳng oán trách ai. Tôi kể cụ nghe, vì cho đến bây giờ tôi vẫn không hối hận việc mình làm, tôi không mắc cỡ vì mấy củ khoai, tôi không ăn trộm, tôi chỉ đi tìm sự sống. Có điều hối hận là sau sự cố ấy tôi đem đời mình vào cuộc chơi phiêu lưu quá, theo ngọn cờ búa liềm đi xa quá. Giá mà tôi không mất mấy ngón tay... giá mà ông Lý có một chút xót thương... ông ấy dư thừa gạo thóc mà.. giá mà tôi không mất cái lương tri nhà giáo... giá mà...
    Ông già ăn mày run lên, hai vai rung rung, khụy xuống. Ông khóc. Ông già chủ nhà nghĩ đến chuyện xưa với bao nhiêu trăn trở đường đời cũng xúc động ứa lệ theo. Trời chiều đang tắt nắng. Ðến mùa thay lá, những chiếc lá xoài khô rụng xuôi bỏ cành. Hai ông già ngồi bên nhau, câu chuyện cũ làm nước mắt rơi trong chiều xuống muộn. Ông già chủ nhà ngồi ôm tay trên đầu gối. Bàn tay cụt hai ngón run rẩy trước mặt ông ăn mày.
    Hình ảnh bàn tay cụt hai ngón kia xói buốt vào tim ông già ăn mày. Ông già chủ nhà kể tiếp:
    "Tội nghiệp cuộc đời, tôi nghe sau này ông Lý cũng khổ lắm, ông bị đấu tố rồi không biết trôi dạt nơi đâu, cuộc đời chóng qua thế đấy. Không biết ông Lý có còn sống không".
    Những âm thanh sau cùng rót vào hồn ông già ăn mày và đọng lại.
    Ông già chủ nhà đâu có biết ông ăn mày kia chính là ông Lý ngày xưa của mấy mươi năm về trước.
    Sau cuộc đấu tố thoát chết, ông Lý trốn được vô Nam. Mất hết cơ nghiệp, gia đình bị đấu tố chết cả. Ông mang thân tật nguyền, đi xin ăn, sống nhờ lòng thương xót của mấy xóm đạo cho đến hôm nay.
    Mấy mươi năm về trước, cũng cái bàn tay mà ông giáo làng ra đi biệt tăm. Mấy mươi năm sau, cũng cái bàn tay, nhưng lần này kẻ ra đi biệt tăm lại là ông Lý. Ông ăn mày nhìn bàn tay cụt hai ngón mà chính ông ra lệnh cho bọn tá điền chặt đứt đang run rẩy trước mặt ông. Ông không dám ngẩng mặt sợ ông già chủ nhà có thể nhận ra chính ông là ông Lý của cái đêm nghiệt ngã ấy.
    "Nếu tôi không chặt đứt hai ngón tay kia thì hôm nay với bàn tay năm ngón lành lạnh sẽ bốc gạo cho tôi dễ dàng biết bao." Nhìn lại bàn tay cụt hai ngón lúc xúc gạo cho ông, gạo cứ rơi xuống hoài. Ông Lý đau xót khi thấy chính bàn tay đang làm phúc cho ông là bàn tay ông đã ra lệnh chặt. Vì mất hai ngón nên bàn tay làm phúc ấy hôm nay muốn xúc cho ông mà gạo cứ rơi xuống. Nếu bàn tay kia lành lạnh thì cái phúc bàn tay ấy làm cho ông hôm nay sẽ nhiều hơn. Hình ảnh đó siêu bạo quá. Cái phúc hay cái bất phúc là do mình tạo nên. Nhân quả đi với nhau trong đời. Người ta không trốn được cái nhân quả ấy. Nhân quả thuyết nhà Phật dạy rằng ai làm ác sẽ đầu thai trong kiếp ác. Thuyết nhà Ðạo tin có ngày Chúa phán xét, tội mình làm sẽ cưu mang mình trong kiếp sau. Ðạo nào cũng đi tìm cái căn nguyên hạnh phúc là yêu thương. Vắng yêu thương thì chính đạo cũng thành tà đạo.
    Sau buổi chiều gặp gỡ ngoài tầm không ngờ đó, ông già ăn mày đi mất bóng như tôi đã viết ở đoạn trên. Chẳng ai biết ông đi về đâu. Ông về cõi buồn phiền hay bất mãn? thiên đàng hay hỏa ngục? phẫn nộ hay tỉnh thức?
    Hết​
  9. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Chuyện kể trong thành phố​
    Ngân Hoa
    Ba nhân vật khác nhau về lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp. Nhưng câu chuyện của họ đều là về một người con gái chết trẻ. Qua những câu chuyện ấy, chân dung hiện lên rõ nhất không phải là cô gái kia, mà là chính người kể. Và, mỗi câu chuyện ấy, giống như là một lỗ thủng, hay một ô cửa sổ để người đọc ghé mắt vào đó mà thấy vài chân dung tinh thần của một đời sống thị dân.
    Chuyện kể của tên du đãng
    Không ai tin nàng là một trinh nữ.
    Họ cho rằng tôi là một thằng đểu và tôi nói vậy chẳng qua để trốn tội!
    Các người cứ hỏi đi hỏi lại mãi rằng bằng cách nào mà tôi quen được nàng. Chẳng bằng cách nào hết. Hôm đó tôi vừa trúng mánh, bán được một con xe nát với giá hời cho một gã nhà quê. Tôi ngồi uống bia với mấy thằng bạn. Nàng đi qua và tôi gọi: "Này cô bé!". Tôi thấy nàng nom bắt mắt, hay hay thì gọi bừa cho vui thôi. Một kiểu ghẹo gái mà các người hẳn cũng biết thừa. Nàng quay lại và mỉm cười với tôi. Chắc nàng cũng nhận ra tôi không phải người quen nhưng cũng chẳng tỏ vẻ gì khó chịu. Điều đó làm tôi thấy mến nàng. Nàng không có cái kiểu tinh tướng của mấy đứa con gái ra vẻ bắc bậc kiêu kỳ nhưng mới liếc mắt đã sán lại ngay. Tụi bạn nhậu hỏi tôi: "Mày quen con bé ấy à?". Tôi gật đầu. Các người còn lạ gì tính sĩ diện của đàn ông. Thực ra tôi còn chưa biết tên nàng.
    Lần thứ hai tôi gặp nàng cũng hết sức tình cờ. Tôi đang ngồi đợi khách trong một quán cóc ở cổng trường thì nàng bước vào mua một bịch cóc dầm rất to. Chẳng lẽ cô bé này có thể ăn hết chỗ cóc dầm ớt đỏ lòm ấy? Tôi thấy vui vui khi gặp lại nàng. Tôi xin được trả tiền cóc dầm cho nàng. Nàng từ chối nhưng bà hàng nước đã cầm tiền của tôi rồi. Tôi xua tay ra hiệu không phải trả lại. Bà ta tưởng chúng tôi quen thân nhau. Nàng cảm ơn tôi rồi chạy vội vào cổng trường vì trống đã báo giờ vào lớp. Sau giờ học tôi theo nàng về đến tận nhà. Từ đó ngày nào tôi cũng trồng cây si trước cổng trường. Lúc đầu nàng cũng có vẻ hơi sợ tôi.
    Chúng tôi chỉ thân nhau từ vụ tôi giải cứu cho nàng khỏi mấy thằng nghiện trên đoạn đường qua cánh đồng sau xóm liều. Nàng thường đi học thêm tiếng Anh về trên đoạn đường đó. Các người có thể cho rằng đó chỉ là màn kịch do tôi dựng nên. Nói thật nhá đây không thèm giở cái trò tanh tưởi đó. Chuyện yêu đương là phải quân tử. Thích nhau thì O.K, không thích thì bái bai.
    Một lần tôi thấy nàng có vẻ buồn lắm. Mắt đỏ hoe. Hỏi gặng mãi mới nói đang mết một thằng cha thơ thẩn giẻ rách gì đó. Nói thật tôi thì chỉ là thằng vô học nhưng ba cái thằng thi sĩ nửa mùa đó tôi khinh một mắt. Thơ của tụi nó rặt một giọng tán gái tanh không chịu nổi. Muốn chăn gối với người ta thì cứ nói mẹ nó ra, đằng này lại làm thơ đêm nay anh không ngủ được vì nhớ em rồi lại ra ngắm sao trời... Nàng có vẻ phật ý nên tôi cũng không dám bóc mẽ cái thằng cha thi sĩ bất đắc dĩ đó nữa. Nàng còn nhờ tôi đưa quà cho hắn nhân dịp ngày lễ Va lăng tanh va lăng tiếc gì gì đó. Tôi chiều hết. Thực ra tôi cũng thấy nàng dở hơi trong ba cái chuyện đó. Con gái mà không biết cành cao là chỉ có thiệt, nhưng vì đã coi nhau như anh em nên tôi luôn sẵn sàng làm vệ sĩ cho nàng.
    Thằng cha nhà thơ của nàng chuối hết chỗ nói. Hắn hỏi tôi: "Ông là bồ của cô bé cóc dầm à?". Tôi bảo: "Nàng gửi cho ông cái này". Hắn cầm món đồ quẳng vào một xó rồi lôi chai rượu trắng mời tôi. Hắn bảo: "Cô bé cóc dầm của ông bám dai quá. Tôi chẳng biết phải làm thế nào. Bây giờ có lẽ chỉ còn kế tẩu vi thượng sách". Hắn lại còn lôi thơ ra đọc, bắt tôi phải nghe. Tôi thấy buồn nôn. Tôi bảo hắn: "Tôi đ. hiểu gì về thơ ca nhưng tôi biết ông là thằng đểu. Ông ngủ với nàng rồi bây giờ tính cắp quần chạy hả? Nói cho ông biết, ông mà giở cái trò chó má ấy là sẽ ăn đủ với thằng này đấy!". Tôi tính doạ chơi thôi ai ngờ thằng cha nghệt mặt ra như ngỗng ỉa. Mẹ kiếp! Thằng hèn! Tôi phủi đít ra về. Chuyện này tôi không kể ra vì sợ nàng buồn.
    Chiều hôm ấy nàng ngồi lỳ trong quán ăn gần hết cả lọ cóc dầm. Tôi thấy xót ruột vì trông nàng ngơ ngác như người mất hồn. Tôi rủ nàng đi ăn miến lươn cho ấm bụng. Nàng bằng lòng ngay. Có vẻ nàng thích lang thang, không muốn về nhà. Trong lúc ăn miến lươn, nàng hỏi tôi: "Nếu anh vẫn yêu một người mà biết người ta không còn yêu mình nữa thì anh sẽ làm gì?". Tôi nghĩ cô bé này chắc đang thất tình rồi, nên bảo: "Thằng nào lừa em? Cứ để anh đến cho nó một bài học".
    Nàng lắc đầu, không chịu nói. Rồi lại bảo: "Em chẳng muốn về nhà chút nào. Mẹ thì lúc nào cũng kể tội bố. Bố thì chỉ uống rượu rồi lại lầm bầm chửi mẹ là con đĩ. Hôm qua em cũng bị gọi là con đĩ. Đàn bà ai cũng là con đĩ hả anh?". "Đứa nào gọi em là con đĩ để anh đến đấm vỡ mõm nó ra. Đồ chó!".
    Thấy tôi to tiếng, nàng sợ tôi nổi cáu mà đi đấm vỡ mõm cái thằng đã dám gọi nàng là con đĩ thật, nên vội nói: "Đứa nào mà chẳng có thể gọi như thế. Hôm qua em đi đường, vô ý chạm xe vào một người ăn mặc rất lịch sự, trông ra dáng trí thức lắm. Vâỵ mà hắn quay lại chửi em là đồ đĩ mắt mù à...". "Em đi đứng cho cẩn thận đấy. Cứ lơ nga lơ ngơ là có ngày chết oan chứ bị chửi là đồ đĩ thì đã nhằm nhò gì!". Ăn miến lươn xong nàng đạp xe về. Tôi đang có hẹn với một khách hàng nên cũng đi luôn, không đưa nàng về như mọi khi.
    Ai ngờ đó là lần cuối cùng tôi gặp nàng. Sớm hôm nay khi đến cổng trường, vừa ngồi vào quán nước tôi đã nghe bà bán cóc dầm bảo: "Cậu không biết gì à? Con bé vẫn ngồi ăn cóc dầm với cậu ở đây chết rồi. Gia đình vừa cho người đến báo với nhà trường xong. Nghe đâu bị tai nạn nhưng có người lại nói là con bé uống thuốc ngủ tự tử... Mà này, nghe đâu con bé đã có thai ba tháng rồi. Không biết là có với thằng nào... Các cô bây giờ... Thời của chúng tôi mà như thế thì...". Cứ thế bà ta nói một thôi một hồi. Các người còn lạ gì câu chuyện của mấy con mẹ rỗi việc buôn dưa lê ấy. Cứ như thể cái tin mà bà ta vừa báo cho tôi là một tin mừng không bằng. Tôi vớ lấy xe lao ra đường. Tôi chẳng biết mình định đi đâu. Tôi chẳng định chạy trốn đi đâu hết. Tôi chẳng có tội gì. Tôi đã nói mãi mà các người không tin ư? Nàng là một trinh nữ! Giấy khám nghiệm tử thi à? Giấy khám nghiệm tử thi thì liên quan gì đến tôi? Tôi nhổ toẹt vào cái giấy khám nghiệm tử thi của các người! Các người mới chính là những cái xác chết đang bốc mùi, đang thối rữa ra. Mẹ kiếp! Tôi phải nói đi nói lại với các người đến bao giờ? Nàng là một trinh nữ!
    Chuyện kể của một thi sĩ
    Tôi có yêu nàng không? Tôi không thể trả lời điều đó theo cách hiểu của các ngài. Tôi yêu nàng như yêu tất cả những gì đẹp và mong manh ở cõi đời này. Nàng đẹp và phù phiếm. Nhưng nàng lại luôn đòi sự vĩnh cửu. Sự vĩnh cửu của tình yêu không hiện diện ở đời sống thế tục của chúng ta. Chỉ có tình yêu với Đấng Tối Cao là vĩnh cửu. Tình yêu với Đấng Hằng Sống trường tồn trong chúng ta và làm nên thơ ca. Tôi tôn thờ tình yêu ấy.
    Tôi có ham muốn nàng không? Thân xác con người chỉ là phương tiện. Chúng ta bị cầm tù trong thân xác của chính mình. Tình yêu giúp chúng ta phá bỏ cái nhà tù đó. Trong cuộc ái ân của những thân xác, chúng ta đã vượt qua khoảng chết ngắn để đến với sự sống đích thực. Khi rời bỏ thân xác, chúng ta bay lên bằng đôi cánh của tinh thần. Lúc thân xác chúng ta nằm lại trong sa mạc của nỗi cô đơn thì tinh thần đưa chúng ta tới ánh sáng bất tử. Đó là một hành trình của số phận. Mỗi người chúng ta đều mang cỗ xe một bánh của mình trên con đường đó. Liên tục chết đi và tái sinh. Chúng ta đã để lại biết bao xác thân phù du trên con đường đi tới sự sống vĩnh hằng đó...
    Khi nàng gõ cửa phòng tôi lần đầu tiên, tôi đã tự nhủ rằng thế là bánh xe số phận đã đưa nàng đến. Không! Tôi không mê hoặc nàng, không dụ dỗ nàng. Nàng đã tự đến như một tín đồ của tình yêu vĩnh cửu. Nàng đã chết cho tình yêu ấy. Xin đừng kết tội ai vì cái chết của nàng! Nàng giàu có hơn tất cả chúng ta, mãn nguyện hơn tất cả chúng ta...
    Lần cuối cùng gặp tôi nàng nói: "Em chẳng còn gì để cho anh!". Tôi đã an ủi nàng: "Anh còn cần gì hơn nữa?". Nàng có vẻ hoảng hốt, bất an. Có lẽ nàng sợ hãi điều gì đó. Tôi biết có một gã du đãng đang theo đuổi nàng. Nàng thú nhận: "Em đang nghĩ đến một người khác...". Nàng khóc. Tôi ôm lấy nàng: "Lúc nào em cần cứ đến với anh. Anh luôn là của em". Nàng lắc đầu. Tôi linh cảm thấy rằng nàng sẽ chẳng bao giờ đến nữa. Nàng là thế, cố chấp và bướng bỉnh... Nàng khao khát tình yêu nhưng tình yêu lại là sự đầy đoạ đối với tâm hồn nông nổi và yếu đuối của nàng.
    Xin lỗi, tôi đã trữ tình ngoại đề quá nhiều phải không? Tôi chưa trả lời câu hỏi của các ngài hay sao? Về chuyện cái thai trong bụng nàng ư? Ai là cha đứa bé ư? Điều đó có gì là quan trọng đâu. Khi một người đàn ông và một người đàn bà nhìn thấy nhau là đã có một ý chí muốn sống của một sinh thể mới thôi thúc họ. Cái sinh thể thứ ba này là nguyên nhân và động lực chủ yếu của tình yêu cuồng nhiệt. Nó đòi hỏi được hiện hữu. Nó làm cho bốn mắt nhìn nhau say đắm. Nhưng ở đây có một sự quá tải, một nghịch lý...
    Người đàn ông luôn có khả năng sáng tạo vô hạn. Còn người đàn bà thì chỉ có thể hoài thai trong một giới hạn rất nhỏ. Để bù lại sự phí phạm đó, tạo hoá đã tạo ra tính phóng đãng của đàn ông và sự thuỷ chung của đàn bà. Cho nên một người đàn bà ngoại tình là trái quy luật, còn một người đàn ông là điều hiển nhiên. Cái thai là một vật tự nó. Nó ra đời hay không ra đời vì bất cứ lý do nào đều là do ý chí muốn sống của chính nó. Mọi hành động của chúng ta đều chỉ tuân theo cái ý chí bí ẩn đó một cách vô thức.
    Tại sao các ngài cứ hỏi đi hỏi lại điều đó? Tôi đã nói nhưng các ngài không tin. Nếu như bây giờ nàng sống lại và nói rằng đó là đứa con của ai đó thì các ngài lập tức cho rằng nàng đã lừa dối vì muốn trói buộc người ấy. Nếu tôi từ chối đứa bé còn chưa thèm chấp nhận sự hiện hữu của chính nó trong cõi đời này thì các ngài lại bảo rằng tôi là một thằng đểu. Điều duy nhất làm các ngài đẹp lòng là sự xấu xa của kẻ khác. Cho nên câu trả lời sẽ là tôi chẳng biết gì về chuyện này. Đây là một điều bất khả tri. Nó không phải do ý chí của tôi. Tôi chẳng có quyền lực gì. Tôi chỉ là một kẻ thừa hành, không phải đấng sáng tạo. Tốt nhất các ngài hãy đến hỏi Chúa Trời. Ông ta mới là cha đích thực của đứa bé.
    Buổi chiều trước khi nàng chết, chúng tôi có ở bên nhau, đến tận tối mịt. Tôi đọc thơ cho nàng nghe. Nàng khóc nức nở và nói: "Em thấy mình cứ ở mãi trong bóng tối. Em chìm trong bóng tối mênh mông. Em nhìn thấy anh nhưng không biết vì sao có một màn sương mù đặc ngăn cách hai ta. Em đi mãi đi mãi mà vẫn không đến được với anh". Tôi an ủi nàng: "Đó là vì em đang sống trong một thời gian khác, một không gian khác, một vận tốc khác. Hãy đến với anh trên đôi cánh của AÁnh Sáng. Đừng đến bằng đôi chân rời rã của mặt đất. Lúc đó em sẽ bước được vào thời gian và không gian của anh. Em sẽ ở bên anh mãi mãi". Bây giờ có lẽ nàng đã đến được nơi cần đến. Nàng đã bay trên đôi cánh của tình yêu bất tử.
    Chuyện kể của bà bán cóc dầm
    Có, tôi có biết con bé ấy. Ngày nào mà nó chẳng mua cóc dầm ở quán tôi. Sao, ngộ độc cóc dầm à? Làm gì có chuyện đó! Chưa có ai chết vì ăn cóc dầm bao giờ! Cóc dầm của tôi không tẩm đường hoá học, không trộn phẩm màu, không ướp phoócmôn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhưng mà con bé ấy ăn cóc dầm như người ăn dở. Nhìn nó ăn tôi đã nghi nghi. Lông mày thì cứ dựng đứng lên, da xanh mét, cổ phập phà phập phồng. Không phải là đàn bà chửa thì cứ đem đầu tôi ra mà chặt. Cái ngữ ấy thì chửa hoang là chuyện thường. Mấy thằng xe ôm ở đây, thằng nào chả ngủ với nó. Cả lão già bảy mươi tuổi chạy con xe tám mốt nát kia kìa, mới hôm qua cũng khoe được con bé mới mười sáu ấy cho không vì nó chán đời, hận bố mẹ. Lúc đầu lão sợ lắm nhưng sau lại nghĩ của trời cho, không ăn no cũng phải tội. Khốn nạn, lão đáng tuổi ông nó. Thế mà không biết dơ, lại còn đi đâu cũng khoe ông ổng, làm như hay hớm lắm. Đấy là tôi nghe mấy thằng xe ôm nói thế chứ tôi có phải chủ chứa nhà thổ đâu mà biết được ma ăn cỗ ở chỗ nào. Hỏi vớ hỏi vẩn! Đấy lão ấy đến kia kìa!
    (Nói với ông xe ôm)
    - Bác uống gì? Trà nóng à?... Có ngay đây! Dạo này làm ăn thế nào? Hôm nay chạy xe được mấy chục nghìn? Chiều hôm qua thấy chở con bé cóc dầm ở đây đi đâu thế? Nhất bác đấy! Già đâu mà già! Già được như bác thì ai chả muốn già! Con bé chết rồi, bác không biết à? Nghĩ cũng tội! Con gái con đứa bây giờ hư hỏng thế đấy! Đâu phải như thời chúng mình bác nhỉ? Cứ là gọt đầu bôi vôi, thả rọ trôi sông... Gớm, bác cứ nói thế! Em chả dám! Nhưng mà hôm nào mát trời mời bác cứ qua nhà. Bác làm chén rượu cho ấm bụng nhá! Trời rét quá bác nhỉ? Giời mưa giời gió thế này chỉ chui vào chăn là thích...
    Nàng không nghe thấy bất cứ một câu chuyện nào trong thành phố.
    Được chuottrang1984 sửa chữa / chuyển vào 13:04 ngày 18/05/2006
  10. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Về lại thiên đường​
    Dương Bình Nguyên
    Tháng ba. Hoa gạo như những ngọn đèn thắp rực cả thung lũng. Từ trên núi cao nhìn xuống thấy chúng đứng tựa vào nhau hệt như một trái tim lớn, hừng hực và mãnh liệt.
    Sau một đêm, những xác hoa rải thẫm đỏ một góc vườn. Để sớm mai trở dậy, cầm chổi quét lá rớt, bà biết rằng lại đi qua một mùa xuân. Và khi ấy, như mọi năm, chị sẽ trở về.
    Chị về vào lúc ngang chiều. Nắng xiên quá tàn lá đậu tràn xuống tóc, xuống vai chị. Từ xa bà đã nhận ra chị. Bà đứng bên gốc cây gạo, bà đợi. Rồi bà cầm lấy chiếc túi xách từ tay chị than: ?oNắng nôi quá! Mà đường xa quá là xa?.
    Chị im lặng bước theo bà vào nhà. Mọi thứ vẫn như xưa với mùi ẩm mốc quen thuộc và tiếng mọt nghiến âm u. Chỉ những đồ đạc mãi già nua đi theo màu tóc bà. Bà dọn lại bàn thờ, thắp thêm hai nén nhang. Từ trên cao, anh nhìn xuống chị bao dung và hiền từ. Bà lầm rầm khấn vái, những vòng hương toả tròn trên đầu. Rồi quay qua phía chị, bà bảo: ?oThôi ra đây mẹ lấy nước cho mà uống. Sao mà lại nắng đến thế chứ, mới chớm mùa kia mà?.
    Bà lật đật kéo chiếc quạt điện đầy bụi trong góc nhà, những đoạn dây bị chuột cắn nham nhở. ?oThôi chết, đành phải đợi thằng Nguyễn. Cái con chuột quỷ quyệt cái gì cũng nhai được. Mặc xác nó, ra đây mẹ quạt cho. Quạt mo cũng mát cả mấy ngàn năm rồi đấy chứ?. Chị ngoan ngoãn ra ngồi bên bậu cửa. Trời trong và xanh ngắt. Phía xa kia là các nương chè đang kỳ thu hoạch nhấp nhô những bóng nón trắng nghiêng dài. Bà quạt mạnh, vô tình chạm phải vết thương nơi cánh tay chị. ?oNhà Vĩnh làm sao thế này?" - tiếng bà thảng thốt như tiếng chuông rơi. Chị ngồi lặng im, nước mắt rớt ướt vai áo bà. Lần nào về chị cũng thấy mà mặc tấm áo này, chẳng biết áo bạc vì mồ hôi, vì nắng hay vì mưa.
    - Mẹ đã bảo mình dẫu gì cũng thân đàn bà con gái mải miết với công việc săn đuổi, chẳng hợp tí nào. Có chuyện gì chị cứ kể mẹ nghe.
    Chuyện của chị thì dài và buồn lắm, chị chẳng muốn bà chất thêm lo lắng trong mình. Chị lại nhìn bà, khuôn mặt già nua đến nỗi chẳng thể già hơn. Đi quá nửa đời người, nếm đủ mùi cơ cực rồi mà mỗi khi trở lại chốn này chị vẫn thấy mình như trẻ dại. Mọi sự bon chen, bươn chải đã ở quá xa nơi này. Chị đi miết, rồi mỗi năm đôi lần về chớp nhoáng, khi bà chưa kịp quen sự hiện diện của chị trong nhà thì chị đã lại ra đi. Vậy mà bà vẫn ra vào với ngôi nhà quá rộng để đợi chị về. Chị tự hỏi mình không biết bà lấy đâu sức lực để miết mải chờ đợi từ giữa xuân thì cho tới khi mắt mờ, chân chậm. Ký ức bà hằn sâu những cuộc ra đi biền biệt và những chuyến trở về chớp nhoáng, vội vàng. Mỗi năm bà làm hai lần giỗ, lau lại hai khung ảnh đã ố vàng trên bàn thờ. Tuần tự tháng. Tuần tự ngày. Tuần tự.
    Bà lại nhìn chị, chép miệng:
    - Chậc, không hiểu nổi chị em bay, đi hết tháng hết năm, về được vài ngày lại bưng bít hết chuyện này qua chuyện khác. Mẹ già rồi, buồn đau mẹ chịu đựng được mà.
    Mẹ chịu đựng được. Nhưng vết thương hôm nay chỉ là dư chấn của nỗi đau năm năm về trước. Năm năm ngỡ là dài, hoá gần như gang tấc. Nó đủ để một cậu bé như Nguyễn lớn lên thành một chàng trai. Nhưng nó chưa đủ lực để vực chị lên sau những gì đã mất. Ngày anh hi sinh chị rõ hơn ai hết. Khi ấy Nguyễn còn nhỏ, Nguyễn giận chị đã đẩy anh vào cuộc đấu không cân bằng. Làm sao Nguyễn hiểu được đã là nhiệm vụ thì không thể nói chuyện cân bằng. Cuộc đời thật khó lường và khắc nghiệt. Để đến nỗi tới tận bây giờ chị vẫn còn giữa bộn bề trăm mối riêng chung. Hôm qua chị xuống trường báo cho Nguyễn về ngày giỗ anh, chị nhận ra Nguyễn đã thành người lớn. Và chị giật mình khi Nguyễn mang nhiều vóc dáng của anh. Chỉ khác là Nguyễn không cười với chị, chị lầm lũi quay vào. Hôm ấy chị đã khóc, làm sao để cho Nguyễn hiểu rằng phía sau nụ cười của chị là cả những bão dông?
    Trên cao, anh vẫn hiền lành nhìn chị. Chiều đã xuống thấp lắm rồi. Ừ, hôm ấy cũng như hôm nay, trời đang tàn dần độ cuối tháng ba. Đơn vị nhận nhiệm vụ đi bắt toán cướp tiệm vàng. Anh nói để chị ở nhà. Nhưng chị lại xin đi chỉ vì chị lo cho anh. Sự đời sao lắm khắc nghiệt khi đưa chị đối mặt với tên cướp. Hắn tên là Quân. Quân là bạn của anh, của chị từ lâu lắm rồi. Quân thương chị từ khi tóc chị còn bỏ xấp xoã đi ngang ngõ nhà Quân. Nhưng chị chỉ thương anh. Ngày anh cưới chị, Quân bỏ đi. Tưởng Quân đi làm ăn, ai ngờ... Quân lao đến, định chụp lấy tay chị. Nhưng anh đã kịp hạ gập chân hắn bằng một phát đạn. Và chị lịm đi khi nhìn Quân chĩa thẳng súng vào ngực anh nhả đạn. Rồi Quân bỏ chạy. Đơn vị lùng Quân suốt mấy tháng trời. Quân biệt tăm từ đó, mặc cho lệnh truy nã giăng giăng khắp nơi. Năm năm, ai ngờ Quân lại trở về chính con phố ấy để gây án tại một cửa hàng điện thoại di động. Chị lại xin đi. Nếu lần này để xổng Quân chị sẽ làm đơn ra khỏi ngành. Sau nửa tháng truy tìm, chị cùng đồng đội cũng tóm được Quân tại một nhà chứa trá hình. Chị còng tay Quân vào tay mình. Quân kéo chị dập mạnh xuống cầu thang. Tay chị không nhói buốt. Quân thương chị mà sao Quân toàn gây đau đớn cho chị, để bây giờ có còn ai băng vết thương này cho chị nữa đâu?
    Chị gượng dậy, cầm lấy khẩu súng. Mắt Quân nhìn chị cháy rực, căm giận và yêu thương. ở cái khoảng khắc ấy, chị chợt nhận ra dù sao trong Quân vẫn còn hình bóng của một con người.
    Chuyện của chị dài và buồn như vậy đấy, liệu mẹ có hiểu hết được không? Mẹ hỏi chị vào lúc đầu óc chị bung xung nhất. Ngày mai là giỗ anh rồi. Mẹ đi ra ngoài từ lúc nào. Khi chị quay lại đã thấy bà khẽ khàng: ?oThôi, bỏ hết đi, ra gội đầu cho nó nhẹ mình?.
    Chị ra giếng gội đầu, mùi bồ kết đã theo chị từ lúc chị về đây làm dâu. Ngày ấy chị hay đun nước cho cả nhà gội đầu. Những ngày đó sao mà hạnh phúc. Sau này trong mải mốt công việc, chị chẳng còn thời gian để lưu tâm đến điều đó nữa. Nhưng mỗi lúc ngồi bần thần nghĩ ngợi, chị mới ngộ ra rằng hạnh phúc đến từ những điều rất đỗi giản đơn. Như lúc này đây, chị đang ngồi quay tóc cho chóng khô. Tóc chị vẫn còn xanh lắm, kề bên tóc mẹ bạc như một đám mây mỏng manh phủ xuống đầu. Tự lòng, chị thấy yêu thiết tha mảnh đất này dẫu chị chẳng sinh ra ở đây nhưng được già đi và thao thức cùng nó. Chị đã sống những ngày ngập tràn hạnh phúc ở chốn này. Chị nhớ ba cây gạo đỏ, những vạt cúc quỳ vàng hoang dại bốn mùa dọc những lối đi. Chị nhớ Nguyễn của những buổi chiều xưa, ngồi hát một mình những bản tình ca nho nhỏ. Và chị biết mình mang nợ. Đất này, người này đã là một phần máu thịt của chị rồi.
    Sau bữa cơm chiều, chị đi mời họ hàng. Hơn ba chục tuổi, năm lần chị làm giỗ chồng. Chị đi giữa những lối mòn trong thôn, thấy trời sáng trăng đẹp như một bức vẽ. Ngày xưa chị đã từng đi trong trăng như thế này từ đêm cho tới sáng. Ngày đó có anh ở bên. Còn bây giờ bình nguyên chỉ có trăng nhìn chị.
    Chị về tới nhà thì trời đã khuya. Bà nằm quạt trên giường, chiếc đài bán dẫn phát đi bản dân ca cổ, bài ca về người đàn bà lặn lội, tảo tần. Chị nằm bên bà, ngoài kia trăng cứ len lén nhìn khiến chị khó ngủ. Cái dáng tong teo của bà cũng trăn trở không yên.
    - Nhà Vĩnh này - cuối cùng bà cất tiếng - đời người đàn bà nó qua nhanh như cơn gió, sớm tóc xanh chiều đã bạc đầu. Người mất đi thì không sống được, nhớ nhau thì để trong tâm.
    Chị ôm lấy bà. Lúc nào bà cũng thấu hiểu và yêu thương chị nhiều quá. Gia đình người ta cũng đã đặt vấn đề với chị. Một anh đồng nghiệp goá vợ, một con. Người ta đã qua cái thời yêu mê cuồng dại, chỉ cần có người chăm sóc gia đình. Chị cũng thèm làm một người mẹ. Nhưng mỗi khi về lại, nhìn lên hình anh thì chị lại thấy hết thảy đều đã hoá phù vân. Anh ra đi vào lúc chẳng ai ngờ, để lại cho chị một tình yêu vượt mọi giới hạn và chị là của anh, mãi mãi. Tình yêu chẳng ai lý giải được. Mà lý giải cũng chẳng để làm gì. Chị ôm chặt lấy bà. Ngoài kia trăng cứ sáng. Hình như có cả sương mưa.
    ***
    Cuối cùng thì người đàn ông duy nhất còn lại cũng trở về. Khi hiểu được ngọn ngành câu chuyện thì cậu chẳng còn ở tuổi 15. Nguyễn muốn xin lỗi chị dâu. Nhưng chị lại tất tả đi rồi. Áo chị xanh, xanh như nền trời vậy. Nguyễn đứng nhìn hút theo bóng chị. Mẹ ra níu tay cậu lại: ?oThôi đợi đến sang năm?. Sang năm. Đời người đàn bà như bông hoa nở. Sang năm...

Chia sẻ trang này