1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Câu Chuyện Lạ Mà Quen

Chủ đề trong 'Vĩnh Phúc' bởi vinci_af, 02/12/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vinci_af

    vinci_af Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    Những Câu Chuyện Lạ Mà Quen

    Một đêm "hết việc" loanh quanh trên net, hý hoáy thế nào lại đọc được loạt bài dịch của Nguyễn Hồi Thủ dịch theo nguyên tác của Bá Dương. Tác phẩm, àh không phải là tác phẩm mà là một số bài diễn văn của Bá Dương đọc trên diễn đàn các trường ĐH.. cùng các bài viết, bài phê bình...
    Hic, máu quá ngồi nghiền cả đêm, đọc bật cười hahah..(sáng ra nghĩ lại, đúng là mình stupid, thằng cha đó viết làm mình tự cười mình mà không bít, đau thật..)
    Các pác xem, thằng cha này viết về anh em Trung Quốc của hắn mà sao em thấy hình như hắn lấy "anh em" mình ra làm "mô hình trực quan"..Em đọc kỹ rồi mà không có đủ "ní nuận" bẻ được hắn (hình như hắn đúng thì phải,), các pác giúp iem, iem cú lém...
    Em xin up từng phần nhỏ để các bác dễ theo dõi!
  2. vinci_af

    vinci_af Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    Mến tặng thầy Diệp Truyền Hoa,
    người 30 năm trước đây đã vỡ lòng văn Bạch thoại cho tôi.
    LỜI NGƯỜI DỊCH
    Năm năm trước, tôi sang Trung Quốc đọc được quyển sách này rất lấy làm thích thú. Ngay sau đó, từ Trung Quốc về đến Việt Nam, tôi đã chụp lại đưa cho một người bạn ở Hà Nội và động viên anh dịch ra tiếng Việt. Tôi nghĩ rằng người Việt ở trong nước nếu được đọc nó, chắc cũng thích thú như tôi.
    Bản thân tôi trước kia cứ mỗi lần đọc phải những quyển sách kiểu Người Việt cao quý, Người Việt đáng yêu là một lần không những không cảm thấy mình được dự phần vào cái cao quý, đáng yêu ấy một tý nào, mà càng thấy mình thấp hèn và đáng ghét làm sao, chỉ muốn viết ngay một quyển sách khác để nói về những tính hư, tật xấu của mình. Đang lúc lúng túng với nỗi bực dọc ấy thì may thay tôi gặp được quyển sách của Bá Dương.
    Thế mà suốt năm năm qua tôi đã ôm cái hy vọng quyển sách dịch sẽ ra đời ở Việt Nam. Tại sao tôi lại có hy vọng như vậy ? Bởi vì, quyển sách này tuy được viết và xuất bản ban đầu ở Đài Loan, tuy có một cái nhìn độc đáo về văn hóa và các chế độ chính trị Trung Quốc, đặc biệt chỉ trích những phong trào Phản hữu, *****************,v.v...và cả Mao Trạch Đông, nhưng sau đó nó lại được tái bản tại Trung Quốc lục địa (Bản tôi có là bản năm 1989 - 1990 do Nhà xuất bản Hoa Thành, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông ấn hành).
    Không những đã có nhiều sách khác viết về nó, gần đây còn có nguyên cả một quyển sách phỏng vấn Bá Dương về quyển sách này của ông. Các tác phẩm khác của Bá Dương cũng đã lục tục được in ra, và cuối cùng là hai tuyển tập tạp văn lớn của ông vừa được Nhà Xuất Bản Hữu Nghị tại Bắc Kinh phát hành.
    Ngoài ra ở Âu, Mỹ, Úc châu hiện nay, đối với những người sắp phải tiếp cận với Trung Quốc, cuốn sách của Bá Dương cũng được xếp vào trong danh sách những quyển cần đọc để có một cái nhìn tổng quát về văn hóa nước này.
    Nước Trung Quốc « cộng sản » đã chấp nhận và hoan nghênh nó, người Âu Mỹ cũng thế, thì không có lý do gì người Việt Nam lại không thể được đọc nó, cho dù không phải để học hỏi, mà có thể chỉ vì hiếu kỳ, thông tin về một nước láng giềng.
    Đến nay quyển sách dịch vẫn chưa ra đời ở Việt Nam. Và tôi vẫn chưa mất hy vọng, nhưng tôi hơi thấy tiếc cho cái thời gian tính của nó. Chẳng hạn, trong sách có những đoạn nói về tâm sự người Trung Quốc ở Hồng Kông khi mảnh đất này chưa « trở về tổ quốc » thì bây giờ Hồng Kông đã thuộc Trung Quốc lục địa rồi. Vì vậy, mặc dù chỉ võ vẽ tiếng Trung, lại không phải là người quen nghề dịch, tôi cũng đã mầy mò cố dịch nó ra, chắc chắn có nhiều sai sót, ở đây thành thật xin những người cao minh hơn chỉ bảo cho.
    Trong thập niên trước một thiên niên kỷ mới này, người ta hay nói về nền văn minh hậu công nghiệp, hậu hiện đại, cách mạng và văn minh điện tử tin học, đợt sóng thứ ba,... Người Việt Nam vừa thoát ra được cuộc nồi da xáo thịt, còn phải mất hơn 20 năm để chì chiết lẫn nhau, bỗng một hôm tự thấy mình đang đứng bên lề đường phát triển; đói rách, nghèo nàn, lạc hậu, bối rối không biết đi về đâu. Vì cục diện thế giới đã thay đổi quá nhanh, các phe phái, chiêu bài mà mình vì nó mất bao xương máu và cả một thời son trẻ đã chỉ còn là những dấu vết mờ nhạt.
    Trí thức Việt Nam, hoặc nhữõng người còn chút suy tư, nhìn sang các nước láng giềng, nhìn ra thế giới cũng hoang mang, lúng túng chẳng kém các cụ nhà Nho cách đây một thế kỷ khi tỉnh dậy vì những tiếng cà-nông của nền văn minh công nghiệp Tây phương bắn vào các cửa biển.
    Trong thời kỳ gọi là « đổi mới » gần đây, các nhà lãnh đạo Việt Nam hay những người tự cho mình có sứ mệnh lãnh đạo, lại phát động phong trào đi tìm kiểu mẫu phát triển, giống phong trào « canh tân » của các cụ đồ ngày xưa.
    Nhưng cái khác với thời hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là ngoài các mô-đen Mỹ, Pháp, Nhật, ngày nay còn có một lô những mô-đen mới nữa, trong đó phải kể mấy con rồng, con cọp châu Á ngay sát nách mà ở thời các cụ ho cũng chẳng khác gì mình.
    Người có đầu óc một lần nữa phải thắc mắc tại sao bây giờ lại có sự khác biệt đó ? Dân tộc Việt Nam cơ bản khác gì những dân tộc khác để ra nông nỗi này ? Không khỏi có những người, cũng như các cụ Phan ngày xưa, lại đi đào bới trong văn hóa, lịch sử Việt Nam, suy gẫm để tìm cho ra nhẽ. Nhưng số ấy không nhiều như ta tưởng, mà rồi cũng chẳng ai để ý đến những lời tâm huyết của họ, nếu không thì lịch sử và vận mệnh nước nhà cũng đã khác.
    Mặc dù dưới áp lực của xu hướng toàn cầu hóa trên mọi địa hạt, tôi vẫn tin rằng mỗi một dân tộc phải có một phương thức, một giải pháp riêng đối với cái vận mệnh riêng của mình. Cho nên, trước khi đi cóp nhặt các mô-đen, cần nhất phải biết mình là cái thứ gì, và có thể làm được gì ngay trước mắt. Muốn biết được điều ấy không thể chỉ cứ tinh tướng, huyễn hoặc để tiếp tục tự kỷ ám thị hoặc lừa dối nhau, tiếp tục dùng cái lưỡi gỗ để nói những điều cường điệu, hãnh tiến.
    Thường trong lịch sử Việt Nam vốn đã rất ítù người thật tình có can đảm và trung thực để tìm hiểu, phê bình, những cái xấu, cái dở của dân tộc mình. Gần đây lại chỉ toàn thấy ca tụng đất nước rừng vàng biển bạc, con người cần cù, thông minh, cao cảù, đẹp đẽ, kiên cường, anh hùng, trong sáng... Thậm chí lại có cả người lãnh đạo lấy tên giả viết sách để ca ngợi cá nhân mình, có cả nhà văn bịa tên một người nước ngoài để ca ngợi dân tộc mình. Nếu so sánh với những nước giàu mạnh nhất thế giới hiện nay thì lại là cả một chuyện ngược đời.
    Mà cái chuyện tìm những khuyết tật, những cái dở của dân tộc mình thì không ai có thể làm hộ cho mình cả, không thể trông chờ vào người nước ngoài được - mặc dù quá trình lịch sử Việt Nam đã chứng minh ngay đến cả cái chữ viết cũng là do người nước ngoài làm cho (Tôi không cho rằng chữ Nôm là một thứ chữ viết đúng nghĩa của nó. Đó chỉ là một thứ chữ làm từ chữ Hán, chủ yếu dùng để ký âm tiếng Việt cho những người đã biết chữ Hán, quá phức tạp, thiếu quy phạm để được phổ cập và đứng vững).
    Rồi khi người nước ngoài không lo cho nữa thì đến nay nó vẫn ở tình trạng của đầu thế kỷ, không có một canh tân, chuẩn hóa gì thêm, thậm chí một bàn phím máy tính để đánh cái thứ chữ viết đó cũng không hề có nổi ở thời đại xa lộ thông tin này.
    Trung Quốc đã là một mô-đen lớn của Việt Nam cho đến lúc người Pháp đô hộ chúng ta. Và nếu tôi không lầm thì hiện nay một lần nữa nó vẫn còn là một mô-đen phát triển cho một nước theo chế độ đảng chủ, lại thuộc về thế giới Hán hóa như Việt Nam.
    Quyển sách này soi sáng thêm một bề mặt, có thể là mặt trái của văn hóa Trung Quốc, của dân tộc Trung Quốc. Theo tôi nghĩ nếu lấy cái bề mặt này đem tham chiếu để phản tỉnh, việc này không những chỉ ích lợi cho người Hoa mà còn cho tất cả các cộng đồng có liên quan ít nhiều đến văn hóa Trung Quốc.
    Ông Bá Dương cơ bản chỉ là một nhà báo, một người viết tạp văn và chính ông cũng xác nhận điều này. Bởi vậy chúng ta không nên chờ đợi ở quyển sách những phân tích khoa học sâu sắc, những ý nghĩa triết học cao siêu thường thấy ở mấy trường phái Trung Quốc học tại các đại học Mỹ như Havard hoặc Standford. Phần chính của quyển sách lại gồm những bài diễn thuyết, mang lối hành văn của kẻ nói chuyện, nên có người phê bình là bố cục lỏng lẻo.
    Cho dù có thật sự thiếu trình độ uyên bác và cái chặt chẽ của lý luận, quyển sách lại đem đến cho người đọc nhiều chất liệu cụ thể rút từ lịch sử và đời thường qua cái nhìn của một người Trung Quốc đã bị « nhào trộn như một viên sỏi trong cái máy trộn bê-tông » của lịch sử Trung Quốc hiện đại. Những thứ rất phổ cập và dễ hiểu này cộng với giọng văn châm biếm chua cay mà thành khẩn của Bá Dương đối với một người Việt bình thường dù ở trong hay ngoài nước sẽ là một cống hiến không nhỏ cho việc hiểu rõ hơn về Trung Quốc và qua đó nhìn lại mà đánh giá bản thân, dân tộc và văn hóa của mình trong giai đoạn hiện nay.
    Phần cuối sách gồm một số bài của những người phê phán Bá Dương. Phần tranh luận đầy cảm tính này, dẫu không có thêm nhiều phát hiện gì mới, lại là một cái phông cần thiết làm nổi bật thêm tính độc đáo và cú sốc khá mạnh của sự kiện Bá Dương trên cộng đồng người Hoa tại hải ngoại.
    Trong lúc dịch tôi vẫn chưa tìm được ở tiếng Việt từ nào đúng để diễn tả đồng thời hình dáng xấu và tính xấu của một người. Cho nên, tùy mạch văn, lúc tôi dùng chữ « xấu xí », lúc dùng « xấu xa ». Tiếng Trung và Hán Việt vốn có nhiều từ giống nhau, khiến người dịch có khuynh hướng hay sử dụng cái có sẵn, nên câu văn mang vẻ cũ kỹ, tối nghĩa. Vấn đề này khó hơn, nếu có một ấn bản khác tôi sẽ cố gắng thêm.
    Nhân dịp này tôi cũng không thể không nói lên rằng, ngoài những khó khăn gặp phải của một người dùng một thứ tiếng nghèo nàn để dịch một thứ tiếng phong phú hơn, tôi đã gặp phải quá nhiều đau khổ trong việc chế bản và chuyển đổi (đối với quyển này cũng như những quyển trước, vì cho đến nay tôi vẫn chưa tìm được một chương trình soạn thảo văn bản nào đạt tiêu chuẩn, thật đáng buồn !), nếu không quyển sách này có thể đã ra đời trước đây sáu tháng hay một năm là ít.
    Ngoài ra tôi cũng đã tự ý lược bỏ một số đoạn, không nhiều lắm, vì thấy có sự trùng lặp với các đoạn khác.
    Tôi chỉ mong có nhiều người đọc được quyển sách dịch này, đó là một điều an ủi rất lớn cho cái thiện ý của tôi.
    Paris - Bắc Kinh, 1966-1997
    Nguyễn Hồi Thủ
    ________________________________________
    Vài lời về Tác giả và bản quyền
    Ông Bá Dương sinh năm 1920 ở Trung Quốc lục địa, chạy sang Đài Loan năm 1949 khi cộng sản thắng tại Trung Quốc. Là một nhà thơ, nhà văn, nhà báo và sử gia. Ông đã bị bỏ tù 10 năm tại Lục Đảo (Đài Loan) vì dịch sang tiếng Trung Quốc một tranh hý họa Popeye (Pôp-pay) mà chính phủ Đài Loan cho là phạm thượng. Năm 1977, khi ra khỏi nhà tù, ông bắt đầu đi nói chuyện về hiện tượng « người Trung Quốc xấu xí ». Những bài nói chuyện của ông và của những người tranh luận với ông được tập trung lại thành quyển sách mà các bạn đang cầm ở tay. Ông hiện sống ở Đài Loan với vợ là bà Dương Hương Hoa, một thi sĩ.
    Vì chỉ có một bản in tại lục địa, chúng tôi không biết phải liên lạc làm sao để xin phép ông Bá Dương, nên nhân đây xin lỗi ông về việc đã mạn phép dịch sách của ông ra tiếng Việt trước khi được phép. Tôi nghĩ nếu ông biết được chắc cũng vui lòng tha thứ. Nếu có ai mách cho tôi biết ông ở đâu tôi sẽ trực tiếp xin lỗi ông một lần nữa và chính thức xin phép ông sau.
    (NHT)
  3. vinci_af

    vinci_af Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    THẦY THUỐC VÀ NGƯỜI BỆNH Ở NƯỚC HŨ TƯƠNG
    ***
    Thay lời tựa của Bá Dương
    Chuyện kể rằng ngày xưa có một nước gọi là « Nước vại tương ». Ở đó mỗi ngày việc trọng đại nhất của mọi người là bàn luận xem họ có đúng là một nước hũ tương không. Náo nhiệt nhất ở đó lại là việc tranh chấp giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Kết quả đương nhiên là thầy thuốc bị thua. Đại khái tình hình như sau :
    Bệnh nhân : - Tháng sau tôi kết hôn, sẽ làm lễ cưới ra trò. Rất vinh hạnh được đón tiếp ngài. Ngài sẽ là thượng khách. Thế kết quả khám nghiệm bệnh tình của tôi ra sao rồi ?
    Thầy thuốc : - Xin lỗi, tôi sợ phải báo cho ông một tin không vui. Đây là kết quả bảng phân chất. Có khả năng ông bị mắc bệnh phổi đã đến thời kỳ thứ ba. Triệu chứng thời kỳ đầu là ho...
    Bệnh nhân : - Quái thật. Bác sĩ bảo là ho. Thế vừa rồi bác sĩ cũng chẳng mới ho là gì. Tại sao đấy lại không phải là bệnh phổi ?
    Thầy thuốc : - Cái ho của tôi và cái ho của ông không giống nhau đâu.
    Bệnh nhân : - Tại sao lại không giống nhau ? Ông có tiền, có học thức, tốt nghiệp cả đại học, từng uống cả nước sông A-ma-dôn, chắc phải thuộc loại người có dòng máu cao sang chứ gì ? Có phải vậy không ?
    Thầy thuốc : - Nói thế chẳng phải, lại còn nửa đêm lên cơn sốt.
    Bệnh nhân : - Chẳng nói thế thì nói thế nào cho vừa ý ông ? Sốt nửa đêm ?! Cái quạt máy nhà tôi dùng đến nửa đêm sờ vào có thể bỏng tay như chơi. Thế nó cũng bị lao phổi đến thời kỳ thứ ba chắc ?
    Thầy thuốc (gắng gượng giải thích) : - Thổ huyết cũng là một trong những triệu chứng của bệnh trạng.
    Bệnh nhân : - Sát nách nhà tôi có một nha sĩ. Những người đến chữa răng đều bị ông ta làm cho khạc ra máu. Khó mà nói rằng họ đều bị lao phổi ở thời kỳ thứ ba cả.
    Thầy thuốc : - Chuyện đó đương nhiên không phải như vậy rồi. Nhưng tổng kết tất cả lại ...
    Bệnh nhân : - Được rồi ! Nói lại từ đầu. Cứ cho là lao phổi đến thời kỳ thứ bẩy, thứ tám đi thì đã sao ? Có cần phải nhặng xị lên thế không ? Người nước ngoài không phải vẫn mắc lao phổi như thường hay sao ? Tại sao anh cứ xoáy vào mỗi tôi ? Tháng tới tôi kết hôn, việc này ai cũng biết, sao anh không có thể nói vài câu khích lệ tôi ? Tại sao anh lại đả kích tôi ? Anh thù oán gì tôi ? Anh muốn làm cho đời chúng tôi tan nát à ?
    Thầy thuốc : - Anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi chỉ muốn nói...
    Bệnh nhân : - Tôi chẳng hiểu lầm anh tí nào. Tôi chỉ nhìn thoáng một cái là thấy cả tim gan anh. Anh mất mẹ sớm, không có được một gia đình êm ấm. Đến tuổi trung niên lại ngồi tù vì án cướp của, giết người, hiếp dâm, xem thường công bình, luật pháp, cừu hận chất chồng. Thấy người khác hạnh phúc là không chịu được, không muốn thấy nước nhà rạng rỡ, vẻ vang.
    Thầy thuốc : - Chúng ta phải tùy việc mà xét.
    Bệnh nhân : - Chính tôi đang tùy việc mà xét đây. Anh cứ thú thật cái bà già mà anh mang ơn ấy, khi giết bà ta anh hạ thủ như thế nào ?
    Thầy thuốc (hơi hoảng sợ) : - Giấy chẩn bệnh đã căn cứ vào phân chất máu và nước bọt, có lẽ nào tôi bịa đặt ra được ?
    Bệnh nhân : - Đương nhiên là anh không bịa đặt. Cũng như con dao của anh đã cắm vào ngực của bà kia. Anh sỉ nhục những người tiến bộ và yêu nước như vậy là đủ rồi. Anh một lòng thù hận đồng bào, bảo họ đều bị lao thời kỳ thứ ba, anh không tự thấy là vô liêm sỉ à ?
    Thầy thuốc : - Ông anh ơi, chỉ vì thương ông, mong ông chóng bình phục tôi mới nói thẳng sự việc chứ thật tình không có ác ý.
    Bệnh nhân (vừa cười nhạt vừa ho) : - Anh là một thằng đồ tể giết người không gớm tay. Tất cả nhân sĩ yêu nước có lương tâm sẽ liên kết lại để ngăn chặn ý đồ mưu sát tổ quốc của anh mà anh gọi là lòng yêu nước hòng che mắt thiên hạ.
    Thầy thuốc : - Tất cả tôi chỉ căn cứ vào những bản phân tích, như phân tích nước bọt chẳng hạn của trường Thiên Trúc đã làm ...
    Bệnh nhân : - Đồ vọng ngoại ! Đồ sùng bái và nịnh hót nước ngoài ! Anh chính là cái mầm mống hạ lưu đã táng tận lòng tự trọng dân tộc. Đồ tồi ! Tôi nghiêm túc cảnh cáo anh ! Thế nào rồi anh cũng sẽ phải trả giá rất đắt về hành vi vọng ngoại này.
    Thầy thuốc (mạnh dạn thêm) : - Thôi, không nói lung tung, không tránh né nữa. Cũng không nên dùng ngôn ngữ đấu tố để thay thế lý lẽ. Chuyện quá khứ và chủ đề của tôi thì có liên quan gì ? Cái chủ đề của chúng ta là « Anh có bị lao hay không ? »
    Bệnh nhân : - Cứ xem mô hình cái « Người Trung Quốc xấu xí » của anh. Quả là già mồm ! Từ bối cảnh đời anh, ai cũng có thể nhìn thấy được cái dã tâm của anh độc ác dường nào. Tại sao không liên quan với nhau ? Nước Trung Quốc rồi hỏng về tay những loại người như anh, làm cho người nước ngoài tin rằng người Trung Quốc chúng ta đều bị lao vào thời kỳ thứ ba hết thẩy. Vì thế, họ xem chúng ta không ra gì. Cái loại Hán gian số một, ăn táo rào sung này lẽ trời không thể dung được. Cẩm y vệ (ho xù xụ) ! Lôi nó đi !
    Đương nhiên không nhất định phải là cẩm y vệ (lính vua) lôi đi (Bá Dương tiên sinh cũng đã hơn một lần bị lôi đi rồi), mà bọn này không chỉ lôi đi, lại còn có thể hành hung, đánh đập, chưa kể chửi bới, thóa mạ bằng lời nói hoặc bằng bút.
    Đài Bắc, ngày 23-07-1985.
  4. vinci_af

    vinci_af Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    NGƯỜI TRUNG QUỐC VÀ CÁI VẠI TƯƠNG


    Bài nói tại New York ngày 16-08-1981, do ký giả tờ báo tiếng Hoa " Bắc Mỹ nhật báo " ghi lại.
    Vừa rồi ông Chủ tịch nói cuộc họp mặt hôm nay là một vinh hạnh của Hội " Tùng Xã ", đúng ra vinh hạnh này là của tôi. Tôi xin cảm tạ quý vị đã cho tôi dịp được gặp mặt các vị ở nơi xa quê hương này để xin chỉ giáo.
    Thực ra Chủ tịch và Chủ báo " Tân Sĩ Tạp Chí ", ông Trần Tiến Trung nói với tôi đây là một cuộc tọa đàm, nên tôi rất vui được đến dự. Nhưng hôm qua từ Bo-xton đến tôi mới rõ là một buổi diễn giảng, việc này làm cho tôi rất lo vì New York là một đô thị lớn bậc nhất thế giới, đầy " rồng núp, hổ nằm ".
    Cho nên tôi chỉ dám nêu lên đây một ít cảm tưởng tản mạn và đó hoàn toàn là ý kiến riêng tư chứ không dám kết luận gì cả. Xin các vị chỉ giáo và chúng ta cùng trao đổi với nhau.
    Chủ đề hôm nay ông Chủ tịch giao cho tôi là " Người Trung Quốc và cái vại tương ". Nếu buổi hôm nay là một buổi thảo luận về học thuật thì trước tiên chúng ta phải định nghĩa người Trung Quốc là gì ? Cái vại tương là gì ? Tôi nghĩ tôi không phải định nghĩa nữa, sợ thành vẽ rắn thêm chân. Bởi vì có một hiện tượng trên đời là cái gì mọi người đều đã biết mà lại đi thêm cho nó một định nghĩa, việc này vô tình có thể biến nội dung và hình thức của nó trở thành mơ hồ, biến chân tướng của nó thành khó hiểu, và do đó còn khó bắt đầu thảo luận hơn.
    Phật giáo vốn cho rằng con người phải qua vòng luân hồi. Việc này làm tôi nhớ đến một tích xưa.
    Có người đến hỏi một vị cao tăng đã đạt đạo :
    " Đời tôi bây giờ là do tiền kiếp mà tái sinh, thế thì kiếp trước tôi là người thế nào ? Nếu còn phải đầu thai một lần nữa, ngài có thể cho tôi biết kiếp sau tôi sẽ trở thành người ra sao không ? ".
    Vị cao tăngï trả lời anh nọ bằng bốn câu thơ sau :
    Dục tri tiền thế nhân
    Kim sinh thụ giả thị
    Dục tri hậu thế quả
    Kim sinh tác giả thị
    (Muốn biết cái nguyên nhân của kiếp trước
    Cứ xem những gì mình nhận được ở kiếp này
    Muốn biết cái hậu quả ở kiếp sau
    Cứ xem những gì mình đang làm ở kiếp này)
    (Tạm dịch thơ :)
    Muốn biết kiếp trước thế nào
    Cứ xem mình sống ra sao kiếp này
    Đầu thai rồi thế nào đây
    Hãy nhìn vào việc hiện nay đang làm
    (NHT)
    Giả sử kiếp này anh được sung sướng, kiếp trước nhất định anh là một người chính trực, độ lượng. Nếu kiếp này anh gặp nhiều khổ nạn thì phải suy ra rằng kiếp trước anh đã làm những điều ác. Cái tích xưa này gợi cho chúng ta rất nhiều ý nghĩa. Các vị ở đây, nếu là con nhà Phật hẳn cảm thụ dễ dàng, nếu không phải là người theo đạo Phật chắc không tin vào tiền oan nghiệp chướng, nhưng có thể xin các
    vị cứ suy nghĩ về cái triết lý của nó.
    YÙ tôi muốn nói chuyện này làm chúng ta liên tuởng đến văn hóa Trung Quốc.
    Các vị ở đây, bất kể quốc tịch gì, đại đa số đều có dòng máu Trung Quốc, các vị thích hay không thích nó vẫn vậy, chẳng làm sao thay đổi được. Tôi nói người Trung Quốc là theo nghĩa rộng, theo nghĩa huyết thống chứ không phải nghĩa địa lý.
    Người Trung Quốc từ 200 năm gần đây, lúc nào cũng có một ước mong cho đất nước hùng cường, ước mong cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc ưu tú trong thế giới. Nhưng đã bao nhiêu năm nay, chúng ta luôn luôn yếu kém, mãi bị ngoại nhân khinh thị, nguyên nhân tại đâu ?
    Đương nhiên trách nhiệm là do nơi chúng ta. Nhưng nhìn dưới góc độ văn hóa mà đặt câu hỏi đó thì có thể nghĩ đến cái tích xưa vừa kể trên. Tại sao có ngày hôm nay ? Vì sao nước nhà vẫn chưa lớn mạnh ? Nhân dân vẫn còn biết bao khổ nạn ? Từ kẻ cùng đinh không quyền thế đến kẻ phú quý với đặc quyền đặc lợi đều có một nguyện vọng tha thiết như nhau cho đất nước, cũng như đều có cùng một đau buồn sâu sắc.
    Tôi nhớ thuở bé thầy học bảo chúng tôi : " Hy vọng của nước nhà đặt nơi các em ". Nhưng rồi chúng ta bây giờ thì sao ? Lại đến lượt chúng ta hướng về đám thanh niên bảo : " Các em là hy vọng của tương lai Trung Quốc ". Cái kiểu cứ đùn đẩy trách nhiệm từ đời này xuống đời khác sẽ còn
    kéo dài cho đến bao giờ ?
    Những người Trung Quốc ở nước ngoài đối với vấn đề này lại càng nhậy cảm và kỳ vọng của họ lại càng sâu nặng. Ngoài việc tự thân chúng ta đã không thể mang hết được cái trọng trách về chuyện nước nhà rơi xuống một mức độ tồi tệ với những khổ nạn như vậy, chúng ta lại còn phải è cổ vác cái gánh văn hóa truyền thống nặng nề kia.
    Đấy là nghiệp báo như đã nói ở trên.
    Hôm trước, lúc đi thăm Viện bảo tàng Boston, tôi thấy bên trong có bầy đôi giày cho phụ nữ bó chân của thời đại các bà nội chúng ta. Kinh nghiệm bản thân cho tôi biết những người phụ nữ khoảng tuổi tôi thời ấy đều phải bó chân. Ngày nay những người trẻ tuổi nghe đến chắc không thể nào tưởng tượng nổi. Tại sao trong văn hóa chúng ta lại có thể sinh ra một cái tập quán tàn khốc thế ? Lại có thể áp đặt nó lên trên một nửa dân số trong hàng nghìn năm, làm cho những người bị bức hại phải tàn phế cả hai chân, thậm chí có khi còn gãy cả xương, thối cả thịt, không thể đi đứng được. Tại sao văn hóa Trung Quốc lại có thể kéo dài cả hàng nghìn năm trong lịch sử một yếu tố dã man như vậy ? Tại sao lại cho phép trường tồn qua một thời gian dài như thế mà không có một người nào đứng lên bảo nó phản tự nhiên, hại sức khỏe ? Ngược lại, đại đa số nam nhi còn xem bó chân là hay ho, đẹp đẽ.
    Còn nói đến việc bách hại nam nhi thì thế nào ? Đó không phải chỉ riêng chuyện các hoạn quan. Theo ghi chép của lịch sử, từ các triều vua Tống trở về trước, các nhà có quyền và có tiền đều có thể tự do thiến các nô bộc của mình. Sự việc kinh rợn này kéo dài cho đến triều Tống - thế kỷ XI - mới bị cấm. Chỉ căn cứ vào hai việc trong biết bao nhiêu việc không hợp lý và vô nhân đạo của văn hóa Trung Quốc suốt quá trình lịch sử của nước này, ta cũng có thể thấy là những thành phần không hợp lý của nó đã lên đến một mức độ không thể nào khống chế được.
    Bất kỳ văn hóa của một dân tộc nào đều như một dòng sông lớn, thao thao bất tuyệt trôi đi. Và với thời gian dần dần biết bao thứ nhơ nhớp bẩn thỉu trong dòng sông lớn ấy, - như cá chết, mèo chết, chuột chết - sẽ bắt đầu chìm lắng. Lắng đọng quá nhiều sẽ làm dòng sông không thể chảy nữa, biến thành một cái đầm nước chết, càng sâu càng nhiều, càng lâu càng thối, lâu dần thành một cái vại tương, một cái đầm bùn bẩn phát chua, phát thối.
    Nói đến cái hũ tương có lẽ những bạn trẻ không thể hiểu, tôi vốn sinh ra ở phương Bắc, nơi quê tôi cái thứ này rất nhiều. Tôi không thể nói chính xác cái chất tương trong vại ấy làm bằng những chất liệu gì (chất chính là đậu tương và bột mì), nhưng các vị nếu đã ăn qua vịt quay tại các tiệm ăn Trung Quốc thì chính là loại tương đó. Nó là một chất đặc không chảy được, không giống nước sông Hoàng hà từ trên trời chảy xuống một tý nào. (Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi - thơ Lý Bạch). Nó là một thứ nước ao tù, lại được để cho bốc hơi, cho lắng đọng nên nồng độ càng ngày càng đông đặc. Cái văn hóa của chúng ta, cái tiền oan nghiệp chướng như đã nói cũng là như thế.
    Trong văn hóa Trung Quốc, cái có thể gọi là điển hình nhất cho cái đặc sắc này là chế độ " quan trường ". Thời xưa mục đích học hành của các phần tử trí thức là làm quan. Cái chữ " trường " nhìn không thấy, sờ không đụng này được hình thành qua chế độ khoa cử. Một khi người đọc sách đã lọt vào được chốn quan trường liền ở vào trạng thái đối nghịch với người thường, với nhân gian.
    Dưới chế độ đó người đi học cốt chỉ được làm quan, vì có câu nói rằng trong sách có nhà vàng, có nhan sắc như ngọc. Đọc sách để có thể làm quan, làm quan ắt có mỹ nữ, kim tiền.
    Thời xưa có người nói : " Hàng hàng xuất trạng nguyên ", kỳ thực chỉ trong số những người đi học mới có trạng nguyên, còn những người khác cũng chỉ là thợ thuyền không đáng một đồng trinh. Thời đó những người của các giai tầng khác bị rất nhiều giới hạn, nào là không được mặc loại áo quần nào đó, không được đi thứ xe nào đó, ở loại nhà nào đó.
    Xã hội phong kiến đặt cái lợi ích của những người làm quan lên trên hết, và vì nó đã khống chế Trung Quốc quá lâu, nên tạo thành một lực lượng và một ảnh hưởng vô cùng lớn.
    Về mặt kinh tế không có gì thay đổi đáng kể, nhưng về
    mặt chính trị nó đã kìm hãm chúng ta lâu dài trong cái hũ tương văn hóa đó. Một trong những cái đặc trưng của nó là đặt tiêu chuẩn của giới quan lại thành một cái chuẩn cho xã hội, biến lợi ích các quan thành cái lợi chung. Vì vậy nó đẻ ra một thứ ngày nay gọi là " Chính trị thống soái " theo kiểu nói của Mao, làm cho cái hũ tương văn hóa của chúng ta càng thêm sâu đậm, càng thêm nồng nặc.
    Chìm đắm lâu dài trong cái hũ tương đó, người Trung Quốc trở thành ích kỷ, nghi kị.
    Tôi tuy đến Mỹ chỉ là du lịch ngắn ngày, nhưng nhìn bề ngoài tôi thấy người Mỹ khá thân thiện, hạnh phúc, lúc nào cũng tươi cười.
    Tôi cũng đã gặp con em các bạn bè người Hoa ở đây, trông tuy có vẻ sung sướng, nhưng rất ít cười. Có phải là các bắp thịt ở mặt của người Trung Quốc chúng ta cấu tạo không giống họ ? Hay là vì dân tộc chúng ta mang một cái gì vốn quá u ám ?
    Chúng ta có nghĩ được rằng dân tộc chúng ta sở dĩ như vậy vì thiếu sức sống trẻ, mà điều đó lại là do chính trách nhiệm của chúng ta không? Giữa chúng ta, chúng ta chèn ép lẫn nhau, không hề hợp tác.
    Tôi nghĩ đến chuyện một người cảnh sát trưởng Nhật Bản, khi huấn luyện các học viên của mình, bảo thuộc hạ phải nghi ngờ tất cả mọi người, vì họ đều có thể là đạo tặc. Cái trạng thái tâm lý này dùng để huấn luyện cảnh sát hình sự thì được, nhưng tâm lý phổ biến của người Trung Quốc lúc bình thường lại cũng như thế, lúc nào cũng nghĩ kẻ khác có thể làm hại mình, nó hình thành một nỗi lo sợ về bất cứ một cái gì. Cái nỗi lo sợ này làm người Trung Quốc biến thành " một đống cát rời " năm bè, bảy mảng (như lời của Tôn Dật Tiên).
    Một nước lớn như Trung Quốc, có tài nguyên, có nhân khẩu hơn một tỷ người nếu đồng tâm hiệp lực, trong Á châu này chẳng lẽ không bằng được Nhật bản ?
    Mòn mỏi dưới chế độ xã hội phong kiến chuyên chế tự bao đời, đắm chìm ngụp lặn trong cái hũ tương đó, óc phán đoán cùng tầm nhìn của người Trung Quốc đã bị tương làm ô nhiễm nặng, không vượt ra nổi cái phạm vi ảnh hưởng của nó.
    Qua bao nhiêu niên đại, đa số chúng ta mất dần năng lực phán đoán cái gì đúng cái gì sai, mất khả năng phân biệt cái gì là đạo đức, chỉ phản ứng bằng tình cảm và trực giác mà không biết suy nghĩ. Tất cả giá trị của hành động rồi đều bị cái tiêu chuẩn chính trị và đạo đức của cái hũ tương đó chi phối. Vì vậy thị phi, phải trái, đen trắng không còn có vẻ đối nghịch nữa. Trong hoàn cảnh này, khi tìm hiểu sự vật, chẳng ai còn đi đến chỗ phân tích cặn kẽ. Cứ qua loa lấy lệ một cách lâu dài rốt cuộc sẽ đưa đến cái quả báo nhãn tiền, đó là " Chiến tranh Nha phiến " (1840).
    Chiến tranh Nha phiến là sự đột nhập của văn hóa nước ngoài theo chiều ngang. Đối với người Trung Quốc nó đánh dấu một kỷ niệm " quốc sỉ " (cái nhục của một nước), nhưng nhìn từ một góc độ khác nó lại là một lần thức tỉnh lớn không thể tránh được.
    Nhật Bản trên mặt này đã phản ứng hoàn toàn khác chúng ta. Ở thế kỷ XVIII khi Mỹ đánh chìm hai tàu Nhật, nước Nhật đã mở cửa. Đối với người Nhật sự kiện này mang lại một cơ hội tốt, họ biết biến sự sỉ nhụïc thành một sự thức tỉnh.
    Thực ra chúng ta phải cảm ơn Chiến tranh Nha phiến, nếu không có nó thì tình cảnh hiện tại sẽ như thế nào ? Có lẽ các vị ngồi đây không chừng trên đầu vẫn còn cái đuôi sam, phụ nữ vẫn còn bó chân, còn mặc áo dài, áo ngắn (Áo kiểu ngày xưa của người Trung Quốc), trên bộ còn ngồi kiệu do người khiêng, dưới nước còn ngồi thuyền tam bản.
    Ví thử Chiến tranh Nha phiến xảy ra sớm hơn 300 năm, có lẽ Trung Quốc đã biến đổi sớm hơn một tý; nếu nó xảy ra sớm hơn 1.000 năm thì lịch sử đã hoàn toàn chẳng như ngày nay. Tôi cho rằng cái " kỷ niệm quốc sỉ " này là một cú đập mạnh vào cái hũ tương văn hóa của chúng ta. Không có nó người Trung Quốc vẫn còn chìm đắm dưới đáy, có khi còn ngạt thở mà chết rồi.
    Sự đột nhập của văn hóa ngoại lai trong Chiến tranh Nha phiến làm cho chúng ta có thể nghĩ rằng nhà Thanh là một thời đại quan trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nếu chiến tranh này xảy ra vào thời nhà Minh chưa chắc Trung Quốc chịu nổi cú sốc và tình hình đã khác. Văn minh hiện đại phương Tây đối với nước Trung Quốc già nua thật ra càng đột nhập sớm càng tốt. Cái sự xung kích lớn lao này chắc hẳn là một sự kiện khiêu chiến nghiêm trọng đối với lịch sử và văn hóa, nhưng đem lại cho chúng ta cái văn minh vật chất và văn minh tinh thần mới.
    Cái gọi là văn minh vật chất Tây phương như máy bay, trọng pháo, xe hỏa, tàu điện ngầm, v.v...làm cho chúng ta bỗng nhiên thấy thế giới bên ngoài mới mẻ làm sao, có biết bao nhiêu thứ không giống chúng ta, làm cho chúng ta có một nhận thức biết coi trọng cái mới, cái văn minh vật chất. Còn nói đến văn minh tinh thần, những ý thức hệ chính trị Tây phương cùng các tư tưởng học thuật cũng cho chúng ta bao nhiêu quan niệm và gợi ý mới mẻ. Xưa nay chúng ta nào biết dân chủ, tự do, nhân quyền, pháp trị là gì. Tất cả những thứ này đều là các sản phẩm lấy giống từ phương Tây. (còn tiếp)
  5. vinci_af

    vinci_af Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    [​IMG][​IMG]
    Hì hục mãi mò được một "đống" ảnh có tên Bo Yang (Bá Dương) mà chẳng bít cha nào là tác giả, hic..hì hục thêm một lúc nữa, sau khi kiểm tra lại tất cả các thông số, iem vui mừng thông báo với các pác đây là hình ảnh của Bá Dương, tác giả của "Người Trung Quốc xấu xí"
  6. vinci_af

    vinci_af Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    (Em xin được tiếp tục phục vụ các pác)
    Trước đây người Trung Quốc chỉ biết câu : " Nhân mệnh quan thiên " (số mệnh con người là do nơi trời). Thực ra số mệnh một con người có phải là do trời hay không cũng còn tùy. Nếu tôi giết chết một người, có lẽ sẽ do trời thật, nhưng nếu hung thủ là một kẻ quyền thế thì đã chắc gì ? Vì vậy còn phải xem vấn đề là dính dáng đến ai.
    Có một nhân vật cổ quái còn nói một câu : " Dân vi quý, quân vi khinh " (Dân là quý, vua là thường). Đấy chỉ là một thứ lý tưởng mà Trung Quốc chưa bao giờ thực hiện. Thời phong kiến xưa, sau một triều vua lại đến một triều vua, chẳng có gì thay đổi. Lật đổ triều đại trước, thiết lập triều đại mới, cách biểu thị duy nhất về sự bất đồng của mình với triều vua trước là đốt phá các cung vàng điện ngọc mà triều trước đã xây để làm cung điện mới của mình.
    Lý do viện dẫn để đốt phá vẫn được đưa ra là vì triều trước chính sách bạo tàn, triều đại của mình mới là nhân hậu. Nhân hậu nên mới phải làm cái việc đem chính sách nhân hậu của mình để tàn phá nhà cửa của chính sách hung tàn.
    Cứ đời này sang đời khác như thế, về mặt tư tưởng chính trị chẳng có xây dựng được gì, nhưng nhà cửa thì cứ tiếp tục đốt phá để biểu lộ sự khác nhau. Chẳng trách ở một nước lâu đời như Trung Quốc sau mấy nghìn năm các kiến trúc cổ chẳng còn được là bao !
    Trong hệ tư tưởng chính trị Trung Quốc, có vài khái niệm lý tưởng gần với Tây phương như " Vua phạm pháp cũng bị tội như thứ dân " (Vương tử phạm pháp dữ thứ dân đồng tội). Nhưng điều này chẳng qua cũng chỉ là một hy vọng và ảo tưởng mà thôi. Sự thực cái điều vua và dân cùng tội này trên căn bản tuyệt đối không thể có.
    Người Trung Quốc xưa nay có bao giờ biết dân chủ, tự do, pháp trị là gì. Tuy có người bảo chúng ta cũng có tự do, có thể chửi cả hoàng đế, song thật ra quyền tự do của chúng ta rất có hạn, bị kẻ thống trị khống chế trong phạm vi cho phép. Nhân dân nếu được phép chửi hoàng đế chắc cũng chỉ dám lén lút chửi sau lưng. Phạm vi của tự do rất hẹp hòi. Đương nhiên có thể có cái tự do suy nghĩ vớ vẩn chứ các khái niệm dân chủ, pháp trị thì hoàn toàn chẳng có.
    Dân tộc chúng ta là một trong những dân tộc lớn, đương nhiên trong vấn đề tình cảm không nói thế thì không xong. Nhưng trên thế giới này còn có một dân tộc vĩ đại khác là dân Anglosaxon (Ăng-glô-sắc-xân).
    Dân tộc này đãõ thiết lập cho văn minh thế giới những khuôn khổ như chế độ quốc hội, tuyển cử, tư pháp độc lập, tư pháp bồi thẩm,v.v..., cống hiến cho cộng đồng nhân loại những cơ cấu văn minh tốt đẹp như vậy, và đó cũng là một nguyên nhân cho phép những xã hội Tây phương về mặt chính trị hướng đến công bình, hợp lý.
    Cái việc tuyển cử dù lãng phí thế nào đi nữa so với việc giết người như núi, máu chảy thành sông vẫn còn tốt hơn. Đối với những thứ tốt đẹp này của Tây phương chúng ta phải có can đảm mà tiếp nhận.
    Có người bảo tuyển cử kiểu Tây phương không phải tuyển cử nhân tài, chỉ bầu cử tiền, mà cái loại tiền này thì không phải người bình thường nào cũng có thể bỏ ra được. Dù có thế chăng nữa, lãng phí tiền bạc vẫn tốt hơn lãng phí đầu người.
    Hết thảy những điều tốt chúng ta phải tự đấu tranh mới có được, không giống trong vườn Eden (Ê-đen) của Thượng đế nơi cái gì cũng đã được an bài một cách tốt đẹp.
    Người Trung Quốc sống trường kỳ trong cái hũ tương, lâu ngày quá tự nhiên sinh ra một tâm lý cẩu thả. Một mặt tự đại khoe khoang, còn mặt khác tự ti, ích kỷ.
    Tôi nhớ có xem một bộ phim - mà đã quên mất tên -
    trong đó một phụ nữ quý phái có hai nhân cách : một mặt đẹp đẽ, đáng quý làm cho người ta có thể sùng bái, mặt khác lại hoang dâm, vô liêm sỉ. Cô ta không làm sao hợp nhất được hai nhân cách này lại với nhau. Khi bị bác sĩ tâm thần bắt phải đối diện với thực tại, cô ta đã tự sát.
    Khi tự kiểm hồ sơ bệnh của mình chúng ta có dám đối diện với thực tại không ? Có dám dùng cái tâm lý khỏe mạnh để xử lý bệnh tình của mình một cách hợp lý không ?
    Chúng ta cần học tự nhận xét mình. Người Trung Quốc thường không có tập quán dùng lý trí để tự tìm hiểu mình mà chỉ dùng cảm tính. Ví như vợ chồng cãi nhau, chồng bảo vợ : " Bà đối với tôi không tốt ". Vợ bèn vứt thức ăn lên bàn cãi : " Tôi đối với ông không tốt thế nào ? Không tốt mà tôi còn nấu cơm cho ông ăn à ? " Cái động tác này cũng đủ nói lên sự đối xử không tốt của bà ta rồi. Tự xét mình như thế thì thà không tự xét còn hơn.
    Từ khi văn hóa Tây phương được du nhập vào (Trung Quốc) dĩ nhiên về mặt tư tưởng chính trị có thay đổi dần, mặt quan niệm đạo đức cũng vậy. Ngày trước chồng đánh vợ là chuyện cơm bữa. Bây giờ cứ thử đánh một tý xem sao !
    Tuổi trẻ thời nay thật may mắn, rất nhiều thứ văn hóa hủ lậu đã bị đào thải. Không kể đến vấn đề chính trị và đạo đức, ngay cả trên các lĩnh vực nghệ thuật, thi ca, văn học, tuồng kịch, vũ điệu đều có ảnh hưởng của sự thay đổi này.
    Hễ nói đến văn hóa, văn minh phương Tây, thế nào
    cũng có người chụp mũ, bảo tôi " sùng bái Tây phương, nịnh hót nước ngoài ".
    Theo ý tôi tại sao không thể sùng bái Tây phương ? Cái lễ nghĩa của người ta đúng là hơn hẳn cái thô lậu của mình. Súng ống của người ta đích thực là hơn hẳn cung tên của mình. Nếu như giữa bạn bè với nhau có người đạo đức, học vấn hơn hẳn mình tại sao lại không có thể không hâm mộ được ?
    Người Trung Quốc không có cái can đảm dám khen người khác, chỉ có cái dũng khí dùng để đả kích kẻ khác. Cũng bởi cái " văn hóa hũ tương " của chúng ta quảng đại tinh thông quá mới làm cho người Trung Quốc thành " cây quýt bên sông Hoài " tất cả (tích Án Tử và vua Sở). Cây quýt này vốn mọc ở một địa phương nọ thì rất to và ngọt, đem trồng ở một nơi khác, không hợp thủy thổ, thì vừa nhỏ vừa chua.
    Ông Tôn Quan Hán, một người bạn đã tìm cách cứu tôi suốt trong thời gian 10 năm tôi ở tù, từng đem một thứ cải trắng gốc Sơn Đông trồng tại Pittsburg (Pít-xbơ), nhưng ở đây nó lại thành một thứ cải hoàn toàn khác.
    Người Nhật có biệt tài bắt chước cái gì là giống cái đó, còn người Trung Quốc thì học cái gì cũng chả giống cái gì. Cái tinh thần này ghê gớm lắm, nó cho phép người Nhật học được những ưu điểm mà học giống hệt. Người Trung Quốc thường chỉ giỏi tìm lối tránh né, viện cớ " không hợp với hoàn cảnh nước nhà " để bào chữa cho lý do tại sao mình lại cự tuyệt nó.
    Trước chiến tranh Giáp Ngọ (1895) người Nhật đến thăm hải quân Trung Quốc, thấy binh sĩ đem phơi quần áo la liệt trùm cả lên súng cà-nông, bèn xác định rằng cái loại quân đội này không thể tác chiến được. Chúng ta căn bản không tính đến chuyện xây dựng và làm mới các quan niệm, nên khi chúng ta không muốn làm một cái gì, ngay cả như chuyện đừng phơi quần áo trên trọng pháo, thì chúng ta tìm cách thoái thác, bảo : " Cái đó không hợp với hoàn cảnh đất nước ".
    Cũng như vấn đề giao thông ở Đài Bắc, có thể là một vấn đề rất đơn giản, thế mà bấy nhiêu năm nay vẫn không dứt điểm được. Theo tôi cứ phạt nặng những kẻ phạm luật là xong. Nhưng có người lại đề xuất nào là phải dậy dỗ sự " lịch thiệp " cho những kẻ phạm luật, bởi vì như vậy mới hợp lẽ với Trung Quốc. Chúng ta đã lịch thiệp quá lâu rồi, bị giỡn mặt hoài không chịu nổi nữa, lại còn nhường nhịn đến bao giờ ? Chúng ta làm những chỗ qua đường cho người đi bộ để bảo vệ họ, nhưng kết quả là biết bao người đã bỏ mạng ở đó.
    Tôi có một người bạn lúc ở Đài Bắc là loại hay phóng nhanh vượt ẩu, đến lúc sang Mỹ bị phạt tơi bời, phạt đến đầu tối mắt hoa, cuối cùng không thể không chú ý được. Có mỗi luật đi đường, một việc thật đơn giản mà tại Trung Quốc vẫn còn là một vấn đề.
    Cứ nói đến cái hay của các nước khác là lại bị nghe câu " Sùng bái Tây phương, nịnh hót nước ngoài " ( Sùng dương, mị ngoại ). Sự thực nếu các nước Mỹ, Pháp, Anh, Nhật có điều gì tốt thì chúng ta phải học, cái xấu thì không học, chỉ đơn giản thế thôi !
    Có một người Mỹ viết một quyển sách : " Người Nhật làm được tại sao chúng ta lại không thể làm được ? " Thế mà chẳng có ai bảo ông giáo sư này là " sùng bái Đông phương, nịnh nọt nước ngoài ". Vì vậy mới biết cái hũ tương văn hóa đã sâu đậm làm người Trung Quốc mất hết khả năng hấp thụ và tiêu hóa, chỉ một mực trầm luân trong cái cảm tính của mình.
    Một anh bạn tôi lúc lái xe cứ thỉnh thoảng lại đột nhiên bóp còi một cái. Tôi hỏi tại sao. Anh đùa bảo : " Để cho thấy rằng tôi không mất gốc đấy ! ". Chúng ta hy vọng chúng ta có đầy trí tuệ để nhận rõ những khuyết điểm của mình, có đủ năng lực phán đoán phân biệt phải trái, làm cho, cái hũ tương kia nhạt đi, mỏng đi, thậm chí biến thành một hũ nước trong, hoặc một hồ nước mênh mông.
    Người Trung Quốc bị cảm tính chi phối, chủ quan thái quá, đối với việc gì cũng chỉ nhận thức, phán đoán bằng các tiêu chuẩn của những gì mình vốn thấy. Chúng ta nên nuôi dưỡng được cái con mắt nhìn sự vật một cách toàn diện, toàn thể. Rất nhiều sự tình phát sinh từ những góc độ không giống nhau, nên từ một góc độ càng phải xem xét một cách toàn diện. Từ hai điểm, đường ngắn nhất là một đường thẳng, đó là theo vật lý. Nhưng trong cuộc đời, cái cự ly ngắn nhất thường lại là cái quanh co nhất.
    Cho nên để trở thành một người biết thưởng thức, chúng ta phải tìm tòi được mục tiêu. Xã hội có trình độ thưởng thức sẽ đề cao được tài năng và phân biệt được cái tốt, cái xấu.
    Trước đây tôi từng được xem Khương Diệu Hương diễn kịch, lúc ấy bà đã ngoài 60, mặt đầy vết nhăn, chẳng còn cái đẹp của thủa nào, nhưng việc ấy không hề ảnh hưởng đến những thành tựu của bà. Đương lúc bà hát khúc " Em bé chăn trâu ", anh có thể hoàn toàn quên mất cái hình tượng già nua của bà. Một khi mọi người đều có trình độ thưởng thức cao, những điều ác sẽ tránh xa.
    Chẳng khác nào tranh tôi vẽ và tranh của Van Gogh để cùng một chỗ, có người không phân biệt được lại bảo : " Tranh của Bá Dương và Van-Gogh cũng như nhau ! " Nếu thế thì các nhà nghệ thuật chân chính phải chết hết và xã hội sẽ vĩnh viễn chẳng bao giờ có được những tác phẩm nghệ thuật giá trị nữa.
    Trung Quốc là một nước lớn, nhưng người Trung Quốc thật nhỏ mọn và hẹp hòi.
    Hôm kia tôi đáp máy bay tại phi trường Kennedy ở New York, lên phi cơ ngồi chợp mắt một tiếng, tỉnh lại vẫn chưa thấy máy bay bay, sau khi nghe ngóng mới biết họ đang đình công. Tôi rất kinh dị khi thấy hành khách vẫn trật tự bình thường, nói năng cười đùa như không có gì xảy ra.
    Nếu sự việc này mà xảy ra ở đất nước chúng ta cục diện sẽ hoàn toàn khác hẳn. Hành khách tất nhao nhao nhảy xổ ra hò hét : " Tại sao vẫn chưa bay ? ". Nhưng hành khách Mỹ lại nhìn từ một góc độ khác; vì họ nghĩ : Nếu tôi là nhân viên hàng không, không chừng tôi cũng tham gia cuộc đình công này. Nhìn vào đó người ta có thể thấy được khí độ của một nước lớn.
    Ở Mỹ tính khoan dung rất lớn. Không những nước Mỹ có thể khoan dung được các màu da và chủng tộc, lại còn chứa chấp được cả những ngôn ngữ, phong tục, tập quán khác nhau; thậm chí còn chịu đựng được cả những người Trung Quốc thô lỗ như chúng ta. Thái độ này nói lên tính bao dung của một nước lớn.
    Cứ nhìn lúc Reagan và Carter tranh luận trên ti-vi, bên này bên kia phát biểu chính kiến của mình, nhưng không ai dùng những lời lẽ thô lỗ để công kích nhau. Ri-gân không hề nói ông làm tổng thống mấy năm toàn chỉ dùng những người thân tín của mình. Các-tơ cũng không hề nói từ trước đến nay ông chưa hề có kinh nghiệm chính trị, làm sao có thể lèo lái được một quốc gia. Hai bên đều biểu lộ một thái độ cực tốt. Đó cũng là phẩm chất của một nền dân chủ cao độ.
    Đối với chính trị, cá nhân tôi không mấy quan tâm. Tôi cũng không khích lệ mọi người làm chính trị. Nhưng nếu ai thích thú thì phải tham dự, bất kể đang làm nghề gì, bởi vì chính trị thật quan trọng. Chỉ cần một điều luật được ban hành, có thể gia sản, tự do và ngay cả sinh mạng anh cũng có thể bị nó làm tiêu tan.
    Chúng ta không nhất thiết ai cũng phải làm chính trị, nhưng đều phải có khả năng đánh giá. Việc này không kém tầm quan trọng. Đánh giá không phải chỉ trong lĩnh vực chính trị, mà cả trong văn học nghệ thuật. Chẳng hạn như về tranh vẽ thì trình độ thưởng thức cực kỳ quan trọng. Nó sẽ bắt những người vẽ tranh như Bá Dương tôi phải thu mình vào một xó. Bởi nếu bày tranh mình ra người ta chỉ nhìn thoáng một cái đã biết giá trị, có thể nói : " Anh gọi thế này là vẽ à ? Thế mà còn dám đem cho người ta xem ư ? "
    Một xã hội có trình độ thưởng thức tức biết cái hay cái dở, tức không hồ đồ trước bất cứ một sự việc gì; chứ mọi người cứ ù ù cạc cạc như ở trong hũ tương, bẩn sạch, cao thấp cũng không phân biệt thì làm sao tiến bộ và phát triển được ?
    Tôi chỉ có vài ý kiến này đưa ra xin các vị thảo luận và chỉ giáo cho.
    Xin đa tạ !
    (còn tiếp)
  7. dola_vietnam

    dola_vietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/07/2005
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    0
    sao dài thế ngại đọc laắm . đại ý nó thế nào nói nghe coi . post cả đống thế này đọc đến mai à ?
  8. trancoc

    trancoc Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/10/2006
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    dài dã man !
    Thôi dù sao cũng được ngắm cái ảnh hơi xinh nên cũng đỡ mất công click vô.
  9. vinci_af

    vinci_af Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    Chào các pác, mấy hôm nay iem thi.. ko "phục vụ" các pác được..
    Xin tiếp tục câu chuyện..
    @ Pác dola_vietnam: Nghe cái tên bít ngay là pác bận lém, ko dám làm mất nhiều time của pác. Nhưng theo "thô thiển" ý của iem thì cha này viết đã ngắn gọn vá súc tích lắm rồi...Còn "...đại ý nó thế nào nói nghe coi ..." theo iem mỗi người đọc sẽ tự rút ra được cho mình được cái gì đó (ở đoạn nào đó thấy giống mình là ok rồi,), àh sau khi post xong loạt bài iem xin "mạnh dạn" trình bày ý kiến của mình.. Kính pác!
    @ trancoc: Pác chỉ thích mỗi cái ảnh đó thôi sao? Ngoài ra ko còn cái ghề khác??? Kính Pác!
  10. vinci_af

    vinci_af Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    Rất may mắn là những phần sau không dài lê thê như trên mà chỉ là những đoạn "nhỏ xíu xíu" đọc chỉ mất 10p (đấy là em đã cao su cho các pác có thói quen xấu là "ôm từng chữ" thoả mãn rồi mới đi ôm chữ khác đấy..). Tuy vậy, để suy nghĩ thấu đáo nó cũng không hề đơn giản..
    Lan man rồi..

Chia sẻ trang này