1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những câu chuyện cho F177 - Truyện mới cập nhập từ trang 12 ^^

Chủ đề trong 'Làm quen - rút ngắn khoảng cách' bởi chuottrang1984, 20/10/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    MỤC LỤC TRUYỆN​
    Danh sách truyện trang 5

    01. Nửa cổ tích
    02. Làm chồng khổ thật
    03. Giấc mơ hoa súng tím
    04. Giấc mơ hoa súng tím ( phan cuoi )
    05. Nước mắt khô

    Nửa Cổ Tích
    Trong công viên, chiều đang xuống êm dịu. Mọi cảnh vật trông càn dễ chịu hơn. Một đám mây bồng bềnh trôi theo gió. Những lá cành đung đưa reo vui. Tiếng trẻ con nô đùa bên chiếc đu quay, cầu tuột, hay sung sướng ngồi nghịch trên đoàn tàu nhỏ chạy tròn quanh giữa côn viên. Bố mẹ chúng ngắm nhìn hạnh phúc, tươi cười, vẫy vẫy, gọi gọi.
    Xa hơn một chút, ở ghế đá dài, có ông lão đang ky cóp nhặt đếm tiền trong chiếc nón tả tơi, mặc cho đứa bé gái ngồi bên ông, với đôi mắt sáng xoe tròn nhìn những đứa cùng tuổi mình nghịch ngợm cười vui. ?oMột nghìn chín trăm chín mươi, hai nghìn, hai nghìn hai chục?.
    - Ông ơi, cho Xiu đi đu quay nhé!
    Tiếng đứa bé gái làm ông lão ngừng công việc cuối của ngày. Mà cũng đã xong, trong chiếc nón lá rách của ông chẳng còn đồng tiền nào nữa cả. Ông vội kéo tay đứa cháu gái lại trước khi bé gái định chạy vội ra xa, giọng ông dỗ dành:
    - Ngồi đây, ông sẽ kể cho Xiu nghe chuyện. Chúng ta không có thời gian để vui chơi đâu, Xiu à.
    Nghe kể chuyện, mắt đứa bé sáng ngời hơn lúc nãy. Nó đã được nghe nhiều chuyện hay từ người ông thân yêu của mình: Người đẹp ngủ trong rừng, Ông Hoàng hạnh phúc, Nàng tiên Ốc, Hoàng hậu trong quả trứng v.v... toàn là cổ tích tuyệt vời. Nhưng mà giờ, sao nó vẫn cứ muốn vui đùa cùng bọn trẻ như ở trong công viên này. Ðứa bé vẫn năn nỉ ông mình:
    - Xiu muốn đi đu quay, cầu tuột như bọn kia mà ông!
    - Xiu cháu, chưa được đâu!
    - Sao lại chưa? Xiu và ông đang ngồi không mà?
    Ngây thơ, bé gái lại hỏi ông mình.
    - Cháu thử coi quần áo cháu có sạch đẹp như bọn trẻ kia không mà đòi...
    Người ông giải thích đơn giản, rồi chẳng để cho đứa bé thấy quần áo đủ loại vải nhàu bẩn của mình khác xa với những chiếc váy đầm, giày nơ xinh đẹp kia, ông lão tiếp.
    - Xiu sẽ nghe ông kể chuyện cổ tích trong đó có Xiu, có ông nữa, vui lắm.
    Xiu, đứa bé gái đã cảm thấy vui thích, ngồi lại gần ông hơn, và chẳng còn chú ý đến bọn trẻ xa xa đang đùa chơi kia nữa.
    Người ông đôi tay run run xoa đầu cháu gái thương yêu, đôi mắt già như đang ngời sáng lại, môi ông bắt đầu run run...
    Năm 2020, Huế, một đô thị đang phồn vinh. Nhà cửa san sát, những ngôi nhà cao tầng vời vợi ngóng nhìn nhau. Chúng mỉm cười trong cái mát mẻ của thời tiết. Thời tiết luôn tốt đẹp bởi con người đã bao bọc đô thị mình trong các ***g với khí hậu nhân tạo.
    Một chiếc xe không người cầm lái, chở đôi vợ chồng tuổi chừng 32-34, một bé gái khoảng 6-7 tuổi và một cụ già có lẽ sống đã quá lâu. Râu tóc cụ bạc trắng. Xe họ dừng lại ở một khu vực có đường dành riêng cho tàu điện. Cả bốn người ra khỏi xe, đứng ngắm nhìn. Cụ già đưa tay chỉ chỗ này chỗ kia, miệng cười lớn nói hoài. Cụ bảo rằng nơi đây trước kia là một công viên đẹp, có đu quay, có cầu trượt... Tất cả họ đều nhìn quanh, lầu phố huy hoàng lộng lẫy trong nhiều ánh đèn màu. Ðêm về tự lúc nào mà họ chẳng hay, bởi ánh đèn điện quá tân kỳ của đô thị.
    - Nhỏ Xi trở lại, chuẩn bị về thôi.
    Nghe tiếng mẹ gọi, bé gái đang đùa nghịch hơi xa, chạy ào về, rồi làm nũng:
    - Mẹ, còn mấy ngày nữa là con lên bảy rồi, mà mẹ cứ gọi con là nhỏ Xi hoài.
    - Mẹ lớn thế này mà cố con cứ gọi là bé Xiu thì sao. Phải không cố?
    Vừa trả lời con, người mẹ quay sang cụ già. Mỉm cười ông lão nói:
    - Xiu là tên mẹ cháu mà cố gọi lúc bé. Xi là tên cố đặt cho cháu lúc mới lọt lòng đó.
    Rồi họ lại vui cười lên xe về tổ ấm gia đình. Ra đón họ là một chú chó trắng lông xù tuyệt đẹp. Cún trắng ty ty chỉ nhỏ hơn ngón chân cái một xíu thôi, theo sau là chú mèo ly ly, đủ màu sắc của chiếc cầu vồng, ly ly thì bé bằng ngón tay út. Chúng nhảy mừng đón chào. Bé Xi âu yếm bế cả hai bên lên lòng bàn tay.
    Gia đình vào buổi trưa. Máy tính được trang bị ở tủ lạnh đưa ra thực đơn. Xiu cùng chồng chỉ dùng một loại táo màu xanh rêu. Cụ già và bé Xi thì uống một thứ nước sánh đặc màu vàng trong, ngọt, the, ngon và thơm lạ kỳ.
    Rồi mỗi người sinh hoạt theo sở thích của mình.
    Vách tường di động. Cụ già đang xếp tường giấy lại để làm phòng nghỉ riêng. Ông đang theo dõi nhịp mạch, áp suất máu và một vài loại thông tin khác, về tình trạng sức khỏe của mình, nhờ chiếc máy chẩn bệnh tự động đang có bên người. Cô Xiu đang lo cho sắc đẹp của mình. Mỗi sợi tóc cô được nhượm một màu khác nhau nhờ chiếc mũ chụp mới. Làn da cô vẫn trắng, đẹp, trẻ trung. Cô đang tự phát thảo lấy kiểu áo xinh xắn của mình trên máy vi tính, để sẽ đến tiệm và vài phút sau có chiếc áo như ý tuyệt vời. Chồng cô ở phòng bên đang chứng kiến cảnh tượng như thật sự xảy ra trước mắt với bộ phim ?ongười tự do?.
    Bé Xi đang học bài qua màn hình. Bé viết bằng một chiếc bút máy tính nhỏ xinh xinh. Nó giúp bé vẽ nhiều hình đẹp không khác gì bút thần của Mã Lương ngày xưa.
    Ngày mai, cả gia đình sẽ đi nghỉ mát. Nhà nghỉ của họ sẽ nằm ở dưới biển. Nơi đó, họ có thể ngắm tha hồ thế giới thủy cung.
    Biển miên man, đẹp diệu kỳ bởi lớp lớp rong tảo, san hô, đồi mồi, trai ngọc, sò huyết v.v... và cá. Cá đủ loại cá vô vàn, lớn nhỏ, triệu triệu màu sắc. Chúng không còn xé nuốt lẫn nhau, mà hòa đồng, cùng chung sống trong một đại gia đình êm ấm. Cũng làm việc: xây nhà, buôn bán. Cũng rong chơi: quay nhảy, tuột nước... Chúng thả sức vui đùa, mặc con người đang nghỉ mát ngắm nhìn chúng mà mơ ước đẹp hơn.
    - Cá mà chơi quay nhảy, tuột nước chắc vui và đẹp lắm ông nhỉ? - Ðứa bé vô tình làm dứt cổ tích.
    - Ờ, đẹp vô cùng, Xiu à. Một ngày nào đó con sẽ được ngắm cảnh đẹp ấy.
    - Thích quá ông ơi!
    Cô bé reo vui rồi hồn nhiên hỏi:
    - Bao giờ hả ông?
    - Ờ... còn xa lắm.
    Cô bé Xiu thấy tiếc nhiều. Khuôn mặt ngây thơ gợn cau mày. Nhìn cô bé ai cũng tưởng nó đang suy nghĩ lung lắn! Mà thế thật! Nó có còn nghe đâu lời ông lão đang lẩm bẩm, dài dòng với đứa cháu:
    - Xiu gần bảy tuổi, đến lúc đó là 34 tuổi, chắc có đứa con bằng tuổi nó bây giờ. Một đứa bé nhỏ như Xiu, nhỏ Xi thôi. Lão đã sống 73 năm rồi, đến đó sẽ được 100 tuổi, chà! Sống lâu quá lâu. Sáu mươi một đời người. Thế mà chết chưa đành. Vì con. 73 tuổi tưởng chết mà vẫn sống. Vì cháu, tội nghiệp sớm mất mẹ cha. Ai giàu được ba họ, ai khó đến ba đời. Xiu con ơi, ngày nay nhìn lũ trẻ như con vui đùa hạnh phúc, con muốn được vui cùng, con đi trong thành phố xinh đẹp, con thấy yêu thích nhiều, thì ngày mai con sẽ được yêu thương hơn, hạnh phúc hơn bởi lúc đó con người, thành phố, đất nước vô cùng xinh đẹp, ngập tràn ánh hồng tươi hơn cả triệu lần. Ngày mai, ngày mai, rồi ngày mai nữa là... Bé Xiu đã hết tiếc mơ cảnh biển cá đẹp lạ kỳ, nghe những tiếng sau cùng của ông mình đang lẩm bẩm, chợt hỏi:
    - Ngày mai sao hả ông? Mình sẽ vào xin ở những quán hàng như hôm nay hả ông?
    Ðêm đến tự bao giờ, tiếng cây lá thầm thì. Mây vẫn bồng bềnh trôi theo gió. Sao lúc tỏ lúc mờ, nhưng vẫn đủ soi sáng khắp nơi. Trên ghế đá, đứa bé đã yên ngủ. Nó mỉm cười trong mơ thấy ngày mai tươi đẹp. Ông nội đang ngồi ủ ấm cháu gái thân yêu. Ông mỉm cười mệt mỏi nghĩ suy đến ngày mai: Những đồng tiền giấy cứ rơi như những chiếc lá rơi. Rơi, rơi... đầy ngập cả chiếc nón lá tơi của ông.
    Xa xa, trên mấy chiếc ghế đá khác, vài lứa đôi cũng đang thì thầm như cây lá. Họ mỉm cười. Họ cũng mơ ước. Họ mơ ước được hạnh phúc hơn nữa. Bởi họ đang hạnh phúc tràng đầy.
    Phan Gia Vỹ

    Được chuottrang1984 sửa chữa / chuyển vào 13:25 ngày 31/10/2005
  2. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Làm chồng khổ thật ​
    Nguyễn Nhật Ánh
    Về tới nhà, vừa bước chân qua ngưỡng cửa là tôi bắt gặp vợ tôi đang ngồi chồm hổm lau nhà với miếng giẻ trên tay. Tôi liếc nhìn đồng hồ. Bảy giờ hai mươi.
    Tôi cau mặt, không nói không rằng lướt ngang qua cạnh vợ như một cái bóng. Tôi cởi bỏ mũ áo, ngồi vào bàn và với tay cầm lên cuốn sách đang đọc dở, nhưng tôi không tài nào đọc được lấy một chữ. Nỗi bực tức trong lòng cứ mỗi phút một tăng. Hừ, đã nói rồi mà không chịu nghe! Như người ta thường nói, bây giờ là đời sống mới rồi, làm gì còn cái cảnh chồng thì nằm khểnh trên giường vắt chân chữ ngũ đọc sách đọc báo như một ông tướng, trong khi vợ phải nai lưng ra làm việc quần quật suốt ngày như một con mọi chung thân.
    Tôi là một thanh niên tiên tiến nên từ lâu tôi đã biết tỏng đã là chồng thì cần phải làm gì. Phải yêu thương và cảm thông vợ nè. Phải đỡ đần vợ một tay, phụ giúp vợ làm việc nhà nè. Lại còn phải tạo điều kiện cho vợ rảnh rỗi, khuyến khích giúp đỡ vợ học tập, trau dồi văn hóa, đọc sách đọc báo... Ối dào, có gì là mới lạ đâu! Chính tôi đã từng phát biểu hàng trăm lần về những điều này trong các buổi hội thảo về gia đình do báo Phụ nữ tổ chức kia mà! Chả thế mà đã một tuần nay tôi đặt ra một cái lịch trong nhà: Từ bảy đến chín giờ tối, vợ tôi được giải phóng khỏi mọi việc vặt vãnh và được tự do thoải mái sinh hoạt văn hoá, đọc sách báo hay xem ti-vi tùy thích, còn tôi, một người chồng mẫu mực, sẽ thay ca cho vợ, cáng đáng hết mọi thứ.
    Vậy mà giờ này, đã bảy giờ hai mươi rồi, cô ta còn ngồi hì hục lau nhà, bảo tôi không giận sao được!
    - Nè, em có thôi đi không! - Cuối cùng, tôi quát lên.
    - Thì để em lau xong đã! Còn chút xíu nữa thôi! - Giọng vợ tôi nhỏ nhẹ.
    - Hừ, còn nửa cái nhà mà la chút xíu! Tại sao hồi chiều em không lau lại để tới giờ này?
    - Hồi chiều em phải rửa chén.
    - Thế trước khi rửa chén thì em làm gì?
    - Em giặt đồ.
    - Thế trước đó?
    - Trước đó thì em phải chữa cái bếp dầu.
    - Bếp dầu, bếp dầu! ?" Tôi cằn nhằn ?" Sao em không nhờ anh chữa?
    Vợ tôi ngước nhìn tôi với vẻ mặt ngơ ngác:
    - Thì em đã nhờ anh mấy lần rồi, anh hứa tới hứa lui mà đâu có chịu làm!
    Tôi giật thót người nhưng kịp thời vớt vát:
    - Người ta đã hứa thì ráng mà đợi chớ!
    Vợ tôi tiếp tục cắm cúi lau nhà, tựa hồ không nghe câu nói ngang phè của tôi. Điều đó làm tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi cố lấy lại thể diện bằng cách tiếp tục hạch sách:
    - Thế tối hôm qua em làm gì? Em có đọc sách không?
    - Không! - Vợ tôi trả lời với giọng biết lỗi.
    Tôi cảm thấy hả hê liền lên giọng đắc thắng:
    - Đó, thấy chưa! Lỗi là do em hoàn toàn. Bữa nay thì em còn đổ là tại cái này cái kia, chứ còn hôm qua là tự em từ chối quyền lợi của mình. Anh đã tích cực tạo mọi điều kiện cho em trong khi em thì cứ...
    - Anh quên rồi! Hôm qua khi em vừa ngồi vào bàn thì anh nhờ em ủi đồ cho anh để sáng nay anh đi họp gì gì đó! - Vợ tôi cắt ngang lời buộc tội say sưa của tôi khiến tôi chưng hửng.
    - Nhưng mà tại em! ?" Tôi quyết không chịu thua - Nếu buổi chiều em ủi đồ giùm anh thì buổi tối anh đâu có nhờ em.
    Vợ tôi mỉm cười:
    - Anh lại đãng trí nữa rồi! Chiều hôm qua, lúc em soạn đồ ra tính ủi thì chính anh nhờ em mạng giùm đôi tất bị gián cắn kia mà!
    Cuối cùng, tôi đành thở dài rầu rĩ:
    - Thôi được! Thế còn hôm kia thì sao? Em có thì giờ xem ti-vi chớ?
    - Em có xem.
    Tôi bật ngồi thẳng người dậy như một cái lò xo, mặt mày rạng rỡ:
    - Ít ra thì cũng phải như vậy chớ! Đó, em thấy chưa! Một khi mà anh đã quyết tạo điều kiện...
    Nhưng vợ tôi không để tôi phấn khởi lâu:
    - Nhưng em chỉ xem có năm phút rồi phải đi công chuyện.
    Tôi nhăn mặt:
    - Sao lại đi đứng lung tung như vậy? Giờ đó là giờ em không phải làm một việc gì hết! Anh đã sắp lịch cho em rồi mà!
    - Nhưng chính anh lại kêu em chạy tới nhà anh Long lấy cây viết máy anh bỏ quên đằng đó về kia mà. Anh nói nếu không có cây viết thì buổi tối anh không làm việc được.
    Lúc đầu tôi tính hỏi tiếp xem những tối hôm kia, hôm kỉa vợ tôi sử dụng cái khoảng thời gian tự do của mình ra sao nhưng sau khi suy tính lại, tôi cho rằng khôn ngoan nhất là im lặng. Rõ ràng là càng tìm hiểu, vấn đề càng có vẻ rắc rối cho tôi.
    - Thôi được - Cuối cùng, tôi quyết định sửa chửa lỗi lầm ?" Em ngồi vào bàn đọc sách đi, đưa giẻ đây anh lau nốt chổ còn lại cho.
    Vợ tôi đứng dậy, cô ta có vẻ không tin đôi tai của mình:
    - Anh lau giùm em thiệt hả?
    - Thiệt chớ! ?" Tôi khẳng định một cách hùng hổ.
    Nhưng khi vừa cầm lấy miếng giẻ, tôi liền vội vàng nhét trả vào tay vợ tôi:
    - Chết cha, không được! Bây giờ anh phải đọc gấp một tài liệu quan trọng để sáng mai đi báo cáo.
    Tôi nhảy bổ lại bàn trước cặp mắt sửng sốt của vợ tôi.
    Vừa lục lọi đống giấy tờ, tôi vừa nói với vợ, lúc này đã lại ngồi xuống sàn nhà tiếp tục kỳ cọ:
    - Em thông cảm cho anh nghe! Em ráng lau cho xong đi rồi đọc sách cũng còn kịp mà! Ái chà, nhưng mà không được! Lau nhà xong em làm ơn khâu giùm cái túi xách cho anh chút, nó bị đứt quai hồi chiều.
    Thế đấy, các bạn! Thật là bực mình! Đã một tuần nay, mặc dù tôi quyết tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi, vợ tôi cũng chẳng hề rảnh rỗi được chút nào. Cô ta cứ bận rộn suốt ngày. Hễ ai mà biết chuyện là bao nhiêu tội vạ lại đổ lên đầu tôi ngay cho mà coi. Mà đâu phải tại tôi là người chồng không biết điều, phải nói là rất biết điều nữa là khác! Thế mới biết làm chồng khổ thật!
    Được chuottrang1984 sửa chữa / chuyển vào 13:04 ngày 31/10/2005
  3. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Giấc mơ hoa súng tím ​
    Nguyễn Hồng Dung
    Tôi sinh ra do một ngẫu nhiên nào đó của tạo hóa, không phải sự mong muốn chờ đợi của những người đã sinh ra tôi. Chính sự mở đầu này đã ám lấy cuộc đời tôi một nỗi cô đơn và tăm tối.
    Nơi tôi ở là một thung lũng chật chội, nằm trong sự bao vây ráo riết của những mỏm núi tai mèo cao ngất, nơi chỉ có những loài chim lớn sinh sống. Đó là một làng cũ của những người hủi. Nếu không có cách mạng, không có bộ đội vất vả hàng năm trời xẻ núi thành đèo làm một đường đi, kiên trì đẩy lui bệnh hủi, thì có lẽ nơi đây mãi mãi là thung lũng của sự chết chóc. Người ta vẫn giữ cái tên Thung Phong làm kỷ niệm, nhưng bây giờ lại hàm nghĩa là một mảnh đất phong phú. Làng không có trường học, trẻ con phải đi bộ bốn cây số ra học ngoài xã, mùa nước to thì phải đi thuyền. Người quê tôi vẫn luôn có một khoảng cách so với người ngoài xã - tất cả là do cái sự thất học sinh ra cái sự nghèo và cái sự hèn.
    Trước khi lấy mẹ tôi, cha tôi là một người đàn ông góa có 4 con trai. Hồi đó mẹ tôi, theo người làng kể, là một người đàn bà lỡ thì ở cạnh nhà ông. Những đêm trăng bà ra giếng tắm, giội nước ào ào. Da thịt đàn bà dưới trăng như men sứ, ngon lành như miếng lê, bất cứ người đàn ông nào không loại trừ ông già lục tuần như cha tôi cũng cảm thấy rung động. Bà đã đốt lên ngọn lửa thèm khát trong ông sau chuỗi tháng năm vò võ nuôi con. Họ đi lại với nhau cho tới khi tạo thành một lối mòn nho nhỏ ở bờ rào thì cũng là lúc hình hài tôi được định hình. Cha tôi đi bước nữa trong sự đàm tiếu của xóm làng và sự phản đối gay gắt của bầy con.
    Tôi đã lớn lên trong âm thầm và vất vả nhưng không hiểu một sức hút nào đó khiến tôi cảm thấy rất yêu mảnh đất này, nơi có những mái nhà lợp rạ xác xơ, những vườn cây còi cọc được bao quanh bởi những bờ rào sơ sài và lở lói. Thanh niên bỏ làng đi kiếm ăn tha phương Tết mới có dịp tụ họp về, do vậy quanh năm làng chỉ hiện diện hình ảnh của người già ốm yếu, của đám trẻ con gầy nhẳng, quần áo vá víu, mái tóc đỏ hoe màu râu ngô. Tôi từ nhỏ đã phải lăn lộn ngoài đồng chăn trâu cắt cỏ, tát vớt kiếm con cá, mớ tép. Những vụ cấy thuê tháng ba rét tím da, ăn bữa cơm trưa ngay tại đầu bờ ruộng trong tiếng gió núi hú gào. Mùi rạ cháy của cánh đồng chuẩn bị vào vụ đọng mãi trong ký ức tôi thơm suốt những tháng năm dài... Vụ gặt mùa luôn là nỗi ám ảnh trong nhiều giấc mơ của tôi sau này. Đồng nước mênh mông, những nơi mà vụ chiêm lúa còi cọc vì khô hạn thì nay khi gặt phải dìm người đến tận cổ. Chỉ có lúa nếp dâu mới đủ cao để thích nghi được nơi này. Lá lúa, râu lúa cọ vào mặt rát rạt. Cắt được ít nào thả vào lòng thuyền rồi đẩy thuyền đi và lại cắt tiếp. Tới khi lên bờ những con đỉa trâu đốt qua hai lần xà cạp căng mọng to như ngón chân cái lăn ra đất. Máu ròng ròng trên bờ, loang cả trên mặt nước. Trong vất vả vẫn le lói những niềm vui nho nhỏ. Mùa nước lên là lúc hoa súng nở tím đầm lầy. Tôi mê những bông súng ấy từ khi còn bé xíu. Đã có lần vì bị màu tím hoang dại hút hồn, con bé 5 tuổi là tôi đã lẫm chẫm bước xuống mặt đầm với ước muốn đi trên thảm hoa huyễn hoặc ấy. Cũng may có người phát hiện vớt tôi lên, xách ngược tôi vác chạy quanh làng cho đến khi nước từ bụng ộc hết ra khỏi miệng...
    Sự giàu duy nhất của làng tôi là giàu người. Trẻ con sinh ra đông đúc tưởng như không đếm xuể. Mẹ tôi bị bệnh, sinh đẻ sáu bận chỉ được hai. Điều này khiến bà khóc lóc và suy sụp tinh thần một thời gian dài. Bà cảm thấy thua kém thiên hạ, vì mới chỉ có một đứa con trai, nó lại không bằng người. Giời sinh ra đàn bà ở cái xứ này chỉ để đẻ. Thím Sáu tôi đẻ tới mười lăm bận, cố để được một mụn con trai. Cán bộ dân số tháng nào cũng hai lượt cuốc bộ vào làng, đến vận động từng nhà. Họ đi rồi, trẻ con trong làng lại tha hồ thổi "bong bóng", tung tăng mang những chùm bóng chạy khắp làng.
    Làng đông như vậy nhưng khi đám trẻ được mười sáu tuổi, hơi có lông có cánh là lại tìm cách bay khỏi thung lũng. Thất học, kiếm ăn bằng đủ mọi nghề lao động chân tay. Cứ Tết đến làng lại chật ních người, đông vui như có hội. Trẻ con chạy đôn chạy đáo học điệu bộ và cả những câu chửi thề của các bậc đàn anh đi xa về. Có một thời bọn trẻ chúng tôi rất khoái câu "đù mẹ tụi bay" của anh Thành tôi. Anh làm thợ xây ở tận miền Nam về, tóc dài lút gáy, lại loe ngoe đỏ. Anh mặc bộ rằn ri, đội bô sắt (cái thứ mũ sắt mà bọn tôi đã từng đi ăn cắp tại kho chứa mũ của một trại bộ đội ngoài xã về cho mẹ đựng nước giải tưới cây), đi đôi ghệt trông đến ngộ. Mới đầu bọn tôi bò ra cười, sau thấy thật hay. Khi đám trẻ con bám lẵng nhẵng theo sau làm phiền quá anh liền tung kẹo cho chúng nhặt, như thể vãi thóc cho gà ăn và bảo: "Đù mẹ tụi bay, đi chỗ khác chơi nghe". Cái giọng lơ lớ chết cười của anh khi đó rất được bọn trẻ chúng tôi bái phục. Bố tôi ghét cái bộ đồ dở tây dở ta của anh. Ông bảo, trông như thằng giặc! Anh Thành chỉ dám diện bộ đó đi chơi tối, nhưng mặc khi đã ra đường và cởi ra trước khi vào nhà...
    Ở cái xứ heo hút này, khi mà đến đường điện không bò vào nổi, người dân vẫn phải giã gạo, nghe đài bằng pin... thì cũng không thể bàn chuyện máy móc, nên con trâu vẫn là đầu cơ nghiệp. Nhà tôi cũng nuôi trâu. Con trâu ấy là niềm vui của tuổi thơ tôi. Vào vụ rét, tôi thường cùng đám bạn đắp một bếp lò bằng đất trên lưng trâu, để sưởi và lùi những củ khoai hoặc bắp ngô lấy trộm ở bãi hoa màu trong thung Láng. Có hôm, mải chơi trò đánh trận với lũ con trai, tôi để quên bếp lò trên lưng trâu. Củi cháy to làm nóng lò, trâu ***g lên như điên dại, cố gắng thoát khỏi chiếc lò lửa trên lưng. Nó quần nát một ruộng khoai, bọn trẻ dạt hết vào một xó núi, sợ hãi trước cơn điên của con trâu đực sung mãn nhất làng... Sau vụ ấy không đứa nào dại gì mà chơi trò đó nữa, lưng trâu bỏng rộp thì sẽ bị ăn đòn nhừ xương như tôi.
    Vào mùa nước lên, đêm nằm nghe tiếng chim bìm bịp kêu tôi sống trong sự bải hoải khi nhớ câu chuyện cha kể về sự tích con chim bìm bịp là hóa thân từ một người phụ nữ đi tìm con, vượt qua nhiều núi đèo, những miền đất lạ, cuối cùng chết đi vẫn tiếp tục đi tìm. Tôi thắc mắc, bao giờ người mẹ đó mới tìm được con. Mẹ tôi phát cáu: "Vớ vẩn, rỗi hơi mà đi thương vay cho một con chim!". Bà quay sang bố tôi cằn nhằn: "Ông không có việc gì tốt hơn là nhồi vào đầu bọn trẻ những thứ tầm bậy đó sao?". "Sao lại tầm bậy? Việc bà rước lũ thầy đồng về nhà lập bát hương lớn bát hương nhỏ, nhảy nhót loạn xạ thì không tầm bậy?". "Này, ông chớ có báng bổ đức tin! Đúng là bố nào con nấy!".
    Mẹ tôi ám chỉ anh Thành, người mà làng cho là làm chuyện đại nghịch. Chùa làng có một tiểu mới. Ngôi chùa nghe nói rất thiêng. Những ngày chủ nhật anh Thành thường vào chùa hái hộ hoa quả ở vườn chùa để tiểu Vân đem đi chợ bán. Mỗi khi hái ổi, anh cứ nhằm đầu tiểu Vân ném xuống, rồi xin lỗi rối rít. Chẳng hiểu bằng tài nghệ gì mà anh đã làm tiểu Vân phá giới, đem chị ra phố chợ buôn bán kiếm ăn. Tiểu Vân vào chùa cũng vì một uẩn khúc tình ái. Cả họ phản đối anh Thành, mỗi bố tôi là không ngăn, ông bảo, đó cũng là một việc thiện. Chị Vân về làm vợ anh Thành ít tháng thì sinh con. Người làng cười mãi về cái thứ lúa ngắn ngày ấy. Anh khoe với tôi: "Anh đánh quả nhất ăn nhất tịt đấy. Mà mày xem, anh bây giờ vợ đẹp con khôn, lại thoát khỏi cái làng ấy. Thật là ba việc hỷ".
    Mẹ tôi thù ghét những đứa con chồng. Bà thù ghét cả tôi. Tôi biết điều này do linh cảm. Có phải vì tôi được các anh quý mến hay vì tôi là con gái? Thú vui duy nhất của bà là bói toán, nhảy đồng. Tôi cũng không nhớ mẹ tôi mê cúng bái từ khi nào, chỉ biết từ rất xưa trong nhà tôi đã có bát hương lớn bé, bàn thờ nhang khói quanh năm. Mẹ tôi xem bói cho thiên hạ. Nhiều người từ phương xa cũng khăn gói vào. Mẹ tôi xem cho thanh niên nam nữ, đôi nào cũng đẹp hết. Thỉnh thoảng phán cho một vài đôi trắc trở, nhưng "chỉ cần chịu khó đi lễ thần thành hoàng là sẽ yên ổn". Những đôi trai gái từ nhà tôi ra về trong lòng vui phơi phới. Tiếng tăm của mẹ tôi bay xa, vượt qua nhiều đường đất nhiều dãy núi. Đến khuya mẹ tôi ngồi đếm tiền, mặt mày hỉ hả. Một hôm nào đó bà như chợt nhớ ra là có tôi, bèn nhìn tôi đăm đăm rồi bảo với bố tôi: "Con Xuyến nhà mình đem gả chồng được rồi đấy ông nhỉ". Bố tôi xua tay: "Vớ vẩn! Cả làng này có ai học hành tốt như nó không?". Mặt mẹ tôi sưng phồng lên: "Học để thi đỗ trạng nguyên chắc? Con gái học nhiều thì hỏng đời thôi. Lấy chồng sau này tôi truyền lại nghề, tha hồ hót bạc". Nói xong mẹ tôi cười khanh khách. Bà mới lên đồng, hai má bôi son đỏ choét, tôi liên tưởng tới vai dì ghẻ trong vở chèo Tấm Cám. Dù sao đó cũng là mẹ tôi, mà sao xa lạ thế. Tôi lớn lên như cỏ cây, không có sự chăm sóc vun xới. Chưa khi nào được mẹ dạy nên làm hay không nên làm một việc gì.
    Tai họa xảy ra với gia đình tôi hết sức bất ngờ. Đó là một ngày mùa đông, tôi ra đồng mót lúa. Bố đi củi còn mẹ tôi sửa lễ đem lên chùa. Bỗng dưng từ phía làng ầm ầm nổi trống. Chúng tôi hớt hải chạy về. Mới hay nhà tôi bị cháy. Người ta phá cửa, khuân ra được một ít đồ đạc. Căn nhà lợp rạ, không thể cứu vãn nổi. Chỉ ít phút sau nó đã thành một đống tàn lửa khổng lồ. Lúc này tôi mới sực nhớ tới cu Ti, hốt hoảng tìm kiếm nhưng không thấy. Mẹ tôi ngất lịm. Khi tỉnh dậy, bà nhè đầu tôi mà đánh và chửi rủa. Bà cho rằng ngôi nhà cháy là do tôi. Tôi đã thiêu sống đứa con trai thừa tự của bà. Người làng xúm lại lôi bà ra, trong tay bà vẫn cầm một nắm tóc rứt từ mảng đầu tôi. Hàng xóm bảo, lửa đã cháy lên từ gian nhà giữa, chắc hẳn do đèn nến hay vụ hóa vàng của mẹ tôi từ sáng. Tội nghiệp cu Ti! Nó sống lay lắt như một con vật trong gia đình, lặng lẽ hơn cả một con chó. Không biết cười cũng không biết khóc, nó thường bị mẹ nhốt trong buồng mỗi khi bà đi vắng.
  4. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Giấc mơ hoa súng tím ​
    Phan cuoi​
    Cái chết của em tôi khiến cho không khí gia đình nặng nề. Mẹ tôi không tiếp tục hành nghề được nữa. Điều đó càng làm mẹ tôi tức tối. Bà đổ mọi tội lỗi lên đầu tôi. Bà lo rằng nếu bố tôi chết thì cơ ngơi này sẽ rơi vào tay anh cả. Trong những tháng ngày tăm tối ấy, bố tôi là một chiếc lá chắn mỏng manh cho tôi. Tôi chúi mặt vào trong những cơn mơ khóc thầm. Mùa nước to tôi ngồi trên bờ đầm mênh mông nhìn sang bên kia, phía chân núi có ngọn đèn leo lét cháy. Tôi đã yêu người con trai nơi đó - mối tình đầu đơn phương và tuyệt vọng. Người con trai ấy thật bình thường. Nhưng sự cô đơn, u buồn nơi anh đã đánh thức trái tim trinh nữ tuổi mười sáu của tôi. Chúng tôi lớn lên cùng lứa, từng có thời cả bọn cởi truồng vượt lũ đến trường, cùng đánh nhau tóe máu mũi với lũ trẻ làng khác để bảo vệ đám con gái chúng tôi. Nhưng hình ảnh của anh thực sự ghi khắc trong tâm hồn tôi ấy là vào một buổi sáng tinh mơ khi tôi ngồi bên bờ đầm rửa mặt. Hoa súng tím ngát, tôi còn nhìn rõ những giọt sương tinh khiết đọng trong những bông hoa ở gần. Tôi nghĩ về giấc mơ đêm qua, một người con trai đã mang cho tôi một đóa hoa súng tím. Nhưng tôi không hình dung ra khuôn mặt của anh...
    Và người đó đã xuất hiện. Anh cưỡi trên con thuyền nan nhỏ, vừa đi vừa nhấc đó. Anh lướt đi nhẹ nhàng như thể không phát ra tiếng động. Mũi thuyền có một đóa hoa súng nhỏ. Những chiếc đó sũng nước được ném vào khoang thuyền, cá trong khoang quẫy đành đạch. Mùi cá tanh tan vào sương loãng. Tôi nhìn chăm chăm vào cánh tay trần rắn chắc của anh rồi nhìn sang bó hoa súng lớn, tươi rói trên mũi thuyền. Những bông hoa đẹp nhất của đầm lầy đã được chàng trai lựa và kết thành một bó lớn. Tôi buột miệng: "Đẹp quá!". Anh nhìn tôi, mỉm cười dịu dàng. Nụ cười như làm tan đi lớp sương giá bao phủ trên mặt đầm. Người tôi nóng ran như có lửa. Con thuyền trôi từ từ vào bến nơi tôi ngồi. "Tôi tặng cô đấy!". Bó hoa được ném vút vào lòng tôi, những giọt sương bắn lên mi mắt mát lạnh. Tôi ôm hoa vào lòng, ngượng ngùng. Tiếng mẹ tôi bất thần vang lên khiến tôi giật mình sực tỉnh, quay đầu chạy vào nhà. Cảm giác nuối tiếc như vừa trải qua một cơn mơ đẹp đẽ...
    Anh học cao nhất làng - là người duy nhất học hết trung học. Anh nhà để bảo vệ mẹ khỏi bàn tay hành hạ của người cha nát rượu và độc ác. Chính vì điều đó khiến cho anh trong tôi trở nên vĩ đại. Nếu con gái trong làng thích anh mà không dám giao du, thì tôi lại thấy mình đủ dũng khí để bước chân vào ngôi nhà tranh mục nát ấy. Miễn là anh đến mang tôi đi! Nhiều đêm tôi ngồi khóc trên bờ đầm, với điều khẩn cầu anh xuất hiện trên một chiếc thuyền và chúng tôi sẽ lướt đi trên mặt đầm lặng lẽ nở đầy hoa súng tím.
    Mẹ tôi không chịu nổi việc đồng áng nữa. Một chiều bà ngã lăn trên mảnh ruộng đang cấy dở. Người ta vừa khiêng bà lên bờ thì bà cười khanh khách. Mọi người phát hoảng bởi những điều bà nói. Té ra mẹ tôi bị hồn ma ông nội nhập vào người. Ông chửi mắng bố tôi không chịu lễ bái. Chửi anh cả tôi không chịu hương khói. Chửi những người hàng xóm xấu bụng. Cả làng xôn xao vì sự kiện này. Tháng sau, bà lại bị ma nhập. Lần này là Thành hoàng làng. Thành hoàng bảo, sẽ cho mẹ tôi phép tiên tri để cứu người. Rồi quay sang chửi anh cả về tội định làm nhà mới trên đất lẽ ra chỉ để thờ cúng. Anh cả tôi lúc đó đang lấy phân để mang ra đồng. Hai lần bị lôi ra chửi, anh tức điên lên, bốc luôn một bãi phân, vừa xấn xổ chạy tới bên vị Thành hoàng, vừa chạy vừa thét: "Được! Để xem! Tao sẽ cho thành hoàng làng này ăn ***!". Con ma trợn mắt, mặt đỏ phừng phừng: "Thằng này láo !". Ma xắn tay áo lên, hoa chân múa tay. Anh tôi vẫn phăng phăng lao tới. Đột nhiên, con ma bỏ chạy. Anh tôi đuổi kịp, một tay túm tóc, một tay sẵn sàng... Lúc đó, Thành hoàng kêu rối rít: "Thôi, dì xin con! Xin con, hãy tha cho dì!".
    Sau vụ nực cười đó, mẹ tôi nằm bẹp ở nhà suốt cả tháng trời. Sự nghèo túng, sa sút và mất thể diện làm bà muốn phát điên. Bằng mọi cách bà phải thoát ra khỏi tình trạng này.
    Bà quyết định gả chồng cho tôi.
    Tôi được gả vào một nhà giàu có trong làng. Một gia đình chuyên cho vay lãi, có một đứa con gái vượt biên sang Đức, thỉnh thoảng gửi tiền về. Người chồng tương lai của tôi là một kẻ dở người. Hắn không biết làm gì, suốt ngày theo đám trẻ con thả diều, đánh đáo.
    Mọi lời can ngăn của bố tôi, mọi lời van xin của tôi cũng chẳng làm mẹ động lòng. Bà đã nhận tiền của người ta. Bố tôi càng già càng nhu nhược. Việc tôi đỗ vào trường đại học y theo nguyện vọng của bố cũng chẳng thay đổi được gì. Tôi muốn chết. Tôi ra bờ đầm. Trong nỗi tuyệt vọng, người con trai mà tôi mong mỏi trong nhiều đêm chợt xuất hiện.
    Anh đã cứu cuộc đời tôi.
    Tôi bàng hoàng như trong mơ: anh bơi thuyền dọc bờ đầm. Anh đang đi đổ đó. Lũ cá trong lòng thuyền quẫy mạnh, mùi cá tanh tan vào sương loãng. Anh giật mình khi thấy có người. Chúng tôi chào nhau. Câu chào đầu tiên trong đời tôi dành cho anh. Nghe thật tha thiết. Anh hỏi tôi: "Nghe nói cô đỗ đại học và sắp lấy chồng ?". "Anh nghĩ sao về chuyện này?". Anh ngập ngừng: "Cô là người có học thức... Tôi luôn nghĩ cô có thể làm được nhiều việc". "Em đang muốn chết!".
    Đêm hôm sau tôi đã bỏ nhà xuống chiếc thuyền câu để anh chèo đi khỏi làng. Theo đường sông ngoằn ngoèo xuyên lòng núi, đi hàng chục cây số mới ra tới ngã ba sông. Nơi đó là bến đi vào thị xã. Tôi hạnh phúc đến ngộp thở trong những giây phút được bên anh. Đóa hoa súng tôi hái dọc đường đi tỏa hương nhè nhẹ, mát rượi. Mùi cá tanh trong lòng thuyền sau này đã trở thành một thứ mùi của kỷ niệm. Tôi lên bờ, nhận ở tay anh một chút tiền. Anh tần ngần bảo: "Không biết khi nào gặp lại được nhau... Hãy bảo trọng...". Tôi rụt rè trao anh một hộp giấy. Trong ấy giấu kín món tóc thiếu nữ vừa kịp đen của tôi. Như một lời thổ lộ về mối tình câm lặng.
    Tôi đã bỏ làng ra đi như thế đó. Tôi làm nhiều nghề. Lăn lộn, bươn bả. Có lúc tưởng chừng sắp rơi xuống đáy của sự tuyệt vọng thì mùi tanh của cá đêm nào đã đánh thức tôi, cho tôi một sức mạnh lạ thường. Nhiều lúc nhớ làng tới quắt lòng nhưng tôi không còn đường trở lại. Một đứa con gái bỏ nhà đi, người ta không tin vào sự lương thiện của cô ta nữa. Trong những giấc mơ tôi mơ thấy mình cùng anh đi trên chiếc thuyền câu, lướt trên mặt đầm lặng lẽ nở đầy hoa súng tím. Cá trong lòng thuyền quẫy mạnh, mùi tanh loãng vào không khí. Anh bảo: "Nơi này cần có những thay đổi. Thay đổi là việc của lớp trẻ chúng ta...".
    Dường như nơi ấy đã cầm nắm một phần linh hồn và trái tim thiếu nữ đầy thơ dại của tôi.
  5. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Nước mắt khô​
    Đinh Thị Kiều Oanh
    17h. Nàng đứng lên ngồi xuống ra vào bồn chồn như một cô gái có hò hẹn thuở đầu yêu, cái hẹn mà làm cho cả ngày hôm đó chỉ vì chờ cho trời mau tối nàng làm việc gì cũng hỏng.
    Bây giờ nàng và anh đã vô cùng gần gũi nhưng cái cảm xúc của lần hẹn đầu tiên vẫn còn nguyên vẹn trong nàng mặc cho nhiều khi những rung động ấy trong nàng bị anh vô tình chà đạp. Nàng nhớ lắm, nàng đã thất vọng, đã hối hận đến mức nào trước một vài cử chỉ thái độ không nên có nơi anh nhưng xúc cảm của tình yêu vẫn làm cho nàng luôn hồi hộp, như hôm nay chủ là một bài báo nhỏ cho chuyến đi của anh và nàng đã được đăng thế thôi, nàng đã viết cho anh ấy. Anh đi công tác được hai tuần, chẳng gọi điện chẳng nhắn nhủ gì, nàng ra vào ngơ ngẩn chênh vênh như trẻ lạc nhà. Bây giờ thì nàng đến nhà anh mang theo tờ báo cảm thấy rất rõ những rung cảm còn lại sau chuyến đi chơi ấy vẫn rất gần trong nàng. Một đêm trăng đẹp và tay anh ấy thì thật ấm. Nàng không phân định được cảm xúc của mình.
    18h10. Nàng đợi trước cửa nhà anh, bình thản, cái ý muốn gặp anh đã tan biến trên đường, có thể nàng sợ niềm vui của mình bị vấp, nàng sợ rằng chỉ lần này nữa thôi những điều tốt đẹp ít ỏi giữa anh và nàng vì một lý do hết sức ngớ ngẩn nào đó sẽ không còn nữa.
    Anh đi công tác miền Nam, cái từ "công tác miền Nam" làm cho nàng hân hoan, phấn chấn, nàng bắt gặp một điều mới mẻ hơn xuất hiện trong đời sống thường ngày của anh. Đi làm đã hai năm nhưng anh luôn từ chối những chuyến đi công tác, do không thích hay ngại ngùng chẳng hiểu. Nàng biết sức khỏe anh không tốt, anh lại hiền lành đến nhút nhát, đến một nơi xa lạ có lẽ anh khó tự chủ. Đôi lần nàng tỏ ý trách móc rằng anh đơn điệu, lại chẳng máu mê gì, anh cười cầu hòa "Khi anh yêu em thì đời sống của anh đã bớt đi nhiều phần tẻ nhạt rồi, thay đổi nữa làm gì, rồi lại khổ". Nàng thở dài lại tự trách mình mơ mộng. Nàng khác anh, đi nhiều biết nhiều, tiếp xúc nhiều, dạn dĩ, năng nổ, liều lĩnh và nông nổi. Chỗ nào vui thì đến, buồn thì đi, thích lại viết và đã có đôi chút thành công, riêng chỉ trong chuyện muốn bỏ qua những đơn điệu trong đời sống của anh nàng không làm nổi. Dường như giữa anh và nàng đã làm nên sự cân bằng vững chắc không thể hoán đổi hay bù đắp và nàng ấm ức. Đôi khi lại tự hỏi nàng bất kham thế anh chế ngự nàng bằng điều gì, sự nhẫn nại và tình cảm chân tình chăng? Nhưng chưa bao giờ anh và nàng hôn nhau, ngay cả cái nắm tay mới chỉ trong chuyến đi vừa rồi anh mới dám nắm tay nàng, thế mà trước anh, mọi dạn dĩ ngông nghênh của nàng trôi đi đâu hết.
    18h40. Định nhét tờ báo qua khe cửa thì anh về, chỉn chu nhưng gầy sọp, nàng âu yếm nhìn, vừa thấy giận lại thấy xót xa. Có lẽ anh không hợp với không khí của Sài Gòn, còn nàng đến rồi xa nó nàng nhớ nó, thèm nó, như thèm hơi thở của chính mình, dường như trong không khí ấy nàng mới chính thật là nàng. "Anh có khỏe không?". Nàng hỏi cảm thấy lần đầu tiên nàng nói với anh dịu dàng thế. Anh nhìn nàng thật lâu rồi cúi đầu ngập ngừng: "Anh chỉ muốn về luôn hôm sau, nhớ cái êm đềm nhường nhịn Hà Nội. ở trong đó anh cảm thấy vô cùng lẻ loi". Nàng nghe lòng mình trĩu nặng, chẳng lẽ anh lại khổ sở đến thế sao, cho một chuyến đi công tác rất thông thường của một công chức. Anh kể đi làm về chẳng biết làm gì lại ngủ, chẳng mấy khi ra ngoài, ngay cả những phòng trưng bày tranh nơi nàng thích nhất khi đến một nơi nào đó anh cũng chẳng ngó ngàng, lại kể rất sôi nổi về khách sạn, về sự xa hoa của dân Sài Gòn nào giá cả đắt đỏ, rằng dân trong ấy ăn chơi tột độ. Cũng có thể vì thế mà anh cảm thấy lạc lõng trong đó. Nàng nhìn anh đăm đăm, niềm hy vọng vào sự thay đổi dù nhỏ nhoi của anh trong nàng tắt ngấm. Quà của nàng sao không là một vật lưu niệm của riêng Sài Gòn hay chỉ là một cuốn sách nàng thích mà lại là một cái áo đắt tiền mua ở đâu chẳng có, lại còn xuýt xoa "dân trong ấy toàn đi siêu thị". Trong cái lạc lõng của anh giữa nhịp sống đó nàng hy vọng sẽ bắt gặp đôi chút cảm xúc của anh dành cho văn chương, hay chỉ là một chút đồng cảm trong cách nhìn về đời sống với nàng, nàng muốn thương cho cái giây phút lẻ loi đó, song nàng lại biết rõ rằng sự lạc lõng ấy lại là do những ham muốn không được đáp ứng đầy đủ. Mọi hứng thú của chuyện đọc bài thơ cho anh nghe, chuyện uống cà phê cùng anh, cứ nguội đi.
    Anh kêu buồn, nàng cong môi lên "hay vương vấn cô nào trong đó?", "Em chẳng hiểu gì". Mặt nàng xịu xuống, muốn xé tan tờ báo trước mặt anh. "Anh đọc tờ báo này đi". Nàng kiên nhẫn: "Anh không có thời gian", giọng anh lạnh lùng. Nàng lên xe, đạp đi thẳng, rồi lại thấy day dứt khi nghĩ đến lời than buồn của anh. Nàng quay lại "Đi uống cà phê với em". Nhìn anh chần chừ, mặt buồn thiu khiến nàng nhớ đến cảm giác của mình về anh khi nghe anh kể chuyện tình yêu trước đây của anh, bụng bảo dạ: "Anh hay tự ái thế nó không yêu là phải" thế rồi giờ đây nàng đang phải tập chịu đựng điều đó. Vượt qua lòng kiêu hãnh để quay lại là sự ăn năn khi biết mình đã không hiểu cho nỗi niềm của anh. Nàng hiểu rất rõ lý do anh thi trượt, đi xem điểm cho anh nàng đã rất buồn và lo lắng, thế mà nàng đã không nói nổi cho anh một lời an ủi dịu dàng. 20h, Nàng muốn chửi bới vào vẻ mặt lầm lì của anh, nàng biết ép anh là điều thái quá nhưng cảm xúc của nàng chưa thỏa mãn. Nàng đã hy vọng rằng anh điềm đạm, biết che giấu những nỗi niềm của mình, nàng thích được khám phá những tâm sự trong anh, thích được vuốt ve, an ủi chúng, nhưng anh cứ lồ lộ tỏ ra rằng những nỗi niềm của anh đáng được chia sẻ, còn niềm vui nhỏ bé của nàng thì có đáng kể gì đâu. Nàng ngồi sau anh tự hứa rằng trong quán nàng sẽ nói những lời tử tế, sẽ an ủi anh bằng tình cảm thật lòng. Một ý nghĩ khác lại len trong đầu khiến nàng quắc mắt, nhăn mũi, lườm sau lưng anh: "Đồ trẻ con, cứ làm như chỉ mình anh biết buồn". Nhiều lần nói chuyện anh chê nàng trẻ con, hãy để anh dạy dỗ, nàng cãi, rồi lại ngoan ngoãn gật gù ngồi nghe, thực tâm chỉ mong muốn mình là một cô em gái ngoan của anh thôi, lại như thầm "em già hơn anh mấy lần nghĩ".
    Anh hùng hục đạp xe trên đường, mồ hôi ướt đầm lưng áo, kể miên man về ý định của mình trong những ngày tới, nàng nghe chẳng phản đối, chẳng đồng tình, chỉ thấy dường như anh cũng bất an, cũng nông nổi như nàng, anh cũng ham muốn nhiều nhưng sao anh chông chênh quá.
    Anh uống nước cam, nàng nhấp ly rượu anh đào nhạt thếch. Anh không rượu chè, không cà phê, không thuốc lá, không ham hố máu mê như bạn bè của nàng. Nhiều lần nàng uống rượu, anh lo ngại "rồi không làm chủ được hành động của mình", nàng cười ngất "Em tự tin và biết mình nên làm gì" lại thắt lòng thương cho cái vẻ nhẫn nại, đôi mắt hiền lành của anh, nó ám ảnh nàng hơn cả những người đàn ông mạnh mẽ quanh nàng, nó làm mất đi những cái vụng về ở anh khiến nàng phải cau mặt nguýt lườm. Nhưng hôm nay, dường như cảm xúc của nàng đang bị thử thách, cứ như nàng không còn yêu anh nữa nên không phải giữ gìn, phải hành hạ anh cho bõ lòng kiêu hãnh. Nàng bất lực trước sự thất vọng của mình, tưởng tượng mặt mình muốn trơ lỳ ra khi nhìn anh.
    Anh ngồi trước nàng xoay xoay ly nước cam, bất chợt anh nhìn thẳng vào mắt nàng, nàng chăm chú nhìn anh bắt gặp trong đó một nỗi buồn sâu sắc nàng chưa thấy bao giờ. Anh nói chầm chậm giọng ân cần như muốn trút bỏ mọi nỗi niềm "Thế này là thế nào An? Anh cần em, em không hiểu. Anh thất vọng, nhưng cố công muốn thay đổi em đã hoàn toàn thất bại". Anh đưa tay nắm lấy tay nàng bóp mạnh, nhìn nàng và thở dài: "Em bạt mạng, em liều lĩnh, em có hiểu không? Và anh, có lẽ anh không xứng với sự mong đợi của em, làm sao anh đủ sức giữ gìn tình cảm ít ỏi của em dành cho anh. Anh không muốn phiêu lưu nhưng sao cảm giác bất an cứ bủa vây lấy anh, còn em thì cố công tạo ra nó. Để làm gì An? Để chứng tỏ tình yêu ư? Tay anh run lên, đầu rũ xuống. Nàng ngồi bất động, cay đắng nghe những lời bộc bạch thẳng thắn của anh. Sợi dây níu giữ trong nàng đã đứt, thế là vĩnh viễn, không tìm thấy sự đồng cảm. Nàng cảm thấy không còn đủ sức để bày tỏ nỗi niềm của mình khi nghe anh nói về "nghề văn chương, báo chí bạc lắm, em nên xác định cho công việc ổn định hơn, nếu không cuộc đời sẽ trà đạp em mất". "Nhưng nó là đời sống, là nhu cầu của em. Cũng như mong muốn những tiện nghi công cụ hiện đại là đời sống của anh. Đừng phân định rạch ròi như thế. Nếu em cũng muốn anh bỏ những thứ đó để theo văn chương anh có lẽ không sống nổi". Giọng nàng khô khốc, mắt ráo hoảnh. Lòng kiêu hãnh tổn thương khiến nàng cắn môi đến tê tím. Nhảy đại lên một chiếc xe ôm, nàng đi không kịp nghe anh nói gì.
    23h. Về đến nhà, đổ ập xuống giường tưởng rằng mình có thể khóc òa lên cho vơi bớt nỗi uất ức, nàng cầu mong nàng hãy khóc, dù chỉ một giọt nước mắt thôi, biết đâu lòng nàng mềm lại. Nàng hoảng hốt nhận ra rằng chưa bao giờ vì anh nàng khóc, còn lần này những tổn thương muốn vò xé con tim nàng. Đó có phải là tình yêu không? Nàng thèm khóc kinh khủng.
    1h. Một viên thuốc ngủ không làm cho nàng hết trăn trở, có điều gì đó vỡ ra trong tim nàng, lại nao lòng nghĩ đến sự mềm yếu, cái dáng vẻ lẻ loi, cô độc của anh. Hay nàng đã không thật sự hiểu anh, nàng đã đi quá những giới hạn của một người con gái trước anh, nàng đã không biết kín đáo bộc lộ tình cảm của mình, nó là cái vẻ nữ tính duy nhất mà biết đâu anh cầu mong nàng giữ lại, nàng đã không làm nổi và điều đó khiến cho anh e ngại.
    3h sáng. Nàng bị giày vò trong sự ăn năn day dứt, tại sao nàng không ngoan ngoãn, dịu dàng, mềm mại cho anh vừa lòng. Vậy mà bao lần nàng gọi điện thoại cho anh và tha thiết hứa rằng sẽ ngoan ngoãn, sẽ không ngông nghênh, sẽ làm được tất cả những gì mà một cô gái thuần túy phải làm. Nàng những mong anh thương cho cái sự bất an, hiểu cho cái sự nông nổi của nàng, nàng càng cố dường như anh càng ngại. Lẽ nào anh và nàng không thể dung hòa được.
    4h sáng. Trăn trở mãi nàng chợt thấy má mình âm ấm nước, thấy thương anh buốt lòng, lại thương mình khổ sở. Có thể ngày mai nàng sẽ chạy đến chỗ anh, ngoan ngoãn hiền lành nghe anh trách mắng, nói những lời rất thật về nỗi lòng của nàng cho anh nghe, nói cho anh những lời tốt đẹp khi anh bắt đầu một công việc mới, dẹp đi những xúc cảm của nàng, không mong thỏa mãn nó. Nàng sẽ giữ gìn, sẽ thay đổi, sẽ học hành tử tế, sẽ... Nàng bật cười, lau nước mắt cảm giác mình đang bị đày đọa. Nàng biết bây giờ nàng nghĩ thế rồi nàng lại làm khác đi, nàng vẫn luôn mong muốn thỏa mãn cảm xúc của mình. Nhưng khi nhớ đến ánh mắt tha thiết dịu dàng của anh, nàng lại thấy mình trở về nguyên dạng yếu đuối mong manh và cần thiết sự chở che
  6. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Ngày xưa, cô Tấm... ​
    Lê Minh Hà
    Tấm mệt mỏi đặt lưng nằm lại, nhắm mắt ơ thờ. Cám đi rồi. Còn lại những gác những lầu, những cột kèo, những hành lang vắng âm âm theo mỗi bước chân. Và đêm. Tối. Nặng. Như bùn. Như cỏ ướt. Hoang vu.
    Ngực Tấm cồn lên. Tấm nức khan. Tiếng nức của người không thể nào khóc được. Trống cầm canh dội. Tấm biết, vậy là với nàng thế đã một đêm.
    Đã như thế lâu rồi. Đã bao đêm Tấm loanh quanh kiếm việc gì làm cố tình trốn giấc. Nàng sợ. Sợ phải một mình đối mặt với Cám. Sợ những lúc hổn hển gỡ mình khỏi cơn mơ, vã mồ hôi lạnh, mà không thể gọi ai, không thể gọi nhà vua, không thể gọi thị nữ. Nàng sẽ một mình chong mắt vào đêm tối, thở dốc, cổ khô khát. Nỗi kinh hoàng chế ngự nàng, ngày này qua ngày khác. Giống như một thứ bệnh âm không thể nào chữa khỏi, làm người ta kiệt lực mà vẫn bắt buộc phải tập chung sống với nó.
    Đã như thế lâu rồi. Mỗi đêm, Tấm bình tĩnh lắng nghe những tiếng động tắt đi ở đầu đằng kia hành lang, nơi bấy lâu nay nhà vua một mình một long sàng, đợi lúc phải vào giường, đợi thị nữ tắt đèn, đợi Cám. Chưa bao giờ Tấm mơ thấy Cám trong hình hài nguyên vẹn. Lúc nào cũng chỉ có cái đầu. Cái đầu Cám với thần thái của người sống, vẫn mắt môi, vẫn vành khăn vấn, vẫn thịt da tươi mởn như trước lúc chết, bay lãng đãng trong bóng đêm. Đáng sợ. Bởi qúa đỗi kỳ quặc.
    Bao giờ cũng vậy, trong mơ chỉ có một mình Cám nói. Trong mơ, Tấm tê liệt vì kinh hoàng và căm giận. Và giọng Cám, ai oán, ảm đạm sẽ như tiếng tinh nứa siết vào nhau làm Tấm choáng váng, đau buốt suốt cả ngày sau. Đó là một cảm giác thuần túy thể chất. Nó làm Tấm rã rời. Từng đêm... Từng đêm...
    ***
    "Chị Tấm! Sao chị nỡ đọa đày mẹ con tôi đến thế. Sao chị nỡ bày ra cho mẹ con tôi cái chết tức tưởi thế này. Đã đành mẹ con tôi ác quá với chị. Nên nỗi oán oán chất chồng. Ác giả ác báo. Đành rồi. Nhưng chị hãy nhìn tôi! Đâu thịt da tôi? Đâu xương cốt tôi? Tôi đâu dám nói gì. Song chị có bao giờ thử nghĩ thiên hạ mai sau sẽ nói gì?".
    Mắt Cám buồn rượi. Cái đầu Cám lắc lư trong không khí. Chỉ có độc cái đầu. Tấm nhớ lúc đó Tấm đã hét lên. Những cây cột chạm trổ sơn son thếp vàng trông đường bệ và tráng lệ là thế ban ngày mà lúc đó thì đứng sững như người trong một dáng vẻ tăm tối đầy hăm dọa. Không có nhà vua nằm cạnh Tấm. Chỉ có hai thị nữ rón rén bê đèn bước vào, rón rén vén rèm nâng Tấm dậy, rón rén nâng chén nước mời Tấm nhấp môi. Chén nước vối Tấm hằng quen và vẫn ưa dùng ngay cả lúc đã vào sống nơi cung cấm tỏa mùi hương lạc lõng.
    "Chị Tấm! Mẹ tôi gục chết bên hũ mắm làm từ thịt xương tôi. Chị có biết mình đã làm điều thất nhân tâm đến độ rồi không? Người mẹ nào cũng là hổ dữ khi bảo vệ con mình. Chỉ khi ấy! Sao chị nỡ bắt một ngưòi mẹ phải ăn thịt con. Chị nghĩ gì khi lóc thịt xương tôi làm mắm. Tôi đã bao lần cố công triệt thân tâm chị trên cõi sống này. Đã giết vàng anh. Đã chặt xoan đào. Đã đốt khung cửi. Đã không thành. Chị tưởng làm được điều ấy với tôi ư? Xấu tốt gì tôi với chị cũng là người. Xương thịt là do cha mẹ sinh thành. Nhưng trời đất định đoạt số phần. Việc của đất trời, người không làm được..."
    Cám im. Mắt ủ rũ nhìn sâu vào đêm tối, lướt qua mặt Tấm, ơ hờ. Cái đầu lắc lư như không thể nào cố định nổi, bập bềnh trôi trong đêm xôm xốp và rất dính. Tấm cố hình dung phần thân thể Cám từ cổ trở xuống. Không thể. Cái tươi mát thịt da xưa của Cám chính tay nàng đã băm vằm. Không phải để triệt hậu họa, cốt hả căm hờn. Phải! Cốt hả căm hờn.
    ***
    Nàng đã tích hờn căm ấy từ bao giờ? Từ buổi chiều ngồi bên gốc gạo âm thầm khóc vì bị Cám trút mất giỏ cá chăng? Mất giỏ cá, mất yếm đào! Có làm gì cái yếm đào khi nàng biết rõ các anh trai làng chỉ ưa nhìn ngang khe yếm các chị lúi húi chiều chiều rũ cỏ rửa bèo ở ao đình! Có làm gì cái yếm đào khi nàng ngày ngày phải xắn váy mốc theo trâu đồng sâu đồng cạn!
    Nàng tích oán thù từ buổi ngồi bên bờ giếng khóc bống con ư? Bống con tội nghiệp. Nhưng bống có thương nàng thì cũng thể con trâu Ngổ vẫn được nàng ngày ngày chăm bẵm thương nàng. Lúc nàng mất bống, nàng chỉ mới biết khóc tủi thân mình.
    Biết bao lần Tấm dằn vặt mình. Bao giờ, tự bao giờ nàng để oán thù kết lại? Bây giờ, năm tháng qua đi, nàng hiểu ra rằng nỗi căm hận mẹ con Cám đã bùng lên trong lòng nàng vào đúng buổi chiều gió ấy. Xóm làng xôn xao hội lớn. Trống thúc. Loa vang. Nàng gục mặt trên thúng thóc trộn lẫn gạo vừa giã, nước mắt lã chã hai hàng. Vì bất lực. Vì khao khát được đổ ụp lên đầu hai mẹ con Cám tất cả những ê chề nàng đã chịu đựng bấy nay. Và nhiều hơn thế nữa. Nhiều hơn thế nữa! Nhiều hơn thế nữa! Đến mức nàng không hình dung nổi. Nhưng nàng nhớ buổi chiều gió ấy, buổi chiều nàng để hận thốc lên. Khi ấy, Tấm không hề biết rằng hận đã nhen thì phải trả.
    "Chị Tấm! Chị thử nghĩ mà xem! Tôi có ác thì tôi cũng đâu có tự tay giết chị. Tôi lấy mất của chị giỏ cá. Tôi gièm chị với mẹ tôi. Tôi làm cho chị phải ăn roi vọt. Nhưng tôi không giết chị. Tội của mẹ tôi, tôi phải gánh. Sao chị không cho đuổi tôi về làng. Như thế đã đủ ê chề sau những ngày tháng dập dìu xe xe ngựa ngựa. Sống giữa sự khinh khi dè bỉu của xóm làng, không chồng không con, không còn gì cả, còn dám ngửa mặt nhìn ai, vậy cũng cầm bằng như chết. Sống vậy đã chắc gì tôi còn dám sống. Sao chị không làm như thế. Nhất là cuối cùng chị đã có lại tất cả rồi.
    Tôi giết vàng anh. Tôi chặt xoan đào. Tôi đốt khung cửi. Nghĩ cho cùng cũng chỉ là để xua đuổi tà ma. Chị lúc ấy là ma. Ma làm sao ở được với người. Ma làm sao chung chồng được với người. Chị Tấm! Tôi chưa bao giờ giết chị!".
    Trong cơn mơ, Tấm thấy mình điên giận vì không sao cất nổi tiếng để mắng vào mặt Cám. Cám ủ rũ buông lời. Không ra buộc tội. Không ra thanh minh. Ừ phải! ả chưa bao giờ giết Tấm. Ả chỉ lấy mất hoàng tử của Tấm. Nhưng có người sẽ không làm như Cám vào lúc đó chăng? Người ta vẫn thường bai bẻ mấy chữ " duyên em tình chị"...
    Những giấc mơ làm Tấm mệt mỏi và đâm bẳn gắt. Tính khí Tấm sau lúc về sống lại nơi cung cấm làm ai nấy đều lo sợ mỗi lúc phải gặp nàng thưa thốt điều gì. Cả chồng nàng, đấng quân vương oai trùm thiên hạ. Chàng hoàng tử say đắm và quả quyết ngày xưa giờ là ông vua lúc nào cũng buồn rầu và có cái nhìn u ám. Nỗi buồn phủ chụp trên thân dáng nhà vua bây giờ sao khác quá nỗi buồn thủa nhà vua cất tiếng " vàng ảnh vàng anh - có phải vợ anh - chui vào tay áo". Tấm bây giờ không còn là chim hoàng anh nữa, và lòng nhà vua lúc này với Tấm còn hẹp hơn ống tay áo năm nào. Nhà vua không mấy khi nhìn nàng, không mấy khi nói với nàng. Thần trí nhà vua đôi lúc nhuốm đầy vẻ gì làm Tấm không hiểu nổi và vì thế mà nàng càng hay nổi cơn giận dữ không chừng.
    "Chị Tấm! Chị có biết vì sao chị lại ra nông nỗi vậy? Dù gì thì tôi với chàng cũng có với nhau những ngày những đêm nồng mặn, dẫu chàng vẫn thương nhớ chị không nguôi. Nhưng bây giờ, chị hãy thử nhìn xem, chàng ra thế. Thần sắc của chàng là thần sắc của người đã chán ngán thế gian này. Là thần sắc của kẻ bạc nhược. Kẻ bạc nhược sẽ phải đi tìm nơi cho linh hồn rũ liệt của mình nương tựa. Vào đâu? Trăng lên hoa nở! Rượu! Đàn bà! Nhưng sẽ không phải là chị. Bởi vì chàng đâu có còn thiết tha với sự đời. Kẻ đã không thiết sống thì không còn gì phải sợ hãi, không bao giờ đi tìm sự gần gũi bên một kẻ giết người. Tội ác bao giờ cũng làm người ta ghê sợ...".
    Khi nói những lời dao cứa đó, Cám không hề lộ vẻ đắc thắng. Mắt Cám tràn ngập nỗi buồn. Cám cúi nhìn. Nhìn gì? Bên dưới cái đầu của Cám nào còn có gì ngoài đêm quánh đặc. Rất nhiều đêm sau đó, trong lúc nằm chờ cơn mơ dữ có Cám hiện về, Tấm đã bàng hoàng nhận ra ràng lời Cám nói trong giấc mơ đêm đó đã làm nàng đau đớn nhất. Nỗi đau, không còn được cưu mang bằng niềm thương thân hay căm hận, như một thứ cường toan gặm mòn năm tháng, gặm mòn đời người.
    "Chị Tấm! Mẹ con tôi ác. Mẹ con tôi đã chịu quả báo ngay trong kiếp này rồi. Nhưng ngẫm cho cùng, cái ác của mẹ con tôi cũng chỉ là cái ác bình thường. "Bao giờ bánh đúc có xương - Bấy giờ...". Chị nhớ chứ? Chị nhớ chứ "Đói lòng nằm gốc cây sung..."?. Tôi đã hoài hơi chống chọi với bóng ma chị. Vì chàng. Chị tưởng tôi thèm làm hoàng hậu suốt đời ư? Không! không phải thế! Tôi chỉ thèm làm vợ. Tôi chỉ thèm thấy lại một lần cái nhìn buồn bã của nhà vua dù sao cũng sáng lên khi chàng thấy tôi đi tới. Chàng biết hết tội của mẹ tôi, chàng biết hết lỗi lầm của tôi, nhưng chàng cũng biết lòng tôi thiết tha với chàng đến thế nào, không phải từ sau khi tôi thay chị vào sống trong cung, mà là từ hôm ấy, từ hôm tôi hồi hộp ngước nhìn chàng và xỏ trượt hài thêu. Phải, chiếc hài là của chị. Chàng biết cả, nhưng chàng cũng biết rằng... Đứa con gái nào đã xếp mình vào hàng để thử hài chẳng vì lẽ ấy... Vậy mà chị nỡ... Chị đã hủy hoại tấm hình hài mà chàng đã nhiều đêm ôm ấp. Chị đã tự hủy hoại.
    ***
    Sau đêm ấy, Cám thôi không hiện về. Nhưng những đêm dằng dặc sống cùng cơn mơ dữ đã tạo trong Tấm một thói quen không thể nào bỏ. Giống hệt như một thứ bệnh nghiện. Càng ngày càng tệ hại hơn. Trước, Tấm còn có thể chợp mắt đầu đêm trước lúc Cám hiện về. Giờ thì nhiều đêm Tấm chống mắt, tự hành hạ bằng cách nhắc cho mình từng lời Cám nói. Từng lời. Từng lời. Như nước lạnh rỏ đều đều vào tâm trí, không làm Tấm khiếp hãi nữa, nhưng khiến Tấm tê buốt tới tận từng chân tóc. Sáng nào chuyện phải cất mình khỏi giường, đi lại, ăn uống, sai bảo, bàn bạc cũng làm Tấm chỉ nghĩ tới đã bải hoải. Sự mệt mỏi quá độ giờ đây làm Tấm mềm tính lại. Nàng lại gần giống như Tấm của ngày xưa, yếu đuối, dịu dàng, nhưng khô khan, hốc hác. Gò má Tấm cao lên, đôi mắt nàng sâu xuống, lúc rừng rực một cái nhìn, lúc lại như lạc thần. Người hầu kẻ hạ thôi không còn phải lo đối phó với những cơn tức giận không chừng của nàng, tươi tỉnh hơn, thế nhưng ai cũng có vẻ càng thêm ngại Tấm. Riêng có nhà vua thì dường như càng ngày càng chìm sâu hơn vào ảm đạm. Một chiều kia, Tấm chua xót nhận ra ánh mắt bơ vơ của nhà vua lúc dõi nhìn bông hoa súng đã tàn trên đầm nước nhuốm đầy vẻ khinh bỉ và ghê sợ khi chạm phải cái nhìn của nàng. Phải! Đúng vậy! Ghê sợ!
    Cái nhìn của nhà vua làm bước chân Tấm run rẩy. Nàng tuyệt vọng. Nàng có cảm giác như tất cả, nhà vua, kẻ hầu người hạ trong cung đều nghe thấy hằng đêm lời Cám kể tội nàng, khiếp hãi và thương cảm cái kiếp làm ma không toàn thây của Cám. Nàng có cảm giác ai cũng sẽ hỉ hả nếu được thì thào với nhau về những lời Cám nói, và nếu điều đó chưa xảy ra thì cũng chỉ bởi người ta còn đang muốn sống mà thôi.
    Tấm đâm vừa ghét vừa sợ người. Lúc đi đứng lúc nằm ngồi, lúc nào nàng cũng cảm như rờn rợn. Kể cũng lạ lùng, bởi đến ý nghĩ một lúc nào đó Cám lại sẽ hiện hồn về giờ đây cũng không còn làm nàng khiếp hãi. Càng ngày Tấm càng thích khép mình trong phòng cùng hai thị nữ, vốn là bạn gái ngày xưa được Cám gọi vào cung. Nhưng cả họ rồi cũng bắt đầu làm Tấm sợ và ghét, bởi vẻ rụt rè vô cảm, bởi sự tận tụy gần như là cam chịu mà họ trình bày với Tấm mỗi ngày.
    Tấm bắt đầu năng hương khói. Thắp nén hương lên là nàng hăm hở cầu xin. Nàng muốn bao nhiêu điều. Lòng thương sót lại ở nhà vua, ở chồng nàng. Sự tĩnh tâm. Niềm an ủi.
    Ngày xưa, không cần hương khói, Bụt vẫn hiện lên với nàng, che chở bảo ban nàng. Bây giờ, Tấm van vái thế nào nàng vẫn chỉ một mình. Càng về sau, dù thành tâm bao nhiêu khi thắp hương, Tấm vẫn thấy ý nghĩ mình tách khỏi những lời cầu nguyện, đi lạc đâu rất xa. Tiếng nghé ọ buổi trưa nào giữa đồng không mông quạnh khi nàng ngồi tránh nắng bên gánh cỏ trong ngôi cầu Đồng Bán... Những cái càng cua luều nguều trên luống đất mới cày vỡ sau vụ gặt chiêm... Và nỗi buồn đeo đẳng đã làm vỡ òa ở nàng suốt những ngày tháng xa xưa bao nhiêu là nước mắt, chỉ vì không được cảm thông, chỉ vì không được yêu thương...
    Nước mắt nàng đã khô đi sau bao nhiêu thống khổ mà mẹ con Cám đã gây ra. Nàng đã khóc chỉ vì không được sống. Nàng đã không khóc khi tước đi sự sống của một con người. Máu kêu trả máu là lẽ thường tình. Cái lẽ thường tình ấy bây giờ làm nàng không khóc nổi. Tấm giơ bàn tay ra trước ánh nắng quái rừng rực đỏ, nhìn, chua xót. Nàng, với bàn tay này đã dội nước sôi lên người Cám, đã lóc xương lột da Cám làm mắm. Và mẹ Cám chết gục bên hũ mắm ăn đã gần chạm đáy. Thật là đúng với lòng nàng khao khát trả thù. Hổ dữ cũng không ăn thịt con mình. Tại sao nàng đã giết người mà còn buộc người phải làm cái việc đến cầm thú cũng không làm. Cám nói đúng. Cám có lý. Thần sắc của nhà vua bây giờ là thần sắc của người không còn thiết sống. Ai có thể tiếp tục yêu thương, ai có thể yên tâm nhận yêu thương từ bàn tay của kẻ đã dám làm điều ác cùng cực thế...
    ... Tấm ngồi chết lặng bên khung cửa sổ mở về phía hoàng hôn. Nàng không còn nghĩ tới chuyện van vái khói hương. Nàng biết, nàng không còn có thể làm gì...
    Lòng Tấm chua xót, bình tĩnh, trống trải, trống trải vô cùng. Tấm thở dồn. Bất ngờ quá đỗi, nước mắt Tấm từ đâu ào về vỗ trong ***g ngực, dâng lên, ứa ra, chảy thành dòng lặng lẽ. Hoàng hôn gãy thành muôn đốm chói rực. Như cái màu hoa gạo buổi chiều tháng ba ẩm ướt năm nào, khi Tấm ngồi khóc vì bị mất giỏ cá. Cái màu hoa cháy trong mưa, thảng thốt một trời xuân xa lắc. Tấm khóc. Ràn rụa...
    ... Đêm đã kéo tuột vừng mặt trời đỏ như quả bòng lửa xuống. Chỉ còn một chân trời tím thẫm đang đùn sương bảng lảng. Từ chân trời ấy, Bụt bước ra. Bụt bảo Tấm, giọng nghiêm, hiền, mênh mông một niềm xót thương khôn tả:
    - Đấy chính là điều kỳ diệu nhất ta có thể cho con. Nhưng con ạ, điều kỳ diệu nhất bao giờ cũng là điều kỳ diệu cuối cùng.
  7. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Nước Mắt Xương Rồng​
    Không biết tự bao giờ, Duy ghét cay ghét đắng những giọt nước mắt. Thiên hạ kì cục, hơi một tí là khóc ngay được. Nhất là tụi con gái, chỉ cần quát mạnh một câu là mắt đã rơm rớm - khóc. Ngã: khóc. Ðiểm kém: khóc. Thậm chí đi học muộn bị cô lừ mắt: cũng khóc. Thật là điên đầu, cái lũ con gái èo uột như làm từ bún ấy.
    Có người nói Duy giống như một con dao kim cương. Ðẹp, nhưng không ai dám rờ tới. Duy thường nhếch môi cười thầm: sao người ta không ví mình giống như bông hồng đầy gai? Có gì khác nhau giữa lưỡi dao và bông hoa? Phải chăng danh từ bông hoa kiêu kì ấy chỉ để dành cho mấy đứa con gái suốt ngày tay gương tay lược cuối lớp? Ôi thật nực cười, chỉ cần trợn mắt và nhe răng là tụi nó đã khóc được rồi. Nước mắt là cái gì sao rẻ rúng quá, dễ dàng quá. Ðã bao lâu rồi nhỉ, Duy chẵng còn thấy mình khóc được. Sống băng giá và tàn nhẫn như một lưỡi dao. Mà phải, giọt lệ rơi vào hoa còn có thể làm cánh hoa rung động. Nhưng giọt lệ mà rơi xuống lưỡi dao thì cũng chỉ vậy mà thôi. Thiên hạ khóc nhiều rồi, Duy khóc nữa làm gì cho đời thêm mặn.
    Mẹ Duy mất sớm vì bị băng huyết. Ba Duy lúc đó 27 tuổi, ôm đứa con duy nhất vào lòng đứng lặng trước mộ vợ mỗi tuần một lần suốt bốn năm trời. Mãi sau này Duy mới biết tên khai sinh của mình là Trang - Ly Trang - rồi mới đổi thành Duy. Ba Duy sống phong lưu, ông là kẻ luôn nhìn đời bằng nửa con mắt, có nụ cười khinh khỉnh nhưng quyến rũ chết người. Duy thừa biết bọn đàn bà đổ xô vào ông như thế nào. Phần vì bản thân ông, phần vì gia tài của ông nữa. Tất cả, chỉ trừ con bé lặng như giá băng, lúc nào cũng nhìn họ không biết thương hại hay khinh bỉ nữa. Mà ba Duy thì lại sẵn sàng làm tất cả để đổi lấy nụ cười của con gái. Như một lãng tử tài hoa, ông lướt đi giữa cái mớ bòng bong ấy nhẹ nhàng đến rợn người. Ở đó hàm chứa cả sự thích thú độc địa lẫn khát khao chiến thắng... Duy không trách ông. Bởi chỉ cần đặt chân lên ngưỡng cữa là ông lại trở thành ba Duy - một người ba theo đúng nghĩa của nó, dịu dàng như lòng mẹ, vị tha như lòng cha. Vào bất cứ một ngày mưa nào, Duy cũng thấy ông ngồi lặng bên những kỉ vật con con của mẹ: một chiếc vòng đá trắng, một chiếc khuy đồng đỏ quạch và những lọn tóc hơi quăn, nét bút run run trên trang giấy: " Thảo Sương! Thế gian này hết phụ nữ rồi - chỉ có em thì em lại đi xa "... Duy yêu ông cũng là vì điều đó.
    - Duy về! Duy về! - Con sáo đen cuống quýt nói khi nghe thấy tiếng giày quen thuộc. Nó cố thò cái đầu bé tí xíu ra ngoài song nan làm cái ***g đung đưa. Như thường lệ, nhà vắng tanh, Duy về phòng mình nằm gác chân lên bàn nghĩ miên man. Ánh nắng tàn chạy giật lùi trên sàn đá làm Duy bất giác nhớ đến chuyện hồi chiều. Ở trường về, Duy cùng mấy đứa qua nhà Hà chơi. Có con mèo chết ai đó vứt chèo queo bên gốc cây trước ngõ. Tụi nó khóc mùi mẫn. Cái Thanh kêu sao giống con Liu nhà nó thế, chỉ tội con Liu béo gấp đôi con này. Rồi cả bọn kéo nhau lên phòng sụt sịt. Duy đi sau cùng nhìn con mèo cứng đơ mà không biết lòng mình vậy có đúng không? Mặt lạnh tanh, Duy ngồi yên trên ghế. Chúng nó túm tụm trên giường kể lể. Môi khẽ nhếch lên. Duy nhún vai rồi miễn cưỡng quay mặt đi.
    - Em có biết sao họ khóc nhiều thế không?
    - Họ dư thừa cảm xúc.
    - Chỉ có thế thôi ư?
    - Không đâu - Duy bật cười mai mĩa. Cô quay lại nhìn thẳng vào mặt Minh - anh trai Hà... Nhưng lại thiếu hành động. Một bầy gà đau khổ vì con gà con bị đói.
    Minh không nói gì. Anh im lặng nhìn các cô gái. Lát sau, họ lẳng lặng xuống gác. Bên gốc cây, xác con mèo đã bị bọn nhóc ném vào bao nhiêu là sỏi đá. Hai người đào hố, cẩn thận cuốn xác con mèo xấu số vào một miếng bao tải rồi chôn ngay dưới gốc cây. Xong xuôi, Duy bỏ lên phòng ngồi hướng mặt ra phía cửa sổ. Lũ bạn thấy vậy phản đối ầm ĩ. Duy lặng lẽ quay lại và ngồi yên như vậy cả buổi. Ngồi mãi, mắt đăm đăm nhìn vào một cái hõm sâu trên bức tường trước mặt.
    Một ngày nắng đẹp, đường phố trong veo tinh khiết như một giọt sương. Duy chào ba rồi đi học. Ðến cửa, không hiểu sao cô quay lại, chạy vào phòng làm việc rồi bảo ông: "Ba hôn con đi!". Ba Duy sững sờ, rồi mỉm cười hôn lên trán con gái. Ngẫm nghĩ một lúc rồi ông tiếp: "Ba không biết là mẹ giống con hay là con giống mẹ nữa". Duy lặng người vì sung sướng. Cô khẽ dụi đầu vào ngực ông nũng nịu: "Chiều ba đón con há! ".
    Ngày hôm ấy, Duy tới lớp với nụ cười tươi rói làm cả lớp ngạc nhiên. Bọn con trai sững sờ trước bộ mặt mới của "lưỡi dao kim cương". Lớp học như có nắng... Nhưng, những điều bất ngờ, dù tuyệt đối đôi khi lại được tiếp nối buồn thảm đến không ngờ, phản bội lại sự tin tưởng đích thực của con người. Chẳng hạn như khi họ nối một tấm vải trắng vào vải đen rồi bảo với ta rằng: Ðó là mảnh vải nguyên vẹn đẹp nhất trên đời.
    Mảnh vải đen đem nối ấy buông xuống vào đúng giờ Văn. Trên cầu thang vẳng lặng tiếng giày hối hả, xiêu vẹo... rồi đột ngột im lặng. Cả lớp thốt nhiên ngừng bút, trong một linh cảm tức thời, lặng người chờ đợi. Cảm giác tức thở đột ngột bao trùm cả gian phòng. Duy chợt thấy rõ, thời gian đọng lại thành dòng bít chặt lấy ngực cô... tiếng giày lại vang lên, nhưng chệch choạng, nện mạnh xuống sàn nhà như sắp ngã. Duy vụt đứng dậy, cùng lúc trước cửa lớp xuất hiện một thanh niên. Người anh run lên, đôi mắt mở to.
    - anh Dương!
    - Duy!
    Mắt Duy nhìn đăm đăm vào vai áo sơ mi loang thẫm máu. Cô từ từ tiến đến rồi chộp lấy ngực áo chàng trai, mắt ánh lên làm cả khuôn mặt sáng quắc, rờn rợn:
    - Duy! Can đảm lên...Ba em...chết rồi!
    Duy đứng lặng như hoá đá. Và cả tâm trí Duy cũng hoá đá. Duy không còn nghĩ được gì hết. Tất cả vụt trắng xoá, lạnh băng, cả lớp học, cả ba Duy và cả con người Duy nữa, cứng đơ, vô tri, như là tất cả đã kịp tiêu tan thành tro bụi.
    .... Người ta đón Duy với những ánh mắt ái ngại, xót thương. Ðám đông giãn ra nhường chổ cho cô. Duy lặng lẽ quỳ xuống bên xác ba, rất lâu, rồi đứng dậy. Mọi người sửng sốt khi thấy khuôn mặt cô lạnh băng, môi mím chặt. Trông Duy ngang tàng như muốn thách thức tất cả, cả sự trái khoáy, cay nghiệt của cuộc đời lẫn những ánh mắt đang tròn xoe kinh ngạc... Thiên hạ lén nhìn Duy rồi xì xầm to nhỏ. Người ta nói rằng nhìn Duy không ai dám khóc nữa. Mấy người dì đang gào lên rất vần vè thấy Duy vội vàng im bặt. Có lẽ vì thế mà đám tang tuy đông nhưng không nhiều nước mắt. Mộ ba cạnh mộ mẹ. Ở giữa Duy trồng một khóm xương rồng. Ba kể, mẹ vẫn thích xương rồng, ba vì thế cũng thích theo... Thiên hạ ngó Duy rồi cười: "Ai mà thèm trồng xương rồng trên mộ?". Duy quay phắt lại, những ánh mắt vội cụp xuống, thê lương: "Tội nghiệp cháu tôi!".
    Duy ngồi lặng trước hai ngôi mộ. Gió nghĩa trang đập vào người Duy dội lại những âm thanh nghe như tiếng khóc.Trời loãng dần, bóng Duy chọc thẳng vào bóng chiều làm ráng đỏ như muốn ứa thêm máu.
    Người ta không còn nhận ra Duy sau đám tang. Vẫn là lưỡi dao kim cương, nhưng hốc hác hơn, cũng vì thế mà sắc hơn dễ đứt tay người hơn. Người ta không những không dám khóc mà còn không dám an ủi Duy, khó khăn lắm Như Hà mới làm Duy thốt lên được một tiếng. Tụi con trai thách đố nhau, đứa nào làm Duy cười, dù chỉ nhếch môi, sẽ được ăn khoa sả láng. Vậy mà chẳng đứa nào làm được. Chỉ cần đối diện với khuôn mặt căng như dây đàn của Duy là nụ cười vụt méo xệch như mếu. Mãi rồi quen. Người ta không còn quá xăm xoi, dòm ngó Duy nữa. Chỉ đứng xa xa mà ngắm. Ðẹp! Mà lạnh lẽo như một lưỡi dao, vừa xa xôi, vừa bí hiểm đến rợn người.
    Duy chẳng bao giờ sợ nỗi cô đơn. Với cô, đôi khi nó còn là hạnh phúc. Người ta có thể ngồi hàng giờ bên cửa sổ mà ngắm nghía một con kiến bò qua bò lại quanh những vụn bánh. Con kiến cần cù, chăm chỉ như thuỷ triều, mà lòng người cũng cần cù, chăm chỉ như thế, cứ nghĩ đi nghĩ lại về một điều gì đó đôi khi rất giản đơn và tức cười.
    ... Duy cũng vậy, thường nghĩ về một điều, rất quan trọng đối với cô. Nó cứ chơi vơi, đong đưa như muốn chế giễu cô. Mỗi lần Duy đưa tay với, nó vụt xa. Duy ngồi im, nó lại xán đến đong đưa, rồi quay tròn lấp lánh như ngôi sao. Nó, là cái để lấp đầy chổ trống rỗng trong lòng Duy. Dường như nó muốn Duy phải kêu gào hay van xin nó. "Thật là ngốc nghếch khi nó nghĩ Duy sẽ làm như vậy!". Thà Duy chết với mọi nổi bất hạnh còn hơn là hạ mình cầu xin, kêu gào lại càng không. Duy có thừa sự kiêu hãnh để luôn luôn bước thẳng. Ngã thì ngã hẳn, không bao giờ gù lưng bò đi đằng sau người đời.
    ...Duy đứng lặng bên lan can. Trước mặt cô, sóng hồ dập dìu như ru những cánh hoa bèo tím. "Chúng ngủ im rồi" - Duy nghĩ - "khi ngủ trông ai cũng thật chân thành, đúng như con người của họ. Ðến cả cái hoa bèo cũng vậy. Ngủ rồi mà vẫn tím lộng lẫy, kiêu sa. Có kẻ ngủ rồi, khuôn mặt thành trắng ởn hay đen xì...
    Chợt Duy khẽ nhíu mày, nói thành tiếng: "Khi ngủ không hiểu ta sẽ thế nào? Có lạnh lùng như bây giờ không?."
    - Không ! tôi đảm bảo là không đâu!
    Duy giật mình, nhưng cô cố gắng không để lộ, quay lại với vẻ bình thản nhất, cô nhận ra Minh. Nhưng anh không nhìn cô mà nhìn về phía xa, nơi những cánh bèo vẫn im lìm ngủ say.
    Nhìn - rồi quay đi. Họ đứng cạnh nhau như thế không biết bao lâu nữa, quên cả thời gian đang vô tâm trôi. Trôi đi, rồi quay mặt lại cười giữa những kẻ thích nuối tiếc những gì đã qua. Duy không phải những kẻ đó. Cô không có gì hối hận hay tiếc nuối cả. Kẻ giểu cợt Duy, ngẫm ra lại chính là kẻ bị Duy giễu cợt. Người ta thương hại Duy. Duy chứng minh kẻ đáng thương hại chính là họ. Tự tin, dù quá đáng nhưng đâu phải tính xấu?
    Chiều, đã muộn nhưng họ vẫn đứng lặng như hoá đá. Thực ra thì cũng không hẳn vậy. Sau nhừng phút thản nhiên cố hữu, Duy chợt nhận ra người bạn đứng cạnh mình có gì đó khác lạ. Phải chăng là sự im lặng tuyệt vời mà anh dành cho Duy? Chưa một ai có đủ lòng tin và kiên nhẫn đến vậy. Hay đó là sự đồng cảm? Không! Minh sống hạnh phúc, có đầy đủ cả bố lẫn mẹ, một mái nhà yên ấm và một đứa em ngoan. Anh ta còn muốn gì nữa hay anh ta thương hại mình? Không, không đúng... kẻ thương hại người khác thường nhìn từ trên xuống... Duy nghĩ vậy, cô nhìn ra xa hút một lần nữa rồi quay đi. Duy tưởng Minh đi theo, nhưng không, cô ngạc nhiên thấy anh vẫn đứng im. Dường như chỉ là một cơn gió làm bay mái tóc anh chút mà thôi.
    Duy thấy lòng kiêu hãnh của mình bị tổn thương. Cô lặng lẽ tìm đến mộ ba, rồi lại ngồi lặng đi. Cũng ngày này đây, tháng nào ba cũng tới đặt lên mộ mẹ một nhánh xương rồng nhỏ. Nhưng không hoa, không hề có hoa. Cành khô cong, gai tua tua nhưng không bao giờ làm ba chảy máu. Duy thắc mắc, ba bảo cây như người, gai tuy sắc nhưng không làm đau người yêu nó. Nhớ lại chuyện cũ, Duy khẽ rẽ những cành cây khô nẻ. Chợt cô sững sờ nhìn thấy một chấm đỏ rực cháy giữa khóm cây. Hoa xương rồng. Nó rung rung nhìn Duy như kì lạ. Duy cuối xuống, xúc động thì thầm:
    - Hoa xương rồng !
    - Không phải hoa ! Nước mắt xương rồng đó Duy.
    Duy không giật mình nữa. Tim cô chợt rung lên. Nước mắt hoa... cây cong queo, khô nẻ vậy mà cũng có nước mắt ư?
    - Duy ! Ðôi khi người ta khóc lúc cảm thấy mình hạnh phúc !
    Duy ngẩng mặt nhìn lên. Xương rồng khóc, nước mắt thành hoa. Duy khóc, nước mắt sóng sánh không chịu tuôn ra ngoài mà cứ dâng lên tràn căng mi. Duy thấy ba mẹ hiện lên sau hàng nước mắt mờ mờ. Cả hai người nhìn Duy đầy thương yêu, lòng Duy chợt thanh thản lạ kì, nhẹ bỗng như muốn bay lên...
    - Có thể là một lưỡi dao, nếu em muốn. Nhưng tại sao lại tự làm khổ mình? Sao không để nước mắt hoá thành những đoá hoa? Hãy nhìn xương rồng mà xem!
    Hãy nhìn xương rồng mà xem !
  8. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Chuyện Ðời Tôi ​
    Lê Thu Thuỷ
    Mười hai lần tôi mơ thấy nàng bay vào bầu trời. Mười hai lần sau giấc ngủ tôi nhẩm lại bài thơ nàng gửi tặng tôi trong mơ:
    "Em tìm về cố hương
    Những đám mây kết võng đón em
    Mẹ sẽ thôi buồn con mười hai bến nước
    Dòng sông ơi, xin chạy ngược
    Ta muốn cùng anh qua bờ bên kia..."
    Tôi đem câu chuyện này kể với ông giáo kiêm nhà chiêm tinh giảng đường và nhờ ông giải mộng. Bóp trán suy nghĩ một lúc, ông phán:
    - Hỏng rồi con ơi!
    - Sao thầy? - Tôi sửng sốt.
    - Thành công chỉ đến với con khi có cô gái này bên cạnh. Con thì không thích vướng bận vào đàn bà. Mục đích tham vọng của con ta biết con không bao giờ chia sẻ với ai.
    Lời ông giáo tôi nghe cũng vui vui. Rồi tôi quên bẵng ông cũng như quên giấc mơ mười hai lần trùng lặp.
    Buổi chiều hôm đó tôi đến gặp nàng. Lòng tôi trĩu nặng. Nàng ngồi bên băng một mình, thấy tôi, nàng nói một cách thờ ơ:
    - Cuốn băng nhạc cổ điển mà anh thích Vân cho đứa bạn mượn rồi. Thôi Quang nghe cái này nhé. Vân tin rằng quang không chán.
    Tôi gật đầu đồng ý. Nàng bấm máy cátxét. Sau khúc dạo đầu, một giọng nói ấm áp phát ra. Cảm giác bình an tràn ngập khắp căn phòng từ cuốn băng đã cũ và hỏng khá nhiều chỗ. Nội dung không nghe được rõ lắm. Tuy vậy sức truyền cảm lạ lùng ở giọng người phát ngôn có khả năng lay động lòng tôi.
    Hình như Vân cũng chìm trong một trạng thái tương tự.
    Khoảng khắc ấy cũng qua đi, cuốn băng bị xoá quá nhiều. Tôi không hiểu nhìn Vân dò hỏi, nàng giải thích tôi rõ đấy là bài thuyết pháp của một nhà sư. Tôi hơi ngỡ ngàng. Vân không nói gì thêm, tôi chào nàng ra về.
    Bóng tối loang dài các phố. Một nỗi buồn nao dạ ập đến cấu xé tâm hồn tôi. Lặng lẽ tiễn tôi qua quãng đường dài. Vân nghĩ gì tôi không rõ. Chỉ đôi mắt trắc ẩn của nàng cứ làm tôi day dứt.
    Cuộc chia ly đã được báo trước. Tôi ra đi, mang tâm trạng của thằng sinh viên không bao giờ tốt nghiệp. Tôi buồn, không phải vì bạn bè cười tôi quá cuồng vọng, mà bởi ở chính thái độ dửng dưng của nàng.
    Bữa tiệc liên hoan mất quá nhiều nước mắt. Vân không đến. Tôi không biết tâm trạng nàng thế nào? Tuy luôn bên nhau nhưng nàng mãi mãi là một người xa lạ.
    Hoà nói với tôi:
    - Vân gửi thư chia tay bọn mình. Nàng đi đâu không rõ. Ðồ đạc vẫn còn để nguyên lại.
    Rồi Hoà bâng quơ:
    Vân như sống sau một lớp sương mù.
    Thật ra tôi biết Vân lên thành phố cố quên mình là đứa bé nghèo có gia đình cũng như không. Vân gồng mình sống với mọi người. Ðó là điều ai cũng biết. Vân cũng hiểu. Riêng mọi bi kịch nàng đã trải thì không ai thấu đáo. Tôi gặp Vân nàng đã trải thì không ai thấu đáo. Tôi gặp Vân quá muộn. Tôi ra đi vào cái lúc Vân cần sự chở che của một người bạn khác phái. Vân đang sống trong khó khăn, thiếu thốn mối đồng cảm. Ðiều làm tôi đau lòng là Vân hiểu tôi. Những khát vọng nghiên cứu, sáng tạo, mong muốn dấn thân, thử nghiệm sống, trạng thái bão hoà cảm xúc giữa tháng ngày đơn điệu. Vân đọc thấu nỗi lòng tôi, Vân thương tôi vì tôi cô độc quá. Còn tôi lại không muốn dắt díu Vân đi suốt cuộc đời.
    Hà Nội mùa xuân vẫn còn giữ trong lòng cái lạnh cắt da cắt thịt. Gần hai mươi năm, mọi vật mờ nét dần. Khuôn mặt nàng cũng nhoà nhạt trong tôi. Giờ đây tôi đang tồn tại giữa Hà Nội như lời khẳng định của Vân. Mặc dù trước kia tôi cho một mình đi không bao giờ trở lại.
    Gần hai mươi năm, tơi tả trên gai góc cuộc đời. Bạn bè còn đó với những đổi thay. Gánh nặng gia đình hai vai, tôi không còn hơi sức mà đàn đúm với chúng nó như xưa.
    Cô bé ấy xuất hiện như để gợi lại một nỗi buồn riêng.
    Sau khi bị buộc thôi dạy, nhà trường chuyển tôi làm chân bảo vệ, suốt ngày ngồi chơi xơi nước ở phòng thường trực. Thấy tôi vô tích sự, Thuỷ nhí nhảnh:
    "Người đã ngồi ở đó
    Trong căn nhà thật buồn
    Ðốt trên đầu điếu thuốc
    Những tháng ngày buồn nôn...."
    Không cần chú ý đến niềm u uẩn trên mặt tôi, cô bé cứ liếng thoắng:
    - Chú Quang ơi! Cháu đi mua rượu cho chú nghen. Vừa nói Thuỷ vừa cầm cái vỏ chai và lục ngăn kéo lấy mấy trăm tiền lẻ rồi chạy vù ra quán.
    Bao giờ trở về cô bé cũng rót sẵn rượu vào ly cho tôi và hồn nhiên:
    "Một ly nhâm nhi tình bạn
    Hai ly uống cạn tình sầu...".
    Chẳng cần biết tôi có khó chịu hay không cô bé cứ mặc nhiên tung tẩy.
    Ngoài giờ lên lớp cô bé cứ chạy loăng quăng ở phòng thường trực suốt ngày. Nhiều khi tôi có cảm giác đã gặp Thuỷ đi mua rượu. Cô bé một lần nói với tôi:
    - Buổi tối đã buồn mà chú lại ngồi uống rượu một mình cháu thấy thảm thảm làm sao ấy!
    Biết nói thế nào với cô bé. Tôi phải vỗ giấc ngủ bằng rượu. Có thức cũng chẳng biết làm gì.
    Mấy thằng bạn làm ăn ngày càng thành đạt. Chiều chiều chúng phóng xe hơi về tụ tập chỗ tôi bàn công chuyện, hẹn hò bồ bịch. Ðứa nào cũng quý Thuỷ như tôi.
    Một lần Hoà hỏi Thuỷ:
    - Cháu bao nhiêu tuổi rồi?
    Cô bé lắc đầu.
    - Thế bố mẹ cháu làm gì?- Hoà quan tâm.
    - Không biết - Thuỷ đáp - Cháu sinh ra từ nước và sẽ trở về với nước.
    Tôi giật mình.
    "Em sinh ra từ mây và sẽ trở về với mây!"
    Hai mươi năm trước Vân đã nói với tôi như vậy. Ngày ấy nàng hai mươi tuổi. Nàng biến khỏi đời tôi dần dần như đã đến. Từng mảnh hai mươi năm trước cứ đồng hiện , nhập nhoà....
    "Vân thích nghề sư phạm chứ?" - Tôi hỏi.
    Nàng không trả lời thẳng:
    - "Anh thích ngành kiến trúc?".
    - "Tất nhiên!" - Tôi cười.
    - "Em chỉ muốn trở thành nhà văn. Khai thác mọi khía cạnh trong cuộc sống mà viết" - Giọng Vân xa vắng.
    Nụ cười của tôi tắt ngấm khi nét mặt đăm chiêu vắt ngang vầng trán của nàng.
    Tôi không hiểu sao nàng chơi thân với đám bạn tôi đến thế! Là người sống bằng những linh cảm, nàng khó hiểu với cánh sinh viên sư phạm. Thế nhưng đêm đêm nàng lại nhập bọn với chúng tôi, lang thang mọi nẻo đường, xó xỉnh phố phường.
    Vân ví cả nhóm là lũ đười ươi. Chuỗi ngày sinh viên: Hôm qua mông lung; hiện tại vô sự, trống rỗng; tương lai mơ hồ. Cả bọn co cụm lại phá phách, sống không khác người mộng du bao nhiêu. Hễ chúng tôi hát thì Vân cũng hát, các ca khúc không đầu không cuối. Rồi Vân múa may, tung chưởng, đọc thơ, đá bóng loạn xà ngầu như một thằng con trai. Vân đánh đấm, xô đẩy với Hoà, Anh... đám thanh niên không chút ngượng ngùng. Khi tách riêng với tôi, nàng lại nói đến cát bụi, kiếp sống phù du, bèo bọt, cảnh tù túng, nỗi tuyệt vọng về bản thân và niềm vui nếu được chết.
    Hoà phản đối ầm ĩ tình yêu của tôi dành cho Vân. Theo Hoà, Vân quá ngổ ngáo, không chút nữ tính. Với tôi thì Vân quá đỗi dịu dàng.
    Ðến một ngày Hoà nhìn Vân buồn buồn. Tôi hỏi. Nó kể cho tôi nghe điều nó đọc được trên bàn viết của Vân.
    Một nàng Vân khác hiện ra trước mắt Hoà. Thì ra Vân tham gia các cuộc chơi để thử thách mình, để củng cố đức tin về bạn bè. Ðể biết mình có thể sống theo một số ý muốn người khác mà không đánh mất mình. Cũng chỉ trong những đêm lang thang, Vân mới quan sát phố phường kỹ lưỡng. Mới nhận ra được rõ ràng bên cạnh những biệt thự lộng lẫy nguy nga là các dãy nhà, lều vá víu, ọp ẹp. Dân cửu vạn làm thuê và đám bụi đời, du đãng lăn lóc khắp vỉa hè. Vân cũng hiểu hơn những trăn trở cùng nỗi đau khuất lấp của bạn bè. Tự Vân cũng phát hiện con người trái của minh: Vừa đức hạnh, vừa nổi loạn, vừa tỉnh táo, vừa cuồng điên, vừa tự tin vừa bi quan vừa vị tha vừa bất cần vừa từng trải vừa ngây thơ....
    Hoà cho Vân có lý khi viết: "Khó nghèo câu thúc mọi cuộc vui....". "Ðã đến lúc ta phải rời cuộc chơi vô bổ...".
    Vân trở về với đúng con người nàng: Khép kín, thờ ơ, tách biệt với xung quanh. Nhóm tôi tan vỡ dần sao đó. Hoà, Anh bỏ đi chạy "sô" kiếm tiền. Tôi lao vào học, đầu óc đầy những ước mơ và hoài bão không tưởng. Nàng tiên đoán được sự thất cơ của tôi, nàng nhận ra những khoảng trống bất trắc trên lộ trình mà tôi đang dấn thân đơn độc. Không muốn tôi ra đi nhưng nàng không níu giữ. Nàng thừa hiểu tôi sẵn sàng từ khước tình yêu để đuổi theo hư danh? Hay nàng biết chúng tôi thuộc về hai thế giới khác nhau, khó mà song hành trong đường đời?
    Mấy năm du học, tôi nắm vững lý thuyết kiến thức những vila trên mây, thành phố trên mặt biển. Về nước, tôi vỡ lẽ ra rằng kiến thức của mình có khả năng áp dụng trong nền kiến trúc Việt Nam vào những năm ba nghìn. Chạy chọt mãi tôi cũng được nhận vào làm giảng viên ở trường kỹ thuật nọ. Một thời gian tôi bị sa thải mà chính tôi cũng không rõ lý do. Tôi rất buồn phiền. Nhất là khi nghe vợ và con cái cứ cằn nhằn tôi là "ông thờ chữ". Một phần vì thói quen đọc sách đến thành nghiện của mình.
    Thuỷ nói:
    - Không hiểu sao nhìn thấy chú, cháu cứ nghĩ đến các nhân vật của Samuel Betkett(1)
    Hễ thấy tôi ngồi ưu tư là cô bé tinh nghịch:
    - Chú Quang ơi! "Trong khi chờ Go Dot"(2), chú hãy.... - Bao giờ cũng có một việc ngộ nghĩnh nào đó mà cô bé nghĩ ra.
    Hoà bảo tôi:
    - Mình hiểu vì sao ông quý cái Thuỷ, nó giống Vân.
    Thì ra vậy, lúc nào tôi cũng ngờ ngợ mình gặp Thuỷ ở đâu.
    Nghe Hoà nói, tôi nhận ra Thuỷ là phiên bản cuộc đời Vân.
    - Thuỷ quá vô tư, làm sao giống Vân được?
    - Ngược lại về hai mươi năm, ông sẽ không cho như vậy - Hoà đáp.
    Tôi nhớ gã đàn ông - bố của Hoàng Hoa cùng phòng Thuỷ. Hắn vẫn thường đến thăm con gái. Gương mặt đĩ thoã của hắn rất đáng ghét, khi thấy mấy cô nữ sinh đáng tuổi con mình gã cứ nhìn hau háu.
    Thuỷ thường pha cà phê giúp chúng tôi. Có lần Hoà khen Thuỷ - Hoàng Hoa kể:
    - Bố cháu bảo chị Thuỷ là thiên thần. Thiên thần bị đoạ đầy.
    Nhiều lần đến mười một giờ đêm, có chuông báo nghỉ, mọi người về phòng cả, Thuỷ vẫn ngồi nán lại dù chẳng có việc gì.
    Tôi giục Thuỷ đi ngủ kẻo không tốt cho sức khoẻ, Thuỷ rùng mình:
    - Cháu sợ phải đối diện với bóng mình, sợ bốn bức tường, sợ chiếu chăn nhàu nát lắm....
    Tôi chú ý đến Thuỷ nhiều hơn và thấy Thuỷ quá lạc lõng trong khu nhà này. Không ý thức mình là một người đã trưởng thành, cần phải hoà nhập, quan hệ mật thiết với mọi người; hay Thuỷ lại cho rằng không có mình thì thiên hạ vẫn thế, chẳng có gì thay đổi?
    Thuỷ làm sao sống được giữa đô thị phồn hoa? Cô bé quá đơn bạc. Cảm giác buồn nôn trước cuộc sống lại nằm sau trong vô thức của Thuỷ. Tuy không bao giờ nói ra điều đó nhưng tôi biết Thuỷ tởm lợm trước các bữa tiệc thừa mứa mà đám bạn tôi thường say sưa bù khú. Thuỷ từ chối thẳng thừng những lời mời mọc đánh chén của chúng tôi.
    Anh hỏi Thuỷ:
    - Cháu chê à! Sao không lần nào cháu ăn dù bọn chú tha thiết mời?
    - Cháu không thích - Thuỷ đáp.
    - Thế cháu thích ăn gì? Làm sao cháu sống nổi - Tôi hỏi tiếp.
    - Cháu quang hợp mà sống - Thuỷ cười phá lên.
    - Cháu cứ thế này chú đâm xót xa lo lắng dùm. Bọn chú, nếu không có những cuộc nhậu nhẹt vui say cùng bạn bè chắc tự sát vì chán lâu rồi. - Tôi bộc bạch với Thuỷ.
    - Cháu cũng đã một lần tự sát nhưng chết không dễ đâu chú ơi - Thuỷ cứ nói chơi chơi nhưng tôi biết cô bé không đùa.
    Tôi gieo mình xuống ghế như nghe thấy lời Vân:
    "Em đã một lần tự trầm trong ý thức dị đoan rằng nước sẽ cuốn hình hài mình ra biển. Rồi sóng sẽ mang sang một xứ sở không có bến bờ. Em nghĩ chết là để giải thoát, linh hồn sẽ được về miền cực lạc.
    Thuỷ thở ra với tôi:
    - ấy là khi gia đình cháu bị phá sản. Ba cháu đi tù, các anh chị bỏ nhà đi hoang, má cháu mang bệnh. Cháu tuyệt vọng và mong kết thúc mọi khổ đau. Cháu được cứu sống như là định mệnh quyết định mình chưa được kết thúc cuộc đời lúc đó. Vì sao như thế cháu cũng chịu, không thể hiểu.
    Trong ngôi trường thật buồn, bao ngày đã trôi qua chầm chậm. Ngày nào cũng na ná như nhau. Một thời gian sau tôi chán, nên chuyển sang làm áp phe, buôn bán với bọn Hoà - Anh.
    Nhiều đêm vui chơi về muộn, tôi thấy Thuỷ lang thang trên đường với cánh nam sinh, tôi lo âu về cô bé một điều rất vô lý. Tôi thầm so sánh bản lĩnh Thuỷ và Vân. Tôi mệt mỏi lắc đầu.
    Một chiều nọ có việc ở trường, nhân tiện tôi ghé thăm Thuỷ. Tôi ngạc nhiên khi những người cùng phòng với Thuỷ cho tôi biết Thuỷ đã bỏ học đi đâu không ai rõ. Có người bảo Thuỷ chuyển trường, có người bảo Thuỷ theo chồng, có người nói Thuỷ đi tu.... Tôi thất vọng quay về. Chợt tôi se lòng khi nghĩ đến Vân.
    Hai mươi năm trước Vân cũng thế. Tôi chia tay Vân và nàng hẫng hụt. Tôi được gì đâu ngoài chuỗi ngày sống vay mượn, lay lắt. Lúc nào cũng khắc khoải đợi chờ. Cứ đón nhận những điều mình không muốn một cách phi lý đến lố bịch. Còn số phận Vân nổi chìm đâu đó ngoài miền hiểu biết của tôi.
    Notes:
    1. Samuel Betkett (1906-1989) tác giả kịch phi lý Pháp.
    2. Tên một vở kịch của Samuel Betkett.
  9. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Ám ảnh tình yêu ​

    Nguyễn Trọng Tấn

    Em có linh cảm rằng tình yêu của chúng ta rồi cũng dổ vỡ". Anh trố mắt nhìn tôi: "Dổ vỡ? Tại sao". Tôi quay di cố tránh ánh mắt của anh:"Em cũng không biết nữa, dó là do em có thứ linh cảm quái ác dó?"
    "Có những tình cảm dã dược ràng buộc, cứ ngỡ là sẽ bền vững mãi mãi, nhưng rồi cũng dổ vỡ. Vâng, dổ vỡ tất tần tật. Em và anh chưa có gì dể ràng buộc!" "Tình yêu của chúng ta chẳng lẽ không là một ràng buộc?" "Tình yêu? Ràng buộc? Những gì thuộc về bên trong của con người chưa hẳn sẽ hiện hữu cùng chủ thể của nó, cho nên tình yêu của dôi ta cũng rất mong manh"...
    Anh giận tôi vì cho rằng tôi là người không tôn trọng tình yêu, nỡ dùa cợt tình yêu chân thành mà anh dành cho tôi. Vậy là diều tôi linh cảm càng có thật. Vì anh và tôi chưa thật sự hiểu nhau.
    Sáu tuổi, tôi dã chứng kiến cảnh dổ vỡ của ông bà nội. Tôi dã dọc dược ở dâu dó câu nói:"Dôi khi niềm vui của người này lại là nỗi buồn của người khác". Vâng trong cảnh dổ vỡ của ông bà nội, người chịu thiệt thòi nhất chính là bà nội. Sáu tuổi tôi chưa nhận thức dược dúng sai thế nào, nhưng nỗi dau mất mát tinh thần-ghen thầm- vượt quá giới hạn chịu dựng dã biến bà thành người tiều tụy rồi bệnh thần kinh nên tôi oán ông quá chừng!
    Bây giờ thì tôi không còn giận ông nữa, vì tình yêu là cái gì dó rất ma quái ấy thì không tài nào cưỡng lại nổi. Nên khi hai mươi tuổi tôi dã thông cảm cho sự phản bội của ông hơn.
    Và khi dã hai mươi tuổi, tôi càng thương và thông cảm sự mất mát của bà hơn. Phải chăng dó là sự thiệt thòi của người phụ nữ trong lãnh vực tình yêu?
    Phải chăng họ chỉ là một công cụ của tình yêu, người ta có thể vứt bỏ nó lúc nào nếu người ta chán? Và số phận của người phụ nữ là phải tuân theo như tuân theo một qui luật khắc nghiệt và tàn nhẫn! Ôi! Nội ơi, con yêu bà biết chừng nào, vì con cũng là gái! Nếu lâm vào hoàn cảnh của bà thì tôi có suy nghĩ như tôi bây giờ không?
    Năm tôi lên mười sáu, lại một lần nữa tôi chứng kiến dổ vỡ. Sự dổ vỡ ngay trong mái ấm gia dình tôi. Sự dổ vỡ của ba mẹ-sự dổ vỡ của hai dấng sanh thành mà tôi yêu thương nhất. Sự dổ vỡ tàn nhẫn và khắc nghiệt!
    Lúc dầu, tôi cứ ngỡ rằng nếu sống vắng mặt một trong hai người ấy thì tôi có thể chết di dược. Nhưng không, tôi vẫn sống, có diều lúc ấy tôi khóc nhiều lắm. Tôi nhớ dã dọc dược của anh Thạch Biền:"Trong dời người chỉ thật sự khóc một lần. Những lần trước là người ta tập khóc, những lần sau người ta khóc do thói quen". Tôi không hiểu là mình dã thật sự khóc một lần trong dời người hay là tập khóc, hay là khóc theo thói quen?
    Và cũng từ dó tôi căm thù hạnh phúc, vì mặt trái của hạnh phúc là dau khổ(?). Và tôi không còn tin vào hạnh phúc của vợ chồng nữa; càng không tin sự hạnh phúc quá mơ hồ của tình yêu, khi mà họ chưa có một sự ràng buộc nào dể có thể giữ lấy nhau.
    Mười sáu tuổi tôi chưa biết yêu, nên tôi nguyện với lòng sẽ không bao giờ nhận ba là cha nếu ba không dứt khoát vơ"i người dàn bà xinh dẹp ấy. Ba thở dài buồn bã:"Khi nào con lớn ,con sẽ hiểu! Tình yêu là một phạm trù bí ẩn. Nó tự phát, tự sanh sôi nảy nở trong trái tim. Nếu nó không còn sanh sôi nảy nở nữa thì nó sẽ dừng lại. Và có thể nó sẽ chết dần, chết dần dến cạn kiệt trong trái tim. Khi tình yêu dã hết thì không thể nào gầy dựng lại con ạ!"
    Từ dó, tôi bắt dầu sống trong thế giới dằn dặt nội tâm của mình. Tôi sống như một cái bóng dơn côi trong thế giới nhộn nhịp sôi dộng. Ngoài thời gian dến lớp, tôi giam mình trong ngôi nhà lạnh lẽo-trước kia thì rất ấm cúngđể an ủi và chia sẻ nỗi dau mất mát của mẹ.
    Mười tám tuổi, tôi dỗ vào dại học. Anh học trên tôi hai lớp. Anh thuộc "mô típ" người hoạt bát, sôi nổi và khá diển trai. Dôi mắt anh dã sưởi ấm hồn tôi và ru tôi vào tình yêu dầu dời ngọt ngào mà không tài nào cưỡng lại nổi. Chỉ cần ánh mắt của anh nhìn tôi, tôi như có cảm giác toàn thân mềm nhũn và tan chảy ra dưới ánh mắt sóng sánh ấy. Phải chăng tôi dã rơi vào trận dịa dầy ma quái của những người di trước-bà tôi và mẹ tôi? Dể rồi cuối cùng dau khổ(?)
    Mười chín tuổi. Mẹ tôi tiến thêm bước nữa với người dàn ông khác. Dổ vỡ! Dổ vỡ tất tần tật! Tôi nghĩ rằng sẽ giữ dược mẹ suốt dời bên tôi. Niềm hạnh phúc, an ủi cuối cùng trong dời như một túi thóc trút ngược, dổ sạch sành sanh. Tôi chơi vơi, hụt hẫng giữa dòng nước xoáy.
    Tôi không ngăn cản mẹ bằng nước mắt. Tôi cũng không giành lại mẹ bằng tính ích kỷ con gái. Mẹ dã vuột khỏi tầm tay tôi rồi. Tôi lặng lẽ nuốt nước mắt trôi nghẹn vào trong. Căn nhàtrống vắng lại càng thênh thang, lạnh lẽo hơn khi vắng tiếng nói, tiếng cười của mẹ Tôi lẩn quẩn trong ngôi nhà như một bóng mạ Anh hỏi:"Mẹ dâu vắng?" Tôi dáp"Mẹ về thăm ngoại".
    Khi tôi hai mươi tuổi, tôi vẫn thường dến thăm mẹ và bạ Tôi dã nhận thức dược nhiều hơn lý do của những cuộc dổ vỡ, nên tôi dã hủy bỏ lời nguyền với ba lúc tôi mười sáu tuổi. Không như ba, mỗi lần tôi dến thăm mẹ, mẹ dều cố tình lẩn tránh tôi. Mặc dù tôi biết mẹ rất nhớ và muốn gặp mặt tôi. Mẹ cảm thấy xấu hổ vì không tròn trách nhiệm với tôi chăng? Mẹ dâu biết rằng tôi rất hiểu và thông cảm cho mẹ Tình yêu là một nhu cầu rất lớn về mặt tinh thần dể con người tồn tại mà! Tôi càng quí trọng và yêu mẹ hơn.
    Sau hai ngày giận hờn, anh dến tìm tôi và làm lành với tôi. Chúng tôi huề nhau. Dường như sau những lần giận hờn, tình yêu lại càng khắng khít, sâu dậm hơn.
    Nhưng mãi sau này, trong anh, ấn tượng"sự linh cảm" của tôi luôn làm anh hoài nghi về tôi. Anh cho rằng tôi dã có người trong mộng khác. Anh luôn có cảm giác rằng anh dã bị"cắm sừng" vì tôi dã ngoại tình tư tưởng.
    Tại sao anh không hiểu rằng trong tim tôi chỉ có mỗi một bóng hình của anh? Có phải vì anh quá yêu tôi,càng yêu anh tôi càng ám ảnh mặt trái của hạnh phúc là dau khổ là dổ vỡ.
    Hôm ấy là ngày anh sắp thi tốt nghiệp ra trường. "Nếu anh không dược phân công công tác tại thành phố mà phải về tỉnh (quê anh ở miền Trung) thì anh chẳng biết sống thế nào khi vắng em!?" Tôi biết thế nào rồi cũng sẽ có ngày này. Tôi cố giữ cho mình không biểu lộ chút cảm xúc nào:"Anh cứ xem như chúng ta dã dổ vỡ thì anh sẽ dược bình yên và thanh thản!" Anh trố mắt, tái mặt nhình tôi, chưa bao giờ tôi thấy anh giận dến như vậy. Anh nhìn sâu vào mắt tôi, nghiêm giọng:"Em trả lời dứt khoát cho anh biết, em có yêu anh không? Nếu em bảo rằng em yêu anh và nếu xa anh em rất buồn, rất nhớ thì anh sẽ ở lại thành phố, dù dạp xích lô hay làm bất cứ việc gì".
    Tôi không còn kiểm soát dược mình nữa, nên tôi không rõ mình dã nói gì với anh. Tôi chỉ mang máng nhớ rằng tôi dã lắc dầu vì tôi sợ làm hỏng tương lai của anh; tôi sợ mặt trái của hạnh phúc... Tôi sợ những gì thuộc"bên trong" con người chưa hẳn sẽ hiện hữu cùng chủ thể của nó. Tôi sợ mình cũng sẽ trượt theo vết xe lăn của nội và me...
    Một ngày không gặp anh. Một tuần không gặp anh. Một tháng không gặp anh. Năm ngày nữa thì tròn hai tháng, tôi nhận dược thư anh.
    "... Em là một tiểu vũ trụ bí ẩn! Anh yêu em mà không bao giờ hiểu dược em có yêu anh không? Khi yêu người ta luôn có nhu cầu dòi hỏi dược yêu lại, như thế tình yêu mới dược cân bằng và không vô nghĩa. Sao em nỡ tàn nhẫn và dộc ác xem tình yêu chân thành của anh như một trò dùa?!
    Khi em dọc những dòng này thì anh dã di thật xa rồi. Nơi ấy không có em, nhưng bóng hình em mãi như một ngôi sao lấp lánh- ngôi sao dầy bí ẩn trong lòng anh!"
    Ôi! Miền Trung! Miền Trung ơi! Anh dang ở nơi nào, dang làm gì, có hiểu dược lòng em lúc này không? Có hiểu không? Tôi cố nuốt nhưng giật gì nghèn nghẹn cứ chận ngang ở cổ.
    Cả bức thư anh không ghi dòng dịa chỉ nào cả. Vâng không một dòng dịa chỉ nào cả! Tôi chỉ tìm dược bên ngoài phong thư dấu bưu diện: Dà Nẵng, ngày... tháng... năm...
  10. chuottrang1984

    chuottrang1984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2004
    Bài viết:
    4.112
    Đã được thích:
    0
    Anh Dũng Cảm và anh Hèn ​

    Thái Bá Tân

    Ông Sêkhốp có một truyện độc đáo và thú vị, là Anh Béo và anh Gầy. Câu chuyện đang viết đây, vốn bị hoãn nhiều lần chỉ vì không tìm được cái tên vừa ý, tôi bắt chước ông, gọi là anh Dũng Cảm và anh Hèn.
    Xin bắt đầu câu chuyện, trước hết về anh Dũng Cảm.
    Ở huyện ngoại thành Hà Nội nọ có một người nổi tiếng dũng cảm, không phải chuyện chiến trường hoặc săn bắt cướp, dù cả hai việc này anh từng trải qua. Dũng cảm với nghĩa đấu tranh chống những điều chướng tai gai mắt, được gọi là hiện tượng tiêu cực, đang đầy rẫy khắp nơi, đến mức nhiều người cũng dũng cảm như anh đâm nản. Nhưng anh thì không, cương quyết không. Anh đã qua tuổi ba lăm, to con, khỏe mạnh, từng là lính đặc công nên giỏi võ. Tiếc là trong cuộc chiến này anh không được phát huy những sở trường đó.
    Hóa ra ở đời làm người tử tế và dũng cảm thật khó. Cái giá phải trả cho sự dũng cảm cũng không nhỏ. Từ chiến trường trở về với đủ loại huân huy chương, các bằng dũng sĩ, anh được hồ hởi chào đón và bố trí một chân trong chính quyền địa phương, phù hợp với công trạng. Nhưng rồi dần dần, người ta đã khéo léo gạt anh ra ngoài, trù dập anh một cách tinh tế, khiến anh dù biết mà không bắt bẻ vào đâu được. Cuối cùng, anh chỉ còn là một lực điền cày sâu cuốc bẫm như bao người khác, để nuôi cô vợ hay đau ốm và ba đứa con còn nhỏ. Tất cả chỉ vì anh không giống các cán bộ khác - quá thẳng thắn, quá thật thà, quá yêu công lý và quá dũng cảm.
    Làm ruộng là sở trường của anh, vì anh vốn từ đồng ruộng mà lớn lên rồi ra trận. Anh tháo vát, biết lo toan, lại chịu khó nên nói chung cuộc sống không đến nỗi. Anh chẳng có gì để phàn nàn. Cái làm anh khó chịu là những chuyện bất công xung quanh, "những việc đâu đâu" như vợ anh nói. Dù không phải lúc nào chúng cũng liên quan đến anh, nhưng hễ thấy là anh cứ lao vào đấu tranh, theo kiểu "đâu có giặc là ta cứ đi? ngày trước. Mà anh đấu tranh mạnh mẽ, trực diện, không chút khoan nhượng, đôi lúc thiếu mất sự tế nhị cần thiết. Nhiều khi anh làm quá, không chỉ không mang lại hiệu quả mà còn bị coi là hâm gàn và không hiểu thời cuộc. Một kiểu Đông Kisốt mà người ta thấy vừa đáng yêu vừa tội nghiệp.
    Một hôm, vợ anh lên cơn hen nặng, phải đi bệnh viện cấp cứu. Việc này năm nào cũng xảy ra, ít thì một, nhiều có khi ba bốn lần, nên anh có chút kinh nghiệm, ít ra cũng biết phải làm gì.
    Giống mọi lần, người ta cho vợ anh hít thở qua một loại máy đặc biệt ba ống Ventolin Nebule, loại 5mg. Thuốc được một cô bác sĩ trẻ viết lên tờ giấy rồi chỉ cho anh sang phòng bên mua. Ngồi trong phòng cấp cứu, dẫu lo lắng và thương vợ, anh vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Anh biết chốc nữa vợ anh sẽ tỉnh lại, thở được, và nếu không có gì nghiêm trọng thì sau mấy tiếng họ có thể về nhà tự điều trị tiếp. Bệnh hen là vậy.
    Anh lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh. Vẫn những cảnh quen thuộc. Phần lớn bệnh nhân là dân quê, với vẻ ngơ ngác sợ sệt thường trực trên mặt và sự khúm núm trong thái độ. Lo cho bệnh tình đã khổ, họ còn bị ám ảnh bởi một cái khổ khác còn ghê gớm hơn, là tờ phiếu thanh toán viện phí và thuốc men đang đợi. Tờ phiếu với những con số đáng sợ, nhất là khi quy ra thóc, thứ hàng duy nhất họ có mà lại đang ngày càng xuống giá.
    Các nhân viên y tế thì vẫn cái vẻ bình tĩnh nghề nghiệp, bình tĩnh đến mức người nhà bệnh nhân cảm thấy sốt ruột và nghĩ hay vì mình chưa làm đủ những thủ tục bất thành văn nào đó. Anh quá quen với cảnh này, luôn nhắc mình kiềm chế không đấu tranh vì lẽ phải cùng những thiên thần áo trắng ở bệnh viện. Họ có chuyên môn, cũng phải làm việc vất vả, và từng cứu sống nhiều người, trong đó có vợ anh. Đây là lĩnh vực tế nhị, anh thầm nghĩ, có tiêu cực chút ít cũng không nên cố chấp. Đạo làm người không cho phép lấy oán trả ân. Xưa nay anh chưa bao giờ to tiếng ở bệnh viện, và theo lệ chung, người ta làm gì anh làm nấy, cả những việc mà ở nơi khác, anh nhất định không bỏ qua. Tất nhiên anh cảm thấy chút ít bứt rứt, khó chịu.
    Ba tiếng sau, cũng tại phòng cấp cứu, anh được yêu cầu thanh toán để xuất viện. Anh bình tĩnh, lặng lẽ thực hiện yêu cầu chính đáng đó. Nhưng anh bỗng nhíu mày nhìn tờ giấy thanh toán. Đắn đo một lúc, anh hỏi người thu tiền:
    - Xin lỗi cho tôi hỏi. Loại thuốc Ventolin Nebule này ngoài quầy thuốc giá bốn mươi nghìn một vỉ năm ống, sao ở đây ghi hai mươi nghìn một ống? Tức là đắt hơn sáu mươi nghìn...
    - Tôi không biết - Người kia khó chịu đáp - Tôi chỉ thu tiền.
    - Vậy ai biết? - Anh hỏi lại, cố giữ giọng nhẹ nhàng.
    - Tôi đã bảo không biết mà. Cứu được người rồi, không lo mà về, còn thắc mắc rách việc.
    Anh lại đứng suy nghĩ, đắn đo hồi lâu, rồi đi tìm cô bác sĩ trẻ. Anh nhắc lại thắc mắc của mình một cách mềm mỏng và lịch sự.
    - Anh này hay nhỉ - cô ta đáp, hình như cố tình to tiếng để làm anh phải xấu hổ - Anh biết thế sao không ra hiệu thuốc mua, để bây giờ khỏi mè nheo vì tiếc tiền. Đã tiếc tiền sao còn đưa vợ đến đây cấp cứu?
    Anh thấy nóng mặt vì thái độ của cô, nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh.
    - Nhưng chính chị chỉ cho tôi sang phòng kia mua, chứ không bảo ra quầy thuốc chỉ cách đây vài chục bước. Tôi xin hỏi chị: giá này do bệnh viện quy định hay các chị tự đặt ra, thích bao nhiêu thì bán bấy nhiêu?
    Thấy giọng anh cứng rắn, lập luận chắc chắn, khác hẳn những ông bà nông dân khác, cô bác sĩ thoáng chút bối rối, nhưng cố nói át:
    - Thời buổi thị trường, mỗi nơi một giá. Giữa cái sống cái chết mà anh còn so đo vài chục nghìn! Tiếc đắt thì lần sau tự chữa lấy ở nhà, đừng đến đây nữa.
    - Vậy là các người thông đồng với nhau, lợi dụng điều mà các người gọi là giữa cái sống cái chết ấy để bắt chẹt, ăn chặn những bệnh nhân nghèo, là những người nhà quê như tôi - Anh nói to, rành rọt. Anh đã không còn giữ được bình tĩnh và quên hẳn sự kiềm chế vẫn luôn tự nhắc mình khi vào bệnh viện - Các người là một lũ ăn cắp!
    - Anh nói sao? Anh dám bảo chúng tôi ăn cắp? - Cô kia lu loa.
    - Đúng thế - anh hạ giọng, cúi sát mặt cô ta - Tôi xin nhắc lại rằng cô là một con ăn cắp, trắng trợn vô liêm sỉ. Cô ăn cắp ngày này sang ngày khác. Nhưng hôm nay tôi bắt quả tang. Và theo luật, tôi phải đưa cô đến đồn công an để giải quyết như với những con ăn cắp khác. Bây giờ cô phải đi theo tôi - Anh túm chặt tay cô ta, định lôi đi.
    - Ối làng nước ơi, cứu tôi với! - Cô kia la lên- Thằng điên, thằng mất dạy này đang làm nhục tôi.
    - Câm mồm! Nếu mày không phải đàn bà thì tao đánh vỡ mặt. Ăn cắp còn già mồm.
    Thấy động, mọi người nhanh chóng kéo lại. Khi biết chuyện, nhiều bệnh nhân và người nhà tỏ ý đồng tình. Họ mừng ra mặt vì bỗng dưng có anh chàng lập dị nói hộ điều họ vẫn ấm ức mà không dám nói.
    - Xưa nay họ vẫn thế mà nào ai dám nói!
    - Lương y như từ mẫu. Đẹp gớm!
    - Phải trị cho chúng một trận!
    - Trả tiền lại cho người ta, không nuốt được đâu!
    - Nhưng cái ông kia cũng quá đáng. Phải cho người ta sống với chứ. Làm vất vả, lương ít. Có mấy đồng bạc...
    - Bà nói sai bỏ mẹ. Việc gì ra việc ấy. Lương ít thì đòi nhà nước tăng. Bà tính, một người chúng ăn chẹt mấy chục nghìn như thế, mỗi ngày cấp cứu bao nhiêu người, chia nhau mỗi đứa bao nhiêu?
    - Đánh bỏ mẹ nó đi!
    Một thanh niên mặc áo trắng hùng hổ đi lại, xô mạnh vào ngực anh Dũng Cảm, định gỡ cô bác sĩ vẫn bị anh túm chặt cổ tay.
    - Bỏ ra. Bỏ ra ngay! Anh định gây rối à?
    - Câm mồm! Nó thì tao không đánh, chứ mày thì tao đánh đấy - Anh quắc mắt, bóp mạnh vào vai hắn bằng bàn tay còn lại, khiến hắn đứng đờ ra bất động, chẳng nói được lời nào nữa - Bây giờ thì mày phải theo tao ra đồn công an, con ăn cắp!
    Anh kéo cô bác sĩ, lúc này đang khóc vì đã bắt đầu hiểu rõ mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
    - Chúng tôi là công an đây. Anh cần gì? Có chuyện gì vậy? - Hai anh công an vừa vội vã bước lại, vừa nói.
    - Thế thì hay quá. Các anh đến thật đúng lúc - Anh Dũng Cảm sung sướng nói. Rồi anh vắn tắt kể lại những gì đã xảy ra - Bây giờ nhờ các anh đưa hộ con ăn cắp này về đồn xử lý theo đúng luật pháp nhà nước. Các anh có mang còng theo không. Cần nhiều đấy, không phải một đâu.
    Hai anh kia tỏ vẻ lúng túng. Họ không thể không nhận thấy anh Dũng Cảm nói có lý. Xung quanh nhao nhao tiếng đồng tình của nhiều người.
    - Chúng tôi chỉ là công an bảo vệ bệnh viện - một người nói - Vả lại, theo tôi, gọi đây là hành vi tiêu cực thì đúng hơn, chứ anh bảo là ăn cắp kể cũng hơi quá...
    - Ăn cắp, theo tôi, là lợi dụng lúc người khác không để ý hoặc cả tin, không hiểu biết để lấy tiền. Vậy đây là hành vi ăn cắp chứ không phải tiêu cực.
    - Đành thế, nhưng dẫu sao... Biết nói với anh thế nào nhỉ?
    - Các anh là người đại diện và bảo vệ pháp luật. Các anh biết phải xử lý thế nào - Anh Dũng Cảm hạ giọng - Tôi đã bắt quả tang. Giấy thanh toán đây, thuốc đây, giá đây. Bây giờ các anh định giải quyết thế nào?
    Một chốc sau, cả bọn, gồm anh Dũng Cảm, hai nhân viên công an và cô bác sĩ, cùng lên phòng giám đốc bệnh viện.
    Ông giám đốc là một người nghiêm khắc, một giáo sư nổi tiếng và đáng kính. Ông chăm chú nghe anh Dũng Cảm, chốc chốc lại gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Nghe xong, ông ngồi im lúc lâu, mặt ửng đỏ, một bên má giật giật. Cuối cùng ông nói, thong thả và dứt khoát trong khi cô bác sĩ - ăn cắp cúi nhìn xuống đất, và vẫn còn khóc.
    - Thứ nhất, thay mặt toàn bệnh viện, tôi thành thật xin lỗi anh và những người như anh. Với tư cách là thủ trưởng cơ quan, tôi cũng có lỗi, vì vậy tôi xin lỗi anh. Thứ hai, tôi đồng ý khi anh gọi việc làm đáng xấu hổ này là hành vi ăn cắp, một cách có hệ thống, hằng ngày. Tôi thực sự đau lòng và xấu hổ vì việc làm này của các nhân viên tôi.
    Rồi ông cho người gọi trưởng khoa cấp cứu đến, bắt lập tức mang tiền chênh lệch trả lại.
    - Tôi hứa sẽ kỷ luật nghiêm khắc những người có lỗi, và sẽ không để lặp lại hiện tượng này.
    - Cảm ơn giáo sư - anh Dũng Cảm nói - Xin giáo sư cho biết bệnh viện sẽ kỷ luật như thế nào?
    - Chúng tôi sẽ đem vụ này ra hội đồng kỷ luật của bệnh viện và xử lý theo quy định của bộ.
    - Nhưng đây là hành vi ăn cắp như chính giáo sư đã thừa nhận. Mà tội ăn cắp, thì phải truy cứu hình sự, tức là phải xử ở tòa án chứ không giải quyết nội bộ qua hội đồng kỷ luật.
    Đến lượt ông giáo sư lúng túng:
    - Vâng, có lẽ anh nói đúng. Quả thật đây là lần đầu tôi gặp người nhìn nhận sự việc theo hướng này. Mà tôi lại không am hiểu lắm về luật pháp. Tôi sẽ nêu ý kiến của anh trước hội đồng kỷ luật và các cơ quan chức năng. Anh biết đấy, ở đâu cũng có người tốt, người xấu. Tôi rất mong và hy vọng không vì việc này mà anh mất niềm tin vào bệnh viện chúng tôi. Xin anh cho biết địa chỉ. Tôi sẽ đích thân thông báo kết quả xử lý vụ này cho anh.
    Rồi anh Dũng Cảm, nhân vật của chúng ta, đưa vợ về nhà. Dọc đường đi, không hiểu sao anh bỗng thấy thật buồn. Anh đạt được cái anh muốn, vợ anh đã qua cơn nguy hiểm, ấy vậy mà anh vẫn cảm thấy buồn, như có cái gì đấy hẫng hụt trong lòng. Anh không hiểu và không thể xác định rõ đó là cái gì. Anh căm ghét tất cả bọn ăn cắp, nhất là bọn ăn cắp mặc áo blu trắng. Nhưng chính cái bọn ăn cắp thứ hai ấy lại vừa cứu vợ anh thoát chết. Anh có làm quá không, có thực sự anh đã lấy oán trả ân không? Nếu con bé ăn cắp kia bị đuổi việc, bị tù tội thật thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra với nó và gia đình nó? Càng nghĩ, anh càng thấy rối. Suốt đêm anh cứ quẩn quanh mãi với những suy nghĩ chẳng vui vẻ này. Cuối cùng, anh quyết định khi nhận được tin báo của giáo sư giám đốc bệnh viện, anh sẽ tự mình xin tha cho cô kia, nếu mức độ trừng phạt quá nặng.
    Đấy, chuyện anh Dũng Cảm là như thế. Bây giờ chắc các bạn sẽ hỏi: Còn chuyện anh Hèn thì sao?
    ° ° °
    Anh Hèn là tôi. Tôi phải xin lỗi bạn đọc rằng chẳng hề có anh Dũng Cảm nào cả. Cũng như không hề có chuyện anh ta sống ở ngoại thành, đưa vợ cấp cứu cùng những việc làm đáng khen của anh. Tất cả đều do tôi hư cấu, hay phịa ra như người ta vẫn nói. Tôi là nhà văn mà. Phịa, nhưng trên cơ sở những chuyện có thật.
    Sự thật đó là: cách đây không lâu tôi phải đưa vợ tôi vào bệnh viện cấp cứu. Cũng bệnh hen, cũng bị nhân viên phòng cấp cứu thông đồng nhau bắt mua mỗi ống Ventolin Nebule với giá hai mươi nghìn, trong khi chính quầy thuốc bệnh viện ấy bán vỉ năm ống giá bốn mươi nghìn. Tôi cũng ngạc nhiên và bất bình không kém. Thậm chí tôi suýt làm ầm lên, tất nhiên không ở mức như anh Dũng Cảm. Nhưng tôi đã nhẫn nhục im lặng chẳng nói gì. Thứ nhất vì vợ tôi ngăn không cho làm. Bà ấy đang ốm nặng, lại dễ xúc động, làm sao tôi có thể hy sinh mạng sống vợ vì cái công lý trừu tượng nào đó? Sau nữa, mà đây mới là lý do quan trọng nhất: tôi hèn.
    Trong ý nghĩ, tôi hình dung, tôi muốn tôi phải là anh Dũng Cảm kia, phải làm đúng những việc anh đã làm. Nhưng trong thực tế tôi lại không có được sự dũng cảm ấy. Tôi sợ làm vợ buồn, sợ mất thời gian, sợ căng thẳng thần kinh, sợ người khác cười chê vì tiếc mấy nghìn bạc mà làm ầm ĩ, sợ mình có nói cũng chẳng giải quyết được gì. Chính cô nhân viên quầy thuốc bệnh viện bảo tôi rằng việc ấy vẫn xảy ra thường xuyên, trước đây cũng như bây giờ và có lẽ cả sau này nữa. Đâu cũng thế. Tóm lại là tôi hèn, và có cớ xác đáng để hèn.
    Chẳng ai đem cái hèn của mình ra khoe. Tôi cũng vậy. Nhưng sự thật thế nào thì phải công nhận đúng thế ấy. Thế mà trước đây, các bạn biết không, tôi cũng thuộc loại người hễ thấy bất công ở đâu là xông vào cơ đấy. Và tất nhiên, cũng lãnh đủ, nhưng tôi chưa một lần hối tiếc về việc mình làm. Chẳng qua mỗi tuổi một cách suy nghĩ, hành động, hay sông có khúc, người có lúc như các cụ nói.
    Bây giờ tôi đã già, an phận với vị trí yếm thế của người về hưu. Tôi viết văn, suốt ngày gõ gõ bên chiếc máy vi tính. Trọng lượng cơ thể cứ như kéo tôi dính chặt vào ghế, không cho bay lên cao như ngày nào. Các hoài bão, ham muốn, cả thể xác lẫn tinh thần, cứ teo dần, teo dần, và cùng với nó là cái quyết tâm đấu tranh vì công lý và lẽ phải. Nghĩa là trong chừng mực nào đó, tôi đã là kẻ thoái hóa. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn cố cưỡng lại không đầu hàng, chừng nào còn có thể. Truyện ngắn này tôi viết cũng nhằm mục đích ấy. Tôi hy vọng nó đến được tay những người cần đến. Biết đâu họ sẽ làm cái gì đó để ngăn chặn hiện tượng tiêu cực trên. Đã biết phận mình hèn thì chỉ dám đặt mục tiêu khiêm tốn thế thôi.
    Vì không muốn biến truyện ngắn của mình thành bài phóng sự, tôi xin phép không nêu đích danh tên người, tên bệnh viện cùng ngày giờ xảy ra những việc có thật. Tuy nhiên, dẫu hèn, tôi vẫn không có ý định giấu tên mình. Như các bạn thấy, tôi vẫn còn đủ dũng cảm để viết ra câu chuyện này.

Chia sẻ trang này