1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những câu chuyện xúc động!

Chủ đề trong 'Quảng Trị' bởi minh_le, 24/07/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. li2000

    li2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/06/2003
    Bài viết:
    600
    Đã được thích:
    0

    Bức ảnh nổi tiếng "Nụ cười chiến thắng dưới chân thành cổ"
    Đoàn Công Tính ở căn cứ Tân Lâm, điêm cao 241, Quảng Trị (2-4-1972)
    Những khoảnh khắc của Đoàn Công Tính​
    Có thể nói, mảnh đất Quảng Trị máu lửa, thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm ngút trời bom đạn đã làm nên tên tuổi của nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh quân đội Đoàn Công Tính. Cuốn sách ảnh Khoảnh khắc của ông với 2/3 số ảnh chụp ở Quảng Trị trong những năm tháng chiến tranh đã nói lên điều đó.
    Mới đây, trong chuyến Đoàn Công Tính về thăm lại chiến trường xưa, tặng sách cho đồng đội cũ, chúng tôi đã gặp gỡ ông tại bãi biển Cửa Tùng, Quảng Trị.
    Nghệ sĩ nhiêp ảnh Đoàn Công Tính: Tôi vào cuộc chiến với chiếc máy ảnh, đi một mạch từ Bắc vô Nam, trải qua những ngày tháng vô cùng khốc liệt của lịch sử Quảng Trị: 81 ngày đêm thành cổ. Con đường vào thành cổ lúc đó thật gian nan, có lời khuyên từ bộ chỉ huy mặt trận: không nên để cho phóng viên vào thành. Song lại có một điều gì đó thôi thúc khiến tôi phải tìm mọi cách vào thành cho bằng được.
    Tôi đã thuyết phục đảng ủy địa phương đóng ở thôn Nhan Biều, bên này sông Thạch Hãn, và nhận được lời khuyên nên bám tuyến đi ra của đường vận chuyển thương binh cũng khối tài liệu rồi. Nhưng ống kính của tôi đã từ lâu gắn bó với chiến trường Quảng Trị với hình ảnh chiến sĩ ta đánh sụp hàng rào điện tử McNamara, bộ đội cắm cờ lên căn cứ Đầu Mầu... hay hình ảnh cả trung đoàn 56 ngụy quân phản chiến, quay súng trở về với cách mạng. Giờ đây, tôi phải có hình ảnh chiến sĩ ta chiến đấu bảo vệ thành cổ.
    Nghe tôi trình bày với đảng ủy xong, một nữ du kích nói vui: ?oNhà báo đã ?ongoan cố? muốn vào thành cổ thì em xin xung phong dẫn đường?. Thế là tôi được hai o du kích tên là Lệ và Hảo dẫn đường vượt sông Thạch Hãn trong một đêm, khi mặt sông lấp lánh dưới ánh hỏa châu... Thành cổ! Tôi đã từng chụp hình ảnh thành cổ lúc mới được giải phóng, dinh tỉnh trưởng còn nguyên vẹn. Còn thành cổ ngày 16-8-1972: không viên gạch nào còn nguyên vẹn, chỉ có nụ cười các chiến sĩ là vẫn vẹn nguyên, rạng rỡ. Các chiến sĩ nói mỗi khi tôi giơ máy ảnh lên: ?oCó thể ngày mai đây một số anh em chúng tôi không còn nữa, nhưng thành cổ sẽ sống mãi...?.
    * Những bức ảnh của ông chụp thành cổ Quảng Trị được kịp thời đăng tải trên trang nhất báo Quân Đội Nhân Dân là những tài liệu sống cực kỳ quí giá giúp cho phái đoàn ta tại Hội nghị Paris giành thắng lợi trên mặt trận ngoại giao.
    - Tôi đã may mắn được gặp lại nguyên mẫu của bức ảnh Nụ cười chiến thắng dưới chân thành cổ Quảng Trị, một cuộc gặp dù hơi muộn màng nhưng thật cảm động. Bao nhiêu năm xa cách, tôi cứ ngỡ là người mà tôi đã chụp trên chiến trường đã chết, ngay cả khi tôi về thăm Quảng Trị, người hướng dẫn viên du lịch lúc giới thiệu bức ảnh người lính đẹp trai với nụ cười sống mãi của tuổi 20 cũng đi kèm với câu: ?oThật tiếc, người lính ấy đã hi sinh?.
    Chỉ đến khi một người quen phát hiện chính nhân vật trong ảnh là người cùng quê với anh và cho biết rằng hiện anh ấy - Lê Xuân Chinh - đã lên Điện Biên làm kinh tế. Hóa ra anh Chinh chỉ bị thương sau khi được tôi chụp ảnh một ngày, phải chuyển ra tuyến sau điều trị, ngày về kẻ gian móc túi anh lấy hết giấy tờ, cuối cùng không được hưởng một chế độ gì. Đây cũng là một cuộc gặp ý nghĩa, bởi sau đó các giấy tờ của anh được xác minh lại, giờ cuộc sống của anh Chinh cũng tạm ổn.
    Tôi thấy hạnh phúc vì đã góp phần nhỏ bé giữ lại hình ảnh của những người lính, một chút kỷ niệm trên đường hành quân hay một nụ cười. Dù cái nụ cười hồn nhiên, yêu đời và chan chứa sức trẻ của Chinh năm nào - ?oNụ cười chiến thắng dưới chân thành cổ Quảng Trị?, do một cuộc sống vất vả, éo le nên không thể còn được như xưa nữa, tôi vẫn tin rằng thời gian không làm khác đi sự tự tin yêu đời trong nụ cười của những con người ấy.
    * Cuốn sách ảnh Khoảnh khắc là bản tráng ca hào hùng ngợi ca cuộc chiến tranh chính nghĩa giành độc lập tự do của chúng ta, là kết quả của một đời cầm máy đầy nhiệt tâm của NSNA Đoàn Công Tính.
    Được li2000 sửa chữa / chuyển vào 20:53 ngày 21/06/2004
  2. hoasosac

    hoasosac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/09/2003
    Bài viết:
    3.002
    Đã được thích:
    0
    Chuyển bài viết của Rockerfeller vào đây nhé !
    Chuyện người lính may cờ bên sông Bến Hải
    17:48'''', 18/7/ 2004 (GMT+7)
    Trong những tháng năm chiến tranh ác liệt, ông đã miệt mài may những lá cờ Tổ quốc để treo lên cột cờ Hiền Lương. Đó là ông Nguyễn Đức Lãng, quê ở xã Cam Hiếu, huyện Cam Lộ, nay đang sinh sống tại khu phố 7, phường 5, thị xã Đông Hà (Quảng Trị).
    Năm 1959, vừa bước vào tuổi 20, chàng trai Nguyễn Đức Lãng háo hức lên đường nhập ngũ trong đoàn quân đầu tiên thực hiện nghĩa vụ quân sự của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau một thời gian được huấn luyện tân binh ở đặc khu Vĩnh Linh, anh được điều về công tác ở phòng hậu cần thuộc lực lượng Công an vũ trang Vĩnh Linh. Năm 1960, anh được cấp trên giao nhiệm vụ ra kho 101 Cục tham mưu bộ tư lệnh ở Hà Nội để nhận cờ về treo trên cột cờ Hiền Lương. Thời đó, cờ Tổ quốc có rất nhiều cỡ, anh nhận về 2 loại: loại cỡ 4,8m x 3,2m dùng để treo trên cột cờ Hiền Lương tạm làm bằng thân của cây phi lao. Loại 4m x 6m dùng treo trên cột cờ bằng sắt. Những lá cờ Tổ quốc được anh gói ghém cẩn thận, gùi cõng an toàn mang về treo trên cột cờ Hiền Lương. Những ngọn cờ ngày ngày tung bay trong niềm tự hào của nhân dân bờ Bắc và thỏa lòng mong ngóng của đồng bào ruột thịt ở bờ Nam.
    Cách một quãng của dòng sông Bến Hải, từ phía bờ Nam, mỗi khi nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió ở phía bờ Bắc là bọn giặc vô cùng căm tức, chúng ***g lộn nã đạn liên hồi để phá rối, chúng thường xuyên cho tăng chiều cao của cột cờ và cho may những lá cờ ba que to hơn. Để đáp lại, phía ta cũng cho tăng chiều cao của cột cờ và không ngừng tăng diện tích của những lá cờ. Lúc cột cờ của ta có chiều cao cao nhất là 38,6 mét và diện tích của lá cờ là 96 m2 (loại 8m x 12m), đó là thời điểm năm 1962.
    Thời gian đầu, anh Lãng thường xuyên ra Hà Nội để nhận những lá cờ như thế về treo, nhưng hoàn cảnh chiến tranh ngày mỗi thêm ác liệt, bọn địch ở bờ Nam ngày mỗi tăng cường bắn phá dữ dội ra hướng bờ Bắc. Khoảng cách từ Vĩnh Linh ra Hà Nội lại quá xa, trong lúc điều kiện về phương tiện giao thông và đường sá thời bấy giờ vô cùng hạn chế. Trước tình thế đó, Bộ Tư lệnh quyết định cấp tiền cho lực lượng Công an vũ trang Vĩnh Linh tự mua vải về để may cờ. Anh Lãng lại được phân công nhiệm vụ đi mua vải mang về thuê Hợp tác xã May Nam Hồng ở xã Vĩnh Nam, Vĩnh Linh may, cứ mỗi lá cờ như thế phải thanh toán tiền công may đến 15 đồng (đây là một khoản tiền rất lớn vào thời điểm này). Toan tính đủ mọi phương cách để làm sao giảm được chi phí trong việc may cờ, và thế là trung sĩ Nguyễn Đức Lãng đã mày mò để học cách tự may cờ.
    Khi đã may thạo, ngay lập tức đơn vị điều động cho anh một chiếc máy may Liên Xô. Những lá cờ đầu tiên anh may có chút ít bỡ ngỡ, nhưng sau đó thì "mô cũng vô nấy cả". Cứ trung bình 5 ngày anh Lãng hoàn tất việc may 2 lá cờ, mỗi lá may hết 122 mét vải màu đỏ, 12 mét vải màu vàng. Do điều kiện chiến tranh không mua được vải xoa, anh phải may cờ bằng vải của dệt Nam Định loại khổ 80, ký hiệu 152, trên mỗi biên cờ phải may đến 5-6 đường chỉ, mới hy vọng chịu nổi sức gió. Mỗi lá cờ thời đó, sau khi may xong, đóng gói thì cân nặng đến 12kg.
    Ngày tháng cứ qua đi như thế, để ngọn cờ Tổ quốc mãi mãi tung bay trên bờ sông giới tuyến, anh Lãng đã phải ngày đêm cần mẫn may cờ. Thời đó, cứ gần một tháng là thay một lá cờ mới, nhưng mùa gió Lào thì 15 ngày đã phải thay cờ. Vậy là mỗi năm anh Lãng phải may từ 10 đến 12 lá cờ diện tích 96 m2. Những năm 1967-1968, địch ngày càng leo thang ra đánh phá miền Bắc ác liệt, vùng giới tuyến Vĩnh Linh trở thành một vành đai lửa, là tọa độ số một trong kế hoạch oanh kích của quân thù. Sau mỗi cuộc bắn phá ác liệt là cờ Tổ quốc bên dòng sông Bến Hải lại bị rách tả tơi. Vậy là, một phần phải may lại cờ mới, một phần những lá cờ bị rách thì nhờ vào đôi bàn tay và tấm lòng của mẹ Nguyễn Thị Diệm (Vĩnh Linh) vá lại.
    Ngoài công việc may, vá để những ngọn cờ đỏ sao vàng thường xuyên tung bay trên vùng trời giới tuyến, anh Lãng còn nhận nhiệm vụ may những lá cờ cỡ 4m x 6m để cung cấp cho các Đồn Mũi Si, Cửa Tùng, Cù Bai, Huỳnh Thượng, Phát Lát? Những phút rảnh rang anh còn may vá áo quần cho anh em đồng đội.
    Năm 1968, anh được cấp trên cử ra Bắc để tập huấn lớp quân chính kéo dài 6 tháng, sau đó trở về Vĩnh Linh tiếp tục nhiệm vụ may cờ Tổ quốc cho đến năm 1973. Năm 1974, chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng miền Nam, anh được tổ chức điều động vào với chiến trường khu 5 và được bổ sung vào lực lượng an ninh Phú Yên. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, anh về làm trợ lý hậu cần lực lượng Công an vũ trang tỉnh Phú Khánh. Năm 1979, anh nghỉ hưu với cấp hàm trung úy, sau đó anh đưa gia đình về định cư tại thị xã Đông Hà cho đến ngày nay.
    Bây giờ thì chàng trai Nguyễn Đức Lãng, người may cờ bên sông giới tuyến năm xưa, đã thành một ông già qua tuổi "thất thập cổ lai hy". Từ ngày nghỉ hưu đến giờ ông vẫn tham gia vào công tác Đảng ở địa phương, hiện ông là Chủ tịch UBMT Tổ quốc Việt Nam phường 5, thị xã Đông Hà. Anh con trai cả của ông là kỹ sư xây dựng, người con trai kế nay là sĩ quan an ninh, cô con gái út là giáo viên ngoại ngữ. Cả ba người con ông đều đã thành gia thất và sinh sống bình yên bên cạnh ông bà.
    Chiến tranh đã dần trôi về quá khứ rất xa, nhưng khi gợi nhớ về những câu chuyện của gần 50 năm trước, ông vẫn hào sảng như ngày đang là thanh niên dồi dào sức trẻ. Kể chuyện cho tôi nghe, ông vẫn nhớ như in từng "đường kim, múi chỉ", con tim vẫn sục sôi như thuở nào khi nói về lá cờ Tổ quốc, nói đến niềm tự hào của dân tộc Việt Nam anh hùng.
    (Báo Bình ĐỊnh)
    http://www.thanhnien.com.vn/TinTuc/TheGioi/TuLieu/
  3. li2000

    li2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/06/2003
    Bài viết:
    600
    Đã được thích:
    0
    Người đi dọc hành trình Thành Cổ

    Người Quảng Trị biết đến một Nguyễn Thanh Bình, nhân viên thương nghiệp Triệu Hải; một Nguyễn Thanh Bình buôn ốc bươu, ớt quả; một Nguyễn Thanh Bình với thương hiệu "Hoa cây cảnh Thanh Bình"... Vậy nhưng, còn có một Nguyễn Thanh Bình, chiến sỹ trinh sát chiến trường Thành cổ, người đang lưu giữ trong mình ký ức bi hùng 81 ngày đêm máu lửa.
    Ông gọi 81 ngày đêm chiến đấu ở chiến trường Thành cổ là "81 ngày đêm nhật ký cuộc đời". Trong giọng nói và lời ông kể, trong chiều sâu ánh mắt ông chất chứa nỗi niềm về nghĩa tình đồng đội tử sinh lẫn sự cảm phục về ý chí kiên cường của quân dân ta ngày ấy.
    Ngày ấy, ông còn rất trẻ và đồng đội của ông cũng thế, hầu như ai cũng mười tám đôi mươi là cùng. Cuộc chiến vô cùng khốc liệt, có những đơn vị liên tục phải bổ sung quân cho nên có khi họ chưa kịp biết quê quán, tên tuổi của nhau, chưa kịp biết cả tên người chỉ huy đơn vị mà đã phải xa nhau. Chỉ thế thôi, những người lính của "81 ngày đêm máu lửa" nơi cái thị xã nhỏ bé chỉ đầy 3 cây số vuông, làm cho ông đau đáu mãi. Bởi ông đi qua chiến tranh và được sống như bây giờ theo ông là may mắn hơn rất nhiều đồng đội rồi.
    17 tuổi xung phong đi bộ đội. Sau đợt huấn luyện ở K11 trinh sát Quân khu Trị Thiên, tháng 6/1972, Nguyễn Thanh Bình nhận lệnh gấp rút bổ sung cho K8 Tỉnh đội Quảng Trị và kịp "thử lửa" trận đầu vào ngày 28/6 tại chốt ngã ba Long Hưng mà lính ta quen gọi là "ngã ba đường nhựa". Nhưng trước đó 10 ngày, ông đã kịp vào Thành cổ để trinh sát địa bàn và nắm tình hình. Và ông đã chứng kiến lịch sử bi tráng từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng của 81 ngày đêm bão lửa.
    Ký ức bi hùng
    Những ngày đầu vào trận, ông cũng run lắm và sợ nữa. Nhưng rồi "càng đánh càng say", đặc biệt khi ông chứng kiến lời thề nghiêm trang của C trưởng C3 Nguyễn Văn Dụ trong giờ phút quyết tử ở chốt ngã ba Long Hưng, còn gọi là "Lũy thép Tây Nam Thành cổ". Hôm ấy, khoảng ngày 16/7, cuộc chiến trở nên quyết liệt, căng thẳng gấp bội phần. Sau khi phòng tuyến Long Hưng bị vỡ, đơn vị của ông cùng một số tiểu đoàn của Sư 312, 304... tạm thời rút về sông Thạch Hãn án ngữ bảo vệ phía Nam Thành cổ.
    Nguyễn Thanh Bình vừa thực hiện nhiệm vụ nắm tình hình, truyền tin tức mệnh lệnh, vừa chiến đấu, đồng thời đảm nhiệm việc nhận quân. Chiến sự ác liệt có lẽ bây giờ kể lại hẳn ít ai tưởng tượng nổi. Có lúc trận địa ở thế "cài răng lược", địch và ta cách nhau vài mét giao thông hào, chỉ một làn khói thuốc hay một tiếng nói vọng ra là bom đạn của chúng lại chụp xuống. Năm đó trời mưa lớn, nước ngập hầm hào, bộ đội ta ngày lại ngày dầm mình trong nước. Cuộc chiến ngày một quyết liệt, quân số hao hụt nhiều đòi hỏi phải kịp thời bổ sung.
    5h chiều, ông nhận lệnh từ Thành cổ ra Gio Linh nhận quân, 4 - 5h sáng hôm sau ông đã trở vào. Tôi chưa kịp hỏi ông đi bằng gì mà nhanh dữ vậy, ông đã thản nhiên: ''''Chạy bộ. Gặp sông thì bơi, gặp ruộng thì lội, gặp đường bộ thì chạy. Sông Thạch Hãn tôi bơi qua bơi lại như chơi''''.
    Ông bảo với tôi: "Chiến tranh, lửa đạn và cái chết luôn cận kề nhưng người lính vào trận không hề bi lụy. Cũng có lúc vui cười hả hê lắm. Đặc biệt là sau những trận thắng giòn giã. Vậy nên trước những đau thương, hy sinh của đồng đội, chúng tôi chỉ duy nhất một con đường: Xốc tới, trút căm hờn lên đầu quân thù?.
    Nghề trồng hoa và nỗi niềm người cựu chiến binh
    Cho dù bây giờ hoa và cây cảnh trong vườn đã cho người cựu chiến binh Thành cổ Nguyễn Thanh Bình thu nhập hàng năm dăm bảy chục triệu đồng, đủ để trang trải cuộc sống, nuôi con cái và xây dựng cơ ngơi mà nhiều người không ngờ tới. Rời quân ngũ năm 1981, ông chuyển ngành qua thương nghiệp nhưng hiềm nỗi gần 10 năm trời vật lộn mưu sinh với cái nghề mà ở thời bao cấp người ta cho là "vương tướng" cũng không giúp ông khá nổi. Về ''''176'''', ông lại tiếp tục đi buôn. Buôn ốc bươu rồi buôn ớt quả tươi ra Hà Nội và lại bươn bả kiếm ít hàng chạy ngược về miền Trung. Và trong những lần đợi hàng đó, ông có dịp lân la đến các làng hoa. Ngắm hoa lá cỏ cây của đất Hà thành, ông bồi hồi nghĩ tới chốn quê nghèo Quảng Trị trơ trọi vì chiến tranh bom đạn, vì rát bỏng gió Lào và ông bỗng thèm đến nao lòng một khu vườn có thật nhiều hoa lá.
    Trở về thị xã Quảng Trị, ông loay hoay với cái ý định mới của mình. Mọi người cười ông, cả vợ ông cũng cười ông: ''''Người Quảng Trị nghèo khổ và cơ cực, ai chơi hoa mà trồng''''. Ông quả quyết: ''''Tôi sẽ trồng hoa. Không ai dùng đến thì tôi sẽ đặt ở đài tưởng niệm hay thả xuống dòng Thạch Hãn chỗ đồng đội tôi nằm''''. Thế rồi mọi cái cũng đâu vào đấy cả. Ông đã thành công với thương hiệu ''''Hoa cây cảnh Thanh Bình''''.
    Con cái đã lớn khôn, cuộc sống trong gia đình cũng khá lên. Vậy nhưng mấy ai biết rằng, hằng đêm, ông vẫn nghe lời gọi thống thiết của những đồng đội từ cõi tâm linh sâu thẳm. Ông kể cho tôi nghe chuyện một người lính tên là Viễn đã về tìm ông trong giấc mơ. Nghe ông kể tôi cứ ngỡ trong truyền thuyết. Như để khẳng định cho lời kể của mình, ông bảo: ''''Tôi đã tìm ra hài cốt của anh ấy và hai người nữa ở khoảnh đất nơi hiệu giày Thành, đúng y như lời anh ấy chỉ dẫn. Sau này, các đồng chí cựu chiến binh Trung đoàn 48 đã xác nhận anh Viễn là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2 đã hy sinh cùng hai người khác, trong đó có một đồng chí liên lạc''''.
    Từ đó trở đi, ông đã tìm thêm rất nhiều hài cốt liệt sỹ, đưa anh em về nghĩa trang Thành cổ. Ngôi nhà của ông trở thành điểm dừng chân của rất nhiều thân nhân liệt sỹ và nhiều đồng đội trở lại chiến trường xưa. Tôi bày tỏ lòng cảm kích trước nghĩa tình đồng đội của ông, ông xua tay: ''''Tôi chỉ là hạt cát nhỏ bé trong cái biển cả bao la của nghĩa tình đồng đội. Mười ngàn bộ đội ta đã ngã xuống đất này. Tôi may mắn còn sống đến hôm nay và lại được sống ở nơi này, nghĩa tình đó làm sao tôi trả hết". Vâng! Ông là hạt cát nhưng là hạt cát trong truyền thuyết về con trai ngậm ngọc đau đáu nỗi niềm nghĩa tình đồng đội tử sinh.
    (Công an nhân dân )
  4. hoasosac

    hoasosac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/09/2003
    Bài viết:
    3.002
    Đã được thích:
    0
    Cuộc kỳ ngộ của hai nữ anh hùng

    Hai người bạn chiến đấu, hai liệt sĩ, hai Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thị Vân Liệu và Nguyễn Thị Nhạ "lạc" nhau 36 năm, cho đến đêm Huyền thoại Trường Sơn, đồng đội của hai chị - qua sóng truyền hình - mới tìm ra được. Bây giờ, hai người bạn đã về nằm bên nhau giữa những người đồng đội của mình. Họ vẫn như thế, mãi mãi tuổi hai mươi...
    Nữ anh hùng phá bom trên tuyến lửa
    Chị là Nguyễn Thị Vân Liệu, tên thật là Nguyễn Thị Liệu, sinh năm 1945 tại xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Ngày 28/6/1965, theo tiếng gọi của tiền tuyến, cô gái 20 tuổi Nguyễn Thị Liệu tình nguyện nhập ngũ. Từ quê nhà ra thẳng tuyến lửa Trường Sơn, làm nhiệm vụ tại Binh trạm 14, Đoàn 559 (bộ đội Trường Sơn), Vân Liệu đã trực tiếp có mặt trên các tuyến đường bị máy bay địch bắn phá ác liệt nhất.
    Nhiều người kể rằng, nửa cuối những năm 60, trên các "tọa độ lửa" của Trường Sơn - các "cung đường tử thần", bom địch đủ các loại thả dày như rải thảm. Cả ngày lẫn đêm, tất cả các đơn vị công binh, TNXP đã căng hết sức ra mặt đường để phá bom, san đường, thông xe cho những chuyến xe bộ đội chở quân lương, vũ khí đạn dược kịp ra tiền tuyến. Đường vừa thông thì máy bay địch lại trút bom xuống phá hủy, hàng trăm hàng ngàn quả bom nổ chậm vùi sâu trong lòng đất, hiểm họa luôn luôn rình rập. Trong nỗ lực gỡ mìn phá bom thông đường, rất nhiều TNXP, bộ đội công binh đã anh dũng hy sinh. Nhiều xe, hàng trúng bom đã bốc cháy. Rất nhiều cung đường bị tắc nghẽn, kéo theo những chuyến xe nằm dài chờ đợi trong khi mặt trận đang cần chi viện. Những tổn thất, thương vong rất lớn vào thời điểm ấy đã đặt bộ đội ta vào tình thế khó khăn không nhỏ, đòi hỏi bằng cách nào đó, phải vừa hạn chế thấp nhất những tổn thất hy sinh, vừa đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ thông đường, thông xe ra mặt trận.
    Giữa lúc đó, cô trung sĩ công binh trẻ Nguyễn Thị Vân Liệu đã nảy ra sáng kiến dùng bộc phá để phá bom nổ chậm, một giải pháp rất hiệu quả và an toàn, tránh được những thương vong không cần thiết. Từ sáng kiến của Vân Liệu, rất nhiều đoạn đường có bom nổ chậm, những "cửa tử" trên tuyến Trường Sơn đã được thông suốt, đảm bảo cho hàng ngàn chuyến xe vào chiến trường miền Nam an toàn. Cũng từ đây, tuổi trẻ trên đường Trường Sơn đã sôi nổi dấy lên phong trào thi đua chiến đấu và phục vụ chiến đấu theo gương Nguyễn Thị Vân Liệu - một phong trào thi đua đã góp phần không nhỏ làm nên những chiến công huyền thoại của bộ đội ta trên khắp các chiến trường.
    Năm 1968, trong một lần trực tiếp tham gia phá bom nổ chậm trên đường Trường Sơn, Vân Liệu đã bị thương nặng. Chị được đưa về bệnh viện dã chiến ở biên giới Việt - Lào. Tại đây, các bác sĩ đã tiến hành phẫu thuật nhưng do vết thương quá nặng, chị đã hy sinh khi mới 23 tuổi đời... 33 năm sau ngày Nguyễn Thị Vân Liệu hy sinh, những công lao cống hiến của chị đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
    Kỳ ngộ sau 36 năm
    Rất nhiều năm sau ngày hòa bình, những người thân và đồng đội của Nguyễn Thị Vân Liệu vẫn chưa biết chị đang nằm lại nơi đâu giữa núi rừng Trường Sơn. Người thân không tìm ra chị, còn những người quản trang tại Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn thì biết tại khu mộ Hà Nam Ninh có một phần mộ của liệt sĩ mang tên Vân Liệu nhưng lại ghi quê quán tại xã Kim Sơn (thay vì xã Thi Sơn) nên không ai nghĩ đó chính là phần mộ của người nữ anh hùng. Hơn 30 năm, người con gái Hà Nam đã lặng lẽ nằm lại giữa lòng Trường Sơn như thế.
    Cho đến ngày Thương binh - liệt sĩ 27/7/2004, tên của chị đã được trang trọng nhắc đến trong chương trình truyền hình trực tiếp Huyền thoại Trường Sơn do Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện tại nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất cả nước. Người dẫn chương trình Diễm Quỳnh khi dâng hương và đặt hoa trắng lên phần mộ Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Thị Nhạ đã nhắc đến tên chị Vân Liệu - nữ Anh hùng liệt sĩ cùng đơn vị chiến đấu với Nguyễn Thị Nhạ, kèm theo một chi tiết quan trọng được sóng truyền hình gửi đi khắp cả nước: Phần mộ Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Thị Vân Liệu hiện chưa được tìm thấy. Ai có thông tin về chị xin thông báo về số điện thoại nóng 090...
    Biên tập viên Thạch Lựu, người trực tiếp nhận thông tin gọi vào đường dây nóng kể lại: Chỉ ít phút sau khi VTV3 phát trực tiếp cảnh quay MC Diễm Quỳnh tại khu mộ Anh hùng - Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, đã có người gọi điện đến. Đó là một bác sĩ người miền Bắc, ông cho biết mình là bạn của vị bác sĩ đã trực tiếp phẫu thuật cho Vân Liệu nhưng không thành công tại bệnh viện dã chiến ở biên giới Việt - Lào. Theo lời kể của bạn ông thì sau khi hy sinh, chị Vân Liệu đã được đưa về an táng tại khu mộ tạm của bộ đội Trường Sơn ngày ấy và một thời gian sau thì được đưa vào khu mộ Hà Nam Ninh - Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Như vậy, dù có một chút sai lệch về thông tin nhưng phần mộ của nữ liệt sĩ Vân Liệu tại khu mộ Hà Nam Ninh chính là phần mộ của Anh hùng Vân Liệu mà lâu nay người thân và đồng đội vẫn đang tìm kiếm.
    Thông tin đến nhanh và bất ngờ không chỉ với người xem truyền hình trên cả nước mà còn cả với những người làm chương trình. Đây là một chi tiết thật ý nghĩa cho một chương trình truyền hình lớn tại Quảng Trị. Những ngày cuối tháng 12/2004, lãnh đạo tỉnh, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cùng với Ban Quản lý Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn đã trang trọng làm lễ đưa hài cốt liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Thị Vân Liệu từ khu mộ Hà Nam Ninh về an táng tại khu mộ Những anh hùng Trường Sơn. Cuộc hội ngộ sau 36 năm của hai người nữ anh hùng trên tuyến lửa Trường Sơn ngày nào - Nguyễn Thị Vân Liệu và Nguyễn Thị Nhạ - đã diễn ra như thế. Bây giờ các chị về cùng nhau giữa lòng đất Quảng Trị, mãi mãi ở tuổi hai mươi tươi trẻ và những chiến công bất tử cùng với các tượng đài...

    Theo báo Thanh Niên
  5. ngo_dung

    ngo_dung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2004
    Bài viết:
    141
    Đã được thích:
    0
    Em muốn tìm toàn bộ bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh, một sinh viên năm thứ 4 khoa Xây dựng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, quê ở Kiến Xương - Thái Bình trên mạng nhưng không thấy, bác nào có giúp em với. Em cảm ơn rất nhiều. nthxe@yahoo.com
  6. hoasosac

    hoasosac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/09/2003
    Bài viết:
    3.002
    Đã được thích:
    0
    Hiện toàn bộ bản gốc bức thư nằm ở Bảo Tàng Thành Cổ Quảng Trị !.
  7. ngo_dung

    ngo_dung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2004
    Bài viết:
    141
    Đã được thích:
    0
    Thanks, em biết là toàn bộ bức thư sẽ nằm ở Bảo Tàng Thành Cổ Quảng Trị. Em đã vào xem trang www.quangtri.gov.vn trong đó có giới thiệu về bảo tàng này. Nhưng em nói thật, trang này làm sơ sài quá. Bác nào giúp em đi, chả nhẽ phải đợi đến khi em vào được Quảng Trị mới có bức thư này ư? Các bác giúp em với. Em đã gửi YM tới Mod của Box này để xin nhưng ko thấy trả lời.
  8. bat__hoi

    bat__hoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2004
    Bài viết:
    241
    Đã được thích:
    0
    Nghĩ lui nghĩ tới mà bat__hoi cảm thấy thất vọng về mình quá. Bao nhiêu người ở xa xôi thì muốn biết về Thành Cổ quê mình, rứa mà nhà bat__hoi ở rất gần thì lại chẳng bao giờ ghé chân vào bảo tàng. Ah hình như có một lần, nhưng mà lần ấy là do bị đứa bạn cho leo cây nên đi lang thang, "lạc" vô bảo tàng. 30.4 này nếu mà về nhà được, chắc chắn là sẽ vô tham quan lại bảo tàng TC, và dĩ nhiên là không thể không đọc bức thư trên rồi
  9. kiepngheo2

    kiepngheo2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2003
    Bài viết:
    233
    Đã được thích:
    0
    Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết.
    Tôi hơn em sáu tuổi . Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẩm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cỏng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngôì ăn cơm bên ngọn đèn dầu , tôi và em hỏi han, an ủi mẹ . Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.
    Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm , lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều . Một tuần bảy ngày , mẹ đi đi về về trong nổi cô đơn.
    Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn củ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi . Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy Hiệu trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đổ được bằng tiểu học năm đó.
    Vào lớp đệ thất trường Trần quốc Tuấn , tôi tiếp tục học ngày, học đêm, năm đệ ngủ tôi thi nhảy một lần nửa lấy bằng Trung học. Đến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn củ , tôi hân hoan nhập bầy chung với đám bạn ngày xưa . Đây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con gái trường nử, thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đâù công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền . Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghiã là cũng chỉ bé thua tôi vài tuổi .
    Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi .
    Hết năm đệ tam , tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ . Một lần nửa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi trâm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng ho . Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt , và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc , nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau , và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở...
    Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con gái , đã bắt đầu bước vào "tuổi ngọc" , nhưng tội nghiệp , biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành tài . Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới , hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi . Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi " quyền huynh thế phụ" . Nhiều lúc nhìn mẹ , nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi .
    Tôi thi đổ Tú Taì toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học Đại học Văn khoa . Mẹ ở một mình với em ở Đà nẳng. Mỗi cuối tuần , tôi theo xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường . Ở Huế, tôi tiếp tục công việc kèm trẻ tư gia . Với số tiền nhỏ nhoi kiếm đuợc, tôi phụ mẹ một ít nuôi em.
    Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê , sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế.
    Lật đật trở vào Đà nẳng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu , không kịp ăn uống , từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện . Trong căn phòng nhỏ , dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Đứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động , và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khoé mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt .
    Đánh thức em dậy, em ngơ ngác duị mắt vài giây . Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và oà lên khóc, em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở lại . Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt một tỉnh mach ở đầu . Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y tá buì nguì nhìn em , đôi mắt xót xa ...
    Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ , em mệt mỏi , nên chỉ một thóang là đã ngủ say . Trong giấc ngủ mệt nhọc , thỉnh thoảng em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập chờn . Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc .... nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai giòng nước mắt chảy nhạt nhoà trên má.
    Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì . Mẹ đi trong yên lặng. Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy . Hai anh em hôn lên trán mẹ gỉa từ. Em vuốt mắt mẹ . Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi... Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẩm cả vạt áo me bạc màụ . Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em , lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi . Em mới mười ba tuổi ...
    +++++++++
    Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nửa . Nhưng em thì phải trở lại trường.
    Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi . Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi , cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học với Hân, cũng may , bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn dò em đủ điều . Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may áo quần , tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng , hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời .
    Tôi vào trường Võ bị Đà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về cho em mỗi tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em hứa là không bao gi dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lờị Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt không rời . Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ , nước mắt lưng tròng.
    Em lớn lên và ngày càng giống mẹ . Cũng khuôn mặt và cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt . Bình thường em rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ qúa sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khoá của tôi, em và Hân cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư phạm Qui Nhơn, hai năm nửa em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp , tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người .
    Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi thích màu mủ đỏ . Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ hơn con trai, như áo quần, son phấn... Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy năm qua . Em kể chuyện học hành , chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhở có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau, em không nói thêm , nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình , nếu nhở....
    Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng . Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một Sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói . Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già.
    Chiến tranh ngày thêm khốc liệt, đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ em lo lắng. Trong những tuần lể nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những "kỳ tích " của bạn tôi, của Mễ, của Lô ....
    Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm . Thọat nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong suốt tuần lểở Phan rang, em vẫn phải đi dạy , nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng , trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với tôi cho tới khuya . Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim củ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối , tôi thấy mắt Tuấn long lanh ...
    Bảy ngày phép cũng trôi nhanh . Tôi trở về Saigòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm khổ em . Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn , trong thư Tuấn kể về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi . Tuấn hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em . Đọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu . Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng nghèo .
    Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng , thầy cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị . Nhìn em súng sính trong bộ đồ cưới , tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi , mẹ ơi , về đây dự đám cưới của em.
    Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nửa ở vùng giới tuyến , thì "tai nạn" xảy ra . Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông, kết qủa là tôi bị đưa ra hội đồng kỹ luật và tống ra khỏi binh chủng nhảy dù.
    Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục Tâm lý Chiến , thời gian này tôi đã khá nổi tiếng , những bút ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình Long. An Lộc ... đã làm vinh danh binh chũng củ của tôi . Tôi được giải thưởng văn học với bút ký "Mùa hè đỏ lửa". Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan rang, gần trường em dạy .
    Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rãnh rỗi, tôi lại ra Phan rang ở chơi với em, với cháu . Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc của đời theo tiếng cười lanh lãnh dòn tan của cháu mà bay xa, bay xa . Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẩm chẩm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao uớc mẹ tôi nhìn thấy được cảnh này .
    +++ +++
    Biến cố tháng 4 /75 tới như một định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo . Em ở lại một mình với một bầy con nhỏ , đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ . Trong trại , tôi cứ đứt ruột nghĩ về em vàbầy cháu nhỏ . Mẹ của Tuấn đã qúa già, làm sao lo phụ với em đâỵ Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ , mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo dược cho em ...
    Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi . Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam , từ Trảng lớn, qua Suối máu , đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu . Tù nhân đông qúa ...
    Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em .Thư em đến tay tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhoà . Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã qúa già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.
    Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được , bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn nguời đàn ông lạ, bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào , bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái . Đứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi .
    Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam . Bố ở chơi một ngày rồi bố trở về Hà nội . Lúc bố về em có tặng bố cái radio-cassette của anh cho ngày nào . Bố thích lắm, bố hưá sẽ đến thăm anh trong trại tù . Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy .
  10. kiepngheo2

    kiepngheo2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2003
    Bài viết:
    233
    Đã được thích:
    0
    Tie^''p
    Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng như em , không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mủi ra sao, hai mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết.
    Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi .
    Đứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá thẳng thớm , và sự lễ phép của tên đại úy truởng trại tiết lộ về điạ vị không nhỏ của người này . Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước ra ngoài . Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa lạ .
    Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình , bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ , có lẽ ông đã biết về cái chết của mẹ. Bố nói là có đọc văn tôi . Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng , bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá , trao cho tôi , khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dững dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình.
    Đó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy . Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn cách , có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không diễn tả được . Bây gi tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư .
    Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.
    Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá thư của em , trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào . Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờđã quá yếu , mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra , mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo . Em than là dạo này mất ngủ, sức khoẻ yếu lắm , em sợ nhở có mệnh hệ nào ...
    Tôi thẩn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập gía đời đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi , khuyên em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu , vì Tuấn đi hải quân và lon còn thấp , không có tội với cách mạng nhiều . Rồi tôi viết thêm cho em hai ba lá thư nửa mà vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu , không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì ăn ?
    Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi . Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một ai . Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Nguời chồng, trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang . Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung uý Trần nguyên Tuấn .
    Tôi thấy đất trời đảo lộn , tôi thấy mặt trời nổ tung trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái, bên cạnh tôi tiếng nguời nói lao xaọ Tôi không nghe gì hết , tai tôi lùng bùng , mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu , bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng nhìn. Trời tháng 6 muà hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt. Tôi tê dại, tôi hoá đá, tôi không còn cảm xúc , tôi muốn hét lên cho tan vỡ cả vũ trụ này . Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi thấy bóng em nhập nhoà, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi ....
    Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ . Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...

Chia sẻ trang này